Tiểu luận Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay

Trong 4 tháng đầu năm, NHNN cũng theo dõi sát tình hình thanh khoản của các TCTD đặc biệt là các TCTD thuộc diện tái cơ cấu để có sự hỗ trợ kịp thời, đảm bảo ổn định hệ thống; xây dựng và triển khai kế hoạch thanh tra, giám sát các TCTD trong năm 2013. NHNN đồng thời xây dựng và hoàn thiện Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và Đề án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) báo cáo Chính phủ trình Bộ Chính trị đồng ý về chủ trương. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, NHNN đang hoàn thiện để sớm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của VAMC; thành lập ban trù bị VAMC để khẩn trương hoàn thiện Đề án và sẵn sàng triển khai sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

pdf20 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3529 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CH21D – Nhóm 10 Page 1 Tiểu luận Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay CH21D – Nhóm 10 Page 2 Câu I: Chính sách tiền tệ: Mục tiêu; nội dung; giải pháp hoàn thiện *** I – Khái niệm và mục tiêu Để có thể theo đuổi mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ, Chính phủ luôn thực thi chính sách tài chính với hai chính sách cơ bản và quan trọng là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong đó chính sách tiền tệ luôn được coi là trung tâm. Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định về giá trị tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm. Các công cụ mà Ngân hàng Nhà nước sử dụng để có thể quản lý, điều tiết CSTT bao gồm: tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ. Cùng với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ bằng các công cụ của mình dưới sự điều tiết của NHNN làm thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, từ đó tác động đến lãi suất => Đầu tư => Tăng trưởng => Lạm phát…. => Mục tiêu kỳ vọng của Chính phủ đối với nền kinh tế trong từng thời kỳ. Thời kỳ 1997 – 2010 theo quy định tại điều 1 - luật Ngân hàng Nhà nước 12/1997 quy định và nêu rõ quan điểm, mục tiêu của CSTT : “ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã hội.” Có thể thấy CSTT nổi bật trong thời kỳ này là CSTT đa mục tiêu. Cùng với mục tiêu phát triển đi đôi với ổn định kinh tế tại Nghị quyết Hội nghị TƯ 3 (khóa XI) đã xác định giai đoạn 2011 – 2015 ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Từ đó đưa ra mục tiêu cụ thể của CSTT trong giai đoạn này là: “Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.” (Theo khoản 1 điều 3 Luật số 46/2010/QH12 quy định về luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam quy định). Đây là một sự đổi mới, hoàn thiện theo hướng CSTT đơn mục tiêu, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. CH21D – Nhóm 10 Page 3 Như vậy có thể thấy, mục tiêu cơ bản nhất của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền và góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác (ổn định lạm phát; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế…) bằng các công cụ đặc trưng dưới sự điều tiết của Ngân hàng Nhà nước. Từ mục tiêu cơ bản này sẽ được cụ thể hóa thành các mục tiêu chi tiết khác: tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống xã hội….sao cho phù hợp với mục tiêu kinh tế trong từng giai đoạn khác nhau. II – Nội dung của Chính sách tiền tệ CSTT bao gồm 2 nội dung chính 1 – Xây dựng hệ thống các mục tiêu của CSTT. 2 – Sử dụng các công cụ của CSTT nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Sau đây nhóm xin trình bầy về nội dung cụ thể của CSTT 1 - Xây dựng hệ thống các mục tiêu của CSTT Như đã nói tại mục I, mục tiêu của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát. Từ mục tiêu cơ bản này sẽ cụ thể hóa thành các mục tiêu chi tiết hơn, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế trong từng thời kỳ => NHNN sẽ đưa ra chính sách tiền tệ cụ thể cho từng giai đoạn: - CSTT mở rộng: cung ứng thêm tiền, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất… => Chống suy thoái. CSTT mở rộng thường được áp dụng trong ngắn hạn, khi mà áp lực về tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. - CSTT thắt chắt: giảm cung ứng tiền nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế …=> Kiềm chế lạm phát. Do lạm phát cao có tác động xấu đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, trong khi đó nguyên nhân lạm phát lại xuất phát từ tiền tệ. Chính vì vậy ở nhiều nước kiềm chế lạm phát, ổn định gía cả là mục tiêu hàng đầu và dài hạn của chính sách tiền tệ. Và chính sách tác động hiệu quả để kiềm chế lạm phát là CSTT thắt chặt. Không chỉ trong dài hạn, ngay cả trong ngắn hạn khi nền kinh tế phát triển quá nóng NHNN cũng sẽ sử dụng CSTT thắt chặt. Nói chung, tùy mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ mà NHNN sử dụng CSTT thắt chặt hay mở rộng. Để có thể thực hiện các CSTT này, NHNN sẽ sử dụng và triển khai các công cụ để thi hành CSTT. Đây là nội dung thứ 2 trong CSTT và sẽ được nhóm trình bày trong mục 2 dưới đây. 2 - Sử dụng các công cụ của CSTT nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Để có thể thực thi CSTT; NHNN sử dụng các công cụ: Nghiệp vụ thị trường mở; Chính sách tái chiết khấu; Dự trữ bắt buộc và một số các công cụ khác. CH21D – Nhóm 10 Page 4 2.1.1 Chính sách tái chiết khấu: Ngân hàng Nhà nước sử dụng lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu là LS mà NHNN đánh vào các khoản tiền cho NHTM vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của các Ngân hàng này. Thông qua lãi suất Tái chiết khấu Ngân hàng Nhà nước điều tiết dòng tiền ra của Ngân hàng TM từ đó điều tiết lượng tiền trong lưu thông => Điều tiết cung tiền (MS) trong nền kinh tế. + Khi lãi suất tái chiết khấu bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường thì NHTM sẽ tiếp tục cho vay cho đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ Ngân hàng Nhà nước mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào => NHTM giảm lượng tiền dự trữ => Số nhân tiền tăng (m) => Gia tăng cung tiền (MS). + Khi lãi suất tái chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, NHTM không thể để tỷ lệ dự trữ tiền mặt của mình giảm đến mức tối thiểu thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay từ Ngân hàng NN với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng => NHNN buộc các NHTM phải tăng lượng dự trữ tiền mặt => số nhân tiền tệ giảm xuống (m giảm) => Giảm cung tiền (MS giảm). Công cụ lãi suất tái chiết khấu chỉ phát huy tác dụng khi mà các tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn tại Ngân hàng Nhà nước. Trong năm 2011 khi lạm phát tăng cao, CP đã sử dụng CSTT – công cụ lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn để kiểm soát lạm phát. Cụ thể Lãi suất chiết khấu đã được tăng từ 7%/năm lên 12%/năm trong quý I, lên mức 13%/năm trong quý II và quý III. Còn lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng từ 9%/năm trong quý I lên 15% vào quý IV. Với việc tăng lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, các NHTM rất cẩn trọng trong việc cho vay. Từ đó làm giảm lượng cung tiền trên thị trường => góp phần kiểm soát lạm phát. 2.2.2 Dự trữ bắt buộc Là số tiền mà các NHTM bắt buộc phải duy trì trên một tài khoản gửi ở Ngân hàng Nhà nước. Sự tăng lên hay giảm xuống của dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền (m) và lãi suất cho vay của các ngân hàng TM. Từ đó tác động lên MS. Ưu điểm: Đây là công cụ có ảnh hưởng rất mạnh đến MS. Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của dự trữ bắt buộc (R) sẽ dẫn đến thay đổi đáng kể khối lượng tiền cung ứng. Nhược điểm: Mặc dù có tác dụng mạnh trong việc tác động lên MS tuy nhiên khi sử dụng công cụ này có một số nhược điểm như sau: Đối với các ngân hàng có lượng dự trữ quá thấp, khi NHNN yêu cầu gia tăng lượng dự trữ bắt buộc => các ngân hàng này không xoay xở kịp thời hoặc phải dùng những biện pháp CH21D – Nhóm 10 Page 5 có chi phí cao để có thể huy động được đủ lượng dữ trữ bắt buộc (như tăng lãi suất huy động tiền gửi cao hơn mặt bằng lãi suất chung…) => các NHTM có năng lực yếu kém đối mặt với nguy cơ mất khả năng thanh khoản => tác động đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thêm vào đó việc thay đổi thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc khiến cho các NH rơi vào tình trạng bất ổn trong việc quản lý thanh khoản, làm gia tăng chi phí => ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh. 2.2.3 Nghiệp vụ thị trường mở Để có thể tác động, điều tiết MS; NHNN sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ theo đó NHNN mua và bán các chứng khoán có giá (chủ yếu là tín phiếu kho bạc) trên thị trường. Có thể nói, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT quan trọng nhất trong số các công cụ của CSTT vì nghiệp vụ này là nhân tố làm thay đổi lãi suất và tiền cơ sở; tác động gián tiếp thông qua lãi suất LNH và tiền cơ sở đến cung tiền và lãi suất thị trường. Ưu điểm: Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo chủ ý của NHNN nên NHNN hoàn toàn kiểm soát được khối lượng chứng khoán có giá mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào. Đồng thời đây cũng là công cụ chính xác, linh hoạt, ít tốn kém về thời gian và chi phí. Nhược điểm: Việc thực hiện công cụ này một cách hiệu quả yêu cầu và đòi hỏi một thị trường tài chính thứ cấp và thị trường tiền tệ phát triển. Mà đây là vấn đề khá nổi cộm của thị trường tài chính thứ cấp và thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, vì các thị trường này vẫn còn khá mới mẻ và chưa thực sự phát triển. Ngoài các công cụ cơ bản trên, hiện nay NHNN còn áp dụng một số các công cụ như: - Quản lý về lãi suất của các NHTM: Theo đó NHNN đưa ra khung lãi suất bao gồm lãi suất cơ bản. LSCB là một công cụ để NHNN thực hiện CSTT trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, Lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho VNĐ, do NHNN công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. LSCB được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN; lãi suất huy động đầu vào của các tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung – cầu vốn. Theo luật dân sự VN năm 2005 quy định lãi suất cho vay của các Ngân hàng, TCTD không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Từ đó với việc đưa ra LSCB, NHNN sẽ kiểm soát lãi suất cho vay trên thị trường => Từ đó góp phần điều tiết lượng MS trên thị trường. Lãi suất cơ bản theo quy định của NHNN Việt Nam hiện nay là 9%/năm. Theo đó lãi suất cho vay tối đa của các TCTD; NHTM là 13,5%/năm. CH21D – Nhóm 10 Page 6 - Ấn định hạn mức tín dụng: Đây là công cụ trực tiếp, mang tính hành chính của NHNN đối với các tổ chức tín dụng. Theo đó Ấn định hạn mức tín dụng là quy định mức dư nợ tối đa mà NHNN buộc các NHTM; TCTD phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. - Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá hối đoái không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá hối đoái không làm thay đổi lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho CSTT. 3 - Các giải pháp để hoàn thiện Nội dung của Chính sách tiền tệ Trong quá trình vận hành và ứng dụng CSTT để đáp ứng mục tiêu của từng giai đoạn kinh tế cụ thể, CSTT đã có rất nhiều ưu điểm và nhược điểm. Vì vậy để hoàn thiện nội dung của CSTT, nhóm 10 đưa ra một số các giải pháp cụ thể như sau: 3.1 Giải pháp tạo môi trường, điều kiện thuận lợi 3.1.1 Các giải pháp chung - Thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ cần phải được củng cố và phát triển theo hướng cơ cấu lại hệ thống NH, minh bạch hóa các thông tin, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh sôi động để có thể phát huy có hiệu quả ở mức tối đa của CSTT. - Hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng, tài chính để có cơ chế thực thi CSTT nói chung và các công cụ CSTT được minh bạch và có hiệu quả. Việc thực thi CSTT 3.1.2 Nâng cao vai trò và trách nhiệm của NHNN - NHNN là đơn vị chủ quản cũng như điều hành vận hành CSTT vì vậy bản thân NHNN cũng phải không ngừng nâng cao năng lực, chuyên môn để có thể có những quyết định và vận hành CSTT một cách hiệu quả. - Ngoài ra cần phải nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN sao cho phù hợp với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp với thể chế chính trị tại Việt Nam. Hiện nay CSTT do NHNN thực hiện tuy nhiên để có thể vận hành CS có sự tham gia của rất nhiều bộ ban ngành vì vậy CSTT còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đi vào thực tiễn. Theo đó cần sửa đổi, bổ sung luật NHNN theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHNN trong việc xây dựng CSTT, chủ động trong việc xắp xếp cơ cấu tổ chức nhân sự; CH21D – Nhóm 10 Page 7 hiện đại hóa công nghệ trong việc quản lý tổng hợp, thống kê, phân tích, dự báo… trong việc phục vụ điều hành CSTT. Và NHNN phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện trước Quốc Hội hoặc Chính Phủ. 3.1.3 Việc hoạch định CSTT và các công cụ của chính sách cần đặt trong một chỉnh thể thống nhất có sự linh hoạt của thị trường. Để CSTT thực sự có hiệu quả cần phải đặt nó trong tổng thể với các CS kinh tế khác, đặc biệt là chính sách tài khoá. Đây là 2 chính sách cơ bản trong CSTC, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Một ví dụ điển hình là từ năm 2006 – 2008 khi mà dòng vốn nước ngoài ồ ạt chảy vào Việt Nam (năm 2006 VN thực hiện gia nhập WTO). Nếu không kiểm soát tốt dòng vốn chảy vào này sẽ gây ra lạm phát cao. Do đó CSTT thời kỳ này là CSTT với mục tiêu cụ thể là chống lạm phát. CP đã đưa ra các quy định trong việc kiểm soát lượng vốn chảy vào Việt Nam: đánh thuế hoặc kỹ quỹ đối vơi dòng vốn ngắn hạn. Tất nhiên chính sách này sẽ chỉ có hiệu lực trong một thời gian ngắn, phù hợp với tình hình nguồn vốn. Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam và thế giới sụt giảm thì việc điều hành CSTT trong quan hệ với chính sách tài chính… nhằm mục tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát. 3.2 Giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của CSTT Để CSTT thực sự phát huy tác dụng trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô, một trong những giải pháp quan trọng đó chính là hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của các công cụ CSTT làm sao cho các công cụ này có thể hỗ trợ, phối hợp thúc đẩy lẫn nhau, tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả cụ thể của nhau. Cụ thể: - Đối với công cụ hạn mức tín dụng: Đây không phải là công cụ thường xuyên được sử dụng trong CSTT tuy nhiên NHNN cũng luôn phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở từng giai đoạn cụ thể. Tránh để trường hợp mức dư nợ quá lớn so với quy mô hoạt động của ngân hàng, giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu. - Đối với công cụ lãi suất: Việc điều chỉnh lãi suất (tiền vay, tiền gửi) cần phải linh hoạt, theo sát thị trường trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích người gửi tiền, tổ chức tín dụng và người vay tiền; tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế. CH21D – Nhóm 10 Page 8 Việc căn cứ điều chỉnh lãi suất một cách phù hợp phải căn cứ vào các nhân tố cơ bản như: sự biến động của quan hệ cung cầu; vốn đầu tư; mức độ lạm phát; diễn biến lãi suất trên thị trường; kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp…. - Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: Điều hành công cụ dự trữ bắt buộc cần phải chủ động, linh hoạt theo diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ. Mặt khác tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả. Trong điều kiện kiềm chế lạm phát (sử dụng CSTT thắt chặt) như trong năm 2007 – 2008 NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ 5% lên 10% và lên 11% là phù hợp. Tuy nhiên nếu tỷ lệ dữ trự trên tiếp tục tăng cao sẽ tạo hiệu ứng ngược, các tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh do chủ yếu tích trữ vốn để đáp ứng theo yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNH. Thêm vào đó, khi thực hiện tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc => nên tăng từ từ để các tổ chức tín dụng có tư tưởng, kế hoạch cho việc chuẩn bị nguồn vốn đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định. Không nên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá nhanh => Gây ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các TCTD. - Đối với nghiệp vụ trên thị trường mở: Như tại mục 3.1 để các công cụ trên thị trường mở sự có hiệu quả thì cần phải xây dựng một thị trường giao dịch đồng bộ về cách thức hoạt động, thống nhất về các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đặc biệt, cùng với xu thế phát triển kinh tế như hiện nay cần mở rộng quy mô hoạt động của thị trường mở bằng cách: kết nạp thêm thành viên tham gia trên thị trường mở; đa dạng hóa hàng hóa giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng; nâng cao vai trò điều tiết hướng dẫn của NHNN trên thị trường. Tạo các điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng; thị trường đầu thaùa tín phiếu kho bạc và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán lại giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng. Sự phát triển của thị trường sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế. - Đối với chính sách tỷ giá hối đoái: Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt trên thị trường; phù hợp với lãi suất có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô. Một số các biện pháp như: kiểm soát xuất nhập khẩu (tăng hoặc giảm thuế xuất nhập khẩu); khuyến khích đầu tư nước ngoài vào VN (có các chính sách ưu đãi với nhà đầu tư nước ngoài; nới lỏng luật đầu tư….); tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; Nâng cao quỹ trữ CH21D – Nhóm 10 Page 9 ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay *** 2.1 Mục tiêu của CSTT: Từ năm 2008 - 2010 với mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế, NHNN đã thực thi CSTT nới lỏng; cùng với các vấn đề nội tại của nền kinh tế từ trước đó là nguyên nhân chính dẫn tới sự gia tăng lạm phát từ năm 2011. Thêm vào đó, cũng từ năm 2011, nền kinh tế thế giới lâm vào trạng thái khủng hoảng, giá cả các mặt hàng tăng cao, sản xuất trì trệ và đình đốn. Khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng và tác động to lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Tất cả những nguyên nhân trên đã đưa nền kinh tế Việt Nam bước vào một giai đoạn vô cùng khó khăn và đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Như đã nêu tại câu 1, mục tiêu của CSTT là mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát vì vậy Nhóm 10 sẽ đi sâu vào diễn biến kinh tế qua các năm và tác động của CSTT đối với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát. Theo kết quả thống kê, chỉ số lạm phát Việt Nam qua các năm như sau: Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Mục tiêu <8 <8 <10 15 7-8 <7 <10 Thực hiện 6.6 12.6 19.9 6.5 11.8 18.1 7 Nhìn vào biểu trên có thể thấy chỉ số lạm phát của Việt Nam tăng cao trong các năm 2008 và 2011. Trong năm 2008, chỉ số lạm phát đã lên đến 19,9%. Nguyên nhân là do sự phát triển và bùng nổ kinh tế quá mức từ các năm 2006 và 2007. Đặc biệt là giai đoạn 2006 khi Việt Nam gia nhập WTO. Để có thể kiềm chế lạm phát trong năm 2008 Chính phủ đã CH21D – Nhóm 10 Page 10 đưa ra CSTT thắt chặt kết hợp với CSTK được thể hiện qua 08 gói giải pháp nhằm hạn chế sự gia tăng của lạm phát. Và kết quả lạm phát trong năm 2009 đã giảm xuống chỉ còn 6,5% và tăng nhẹ lên mức 11,8% trong năm 2010. Tuy nhiên trong năm 2011 đã chứng kiến sự tăng lên một cách nhanh chóng của lạm phát. Nguyên nhân gây nên lạm phát trong năm 2011 có nhiều nguyên nhân: - Nguyên nhân do mở rộng cung tiền quá mức và tăng trưởng tín dụng quá nóng trong các năm trước. Theo Tổng cục thống kê tính trung bình trong giai đoạn từ năm 2004 – 2010 Cung tiền M2 và tín dụng tăng khoảng 31,17%/năm và 35,17%; như vậy có thể thấy trong giai đoạn này tăng trưởng cung tiền M2 và tăng trưởng tín dụng là quá cao. Đây là nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến các cơ chế chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và lạm phát. - Công tác dự báo kinh tế vĩ mô còn chưa chính xác dẫn tới việc ban hành và thi hành các chính sách còn chậm chạp và chưa kịp thời. - Từ sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2011, giá cả các mặt hàng tăng cao: giá dầu thô; giá nguyên vật liệu… Chứng kiến sự gia tăng liên tục của lạm phát (trong 4 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã tăng lên thêm 3,32% do sức ép tỷ giá, giá cả hàng hóa năng lượng và cung tiền), đẩy mức giá lên cao, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Đứng trước nguy cơ gia tăng của lạm phát, mục tiêu chính và chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này là kiềm chế lạm phát. Mục tiêu này được duy trì từ năm 2011 – hiện tại. 2.2 Các nội dung của CSTT Năm 2011 Ngày 24/02/2011 Chính phủ ban hành nghị quyết số 11/NQ – CP về việc kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế; ban hành chỉ thị 01/CT-NHNN triển khai thực hiện nghị quyết số 11. Theo nội dung NQ số 11/NQ – CP, Chính phủ đưa ra các biện pháp để điều hành và kiềm chế lạm phát như sau (xét CSTT): Thực hiện CSTT chặt chẽ và thận trọng: - Thực hiện CSTT chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa CSTT và CSTK để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%; tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 – 16%; Ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển SXKD, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, giảm tốc độ cho và tỷ trọng cho vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. CH21D – Nhóm 10 Page 11 Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ CSTT nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát. - Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt (phù hợp với thị trường). Tăng cường quản lý ngoại hối thực hiện các biện pháp để các tổ chức cá nhân, trước là các Tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho Ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, đảm bảo thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. - Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng. Trên đây là một vài điểm chính và cơ bản của CSTT thắt chặt. Theo nội dung nghị định, NHNN đã triển khai CSTT và đưa ra các biện pháp hành chính nhanh và mạnh nhằm giảm tỷ lệ lạm phát về mức kế hoạch được giao (kết hợp với CSTK thắt chặt), cụ thể: + Đối với công cụ lãi suất và lãi suất tái chiết khấu: Một trong những công cụ quan trọng trong việc thực thi CSTT là công cụ lãi suất và lãi suất tái chiết khấu. Có thể nói trong giai đoạn này, NHNN đã liên tục tăng mức lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn trên thị trường liên ngân hàng dẫn tới lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi trên thị trường liên tục tăng => Gây khó khăn cho bản thân các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp => một loạt các hậu quả đối với nền kinh tế trong các năm tiếp theo đó.  Lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn: Theo lý thuyết, khi NHNN tăng lượng tỷ lệ lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn lên cao => Các Ngân hàng, tổ chức tín dụng phải thận trọng trong việc cho vay => Tác động lên MS. NHNN đã áp dụng lý thuyết này trong CSTT năm 2011. Cụ thể NHNN đã liên tiếp tăng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Cụ thể: Lãi suất tái CK đã được tăng từ 7%/năm lên 12%/năm trong quý I năm 2011 và lên mức 13%/năm trong quý III và quý IV. Lãi suất tái cấp vốn được tăng từ 9% trong tháng 1 lên 15% từ quý IV => Điều này đã tạo áp lực đối với nhiều tổ chức tín dụng; nhiều ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ mất thanh khoản => Góp phần tạo nên kết quả và hệ quả của nhiều vấn đề nghiêm trọng trong hệ thống tài chính Việt Nam.  Lãi suất tiền gửi được xác định ở mức 14%/năm. Lãi suất cho vay rất cao và được duy trì ổn định trong năm 2011: Lãi suất cho vay đối với khu vực nông nghiệp nông thôn; xuất khẩu là 17 – 19%/năm. Lãi suất kinh doanh khác: 17 – 19%/năm; Lãi suất đối với lĩnh vực phi sản xuất: 22 – 25%/năm. Với mức lãi suất thực sự cao, nguồn vốn khó tiếp cận; kết quả kinh doanh thua lỗ đã dẫn tới sự phá sản của một loạt doanh nghiệp, tạo nên tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng do doanh nghiệp, người dân không có đủ nguồn tiền trả nợ cho Ngân hàng. CH21D – Nhóm 10 Page 12 + Tăng trưởng tín dụng Theo chỉ đạo của Nghị quyết, năm 2011 NHNN thực hiện thắt chặt tín dụng phi sản xuất (cho vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán) theo đó các TCTD hạn chế việc cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán; cho vay các dự án bất động sản kể cả các dự án đã ký cam kết với chủ đầu tư.  Cho vay kinh doanh bất động sản; cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán: Trong năm 2011 NHNN ban hành chỉ thị 01/CT trong đó quy định tỷ trọng tín dụng phi sản xuất của tất cả các ngân hàng sẽ giảm về mức tối đa là 16% vào ngày 31/12/2011. Đồng thời với thông tư 13/2010 NHNN đã nâng hệ số rủi ro đối với cho vay bất động sản và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán từ mức 150% lên 250% => đã tác động mạnh mẽ đến thị trường bất động sản (các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; các chủ đầu tư…) và thị trường chứng khoán (các nhà đầu tư, các công ty chứng khoán). Theo đó các TCTD rất e dè trong việc cho vay đối với các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; kinh doanh chứng khoán => Các dự án không triển khai được, hoặc tiến độ chậm do các doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn. Với việc đưa ra chính sách thắt chặt tín dụng đối với thị trường bất động sản cùng với các yếu tố về lãi suất đã thực sự đưa thị trường bất động sản Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng trong các năm tiếp theo (điều này sẽ được phân tích ở mục kết quả thực thi CSTT). Thị trường chứng khoán Việt Nam cùng với biến động của thị trường chứng khoán thế giới, ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô đã sụt giảm điểm trên các sàn giao dịch, khối lượng chứng khoán giao dịch ít, giá trị nhỏ; giá trị cổ phiếu liên tục giảm…=> Dư nợ đối với ngành kinh doanh bất động sản và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán sụt giảm mạnh so với các năm trước đây đặc biệt khi mà thị trường chứng khoán và bất động sản ở thời kỳ có thể nói là đỉnh cao (năm 2007 – 2009).  Mặc dù Nghị quyết 11 có nêu rõ sẽ ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển SXKD, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy nhiên dư nợ tín dụng đối với các ngành này cũng không tăng nhiều. => Kết quả mức tăng trưởng tín dụng của năm 2011 chỉ đạt 12%; tổng phương tiện thanh toán tăng 10%. + Dự trữ bắt buộc Tín dụng trong năm 2011 có mức tăng trưởng chỉ là 12% trong đó chủ yếu là sự tăng trưởng của tín dụng ngoại tệ. Tín dụng ngoại tệ có mức tăng trưởng cao là 18,7% => Để hạn chế tăng trưởng tín dụng ngoại tệ, Ngân hàng nhà nước yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng trong năm 2011 được điều chỉnh tăng từ 4% đầu năm lên 7% từ tháng 06 và 8% từ tháng 8 với tiền gửi có kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng. Đối với kỳ hạn lớn hơn 12 tháng: NHNN tăng từ 4% vào tháng 5 lên 6% vào tháng 6 và được duy trì cho đến hết năm 2011. CH21D – Nhóm 10 Page 13 Với các nỗ lực thực thi CSTT thắt chặt bằng các công cụ như lãi suất; tỷ lệ dự trữ bắt buộc; hạn mức tín dụng kết hợp với CSTK thắt chặt; NHNN đã thực hiện thành công mục tiêu kiềm chế và giảm lạm phát với kết quả cung tiền giảm từ 25% vào năm 2010 xuống còn 15% vào năm 2011. Như vậy có thể thấy lạm phát đã được kiểm soát tuy nhiên do sự tác động của CSTT quá nhanh và mạnh đã tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể như sau: - Tốc độ tăng trưởng GDP cả năm đạt 5,89% thấp hơn mức tăng trưởng 6,78%/năm so với năm 2010 và thấp hơn nhiệm vụ kế hoạch là 6%/năm. - Khu vực CN và XD có mức tăng trưởng chậm lại so với năm 2010. Hoạt động sản xuất CN không còn giữ vai trò chủ đạo trong tăng trưởng kinh tế. - Các ngành công nghiệp khai thác NVLXD trong ngành xây dựng có mức tăng trưởng giảm 4% so với năm 2010. Tồn kho trong ngành xi măng, vôi, vữa lên đến 60% => Tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng liên tục sụt giảm. - Lãi suất tăng cao + khó khăn trong việc tiếp cận vốn: Các doanh nghiệp Việt Nam thực sự gặp khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã phải phá sản đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, lượng hàng tồn kho lớn; dự án bị dừng hoặc triển khai chậm. Doanh nghiệp thiếu vốn, không có tiền trả nợ ngân hàng. - Đối với các Ngân hàng: trong năm 2011 nhiều ngân hàng thực sự phải đối mặt với tình trạng mất thanh khoản; nợ xấu do các doanh nghiệp không trả được cùng với những tồn tại từ trước đến nay của hệ thống ngân hàng (lợi ích nhóm, thâu tóm, sát nhập) => Đã dẫn tới tình trạng khủng hoảng toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng. Có thể thấy, sau 1 năm thực hiện CSTT thắt chặt bằng những công cụ có tính chất tác động nhanh và mạnh, lạm phát ở Việt Nam đã được kiểm soát tuy nhiên nền kinh tế phải đối mặt với nguy cơ suy thoái. Năm 2012 Tác động của việc thắt chặt CSTT trong năm 2011 vẫn có tác động mạnh đến nền kinh tế 2012 và 2013. Đứng trước nguy cơ giảm phát và suy thoái kinh tế, trong năm 2012 CSTT đã được điều hành khá thận trọng để có thể khôi phục lại nền kinh tế trên nguyên tắc kiểm soát và kiềm chế lạm phát. Mục tiêu hàng đầu của CSTT trong giai đoạn này là giảm lãi suất; đảm bảo mức dư nợ và cơ cấu tăng trưởng hợp lý. Cụ thể: - Về lãi suất: Trong những tháng đầu năm 2012 trước xu hướng giảm của CPI và lạm phát kỳ vọng, NHNN đã bắt đầu kéo giảm đồng loạt các lãi suất chính sách và trần lãi suất huy động. Tình hình thanh khoản ở một số ngân hàng dần được cải thiện. Tình từ đầu năm 2012 đến thời điểm cuối năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống còn 10%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống còn 8%/năm; trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn ngày CH21D – Nhóm 10 Page 14 giảm từ 14%/năm xuống còn 9%/năm. Song song với động thái kéo giảm trần lãi suất huy động; Ngân hàng NN cũng áp dụng giảm trần lãi suất cho vay (duy trì ở mức 13%/năm) đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn; sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu; phục vụ sản xuất kinh doanh của DNVNH; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Hay đưa mức lãi suất cho vay áp dụng đối với Doanh nghiệp và hộ gia đình về mức dưới 15%/năm (tháng 06/2012)….Với việc giảm lãi suất (tiền gửi, tiền vay, chiết khấu, tái chiết khấu) là yêu cầu cấp thiết đối với nền kinh tế đặc biệt đối với các doanh nghiệp. Khi lãi suất cho vay giảm xuống => Gánh nặng lãi vay được giảm bớt, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có thể được cải thiện. Tuy nhiên với cơ chế điều hành bằng biện pháp hành chính còn nhẹ và chưa nghiêm dẫn tới hiện tượng lách trần lãi suất ngầm vẫn diễn ra hết sức tinh vi. - Hạn mức tín dụng: Theo như đã phân tích ở trên, đứng trước suy thoái kinh tế, lãi suất và nợ xấu tăng cao cùng với những vấn đề nội tại trong bản thân các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Đến cuối những năm 2011 và đầu năm 2012 hệ thống khối các tổ chức tín dụng bộc lộ nhiều vấn đề yếu kém, nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng mất thanh khoản, đứng trước nguy cơ phá sản. Nhiều các ngân hàng lớn dính vào các vụ bê bối với việc các lãnh đạo tối cao bị bắt như ông Nguyễn Đức Kiên… Đứng trước những vấn đề trên, toàn bộ hệ thống ngân hàng đặt ra bài toán tái cấu trúc, kiện toàn hệ thống. Trong những ngày đầu tháng 02/2012 NHNN đã ban hành chỉ thị 01/CT-NHNN và công văn 674/NHNN-CSTT về tổ chức thực hiện CSTT năm 2012. Nội dung nổi bật và đáng chú ý là NHNN phân chia các NHTM thành 4 nhóm và ấn định chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD: Nhóm 1 tăng trưởng tối đa 17%; nhóm 2 tăng trưởng tối đa 15%; nhóm 3 tăng trưởng tối đa 8% và nhóm 4 không được tăng trưởng. Với nội dung này, NHNN muốn quản lý mức tăng trưởng tín dụng đối với từng nhóm tổ chức tín dụng dựa trên năng lực thực tế của các tổ chức này. Tuy nhiên qua một quá trình thực hiện, NHNN đã thực hiện nới lỏng hoặc phê duyệt mức tăng giới hạn tín dụng đối với một số các ngân hàng => dẫn tới việc phân chia mức tăng trưởng giới hạn tín dụng như vậy cũng không còn nhiều ý nghĩa và tác dụng trong việc kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng. Thêm vào đó NHNN cũng chưa công bố cơ sở, chỉ tiêu để phân loại các ngân hàng theo các nhóm tăng trưởng tín dụng. - Thị trường liên ngân hàng: Để quản lý và điều tiết thị trường liên ngân hàng, NHNN đã ban hành thông tư số 21/2012/TT-NHNN ban hành những quy định đối với hoạt động liên ngân hàng và có hiệu lực từ ngày 01/09/2012. Thông tư ra đời với một số quy định như: hình thức tiền gửi được chuyển thành tiền vay; TCTD bị hạn chế đi vay nếu có khoản nợ quá hạn từ 10 ngày trở lên hay yêu cầu trích lập dự phòng rủi ro đối với các giao dịch…Với các quy định mới này, NHNN đã góp phần lập lại trật tự và lạnh mạnh hoá thị trường liên ngân hàng. Trước đó, CH21D – Nhóm 10 Page 15 trong những tháng cuối năm 2011, mức lãi suất cao ngất ngưởng trên thị trường này đã tác động tiêu cực khi bản thân nó là một trong các nguyên nhân làm nóng mặt bằng chung của nền kinh tế. - Tỷ gía hối đoái: Trong suốt năm 2012 NHNN tỷ giá hối đoái được giữ ở mức ổn định. Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế giảm dần, tăng cường dự trữ ngoại hối Nhà nước - Vấn đề bài toán nợ xấu và cải thiện cũng như hoàn thiện hệ thống ngân hàng Đây là một bài toán khó đặt ra đối với không chỉ hệ thống ngân hàng mà đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Có một hệ thống ngân hàng lành mạnh và nợ xấu giảm sẽ giúp cho việc thực thi và thi hành CSTT được nhanh chóng và thuận lợi hơn rất nhiều. Để có thể cải thiện cũng như hoàn thiện hệ thống ngân hàng , Ngân hàng NN đã ban hành kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng để triển khai thực hiện Đề án. Tính đến hết năm 2012, khả năng chi trả của toàn hệ thống các TCTD về cơ bản được đảm bảo; nguy cơ đổ vỡ của một số TCTD được đẩy lùi; NHNN đã kiểm soát được tình hình của một số TCTD yếu kém để làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cơ cấu ở giai đoạn tiếp theo. Bài toán nợ xấu là bài toán cần thời gian để giải quyết, chưa thể giải quyết ngay và luôn. Vì nợ xấu xuất phát điểm có cả nguyên nhân khách quan – do tác động của nền kinh tế và nguyên nhân chủ quan – nội tại bản thân các ngân hàng thương mại chủ yếu chạy theo lợi nhuận, chủ quan nóng vội, không chú trọng đến chất lượng của phát triển. Để có thể từng bước giải quyết bài toán nợ xấu, Ngân hàng NN và CP đã đưa ra lộ trình thực hiện: thành lập công ty mua bán nợ xấu….. Mặc dù CSTT trong thời gian vừa qua còn bộc lộ nhiều hạn chế như Chính sách tiền tệ hiện đang phải gánh quá nhiều mục tiêu khác nhau, thậm chí đôi khi trái ngược nhau như: Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; Kiềm chế lạm phát; Duy trì ổn định tài chính và ổn định tỷ giá hối đoái…, tuy nhiên với việc thi hành CSTT trong năm này, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều cải thiện, cụ thể: + Tổng phương tiện thanh toán tăng 20%; tín dụng tăng 7% trong đó tín dụng nội tệ tăng 8,92%, tín dụng ngoại tệ tăng 3,51%. + Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh so với năm 2011. + Thị trường ngoại hối và tỷ giá được giữ ổn định. + Thanh khoản của hệ thống TCTD được cải thiện. Số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN lớn hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc. + Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng 5,03%. Tỷ lệ lạm phát năm 2012 giảm từ 18,1% năm 2011 xuống còn 6,81%. Như vậy qua 2 năm theo dõi CSTT có thể thấy CP và NHNN đã linh họat trong việc điều hành CSTT tuy vẫn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Chính sách tiền tệ 6 tháng đầu năm 2013 CH21D – Nhóm 10 Page 16 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 31/01/2013 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2013, trong đó đề ra chỉ tiêu định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng 14-16%, tín dụng tăng khoảng 12%. Trên cơ sở bám sát nhiệm vụ và giải pháp tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN, bám sát các diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, toàn hệ thống ngân hàng từ các đơn vị thuộc NHNNTW, đến NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố và các tổ chức tín dụng (TCTD) đã triển khai quyết liệt các giải pháp và đạt một số kết quả. Các công cụ chính sách tiền tệ đã được NHNN điều hành một cách linh hoạt và đồng bộ, chủ động điều hành lượng tiền linh hoạt qua các kênh để kiểm soát lượng tiền cung ứng, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối đồng thời đảm bảo kiểm soát tiền tệ: Những tháng đầu năm, thực hiện cung ứng tiền qua kênh mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, nhưng khi tỷ giá biến động đã kịp thời bán can thiệp; điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng và lãi suất hợp lý theo cả hai chiều mua và bán, vừa đảm bảo thanh khoản hệ thống, vừa rút bớt tiền về để can thiệp trung hòa lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ. Đến 31/5/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 5,46% so với cuối năm 2012, khá phù hợp với định hướng 14-16% cho cả năm 2013. Huy động vốn tăng 6,59% so với cuối năm 2012; trong đó, huy động vốn bằng VND tăng 7,55%, huy động vốn bằng ngoại tệ tăng 0,84%. Huy động vốn VND tăng chủ yếu ở khu vực dân cư (tăng 11,5%), tổ chức kinh tế (tăng 1,23%) cho thấy gửi tiền vào hệ thống ngân hàng vẫn đang là kênh được lựa chọn của người dân. Tiền gửi VND của người dân tăng cao trong điều kiện nền kinh tế còn khó khăn, thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh thấp, phản ánh nguồn tiền này chủ yếu được chuyển đổi từ vàng và ngoại tệ sang VND, đây là kết quả tích cực của các giải pháp chính sách mà NHNN đã điều hành trong thời gian qua, giảm tình trạng vàng hóa và Đô la hóa, tăng niềm tin vào đồng VND. Chi tiết như sau:  Điều hành các giải pháp tín dụng linh hoạt theo hưởng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của TCTD, phủ hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, đồng thời tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý: Trên cơ sở định hướng tín dụng năm 2013 tăng khoảng 12%, NHNN đã thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2013 cho các nhóm TCTD theo năng lực tài chính, khả năng quản lý rủi ro và yêu cầu các TCTD kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu đề ra; đồng thời linh hoạt điều chỉnh tăng cho một số TCTD đã có mức tăng trưởng tín dụng cao. Tính đến ngày 31/5/2013, tín dụng đối với nền kinh tế tăng 2,98%, cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái (5 tháng đầu năm 2012 tăng 0,56%) và cải thiện qua các tháng. Trong đó, tín CH21D – Nhóm 10 Page 17 dụng bằng VND tăng 5,48% trong khi tín dụng bằng ngoại tệ giảm 8,41%, phù hợp với chủ trương chống Đô la hóa và vàng hóa của Chính phủ. Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo chủ trương của Chính phủ, tập trung vào lĩnh vực sản xuât kinh doanh nhất là tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu.  Thanh khoản VND của hệ thống các TCTD cải thiện, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống Trong điều kiện huy động vốn tăng cao, tín dụng khó mở rộng, hệ thống các TCTD đã tăng cường mua trái phiếu Chỉnh phủ để đưa tiền ra nền kinh tế qua kênh ngân sách, đồng thời tăng dự trữ thanh khoản.  NHNN đã ban hành Thông tư số 11/2013/TT-NHNN ngày 15/5/2013 quy định về cho vay hỗ trợ nhà ở, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 07/2013/TT-BXD ngày 15/5/2013 hướng dẫn việc xác định các đối tượng được vay vốn hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ. Sau khi 2 văn bản trên được ban hành, các bộ, ngành, chính quyền địa phương và các NHTM Nhà nước đang tích cực triển khai hoạt động cho vay hỗ trợ nhà ở. Để triển khai thực hiện Thông tư số 11/2013/TT-NHNN, NHNN đã ký Hợp đồng nguyên tắc về tái cấp vốn hỗ trợ nguồn vốn cho vay nhà ở với 5 NHTM Nhà nước, đảm bảo hỗ trợ nguồn vốn kịp thời cho các ngân hàng ngay sau khi các ngân hàng thực hiện giải ngân cho vay đối với các khách hàng. Trên cơ sở hai Thông tư này, các NHTM Nhà nước đã tổ chức họp báo để công bố về chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở, tổ chức hội nghị tập huấn và ban hành văn bản hướng dẫn triển khai cho vay hỗ trợ nhà ở trong toàn hệ thống. Đây là một trong những giải pháp thực hiện để hỗ trợ thị trường bất động sản.  Thanh khoản VND của hệ thống các TCTD cải thiện, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống Trong điều kiện huy động vốn tăng cao, tín dụng khó mở rộng, hệ thống các TCTD đã tăng cường mua trái phiếu Chỉnh phủ để đưa tiền ra nền kinh tế qua kênh ngân sách, đồng thời tăng dự trữ thanh khoản. 2.3 Giải pháp hoàn thiện CSTT trong năm 2013 Theo dự báo trong năm 2013 nền kinh tế thế giới phục hồi chậm và vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Các thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư chủ yếu của Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng suy giảm. Nguy cơ về các cú sốc từ bên ngoài vẫn đang tiềm ần có thể tác động xấu đến nền kinh tế Việt Nam. Bản thân nội tại nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những vấn đề tồn tại lớn: quá trình tái cơ cấu nền kinh tế mới chỉ ở giai đoạn khởi động và còn nhiều khó khăn; sản xuất kinh doanh còn khó khăn, tồn kho lớn, nợ xấu còn cao dù tăng trưởng nhưng chưa thực sự vững chắc, lạm phát vẫn có nguy cơ trở lại. Vì vậy mục tiêu của CH21D – Nhóm 10 Page 18 nền kinh tế trong năm 2013 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát tiếp tục được đặt lên hàng đầu. Với tình hình cụ thể của năm 2013 như vậy, có thể đi tới một số giải pháp để hoàn thiện CSTT như sau: 2.3.1. Tiếp tục phân bổ tín dụng cho từng TCTD Đưa ra định hướng điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, gắn kết chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát thấp hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2012, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; sử dụng chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán hợp lý, đáp ứng yêu cầu thanh toán của nền kinh tế; điều hành lãi suất và tỷ giá phù hợp với diễn biến tiền tệ và các cân đối vĩ mô, đặc biệt là diễn biến lạm phát. Theo đó, NHNN đưa ra định hướng tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14-16%, tín dụng tăng khoảng 12%, tùy theo diễn biến và tình hình thực tế điều chỉnh phù hợp. Để kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo định hướng 12% trong năm 2013, NHNN tiếp tục thông báo tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD để đảm bảo việc mở rộng tín dụng đi đôi với việc đảm bảo chất lượng và an toàn tín dụng cũng như hoạt động của TCTD. NHNN cũng chỉ đạo các TCTD tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường; ưu tiên tập trung vốn hỗ trợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, các dự án có hiệu quả; kiểm soát chặt chẽ các yêu cầu vay vốn tiềm ẩn rủi ro nguy cơ cao, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ phù hợp với khả năng huy động vốn và chủ trương hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế. NHNN chỉ đạo các TCTD áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý trên cơ sở tiết kiệm chi phí và chia sẻ khó khăn đối với doanh nghiệp và hộ dân; thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, gia hạn nợ đối với khách hàng vay không có khả năng trả nợ đúng hạn trong hợp đồng tín dụng, thực hiện việc phân loại nợ đối với các khoản cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định tại Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012. 2.3.2. Điều hành linh hoạt các kênh cung ứng tiền NHNN điều hành linh hoạt các kênh cung ứng tiền để kiểm soát tiền tệ hợp lý. Trong điều kiện cung cầu ngoại tệ cải thiện, xu hướng găm giữ ngoại tệ giảm, NHNN đã mua một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, đồng thời ổn định tỷ giá (qua đó không làm VND mạnh lên, gây khó khăn cho xuất khẩu); song song với mua ngoại tệ giữ ổn định tỷ giá, NHNN tiếp tục thực hiện trung hòa lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ thông qua nghiệp vụ CH21D – Nhóm 10 Page 19 phát hành tín phiếu NHNN, giảm áp lực cung tiền tới lạm phát. Bên cạnh đó, NHNN cũng thực hiện thu nợ đối với các khoản cho vay tái cấp vốn đến hạn. 2.3.3. Hỗ trợ thanh khoản cho TCTD thông qua nghiệp vụ thị trường mở NHNN điều hành chủ yếu thông qua nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD một cách nhanh nhạy và kịp thời. Trong 2 tháng đầu năm, NHNN chào mua giấy tờ có giá với khối lượng hợp lý, phù hợp với tình hình vốn khả dụng của các TCTD; kỳ hạn 7 ngày và mở rộng lên cả kỳ hạn 14 ngày vào giáp Tết để tránh đáo hạn ngay sau Tết. Nhờ vậy, thị trường diễn biến ổn định, thanh khoản hệ thống đảm bảo, không còn là tác nhân gây ra xáo trộn về lãi suất thị trường. 2.3.4. Điều hành lãi suất Sau khi điều chỉnh giảm 1%/năm vào cuối năm 2012, NHNN giữ nguyên lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng ở mức 10%/năm, lãi suất tái cấp vốn ở mức 9%/năm và lãi suất tái chiết khấu ở mức 7%/năm; bên cạnh đó, NHNN theo dõi sát và tăng cường giám sát tình hình chấp hành quy định lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND của tổ chức,cá nhân tại các TCTD. 2.3.5. Điều hòa lưu thông tiền mặt NHNN tập trung đảm bảo công tác điều hòa lưu thông tiền mặt, đáp ứng khả năng thanh toán, chi trả của các TCTD, triển khai tốt công tác an toàn kho quỹ. Trên cơ sở cơ cấu mệnh giá trong lưu thông, NHNN đưa tiền ra lưu thông với cơ cấu hợp lý, đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân. Công tác an toàn kho quỹ được triển khai kịp thời, kỹ lưỡng đảm bảo an toàn tuyệt đối kho quỹ ngân hàng. 2.3.6. Xây dựng và hoàn thiện Đề án xử lý nợ xấu, VAMC Trong 4 tháng đầu năm, NHNN cũng theo dõi sát tình hình thanh khoản của các TCTD đặc biệt là các TCTD thuộc diện tái cơ cấu để có sự hỗ trợ kịp thời, đảm bảo ổn định hệ thống; xây dựng và triển khai kế hoạch thanh tra, giám sát các TCTD trong năm 2013. NHNN đồng thời xây dựng và hoàn thiện Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và Đề án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) báo cáo Chính phủ trình Bộ Chính trị đồng ý về chủ trương. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, NHNN đang hoàn thiện để sớm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của VAMC; thành lập ban trù bị VAMC để khẩn trương hoàn thiện Đề án và sẵn sàng triển khai sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngoài ra, NHNN cũng tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, chủ động đưa thông tin kịp thời về các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, CH21D – Nhóm 10 Page 20 nhằm tạo lòng tin cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân về các chính sách của Chính phủ và NHNN, đưa các giải pháp chính sách vào cuộc sống và hỗ trợ hiệu quả cho điều hành chính sách tiền tệ. Như vậy với mục tiêu kiềm chế lạm phát nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra các giải pháp cụ thể và ngày càng hoàn thiện của CSTT. Đảm bảo CSTT thực sự phát huy hết vai trò và tác dụng của nó trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbt_cskt_6426.pdf
Luận văn liên quan