Tiểu luận Công đoàn Việt Nam và tầm ảnh hưởng của công đoàn đến người lao động

Trong tình hình hiện nay, vai trò của tổ chức công đoàn ngày càng được khẳng định và lớn mạnh. Công đoàn luôn là chỗ dựa, là niềm tin cho quần chúng, góp phần quan trọng đại diện cho quần chúng, góp phần quan trọng đại diện cho tiếng nói của người lao động, đem lại nhiều quyền lợi cho người lao động. Đại hội X Công đoàn Việt Nam (Họp từ ngày 2 – 5.11.2008) đã đưa ra mục tiêu, phương hướng là “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn theo hướng vì đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước; hướng mạnh về cơ sở, thực hiện tốt chức năng chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục và tổ chức thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động; đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần xây dựng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ’’

docx22 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 15003 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công đoàn Việt Nam và tầm ảnh hưởng của công đoàn đến người lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM VÀ TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG ĐOÀN ĐẾN NGƯỜI LAO ĐỘNG LỜI MỞ ĐẦU Đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã khơi dậy tiềm năng của đất nước, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triễn. Tuy nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều mâu thuẫn với bản chất xã hội chủ nghĩa. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo, tâm lý sùng bái đồng tiền, sự cạnh tranh sống còn của các doanh nghiệp. Cơ chế thị trường cũng là mảnh đất nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, tạo cơ hội cho một bộ phận bất chấp lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, tìm mọi cách mưu lợi cho bản thân, điều này dẫn đến quyền và lợi ích của người lao động luôn bị đè bẹp, xâm hại. Vì thế Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quy định pháp luật, thành lập nên nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Trong đó, công đoàn là một tổ chức gần gũi và có những hoạt động thiết thực, có hiệu quả để bảo vệ người lao động. Đảng và nhà nước ta cũng đã có nhiều văn bản pháp luật quy định cụ thể vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động công đoàn. Công đoàn cơ sở là tổ chức thiết thực bảo vệ người lao động, tạo mối quan hệ hài hòa, ổn định giữa các chủ thể tham gia lao động. Công đoàn trực tiếp bảo vệ công nhân trong nhiều lĩnh vực, đại diện cho tập thể lao động khi giải quyết tranh chấp lao động. Nhận thức được tầm quan trọng của công đoàn trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, nhất là trong giai đoạn hiện nay việc vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động đang diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả, đồng thời nhiều doanh nghiệp và người lao động có sự nhìn nhận sai lạc về vai trò của tổ chức công đoàn. Vậy để hiểu rõ hơn nữa về vấn đề này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về “công đoàn Việt Nam và tầm ảnh hưởng của nó tới người lao động”. CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM Khái niệm. “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. (Trích: Điều 10 Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992) Lịch sử phát triển Ngày thành lập công đoàn. Ngày 28/7/1929. Tại số nhà 15 phố Hàng Nón – Hà Nội, Ban Chấp hành lâm thời Đông dương Cộng sản Đảng đã quyết định tổ chức Hội nghị đại biểu Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ lần thứ nhất (tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam). Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương lâm thời Tổng công hội Đỏ do đ/c Nguyễn Đức Cảnh Uỷ viên BCH Trung ương lâm thời Đông dương Cộng sản Đảng đứng đầu. Trong cuốn “Đường cách mệnh” Bác Hồ viết về tính chất nhiệm vụ tổ chức Công hội đỏ (nay là tổ chức Công đoàn Việt Nam) như sau: “Tổ chức công hội trước hết là để công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi của công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Tên gọi của Công đoàn Việt Nam qua các thời kỳ Từ năm 1929 đến nay Công đoàn Việt Nam đã qua 7 lần thay đổi tên gọi - Công Hội đỏ : 1929 – 1935 - Nghiệp đoàn Ái Hữu : 1935 – 1939 - Hội Công nhân Phản Đế : 1939 – 1941 - Hội Công nhân Cứu Quốc : 1941 – 1946 - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam : 1946 – 1961 - Tổng Công đoàn Việt Nam : 1961 – 1988 - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam : 1988 đến nay 3. Vị trí của Công đoàn Việt Nam Công đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam - Với Đảng, Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỗ dựa vững chắc và là sợi dây chuyền nối liền quần chúng với Đảng. - Với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực, bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, ngược lại Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất cho Công đoàn hoạt động. - Với tổ chức chính trị, xã hội khác, Công đoàn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hạt nhân trong khối liên minh Công, Nông, trí thức, bình đẳng, tôn trọng, tạo điều kiện cho nhau hoạt động (thông qua các Nghị quyết liên tịch…) 4. Vai trò của Công đoàn Việt Nam Vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam không ngừng phát triển, mở rộng qua các thời kỳ. Ngày nay trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại, vai trò của Công đoàn Việt Nam tác động trên các lĩnh vực: * Trong lĩnh vực chính trị: Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp phần xây dựng và nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa. Tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi pháp luật và để Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo sự ổn định về chính trị. * Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhằm xoá bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ. Góp phần củng cố những thành tựu kinh tế văn hoá và khoa học kỹ thuật đã đạt được trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức vào Việt Nam, góp phần nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh hoạt động của các thành phần kinh tế vẫn đảm bảo cho kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, đóng vai trò chủ đạo. * Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Trong nền kinh tế nhiều thành phần Công đoàn phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức và lao động nâng cao lập trường giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. * Trong lĩnh vực xã hội: Công đoàn có vai trò trong tham gia xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, có nhãn quan chính trị, thực sự là lực lượng nòng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức, làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước. 5. Chức năng của Công đoàn Việt Nam Công đoàn Việt Nam có ba chức năng: - Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. - Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước trong phạm vị chức năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật. - Công đoàn có trách nhiệm tổ chức, giáo dục động viên người lao động phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và phát triển bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Như vậy chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống đồng bộ, đan xen tương tác lẫn nhau. Trong đó, chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động mang ý nghĩa trung tâm - mục tiêu hoạt động của công đoàn. Từ các chức năng này sẽ định ra các nhiệm vụ cụ thể của Công đoàn. Về bản chất, chức năng của công đoàn mang tính khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào sự áp đặt từ bên ngoài hay ý chí, nguyện vọng chủ quan của mỗi đoàn viên, nó được xác định bởi tính chất, vị trí và vai trò của tổ chức công đoàn. Trên thực tế, không nên nhận thức máy móc, cứng nhắc về chức năng của công đoàn. Bởi vì, cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng của công đoàn cũng có sự bổ sung và phát triển. Sự bổ sung, phát triển các chức năng của công đoàn không có nghĩa là phủ định, từ bỏ những chức năng đã có mà thực chất là làm phong phú thêm các chức năng; đồng thời tránh sa vào tư tưởng nóng vội, phủ định một cách vô căn cứ những chức năng của công đoàn đã được thử thách qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc và giai cấp công nhân Việt Nam. 6. Sơ đồ hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam SỰ KHÁC NHAU GIỮA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM VỚI CÔNG ĐOÀN CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Liên đoàn Lao động Canada (CLU) (1872 - 1878) Liên đoàn Lao động Canada là nỗ lực đầu tiên trong thời gian ngắn tại một tổ chức trung ương quốc gia đại diện cho các công đoàn lao động tại Canada. Nó được thành lập tại Toronto, Ontario vào ngày 23 Tháng 9 năm 1873 , 46 công đoàn cơ sở . Nó không thể được gọi là một cơ quan quốc gia. Liên minh là một tổ chức chính trị với mục đích " để khuấy động những câu hỏi như có thể là vì lợi ích của các tầng lớp lao động , để chúng ta có thể có được việc ban hành các biện pháp như vậy của Dominion và cơ quan lập pháp địa phương như sẽ có lợi cho chúng ta, và bãi bỏ tất cả các luật áp bức mà bây giờ tồn tại ". Nền tảng CLU kêu gọi thời gian ngắn hơn , chấm dứt việc sử dụng lao động bị kết án sử dụng lao động tư nhân, kết thúc việc làm của trẻ em dưới mười tuổi , nhập cảnh của công nhân bị bệnh trả , thực thi các tiêu chuẩn tối thiểu về vệ sinh, thông thoáng nhà xưởng , và một văn phòng chính phủ xử lý số liệu thống kê để cung cấp thông tin về tiền lương và điều kiện làm việc . Nó được gọi là giáo dục công khai, đối lập với các công ty độc quyền phát triển và đại diện lao động trực tiếp trong cơ quan lập pháp và chính quyền thành phố . CLU không phải là một tổ chức cực đoan, bởi nó kêu gọi việc sử dụng trọng tài chứ không phải là cuộc đình công . Năm 1873 suy thoái kinh tế trên toàn thế giới đã có một tác động tàn phá trên các phong trào lao động còn non trẻ của Canada . Trong số 126 công đoàn được biết đến ở đầu thập kỷ chỉ có một ít người ở lại, cuối cùng mang lại sự sụp đổ của Liên đoàn Lao động Canada . Liên đoàn lao động Mỹ 2.1. Lịch sử hình thành Công đoàn bắt đầu hình thành trong thế kỷ 19 để đáp ứng với các tác động kinh tế xã hội của cuộc cách mạng công nghiệp. Liên đoàn lao động quốc gia bắt đầu hình thành trong kỷ nguyên hậu chiến tranh dân sự. Các Liên đoàn Lao động Mỹ  được thành lập vào năm 1886.  Công đoàn khu vực nhà nước được quy định một phần bởi liên bang và một phần của pháp luật nhà nước. Nó đã cho thấy tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, cho tiền lương và điều kiện làm việc được thiết lập thông qua các cuộc đàm phán với viên chức dân cử địa phương và tiểu bang.Hầu hết các công đoàn ở Mỹ là phù hợp với một trong hai tổ chức bảo trợ lớn hơn: các AFL-CIOtạo ra vào năm 1955, và Thay đổi để chiến thắng Liên đoàn được tách từ các AFL-CIO trong năm 2005. Cả hai ủng hộ chính sách, pháp luật về đại diện của người lao động tại Hoa Kỳ và Canada, và có một vai trò tích cực trong chính trị. AFL-CIO là đặc biệt quan tâm đến vấn đề thương mại toàn cầu. (Liên đoàn Lao động Mỹ và Quốc hội của các tổ chức công nghiệp (AFL-CIO) là một trung tâm thương mại quốc gia công đoàn , Liên đoàn lớn nhất của công đoàn trong các nước Mỹ , tạo thành năm mươi sáu công đoàn quốc gia và quốc tế,  cùng đại diện cho hơn 11 triệu người lao động (tính đến tháng 6 năm 2008, số liệu thống kê chính thức gần đây nhất).  Nó được thành lập vào năm 1955 khi AFL và CIO sáp nhập sau khi một sự ghẻ lạnh từ lâu. Từ năm 1955 đến năm 2005, các đoàn thể thành viên AFL-CIO của đại diện gần như tất cả các công đoàn lao động tại Hoa Kỳ.)  2.2. Vị trí Các công đoàn Mỹ là một yếu tố chính trị nổi bật thông qua huy động các thành viên của mình và thông qua các liên minh với các tổ chức hoạt động xung quanh các vấn đề: quyền nhập cư , chính sách thương mại , y tế, và chính sách tiền lương . Công đoàn lớn hơn cũng thường tham gia vào các hoạt động vận động hành lang và vận động bầu cử ở cấp tiểu bang và liên bang . 2.3 Vai trò Liên đoàn lao động được pháp luật công nhận là đại diện của người lao động trong nhiều ngành công nghiệp ở Hoa Kỳ. Hoạt động trung tâm hiện nay của họ là thương lượng tập thể về tiền lương , lợi ích và điều kiện làm việc cho các thành viên của tổ chức , và đại diện cho các thành viên của họ trong tranh chấp với quản lý trên hành vi vi phạm các quy định của hợp đồng . 2.4 Chức năng Công đoàn lao động là một tổ chức của người lao động đã liên kết với nhau để đạt được mục tiêu chung như bảo vệ sự toàn vẹn của thương mại, đạt được mức lương cao hơn, tăng số lượng nhân viên làm thuê cho chủ sử dụng lao động, và có điều kiện làm việc tốt hơn . Công đoàn, thông qua sự lãnh đạo của nó, thương lượng với người sử dụng lao động thay mặt cho các thành viên công đoàn và thương lượng hợp đồng lao động ( thương lượng tập thể ) với nhà tuyển dụng.  Mục đích phổ biến nhất của các hiệp hội, liên hiệp là duy trì hoặc cải thiện các điều kiện làm việc.  Điều này có thể bao gồm đàm phán tiền lương , quy tắc làm việc, thủ tục khiếu nại, quy tắc quản lý tuyển dụng, sa thải và thúc đẩy người lao động làm việc có hiệu quả, lợi ích chung, an toàn lao động và các chính sách phúc lợi khác.Một tổ chức công đoàn là "một hiệp hội liên tục làm công ăn lương với mục đích duy trì hoặc cải thiện các điều kiện của cuộc sống làm việc của họ." Theo Marx, "giá trị sức lao động là nền tảng ý thức và rõ ràng của tổ chức công đoàn, có tầm quan trọng đối với [...] giai cấp lao động có thể hầu như không được đánh giá quá cao. Công đoàn nhằm mục đích không có gì ít hơn để ngăn chặn việc giảm tiền lương dưới mức mà theo truyền thống được duy trì trong các ngành công nghiệp khác nhau. Đó là để nói, họ muốn ngăn chặn việc giá sức lao động từ rơi xuống dưới giá trị của nó "(vốn V1, 1867, p.1069). (Karl Heinrich Marx là nhà tư tưởng, nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp hội Người lao động Quốc tế) Công đoàn có thể tổ chức một phần cụ thể của công nhân lành nghề, một mặt cắt ngang của người lao động từ các ngành nghề khác nhau, hoặc cố gắng để tổ chức tất cả người lao động trong một ngành công nghiệp cụ thể. Công đoàn tại một số nước khác trên thế giới - Ở Trung Quốc, mặc dù công đoàn gắn kết với lý tưởng cộng sản, nhưng chưa bao giờ được biết đến như một pháo đài của quyền công nhân. Tuy nhiên, tình hình đã bắt đầu thay đổi trong năm 2010 với Luật Lao động mới. Không giống như các đối tác ở Tây Âu, công đoàn Trung Quốc không khuyến khích công nhân đình công. Thay vào đó, họ phục vụ như một cơ chế quản lý để kiểm soát sự bùng phát bất ổn và một nền tảng cho đối thoại văn minh về quyền của người lao động. Phía Trung Quốc duy trì tổ chức công đoàn là vì lợi ích tốt nhất của cả người lao động và người sử dụng lao động. Mục tiêu cơ bản để tăng cường hơn nữa sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với các công đoàn khá rõ ràng. Chủ tịch công đoàn phải là "nhận thức chính trị" và 85 phần trăm Chủ tịch cũng là "thành viên hàng đầu của tổ chức Đảng ". Ở Thái Lan, Luật pháp cho phép người lao động thành lập công đoàn và đề ra các yêu cầu để hình thành một liên minh. Ít nhất là mười nhân viên tại một "địa điểm kinh doanh" có thể chọn để tạo thành một liên minh và được sự chấp thuận của Bộ Lao động để tạo thành một liên minh. Nhưng chỉ có một công đoàn lao động thành lập đúng nơi mà các thành viên công đoàn lao động bao gồm ít nhất 20% tổng số nhân viên tại địa điểm kinh doanh có quyền làm cho nhu cầu đối với sử dụng lao động thay mặt cho các thành viên của công đoàn. Như vậy, một công đoàn được hình thành đúng được công nhận theo luật pháp Thái Lan sẽ không có quyền thực hiện một nhu cầu đối với nhà tuyển dụng nếu các công đoàn không đại diện cho ít nhất một phần năm của tất cả nhân viên. Đảng Lao động Úc – một tên gọi khác của Công đoàn - một đảng chính trị lớn của nước Úc. Thành lập năm 1891 xuất phát từ phong trào lao động Úc, Đảng Lao động là đảng kỳ cựu nhất trong chính trường liên bang Úc, liên tục tranh cử cho các ghế của Quốc hội Úc từ cuộc bầu cử đầu tiên sau ngày thành lập Liên bang Úc năm 1901. Trong cuộc bầu cử Liên bang Úc ngày 24 tháng 11 năm 2007, chính quyền liên bang về tay Đảng Lao động. Đảng Lao động thường tìm cách chấm dứt thực hành lao động trẻ em , nâng cao an toàn lao động , tăng tiền lương cho cả công nhân công đoàn và công nhân không thuộc công đoàn, nâng cao tiêu chuẩn sống của toàn xã hội , giảm giờ làm việc trong một tuần, cung cấp giáo dục công cộng cho trẻ em, và mang lại lợi ích khác cho các gia đình tầng lớp lao động. Tổ chức công đoàn tại Malaysia được điều chỉnh bởi các giao dịch Hành động Công đoàn năm 1959. Hiến pháp nước này bảo đảm các quyền của tất cả người Malaysia lập và gia nhập công đoàn, còn có một số hạn chế áp đặt bởi các luật liên quan đến công đoàn, nghĩa là đoàn luật 1959 (title) và Quan Hệ Công Nghiệp Đạo luật năm 1967 (IRA). Luật Công đoàn hạn chế không cho phép công đoàn đại diện chung cho người lao động. Thành viên của bất kỳ một tổ chức công đoàn là những người lao động của một ngành, một tổ chức thương mại và nghề nghiệp cụ thể. Đối với doanh nghiệp hoặc trong tổ chức công đoàn, thành viên được giới hạn cho người lao động của cơ sở, công ty cụ thể - nhân viên của công ty con của công ty hoặc một công ty liên kết không thể tham gia công đoàn đó. Lao động tạm thời, lao động hợp đồng bao gồm cả lao động nước ngoài có thể thực sự tham gia vào công đoàn là thành viên. Tuy nhiên, hầu hết các công nhân đã miễn cưỡng tham gia một liên minh vì sợ rằng hợp đồng của họ có thể không được gia hạn hoặc giấy phép lao động bị hủy bỏ, gây khó khăn cho một công đoàn đại diện cho họ. Hoạt động của công đoàn trong việc đảm bảo thoả ước tập thể tốt và để bảo vệ người lao động bị hạn chế vì công đoàn phải được sự công nhận từ nhà tuyển dụng sau khi nó có thể chứng minh bằng cách bỏ phiếu kín mà phần lớn các nhân viên đủ điều kiện là thành viên của nó. Ngay cả khi công đoàn đã có được sự công nhận cần thiết để đại diện cho người lao động, khả năng đàm phán cho lợi ích tốt hơn vẫn tiếp tục bị hạn chế vì nó là hầu như không thể cho một liên minh để tấn công. Công đoàn có thể nộp thoả ước tập thể đại diện cho các thành viên của họ nhưng IRA (Quân đội Cộng hòa Ireland) cấm các thỏa thuận như vậy để đối phó với bất kỳ vấn đề liên quan đến xúc tiến, chuyển nhượng, chấm dứt dịch vụ, miễn nhiệm. Tổ chức công đoàn của Malaysia hoạt động trong một bầu không khí chính trị không chắc chắn trong năm 2011. Luật sửa đổi luật lao động hiện hành đã được thông qua bởi Hạ viện Malaysia của Quốc hội. Sửa đổi, nếu được ban hành, sẽ cho phép người sử dụng lao động hoặc cơ quan sử dụng hợp đồng lao động để tránh công đoàn đại diện và nghĩa vụ theo luật định khác cho người lao động. Theo tổ chức công đoàn của Malaysia, tiền lương trong nước đã và đang chán nản, một phần là do sự sẵn có của lao động di cư giá rẻ đặc biệt trong các lĩnh vực xây dựng và sản xuất. Công đoàn của Malaysia phải vật lộn để giành chiến thắng một mức lương tối thiểu cuộc sống cho tất cả người lao động ở Đức, mối quan hệ giữa người lao động và sử dụng lao động cá nhân được coi là bất đối xứng. Kết quả là, nhiều điều kiện làm việc không thương lượng do pháp luật bảo vệ mạnh mẽ của các cá nhân. Tuy nhiên, hương vị của Đức hoặc pháp luật công trình có mục tiêu chính của nó để tạo ra một sự cân bằng quyền lực giữa các nhân viên trong tổ chức công đoàn và sử dụng lao động tổ chức, sử dụng lao động trong các hiệp hội. Điều này cho phép ranh giới pháp lý rộng hơn cho thương lượng tập thể, so với ranh giới hẹp đàm phán cá nhân. Như một điều kiện để có được tư cách pháp lý của công đoàn, hiệp hội nhân viên cần phải chứng minh rằng vị thế của họ đủ mạnh để phục vụ như một lực giữ trong cuộc đàm phán với nhà tuyển dụng. Nếu như một hiệp hội người lao động đang cạnh tranh với công đoàn khác, đòn bẩy của nó có thể bị thẩm vấn bởi các công đoàn và sau đó đánh giá trong một phiên tòa. Tại Đức, chỉ có rất ít các hội nghề nghiệp được quyền đàm phán tiền lương và điều kiện làm việc cho các thành viên của họ, đặc biệt là bác sĩ y khoa liên Marburger Bến Thượng Hải và các phi công liên Vereinigung Cockpit. Các kỹ sư kết Verein Deutscher Ingenieure không phấn đấu để hoạt động như một liên minh, vì nó cũng đại diện cho lợi ích của các doanh nghiệp kỹ thuật. Ở Tây Âu,các hiệp hội chuyên nghiệp thường thực hiện các chức năng của công đoàn. Trong những trường hợp này, họ có thể đàm phán cho công nhân cổ trắng hoặc chuyên nghiệp, chẳng hạn như bác sĩ, kỹ sư, hay giáo viên. Thường tổ chức công đoàn kiềm chế chính trị hay theo đuổi một nền chính trị tự do hơn so với các đối tác chân tay của họ. Công đoàn cũng có thể tham gia vào các cuộc đấu tranh chính trị, xã hội rộng lớn hơn. Đồng thời một công đoàn có thể có được vị thế của một " pháp nhân "(một thực thể pháp lý nhân tạo), với nhiệm vụ đàm phán với các nhà tuyển dụng cho công nhân nó đại diện. Trong trường hợp này, công đoàn có quyền hợp pháp nhất định, quan trọng nhất là quyền tham gia vào thương lượng tập thể với nhà tuyển dụng (hoặc sử dụng lao động) về tiền lương, giờ làm việc, và các điều khoản và điều kiện làm việc. Trường hợp khác, công đoàn có thể không có quyền hợp pháp để đại diện cho người lao động. Ngoài việc phân loại được liệt kê ở trên, quan hệ công đoàn với các đảng chính trị khác nhau. Ở nhiều quốc gia khác công đoàn được gắn chặt, hoặc thậm chí chia sẻ lãnh đạo, với một đảng chính trị có ý định để đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân. Thông thường đây là một cánh tả , xã hội chủ nghĩa , hoặc dân chủ xã hội bên, nhưng nhiều trường hợp ngoại lệ tồn tại, bao gồm một số các công đoàn Kitô giáo TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM Thực trạng Cũng giống như trong các chế độ toàn trị khác, Công đoàn ở Việt Nam hiện nay là một tổ chức độc quyền mặc nhiên thuộc về đảng cầm quyền và nhà nước hiện hành (thuộc về chứ không phải tham gia). Tất cả các tổ chức hội đoàn tự phát khác của người lao động bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Trong khi được quy định có những quyền hành to lớn, trên thực tế, hoạt động của công đoàn Việt Nam có thể bị cấm  và bị phạt . Trước khi có các chính sách "mở cửa", toàn bộ nền kinh tế Việt Nam là thuộc về nhà nước, và nhà nước lại thuộc về "giai cấp công nhân". Khi đó công nhân cũng được coi là chủ sở hữu của chính nhà máy hay công ty mà mình làm việc, ban giám đốc của công ty cũng chính là đại diện của toàn thể công nhân. Những mâu thuẫn nếu có hiển nhiên là những mâu thuẫn nội tại của công nhân với chính họ và do đó không hề cần đến thương lượng hay toà án. Trừ khi có những vi phạm pháp luật về hình sự, công nhân không bao giờ bị đuổi việc. Điều kiện lao động và tiền lương thấp kém, nhưng đó cũng là vấn đề của chính công nhân, do năng suất lao động thấp và tổ chức lao động kém; hơn nữa điều này xảy ra ở tất cả các công ty nên công nhân không thể có cơ sở so sánh. Hoạt động hữu ích thực sự của Công đoàn trong giai đoạn này là hỗ trợ tang ma, bệnh tật, cưới xin, sinh con Sau khi mở cửa, các thành phần kinh tế tư nhân khác được pháp luật thừa nhận và bảo trợ, kể cả các doanh nghiệp sở hữu nước ngoài. Trong khi các bộ luật khác cũng như nhiều thể chế nhà nước đã dần dần thay đổi để bảo vệ cho quyền lợi của toàn thể xã hội chứ không chỉ của giai cấp công nhân, Công đoàn vẫn không tách rời khỏi sự quản lý quá chặt chẽ của nhà nước, nghĩa là cũng phải quan tâm đến lợi ích của toàn thể chứ không chỉ lợi ích của công nhân. Điều này dẫn đến sự mâu thuẫn nghiêm trọng trong các chức năng được định nghĩa bằng luật của Công đoàn. Khi có mâu thuẫn giữa người lao động và chủ thuê lao động, Công đoàn luôn phải thoả mãn với những mục tiêu khác nhiều hơn là quyền lợi của công nhân, những mục tiêu này có thể kể ra là: trật tự trị an xã hội, duy trì sự hấp dẫn của thị trường lao động giá rẻ, đảm bảo mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp…. Mâu thuẫn nội tại của "Công đoàn" Việt Nam hiện tại đã triệt tiêu những chức năng lẽ ra phải có của nó. Công đoàn không còn đại diện cho lợi ích chỉ của người lao động làm thuê như trên danh nghĩa. Trong khi đó, luật pháp vẫn không thừa nhận tính hợp pháp của bất kỳ tổ chức nào khác của người làm thuê ngoài Công đoàn. Phần lớn các cuộc đình công này bị coi là bất hợp pháp vì không do "Công đoàn" tổ chức. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều vụ đình công đã xảy ra ngay tại các công ty nhà nước, nơi công nhân được coi là chủ sở hữu của toàn bộ công cụ, tổ chức và quy trình lao động. Một việc được cho là vô lý ở công đoàn Việt Nam là các công đoàn không do các công nhân thành lập nên và họ nhận lương trực tiếp hay gián tiếp từ chính công ty họ đặt trụ sở để bảo vệ cho công nhân công ty đó. Điều này trái ngược với các công đoàn các nước tiên tiến là công nhân tự đứng ra thành lập công đoàn trong công ty và trả tiền cho công đoàn để bảo vệ họ 2.Tầm ảnh hưởng của Công đoàn tới Người lao động 2.1 Công đoàn chăm lo đời sống người lao động Trước tình hình SXKD khó khăn, ảnh hưởng đến đời sống của NLĐ trong các tổ chức doanh nghiệp, các tổ chức Công đoàn đã triển khai nhiều việc làm thiết thực, có ý nghĩa, xây dựng mối quan hệ hài hoà trong doanh nghiệp như xây dựng thoả ước lao động tập thể có lợi hơn cho NLĐ; nhiều chính sách, chế độ của Nhà nước, Tập đoàn đã được vận dụng giải quyết; công nhân bị bệnh nghề nghiệp được điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, chi dưỡng sức. Công đoàn đã có vai trò quan trọng, tham gia tích cực trong việc xây dựng ban hành các văn bản quy định, quy chế về lao động, khoán sản phẩm, tiền lương, tiền thưởng, thi tuyển, nâng bậc, thi đua, khen thưởng, kỷ luật…; nhất là đào tạo đội ngũ CNLĐ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ SXKD của đơn vị sản xuất, cùng với chuyên môn, Công đoàn đã cụ thể hoá các phong trào thi đua chung phù hợp với các công đoàn tổ, đội. 2.2 Công đoàn Việt Nam trong thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích của NLĐ Hơn 80 năm ra đời, phát triển và trưởng thành, Công đoàn Việt Nam luôn sát cánh cùng giai cấp công nhân và toàn dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu và nhận thức đúng về các chức năng hoạt động chủ yếu của công đoàn giai đoạn hiện nay là vấn đề quan trọng để từ đó hiểu đúng về vị trí, vai trò của Công đoàn Việt Nam trong thời kỳ mới. Chức năng của Công đoàn Việt Nam có tầm ảnh hưởng rất lớn tác động tới người lao động: + Chức năng tham gia quản lý: Thực hiện chức năng tham gia quản lý không có nghĩa là công đoàn làm thay hay can thiệp, làm cản trở công việc quản lý của Nhà nước. Tham gia quản lý là thể hiện quyền của công đoàn, của người lao động trong điều kiện chính quyền đã thuộc về nhân dân lao động. Đồng thời, tham gia quản lý chính là thiết thực bảo vệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của công nhân, của tập thể và của Nhà nước một cách căn bản từ gốc và có hiệu quả, phát huy vai trò tham gia quản lý của công đoàn. Các hoạt động công đoàn đẩy mạnh thực hiện trong những năm qua như: *. Tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công nhân, viên chức và người lao động là biện pháp tổng hợp nhất để họ trực tiếp tham gia quản lý. Vận động, tổ chức công nhân, viên chức và người lao động tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhiệm vụ công tác, tham gia quản lý lao động, tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho công nhân, viên chức và lao động. *. Công đoàn tham gia trong lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng của công nhân, viên chức và người lao động. *. Công đoàn tham gia trong việc xây dựng và thực hiện các cơ chế quản lý mới. *. Công đoàn tham gia trong việc quản lý vật tư, kỹ thuật, tài chính nhằm giảm mức tiêu hao trên một đơn vị sản phẩm. *. Công đoàn tham gia trong việc xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến người lao động. *. Công đoàn tham gia tổ chức hội nghị cán bộ công chức và đại hội công nhân viên chức, lao động hàng năm. + Chức năng giáo dục: Một trong những nội dung quan trọng nhằm thực hiện chức năng giáo dục của công đoàn là làm cho người lao động nhận thức đầy đủ về lơi ích cá nhân phải gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lợi ích chung của công đồng. Muốn có lơi ích phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Từ đó, củng cố kỷ luật lao động, không ngừng học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ, xây dựng ý thức tự nguyện, tự giác trong lao động, công tác. Nội dung chức năng giáo dục của công đoàn trong giai đoạn hiện nay cần được mở rộng theo hướng toàn diện, nhất là truyền bá lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tình hình quốc tế và khu vực; giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục truyền thống, giáo dục đạo đức mới cho công nhân, viên chức và người lao động. *. Chức năng bảo vệ lợi ích của người lao động: Trong điều kiện mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư ở nước ngoài,… được khuyến khích hoạt động làm cho xu hướng thay đổi cơ cấu giai cấp công nhân rõ nét, số lượng công nhân khu vực ngoài nhà nước có xu hướng tăng lên. Quan hệ chủ thợ, tình trạng bóc lột, ức hiếp người lao động đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ và có xu hướng phát triển. Trong quá trình thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động, công đoàn đã nhận thức sâu sắc và giáo dục đầy đủ đến mỗi đoàn viên các vấn đề cơ bản như: Lợi ích của người lao động phải gắn liền với lợi ích của Nhà nước, của tập thể, phải hài hòa với lợi ích của người sử dụng lao động, chủ doanh nghiệp. Sự tồn tại và phát triển vững mạnh của Nhà nước chính là đảm bảo được lợi ích người lao động. Nhà nước là người đảm bảo lợi ích, doanh nghiệp và người lao động tạo ra lợi ích, công đoàn là người bảo vệ lợi ích. Đấy là quan hệ biện chứng, khăng khít giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Đồng thời, nó là cơ sở quan trọng để công đoàn ngày càng gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân trong điều kiện mới, thể hiện đúng bản chất cách mạng của Công đoàn Việt Nam giai đoạn hiện nay. 2.3 Công đoàn quan tâm tới lao động nữ Do sự khác biệt về giới tính, xuất phát từ đặc điểm phụ nữ ngoài việc thực hiện nghĩa vụ lao động còn phải đảm nhận thiên chức làm mẹ, nên thực tế lao động nữ vẫn còn gặp nhiều khó khăn cần được hỗ trợ bằng các quy định mang tính chất đặc thù. Nhận thức rõ điều này, trong những năm qua các tổ chức công đoàn đã thực hiện: Công đoàn các cấp luôn quan tâm, tập trung xây dựng, triển khai hiệu quả chương trình công tác nữ công, tạo điều kiện để nữ CNVCLĐ yên tâm lao động, học tập, nâng cao trình độ, thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Chỉ đạo các cấp công đoàn tích cực tham gia xây dựng thoả ước lao động tập thể, thuyết phục với chủ  doanh nghiệp ký các điều khoản có lợi hơn cho  lao động nữ, cao hơn so với quy định của pháp luật. Nâng cao vai trò đại diện ban nữ công đối với  lao động nữ  theo quy định. Công đoàn các cấp còn tổ chức tuyên truyền về Chiến lược DS- SKSS Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, kiến thức về CSSKSS, kỹ năng truyền thông, nuôi con bằng sữa mẹ, thăm khám chuyên khoa cho nữ CNLĐ; tổ chức Mít tinh Hưởng ứng tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ và chính sách nghỉ thai sản đối với lao động nữ... Phối hợp với Đài PTTH tỉnh xây dựng và phát sóng các phóng sự với các chủ đề : Việc làm, đời sống và việc thực hiện chế độ chính sách đối với lao động nữ ; Vấn đề nhà ở, nhà trẻ, nhà mẫu giáo trong các khu CN hiện nay; Chăm lo đời sống tinh thần cho lao động nữ. Thành lập các tổ tư vấn tuyên truyền pháp luật cho CNLĐ, trong đó có lao động nữ. Tổ chức lớp tập huấn về: truyền thông, tư vấn về DS-KHHGĐ, kỹ năng làm mẹ an toàn và thăm khám sức khỏe cho lao động nữ; kỹ năng tuyên truyền chính sách, pháp luật; quyền và nghĩa vụ đối với lao động nữ; nghiệp vụ công tác nữ công, kỹ năng thương lượng và tham gia giải quyết chế độ chính sách cho lao động nữ. Tổ chức các cuộc hội nghị hội thảo, toạ đàm trao đổi, đánh giá việc thực hiện chế độ, chính sách đối với lao động nữ. Đề xuất với lãnh đạo tỉnh một số vấn đề về chính sách với giáo viên mầm non ngoài biên chế, vấn đề nhà ở, nhà trẻ, mẫu giáo, khu hoạt động văn hóa, thể thao cho CNLĐ trong các khu CN. Công đoàn cơ sở tích cực tuyên truyền vận động công nhân lao động thực hiện nghiêm túc các quy định về an toàn, vệ sinh lao động. tổ chức vận động và thực hiện tốt chính sách, pháp luật đối với công nhân lao động. Thương lượng, đối thoại, thỏa ước lao động tập thể, giúp công nhân ký hợp đồng lao động. Chăm lo việc làm, đời sống người lao động. Vận động chủ nhà trọ không tăng tiền thuê nhà cho công nhân; thu tiền điện, nước theo đúng giá quy định. Vận động các doanh nghiệp hỗ trợ tiền thuê nhà cho công nhân lao động. Vận động các nhà trẻ, trường học, lớp mẫu giáo tư thuc không tăng giá trong giữ trẻ. Công đoàn một số khu công nghiệp, khu chế xuất đã có sáng kiến mở các quầy hàng chô công nhân với mức giá thấp so với giá thị trường 5% đến 15%. Về bản chất, chức năng của công đoàn mang tính khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào sự áp đặt từ bên ngoài hay ý chí, nguyện vọng chủ quan của mỗi đoàn viên, nó được xác định bởi tính chất, vị trí và vai trò của tổ chức công đoàn. 2.4 Công đoàn với công tác AT-VSLĐ Sáng ngày 27/8/2013, tại Hạ Long, Công đoàn TKV đã tổ chức Hội nghị tổng kết tháng thi đua đảm bảo ATLĐ, VSLĐ, PCCN và Hội thi AT-VSV giỏi Tập đoàn năm 2013. Về công tác tổ chức Hội thi AT-VSV giỏi các cấp, đây là nội dung trọng tâm năm 2013 do Công đoàn chủ động tổ chức, các cấp cơ sở trực thuộc Tổng Công ty, Công ty có 77 đơn vị tổ chức với 5.743 ATV tham gia, đạt 67% ATV toàn Tập đoàn; cấp cơ sở trực thuộc Tập đoàn có 42 đơn vị tổ chức với 1.685 ATV dự thi, 1.273 người đạt AT-VSV giỏi và cấp Tập đoàn có 33 đơn vị tham gia với tổng số 99 thí sinh, trong đó khối sản xuất than có 25 đơn vị với 75 thí sinh, kết quả 89 ATV đạt xuất sắc, 10 ATV đạt giỏi, Công ty Than Quang Hanh đạt giải Nhất toàn đoàn. Công đoàn triển khai công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành quy trình sản xuất; các biện pháp an toàn của người lao động; công tác huấn luyện an toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới AT-VSV; duy trì công tác kiểm tra, chấm điểm an toàn... Một số đơn vị đã có sự sáng tạo trong công tác tuyên truyền, tổ chức hội thi... đạt hiệu quả cao. Các hoạt động trong công tác ATLĐ, VSLĐ, PCCN và Hội thi AT-VSV giỏi do Công đoàn các cấp tham gia, tổ chức thực hiện đã tạo khí thế thi đua sôi nổi, dấy lên sự quyết tâm của các cấp công đoàn, của CNVC-LĐ nhằm thực hiện tốt công tác AT-VSLĐ của các đơn vị và toàn Tập đoàn. Hội nghị cũng đã đánh giá, phân tích kỹ, rút kinh nghiệm các vụ TNLĐ nghiêm trọng và đề ra 9 nhiệm vụ trọng tâm công tác AT-VSLĐ các tháng còn lại năm 2013. Các hoạt động diễn ra sôi nổi, thiết thực, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong CNVC-LĐ và được sự quan tâm chỉ đạo, phối hợp của các cấp ủy Đảng và chuyên môn, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Chủ tịch Công đoàn TKV cũng đề nghị Công đoàn các cấp tiếp tục duy trì hiệu quả công tác AT-VSLĐ, tạo phong trào sâu rộng nhằm ngăn chặn, hạn chế thấp nhất các vụ TNLĐ và sự cố thiết bị, đảm bảo an toàn trong sản xuất, góp phần hoàn thành kế hoạch, nhiệm vụ năm 2013. 2.5 Công đoàn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp Trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, không ít doanh nghiệp phải tiết giảm hoạt động đầu tư, thậm chí phải tạm ngừng hoạt động do sản xuất kinh doanh thua lỗ. Hệ quả là công nhân không có việc làm ổn định, nghỉ việc luân phiên hoặc phải chấm dứt hợp đồng lao động, chậm trả lương, nợ đọng bảo hiểm xã hội. Tổ chức công đoàn, với vai trò và chức năng của mình đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương pháp hoạt động, đạt nhiều kết quả trong xây dựng quan hệ lao động hài hòa ổn định. Trước tình hình đó, các cấp công đoàn đã chủ động, tích cực với nhiều hình thức tập hợp ý kiến của đông đảo đoàn viên, người lao động tham gia xây dựng, hoàn hiện các văn bản chính sách pháp luật liên quan trực tiếp đến người lao động như: Xây dựng Luật Công đoàn 2012, Bộ Luật Lao động 2012, các Nghị định, Thông tư về tiền lương, việc làm, an toàn vệ sinh lao động, Bảo hiểm xã hội… Công đoàn phát huy vai trò đồng hành cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, chăm lo đời sống; đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên và người lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định tiến bộ tại doanh nghiệp, đạt được nhiều kết quả cụ thể, thiết thực. Việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn và đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp công đoàn thường xuyên thực hiện. Công đoàn các cấp đã tham gia với chuyên môn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; kiểm tra giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động, thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở, tổ chức đối thoại, thương lượng ký thỏa ước lao động tập thể… mang lại quyền, lợi ích hợp pháp cụ thể, thiết thực hơn cho người lao động. Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách pháp luật góp phần nâng cao nhận thức và đề cao trách nhiệm cho người lao động với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Công đoàn các cấp đã xây dựng tủ sách pháp luật, biên soạn tờ gấp, sổ tay tuyên truyền pháp luật với nội dung hỏi đáp ngắn gọn, dễ hiểu về quyền lợi, nghĩa vụ của đoàn viên. Công đoàn tham gia xây dựng chế độ chính sách liên quan đến người lao động, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động bằng nhiều hình thức như: Hội nghị, hội thảo, văn bản, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, góp ý trực tiếp. Công đoàn các cấp đã tham gia giải quyết chế độ chính sách cho người lao động, phối hợp chỉ đạo hướng dẫn việc xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể, tham gia tổ chức hội nghị người lao động. Qua đó, công đoàn cơ sở đã động viên, khai thác năng lực, sức sáng tạo của người lao động trong việc phát huy những sáng kiến cải tiến nhằm giải quyết khó khăn phát sinh trong hoạt động, sản xuất kinh doanh góp phần ổn định và phát triển doanh nghiệp. 3. Hướng phát triển Một là, Phải tập trung trí tuệ, năng lực của mình vào việc xác định mục tiêu, xây dựng phương hướng, nhiệm vụ hoạt động cho từng giai đoạn, từng thời kỳ cụ thể. Đồng thời, phải biết chủ động tổ chức các hoạt động gắn kết với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong từng thời kỳ; Nhất là, tham gia tháo gỡ, giải quyết những vấn đề thiết thực mà CNVC- người lao động và doanh nghiệp đang quan tâm. Hai là, Phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến chính sách, pháp luật, nội quy, quy chế, quy định của Doanh nghiệp tới CNVC- người lao động; phải luôn tìm biện pháp và các hình thức phù hợp để chuyển tải sâu rộng đến CNVC- LĐ trong doanh nghiệp. Ba là, Sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự ủng hộ và phối hợp chặt chẽ của Chính quyền là yếu tố cơ bản, là điều kiện rất cần để tổ chức Công đoàn hoạt động có kết quả. Song, cần chủ động vận động và tự đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đưa các hoạt động của tổ chức Công đoàn đi vào nề nếp và có tác dụng thiết thực với doanh nghiệp & với từng CNVC- người lao động trong đơn vị.  Bốn là, Tổ chức Công đoàn phải bằng việc làm cụ thể để tự khẳng định mình; Trong đó, Cán bộ công đoàn phải luôn cố gắng tự nâng cao trình độ; nhất là khả năng giao tiếp, khả năng đàm phán, thuyết phục trong quan hệ công tác và năng lực tổ chức công việc để đạt được mục đích, nhiệm vụ đã đề ra.  Năm là, Phải thường xuyên chăm lo giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, “lấy việc xây dựng nguồn lực con người làm động lực phát triển” và coi “việc nâng cao chất lượng quản trị, điều hành là nhân tố quyết định sự thành công trong kinh doanh”.  Do đó, BCH Công đoàn phải thường xuyên tham gia với lãnh đạo Doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch đầu tư cho đào tạo một cách thích đáng, để có được đội ngũ lao động giỏi, nhiều lao động sáng tạo, nhiều bàn tay vàng; nhằm phục vụ cho SXKDcủa doanh nghiệp hiện tại cũng như lâu dài. Sáu là, Mọi hoạt động phải lấy lợi ích của đoàn viên, CNVC - lao động làm trung tâm, hướng vào mục tiêu phát triển doanh nghiệp bền vững và xây dựng các tập thể, người lao động mới. Đồng thời, BCH Công đoàn phải thường xuyên chăm lo cải thiện đời sống của CBCNV- người lao động; phải chú ý đến sinh hoạt đời thường của Cán bộ, đoàn viên; Quan tâm đến từng gia đình CBCNV - người lao động; tạo điều kiện để CBCNV - người lao động giữ được tổ ấm gia đình. Bảy là, Phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức thực hiện nghị quyết của các cấp ủy Đảng & Công đoàn cấp trên; giữ vững chế độ sinh hoạt, thực hiện tự phê bình và phê bình thẳng thắn, cởi mở trên tinh thần đoàn kết; mọi CNVC - lao động  trong đơn vị phải giúp nhau cùng tiến bộ.  Tám là, Kiên quyết phê phán và xử lý nghiêm minh những CNVC - lao động  vi phạm nguyên tắc tổ chức của Công đoàn & nội quy lao động của Doanh nghiệp. Đồng thời, phải phát hiện kịp thời và nhân điển hình tiên tiến, tạo phong trào thi đua liên tục trong toàn đơn vị.  Khi vai trò của tổ chức Công đoàn trong Doanh nghiệp được phát huy & phong trào CNVC – LĐ trong Đơn vị được đẩy mạnh sẽ đem lại lợi ích thiết thực cho Doanh nghiệp và CNVC – LĐ trong đơn vị. Đồng thời, tạo động lực cho doanh tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước”. KẾT LUẬN Trong tình hình hiện nay, vai trò của tổ chức công đoàn ngày càng được khẳng định và lớn mạnh. Công đoàn luôn là chỗ dựa, là niềm tin cho quần chúng, góp phần quan trọng đại diện cho quần chúng, góp phần quan trọng đại diện cho tiếng nói của người lao động, đem lại nhiều quyền lợi cho người lao động. Đại hội X Công đoàn Việt Nam (Họp từ ngày 2 – 5.11.2008) đã đưa ra mục tiêu, phương hướng là “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn theo hướng vì đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước; hướng mạnh về cơ sở, thực hiện tốt chức năng chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục và tổ chức thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động; đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần xây dựng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ’’ Trong suốt quá trình hoạt động, công đoàn Việt Nam đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của các tổ chức nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Công đoàn đã tham gia vào công tác quản lý. Tham gia quản lý là thể hiện quyền của công đoàn, của người lao động trong điều kiện chính quyền đã thuộc về nhân dân lao động. Đồng thời, tham gia quản lý chính là thiết thực bảo vệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của công nhân, của tập thể và của Nhà nước một cách căn bản từ gốc và có hiệu quả. Có thể nói công đoàn đã làm tốt nhiệm vụ của mình trong các công tác tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công nhân, viên chức và người lao động; về tiền lương, tiền thưởng của công nhân, viên chức và người lao động; việc xây dựng và thực hiện các cơ chế quản lý mới; trong việc quản lý vật tư, kỹ thuật, tài chính nhằm giảm mức tiêu hao trên một đơn vị sản phẩm; trong việc xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến người lao động; tham gia tổ chức hội nghị cán bộ công chức và đại hội công nhân viên chức; lao động hàng năm. Công đoàn luôn chú trọng đến việc phát huy tiềm năng của người lao động, phát huy sáng kiến, cùng lãnh đạo doanh nghiệp tìm nguồn vốn, thị trường để mở rộng sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động. Kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, doanh nghiệp nhằm chống quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác. Trong quá trình thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động, công đoàn cần nhận thức và giáo dục đầy đủ và sâu sắc đến mỗi đoàn viên các vấn đề cơ bản như: Lợi ích của người lao động phải gắn liền với lợi ích của Nhà nước, của tập thể, phải hài hòa với lợi ích của người sử dụng lao động, chủ doanh nghiệp. Sự tồn tại và phát triển vững mạnh của Nhà nước chính là đảm bảo được lợi ích người lao động. Nhà nước là người đảm bảo lợi ích, doanh nghiệp và người lao động tạo ra lợi ích, công đoàn là người bảo vệ lợi ích. Đấy là quan hệ biện chứng, khăng khít giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Đồng thời, nó là cơ sở quan trọng để công đoàn ngày càng gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân trong điều kiện mới, thể hiện đúng bản chất cách mạng của Công đoàn Việt Nam giai đoạn hiện nay. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM 2 Khái niệm 2 Lịch sử phát triển 2 Ngày thành lập của Công đoàn Việt Nam 2 Tên gọi của Công đoàn qua các thời kỳ 2 Vị trí của Công đoàn Việt Nam 4 Vai trò của Công đoàn Việt Nam 4 Chức năng của Công đoàn Việt Nam 4 Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công đoàn Việt Nam 4 SỰ KHÁC NHAU GIỮA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM VỚI CÔNG ĐOÀN CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 5 Liên đoàn Lao động Canada (CLU) (1872 - 1878) 5 Liên đoàn lao động Mỹ 6 Lịch sử hình thành 6 Vị trí 7 Vai trò 7 Chức năng 7 Công đoàn tại một số nước khác trên thế giới 8 TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM 10 Thực trạng 10 Tầm ảnh hưởng của Công đoàn tới Người lao động 11 Công đoàn chăm lo đời sống người lao động 11 Công đoàn Việt Nam trong thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích của NLĐ 12 Công đoàn quan tâm tới lao động nữ 14 Công đoàn với công tác AT-VSLĐ 15 2.5 Công đoàn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp 16 Hướng phát triển 17 KẾT LUẬN 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Quản trị nhân lực (tập 2) – Nhà xuất bản Lao động - Xã hội https://www.google.com.vn/search Giáo trình Luật lao động – Nhà xuất bản… Labour union - goodgle

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxcong_doan_viet_nam_va_tam_anh_huong_cua_cong_doan_den_nguoi_lao_dong_5276.docx
Luận văn liên quan