Tiểu luận Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị

Những biện pháp cứng rắn và hợp tình hợp lý trên đây nhằm đạt mục đích giữ vững chủ quyền quốc gia về tiền tệ. Đồng ngoại tệ mạnh nằm trong tay những phần tử bất chính có thể gây ra những hậu quả khó lường về an ninh chính trị, kinh tế và văn hoá, xã hội. Trong lịch sử cận đại, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được vấn đề này đối với tiền Quan Kim, Quốc tệ, tiền Đông Dương, tiền đô la Mỹ (thời kỳ mới thống nhất đất nước). Ngày nay, vấn đề ấy đặt ra chỉ khác trước về phương pháp thực hiện và điều kiện lịch sử, nhưng đó là một yêu cầu bức thiết và có khả năng hiện thực. 2. Một khi mọi giao dịch ngoại tệ đều thông qua quan hệ mua bán thì cần chấm dứt việc huy động vốn và cho vay vốn bằng ngoại tệ. Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đều được thực hiện thông qua ngân hàng. Đặt ra vấn đề này nhằm phòng ngừa những rủi ro bất khả kháng. Khi các doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ trung dài hạn không có khả năng tái tạo ngoạit tệ để trả nợ ngân hàng đúng hạn gốc và lãi, hoặc khi gặp sự cố người gửi ngoại tệ rồng rắn đòi rút tiền ra, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp ấy, NHNN không thể đóng vai trò là người cho vay cuối cùng để cứu hộ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác bởi vì NHNN không có quyền năng phát hành ngoại tệ.

pdf24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4566 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Tiểu luận Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị 2 LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các giao dịch kinh tế và phi kinh tế giữa các quốc gia và lãnh thổ ngày càng phát triển. Theo đó, các giao dịch tiền tệ quốc tế cũng sôi động và không ngừng phát triển. Mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình. Đồng tiền ấy tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Các chức năng của đồng tiền quốc gia như phương tiện trao đổi, thanh toán, cất trữ… chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia đó. Ra khỏi lãnh thổ quốc gia, đồng bản tệ phải thích nghi với những quy định và thông lệ quốc tế mới có tác dụng trao đổi. Để bảo vệ chủ quyền quốc gia và bảo vệ giá trị đồng tiền của mình trong giao lưu quốc tế, ngay từ những năm đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước Việt Nam đã ban hành chính sách quản lý ngoại hối phù hợp với đường lối phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cách mạng. Từ tháng 9-1945 đến tháng 4-1946, chính phủ ta đã có biện pháp kiên quyết nhưng mềm dẻo chống lại tỷ giá kiểu "ăn cướp" của đồng Quan kim, Quốc tệ do quân đội Tưởng Giới Thạch đem vào miền Băc Việt Nam trong lúc phía đồng minh uỷ quyền họ vào giải giáp quân đội Nhật. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ta đã có biện pháp đấu tranh tỷ giá, đấu tranh trận địa với tiền địch. Cuối cùng, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ta đã quét sạch tiền Đông Dương ở những vùng mới giải phóng, thống nhất lưu hành giấy bạc Ngân hàng Việt Nam trên một nửa đất nước. Sau khi miền Bắc được giải phóng Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (sau này là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã đặt quan hệ vay nợ, nhận viện trợ và quan hệ thanh toán với các nước XHCN rồi mở rộng quan hệ ngoại hối với nhiều nước khác trên thế giới. 3 Trong những năm đánh Mỹ, đánh nguỵ (1965-1975), ta đã có nhiều biện pháp "chế biến" các loại ngoại tệ do quốc tế viện trợ để chi viện cho Chính phủ cách mạng lâm thời. Cộng hoà miền Nam Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. Sau đại thắng mùa xuân năm 1974 ta đã quét sạch tiền nguỵ, cho lưu hành một đồng tiền thống nhất trong cả nước. Trong giai đoạn lịch sử ấy có công lao đóng góp của ngành ngân hàng nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói riêng. Ngành ngân hàng cùng với sự đổi mới chung của toàn đất nước, đã có những bước tiến đáng kể trong tổ chức và hoạt động, ngày càng thể hiện rõ vai trò đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế. Là người đại diện cho Nhà nước trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có những chính sách điều hành và quản lý các công cụ chính sách tiền tệ có hiệu quả. Đặc biệt là chính sách quản lý dự trữ ngoại hối. Bản tiểu luận với nhan đề "Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị" chỉ xin trình bầy giới hạn công tác quản lý ngoại hối trong thời gian từ năm 2001 trở lại đây. Với kiến thức còn nhiều hạn chế và kinh nghiệm thực tế còn nhiều thiếu sót, em mong thầy cô, các bạn quan tâm đóng góp, giúp đỡ để em hoàn thiện hơn những kiến thức này và có sự hiểu biết sâu rộng hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn đã giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình để em hoàn thành bài tiểu luận này. 4 Chương I LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI Khái niệm và vai trò của quản lý ngoại hối 1. Khái niệm Ngoại hối là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, ... giữa các quốc gia trên thế giới. Ngoại hối là những ngoại tệ (tiền nước ngoài) vàng tiêu chuẩn quốc tế,các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.Trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò,nó là phương tiện dự trữ của cải, phương tiện để mua, để thanh toán và hạch toán quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng thì bất cứ một quốc gia nào cũng không thể tự mình khép kín mọi hoạt động, cũng không thể phát triển đất nước một cách đơn độc,riêng lẻ đặc biệt giai đoạn hiện nay,khi nền kinh tế thị trường đang ngày một sôi động,luôn đòi hỏi sự hợp tác,liên minh giữa các quốc gia. Do vậy việc dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu kinh tế có ý nghĩa chiến lược quan trọng,có dự trữ ngoại hối cần thiết tức là nhà nước đã nắm được trong tay một công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Về nguồn gốc sâu xa, dự trữ ngoại hối chính là kết quả, là biểu hiện của sức mạnh của tiềm lực kinh tế quốc gia.Dự trữ ngoại hối để đảm bảo sự cân bằng khả năng thanh toán quốc tế,thoả mãn nhu cầu nhập khẩu phục vụ phất triển kinh tế và đời sống trong nước,mở rộng hoạt động đầu tư,hợp tác kinh tế với các nước khác phục vụ mục tiêu chính sách kinh tế mở. Quỹ dự trữ ngoại hối bao gồm: Ngoại tệ mạnh,vàng và kim loại quý,dự trữ quỹ tiền tệ quốc tế IMF,quyền rút vốn đặc biệt SDR và các tài sản tài chính có tính linh hoạt cao... 2. Vai trò của quản lý dự trữ ngoại hối 5 Dự trữ ngoại hối Nhà nước biểu hiện là tài sản nợ đối với nền kinh tế và là tài sản chung trên bảng cân đối tài sản của NHNN. Ở đó NHNN được giao sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để tiến hành mua bán trên thị trường ngoại hối nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Dự trữ ngoại hối được sử dụng nhằm tài trợ cho sự mất cân bằng cán cân thanh toán,hoặc gián tiếp tác động thông qua việc can thiệp trên thị trường ngoại hối giữ vai trò ngăn ngừa những biến động trong nguồn thu xuất khẩu,thanh toán nhập khẩu,cũng như chu chuyển quá lớn luồng vốn đối với một quốc gia. Có dự trữ ngoại hối là một cơ sở cho việc phát hành đảm bảo cho mối tương quan giữa tiền - hàng trong nước.Nhà nước có thể chủ động sử dụng ngoại hối như là một lực lượng để can thiệp,điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu,theo kế hoạch. Đối với những nước mà đồng tiền không được tự do chuyển đổi,dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu,theo kế hoạch. Đối với những nước mà đồng tiền không được tự do chuyển đổi,dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp thị trường nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái của đồng bán tệ. Dự trữ ngoại hối có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế nên được nhà nước tiến hành quản lý và NHNN là cơ quan được nhà nước giao cho thực hiện nhiệm vụ này.Điều đó thể hiện trong pháp lệnh NHNN năm 1990 (điều 30),luật NHNN năm 1997 (điều 38). Với tư cách là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ phát hành tiền,xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ,lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế, NHNN, đã tiến hành quản lý dự trữ ngoại hối,cụ thể là áp dụng các chính sách,biện pháp tác động vào quá trình thu nhập,xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định. 3. Mục đích quản lý ngoại hối 6 3.1.Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia Như đã nói ở trên,NHNN trực tiếp điều hành và quản lý dự trữ ngoại hối nhằm mục đích ngăn ngừa ngắn hạn quá lớn về tỷ giá,do hậu quả của một số biến động trên thị trường. Vì vậy mục đích của việc quản lý dự trữ ngoại hối là để đảm bảo cho một quốc gia luôn luôn trong trạng thái có thể thanh toán các khoản nợ đúng hạn và có thể giải quyết những dao động về tỷ gia ngoại hối trong ngắn hạn.Đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách tiền tệ, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết,nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền. 3.2.Bảo tồn dự trữ ngoại hối Nhà nước Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, NHNN phải quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước nhưng không chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn bảo đảm an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế .Vì thế NHNN cần phải mua, bán, chuyển đổi để phát triển, chống thất thoát,xói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của nhà nước, bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ. 3.3.Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện thu-chi của một nước với nước ngoài.Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu,lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn đến khả năng cung ứng về ngoại tệ cao hơn nhu cầu. Ngựơc lại , khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi, tăng lượng ngoại tệ chạy ra nước ngoài dẫn đến nhu cầu ngoại tệ cao hơn khả năng cung ứng. Vì thế,mục đích của quản lý dự trữ ngoại hối để đảm bảo cho một quốc gia luôn luôn trong trạng thái có thể thanh toán các khoản nợ đúng hạn và có thể giải quyết những giao động về tỷ giá ngoại hối trong ngắn hạn. 4. Cơ chế quản lý ngoại hối 4.1. Cơ chế tự do tỷ giá 7 Điều này có nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường,cân bằng ngoại hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước,do vậy tỷ giá-giá cả ngoại hối phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường.Tỷ giá thả nổi dẫn đến lãi suất,luồng vốn vào và ra hoàn toàn do thị trường chi phối. 4.2. Cơ chế quản lý tỷ giá 4 .2.1. Cơ chế nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn Theo cơ chế này nhà nước độc quyền ngoại thương và độc quyền ngoại hối. Nhà nước thực hiện các biện pháp hành chính áp đặt nhằm tập trung tất cả hoạt động ngoại hối vào tay mình . Tỷ giá do nhà nước quy định mà tất cả các giao dịch ngoại hối phải chấp hành, các tổ tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bị lỗ do tỷ giá thì sẽ được nhà nước cấp bù , ngược lại nếu lãi thì nộp cho nhà nước . Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế tập trung. 4.2.2 Cơ chế quản lý tỷ giá có điều tiết Cơ chế quản lý hoàn toàn, nhà nước có thể áp đặt khống chế được thị trường , ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài , chủ động khai thác được nguồn vốn bên trong . Tuy nhiên , trong nền kinh tế thị trường , cách quản lý này sẽ không phù hợp , cản trở và gây khó khăn cho nền kinh tế . Để khắc phục sự áp đặt ,nhà nước đã tiến hành điều tiết nhưng đã gắn với thị trường , nhà nước tiến hành kiểm soát một mức độ nhất định để nhằm phát huy tính tích cực của thị trường , hạn chế nhược điểm do thị trường gây ra , tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển và ổn định ,ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài. 5. Hoạt động ngoại hối của NHNN 5.1 Hoạt động mua bán ngoại hối NHNN tham gia vào hoạt động mua , bán ngoại hối với tư cách là người can thiệp , giám sát , điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua , bán cuối cùng .Thông qua việc mua bán, NHNN thực hiện giám sát và điều tiết thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ,đồng thời theo dõi diễn biến tỷ giá đồng bản tệ để chủ động quyết định hoặc phối hợp với các NHNN các nước khác củng cố sức mua 8 đồng tiền hay đồng tiền khác để đảm bảo trật tự trong quan hệ quốc tế có lợi cho nước mình. 5.1.1.Mua bán trên thị trường trong nước NHNN tiến hành mua,bán với các ngân hàng thương mại tại hội sở trung ương của các ngân hàng thương mại mà không trực tiếp mua- bán với các công ty kinh doang xuất nhập khẩu.Tỷ giá hối đoái do NHNN công bố. Ở đây NHNN sử dụng một phần dự trữ để bán cho các ngân hàng thương mại và mua ngoại tệ của các ngân hàng thương mại đưa vào dự trữ.Thông qua việc mua bán,NHNN thực hiện cung ứng tiền tệ hoặc rút bớt khỏi lưu thông,trên cơ sở đó ổn định tỷ giá hối đoái của đồng tiền bản tệ. Việc giao dịch,mua bán của NHNN với các ngân hàng thương mại trên thị trường hối đoái chủ yếu được thực hiện thông qua hệ thống điện thoại,telex hoặc hệ thống computer có nối mạng giữa NHNN với các ngân hàng thương mại. Ngoài ra NHNN cũng có thể hoạt động thông qua việc mua bán trực tiếp với khách hàng không phải là doang nghiệp như các cơ quan hành chính hoặc các tổ chức khác. 5.1.2. Mua bán trên thị trường quốc tế Với nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối NHNN thực hiện mua bán trên thị trường quốc tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối.NHNN phải tính toán gửi ngoại hối ở nước nào có lợi mà vẫn đảm bảo an toàn,nghiên cứu lãi suất thực tế và xu hướng tăng lên của lãi suất ngoại tệ để kinh doanh có lãi. Qua mua, bán ngoại hối có chênh lệch giá thì phần chênh lệch đó hình thành lợi nhuận của ngân hàng. NHNN thực hiện việc mua bán ngoại hối sẽ tác động trực tiếp vào tiền NHNN. Nghiệp vụ này ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối,ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Như vậy NHNN thông qua mua bán ngoại tệ có thể can thiệp nhằm đạt được tỷ giá mong muốn. 5.2. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN 9 NHNN thực hiện các hoạt động ngoại hối khác như: - Quản lý, điều hành thị trường ngoại hối,thị trường ngoại tệ liên ngân hàng,bằng cách đưa các quy chế gia nhập thành viên,quy chế hoạt động,quy định giới hạn tỷ giá mua bán ngoại tệ trên thị trường .... - Tham gia xây dựng các dự án pháp luật và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật về quản lý ngoại hối. NHNN được giao nhiệm vụ ban hàng các thông tư hướng dẫn cụ thể để phục vụ cho việc quản lý của mình được thống nhất. - Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối. Dựa vào luật pháp và điều kiện cụ thể trong từng thời gian, NHNN đưa ra các quy định cần thiết để cấp giấy phép cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân có hoạt động ngoại hối. - Kiểm tra giám sát việc xuất nhập khẩu ngoại hối của các tổ chức tín dụng. - Biên lập cán cân thanh toán. 10 Chương II THỰC TRẠNH HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21. Bước sang thế kỷ mới, quốc hội khoá X đã ra nghị quyết số 55/2001 xác định các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 2001 - 2005, bao gồm: - Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5% - Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/ năm - Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13,1%/ năm - Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14- 15%/ năm …………. Ngành ngân hàng, với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, nhằm phục vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. NHNN đã xây dựng các chỉ tiêu tiền tệ - tín dụng trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 như sau: - Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng phương tiện thanh toán 22%/năm - Tốc độ tăng vốn huy động 20- 25%/năm - Tốc độ tăng dư nợ cho vay nền kinh tế 22%/năm Hoạt động quản lý ngoại hối là một mặt họat động rất quan trọng của ngành Ngân hàng. Nó góp phần đắc lực trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính sách tiền tệ, giữ ổn định giá trị đối nội, đối ngoại của đồng tiền Việt Nam. Thông 11 qua công cụ lãi suất, công cụ tỉ giá…., nó thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào nước ta, khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu, góp phần làm thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế. A. Những mặt tích cực trong hoạt động quản lý ngoại hối: Trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối không ngừng được đổi mới để phù hợp với thông lệ quốc tế và thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong nửa đẩu kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, công tác quản lý ngoại hối đã thu được những kết quả đáng khích lệ: 1. Về chính sách lãi suất ngoại tệ Từ ngày 03/01/ 2001 đến ngày 25/6/2003, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã 13 lần hạ lãi suất chủ đạo từ 6,5% xuống 1%/năm. Lãi suất khu vực đồng Euro giảm từ 2,5% xuống còn 2%/năm. Lãi suất Sibor cũng giảm. Lãi suất quốc tế giảm đã ảnh hưởng lớn đến việc điều hành chính sách lãi xuất trong nước. Những tháng đầu năm 2001, lãi suất cho vay ngoại tệ của các NHTM Việt Nam đối với cho vay ngắn hạn là dựa trên cơ sở lãi suất Sibor 3 tháng + 1%/năm; đối với cho vay trung dài hạn là lãi suất Sibor 6 tháng + 2,5%/năm. Theo dõi diễn biến tình hình tiền tệ quốc tế, từ 01/06/2001, NHNN xoá bỏ cơ sở dựa vào lãi suất Sibor, cho phép các tổ chức tín dụng căn cứ vào lãi suất thị trường quốc tế và quan hệ cung cầu vốn ngoaị tệ trong nước để thoả thuận với khách vay ngoại tệ mức lãi suất cho vay. Xét về thực chất, động thái này là việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ - một bước ngoặt cơ bản của NHNN về chính sách lãi suất. Năm 2002, lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được điều chỉnh theo các mức: Không kỳ hạn: 1,2%/năm; 3 tháng: 1,4%/năm; 6 tháng : 1,6?%/năm; 12 tháng: 2,2%/năm (mức này xê dịch tuỳ theo từng ngân hàng). Lãi suất cho vay 12 ngoại tệ ngắn hạn của các NHTM phổ biến ở mức 3,5 - 4,5%/năm; trung dài hạn ở mức 4,5%/năm. Riêng đối với lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại các tổ chức tín dụng, NHNN vẫn tiếp tục khống chế ở mức thấp: không kỳ hạn 1%/năm, có kỳ hạn đến 6 tháng là 1,5%/năm, trên 6 tháng 2%/năm, nhằm hạn chế việc găm giữ USD trên tài khoản. Nói chung lãi suất ngoại tệ trong 2 năm 6 tháng vừa qua (từ 01/01/2001 - 30/6/2003) chịu ảnh hưởng của biến động lãi suất quốc tế và tỉ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) bằng ngoại tệ do NHNN quy định từng thời kỳ. Do tác động của lãi suất, tốc độ tăng huy động vốn nói chung của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2002 đạt 19,4%/năm, thấp hơn so với tốc độ tăng 25,1% của năm 2001. Nguyên nhân do lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp dẫn đến tốc độ tăng huy động vốn ngoại tệ chỉ đạt 5,6% (2001 là 25,98%). Trong khi đó, lãi suất tiền gửi VND duy trì ở mức cao (loại kỳ hạn 12 tháng từ 0,62 - 0,67%/tháng, tương đương 8,04%/năm) khiến nhiều người giữ tiết kiệm bằng ngoại tệ đã chuyển sang VND. Kết quả là, năm 2002, vốn huy động bằng VND tăng 29,22%, cao hơn so với tốc độ tăng 24,4% năm 2001. Tốc độ tăng trưởng tín dụng (dư nợ) năm 2002 đạt 22,2%. Trong đó tín dụng bằng ngoại tệ tăng mạnh 25,13% so với mức tăng 12,7% của năm 2001. Tín dụng ngoại tệ tăng chủ yếu do lãi suất cho vay ngoại tệ thấp (do ảnh hưởng của lãi suất quốc tế ). Thậm chí có doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ không đưa vào sản xuất, kinh doanh mà lại bán ra thị trường tự do lấy VND gửi vào ngân hàng hưởng lãi suất cao (có thời điểm lãi suất tiền gửi VND cao gấp 3 - 4 lần lãi suất tiền gửi ngoại tệ) 2. Về chính sách tỉ giá Biên độ tỉ giá được nới rộng từ  0,1% năm 2001 lên  0,25% năm 2002. Động thái này của NHNN đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các tổ chức tín dụng kinh doanh mua bán ngoại tệ. Sự điều hành tỉ giá theo quy luật cung cầu ngoại tệ có tính đến khả năng cạnh tranh tỉ giá giữa các ngoại tệ mạnh (USD, 13 Euro, Yên…) đã phản ánh ngày càng toàn diện hơn mối quan hệ giữa VND với ngoại tệ các nước có quan hệ thương mại, vay nợ, đầu tư với Việt Nam. Qua đó, tỉ giá VND không đơn thuần gắn với USD như trước mà gắn với cả "một rổ tiền tệ" nên giữ được thế tương đối ổn định. Cụ thể là, năm 2001 tỉ giá USD/VND tăng 3,8%, năm 2002 tăng 2,1%, 6 tháng đầu năm 2003 chỉ tăng 2,6%. 3. Về công cụ dự trữ bắt buộc Năm 2000 và những tháng đầu năm 2001, lãi suất tiền gửi ngoại tệ còn cao, vốn ngoại tệ chảy vào ngân hàng nhiều. Để ngăn chặn tình trạng đô la hoá tài sản nợ của các tổ chức tín dụng, từ tháng 5/2001, NHNN đã nâng tỉ lệ DTBB ngoại tệ từ 12% lên 15%. Do tri phí đầu vào cao, xu hướng tăng trưởng vốn huy động ngoại tệ giảm dần. Đến tháng 10/2001, do ảnh hưởng của lãi suất quốc tế, lãi suất ngoại tệ trong nước giảm mạnh, gây khó khăn cho tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng, NHNN đã điều chỉnh tỉ lệ DTBB từ 15% xuống 10%, sang 2002 xuống còn 8% và có chiều hướng còn tiếp tục giảm để phù hợp với chính sách nới lỏng tín dụng. 4. Về chính sách kết hối 3 năm trở lại đây, trong điều kiện cung cầu ngoại tệ không còn căng thẳng, tỉ giá USD/VND tương đối ổn định, Chính phủ đã từng bước giảm tỉ lệ kết hối đối với các tổ chức kinh tế có thu ngoại tệ từ 80% xuống 50%, 40%, 30% và hiện nay là 0%. Việc giảm tỉ lệ kết hối xuống 0% là bước đi quan trọng trong chủ chương tự do hoá giao dịch vãng lai, phù hợp với thông lệ quốc tế. Giảm tỉ lệ kết hối xuống 0% không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng ngoại tệ của ngân hàng cho các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu. Bởi vì 2 năm gần đây, lãi suất USD giảm xuống rất thấp, các doanh nghiệp giữ USD trên tài khoản chỉ được hưởng lãi suất 1%/năm. Trong khi đó tỉ giá USD/ VND tương đối ổn định, lãi suất tiền gửi VND cao hơn USD. 14 Điêù này cũng khuyến khích các doanh nghiệp có thu ngoại tệ bán hết số ngoại tệ thu được cho ngân hàng để lấy VND. Làm như vậy, các doanh nghiệp vừa có tiền chủ động chi trả chi phí hoạt động kinh doanh, vừa được hưởng lãi suất tiền gửi VND cao. Từ thực tiễn này có thể rút ra kết luận: Nếu tỉ giá hợp lý thì không cần chính sách kết hối; việc mua bán ngoại tệ không còn bị ràng buộc mà được tự do hoá, sẽ thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển mạnh mẽ và sôi động. 5. Về quy định trạng thái ngoại tệ Để hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, ngày 07/10/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quy định mới về trạng thái ngoại tệ (TTNT) của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ (trừ các ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động trên đất Việt Nam). Quy định mới không quy định trạng thái ngoại tệ riêng cho USD mà chỉ quy định giới hạn tổng TTNT dương và tổng TTNT âm vào cuối ngày làm việc của tất cả các loại ngoại tệ mà tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh không được vượt quá 30% vốn tự có của tổ chức tín dụng đó. Như vậy quy định mới về TTNT đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoaị hối linh hoạt hơn trong giới hạn về cơ cấu và tỉ trọng các loại ngoại tệ, nhất là đối với USD. 6. Về chính sách kiều hối Vài ba năm trở lại đây, Chính phủ và NHNN có những chính sách thông thoáng hơn nhằm khuyến khích kiều bào chuyển tiền về nước: Mức thu phí dịch vụ kiều hối ngày càng giảm. Nếu như trước đây, người nhận kiều hối bắt buộc phải bán toàn bộ ngoại tệ cho ngân hàng theo tỉ giá quy định, chỉ được nhận nội tệ, thì nay họ được nhận bằng ngoại tệ hoặc bán cho ngân hàng lấy tiền VN, hoặc gửi ngoại tệ theo thể thức tiết kiệm tại ngân hàng. NHNN đã mở rộng mạng lưới làm dịch vụ kiều hối tạo thuận lợi cho việc giao dịch của khách hàng. Năm 2000 số kiều hối gửi về qua hệ thống ngân hàng là 1.717 triệu USD , tương đương với 12,2% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2001, lượng kiều hối lên tới 15 1.820 triệu USD. Theo NHNN, 6 tháng đầu năm 2003, lượng kiều hối chuyển về nước qua hệ thống ngân hàng là 1.100 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái . Theo ước tính, trong năm nay lượng kiều hối sẽ vượt con số 2.400 triệu USD của năm 2002. Lượng kiều hối gửi về dồi dào đã đem lại nhiều lợi ích : Các NHTM có nguồn vốn ngoại tệ lớn đầu từ cho các dự án trọng điểm của Chính phủ; cho vay các doanh nghiệp đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu; góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam , góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. B. Những yếu kém, bất cập trong hoạt động quản lý ngoại hối: 1. Về điều hành chính sách lãi suất: Trong một thời gian dài giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ đã có một khoảng chênh lệch quá lớn, đã làm nảy sinh sự chuyển dịch vốn của khách hàng từ nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại. Ngân hàng bỏ ra nhiều công sức mà không được thu được lợi, lại tạo cơ hội và kẽ hở cho những người có nhiều tiền gửi và những doanh nghiệp khôn ngoan kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất. 2. Về điều hành chính sách tỉ giá Biên độ giao dịch tỉ giá quá hẹp trong một thời gian dài đã hạn chế doanh số mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Công cụ tỉ giá và công cụ lãi suất ngoại tệ có khi diễn biến ngược chiều: lãi suất ngoại tệ diễn ra theo xu hướng giảm trong khi tỉ giá giữa USD/VND vẫn tăng (tuy ở mức độ hẹp), đã gây ra tâm lý khách hàng găm giữ ngoại tệ hoặc tránh vay ngoại tệ về tỉ giá. Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (SWAP) tuy có tác dụng giải quyết tình trạng khan hiếm VND cho các tổ chức tín dụng, song lãi suất SWAP quá cao, các ngân hàng thương mại được cung cấp nghiệp vụ này kêu ca nhiều. Thị trường ngoại hối phát triển còn chậm, thanh toán bằng ngoại tệ tiền mặt còn phổ biến hối đoái chủ yếu là giao ngay (SPOT). Giao dịch kỳ hạn 16 (FORWARD) còn hạn chế. Giao dịch quyền chọn (OPTION) trước 30/6/2003 hầu như chưa có. 3. Về công cụ dự trữ bắt buộc: Thời điểm và thời hạn tăng giảm DTBB chưa thực sự phù hợp với diễn biến của thị trường ngoại tệ. 4. Về dịch vụ kiều hối Là một trong những nhân tố chủ yếu làm nghiêm trọng thêm tình trạng đô la hoá nền kinh tế. NHNN chưa có biện pháp hữu hiệu kiểm soát lượng ngoại tệ rất lớn đang trôi nổi ngoài thị trường. 5. Về nguồn nhân lực Trình độ và chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh ngoại hối nhất là ở cấp cớ sở đang còn hạn chế về quản lý điều hành, về tác nghiệp và về ngoại ngữ trước yêu cầu ngoại nhập. Chương III NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI 17 Nước ta đang trên lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động thương mại và giao lưu quốc tế trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi giữa tất cả các nước phát triển, đang phát triển và chậm phát triển.Đi đôi với phát triển thương mại và mở rộng giao lưu quốc tế, giao dịch của thị trường ngoại hối quốc tế cũng ngày càng sôi động và phát triển. Trong bối cảnh ấy, thị trường ngoại hối và công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam cũng phải đổi mới để không lạc lõng, tụt hậu trước xu thế chung của thời đại. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế. Trong 09 nhiệm vụ mà Nghị quyết đề ra nhiệm vụ thứ 4 chỉ rõ: "Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hoá, dịch vụ, lao động, khoa học công nghệ, vốn, bất động sản…, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính - ngân hàng" Dưới ánh sáng Nghị quyết của Bộ chính trị và căn cứ vào chương trình hành động của ngành ngân hàng trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, công tác quản lý ngoại hối cần tiếp tục đổi mới, tăng cường cả về chất và lượng, để góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trước mắt, xin kiến nghị những giải pháp khả thi sau đây: 1. Phát huy những kết quả đã đạt được, lấy đó làm nguồn động viên để khắc phục những mặt còn yếu kém, bất cập. Trong công tác quản lý ngoại hối hiện nay, vấn đề cấp thiết là nắm bắt và xử lý kịp thời những thông tin về diễn biến thị trường tiền tệ trong nước, ngoài nước. Trên cơ sở đó, đề ra những biện pháp điều hành nhanh chóng các công cụ lãi suất, tỉ giá; chấn chỉnh những quy định về tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ, về TTNT, về biên độ giao dịch mua bán ngoại tệ, hoán đổi tiền tệ phù hợp với thực tế, và sát với cung cầu thị trường, từng lúc, từng nơi. 2. Tích cực phát triển thêm những giao dịch ngoại hối tiên tiến như giao dịch kỳ hạn (FORWARD), giao dịch quyền chọn mua, chọn bán ngoại tệ (OPTION), 18 giao dịch hoán đổi tiền tệ (SWAP), hoán đổi lãi suất (SWAP RATES). Phổ biến sâu rộng và hướng dẫn khách hàng làm quen với những dịch vụ, sản phẩm mới của ngân hàng. Với chất lượng cao, chi phí hợp lý. Đi đôi với việc mở thêm và cải tiến các nghiệp vụ, dịch vụ mới về ngoại hối, một mặt cần nâng cao phong cách giao tiếp, thực sự tôn trọng khách hàng; mặt khác tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chính sách quản lý ngoại hối trong nội bộ ngành ngân hàng và ngoài xã hội. 3. Để tiến bước vững chắc trên lộ trình hội nhập và trong điều kiện cạnh tranh gay gắt với các tổ chức tín dụng trong nước và các ngân hàng nước ngoài, vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (nhất là ở các ngân hàng cấp cơ sở) về trình độ, năng lực quan lý điều hành, trình độ tác nghiệp, trình độ ngoại ngữ ở trong nước và nước ngoài cần được đặt ra một cách cấp thiết. Đi đôi với vấn đề đào tạo cán bộ, cần quan tâm phát triển mạng lưới, tăng cường cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ ngân hàng để giữ vững và mở rộng thị phần. * * * Trước yêu cầu không ngừng đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại, còn 2 vấn đề tồn tại rất bức xúc, khôn những liên quan đến chính sách tiền tệ mà còn có ảnh hưởng đến cả nền kinh tế, cần được cương quyết xử lý song phải rất thận trọng và khôn khéo. Đó là: 1. Cần đẩy lùi, tiến tới xoá bỏ tình trạng đô la hoá nền kinh tế bằng các giải pháp kết hợp cả mặt hành chính và mặt kinh tế nhằm đạt mục tiêu: Trên đất nước Việt Nam chỉ thanh toán bằng đồng tiền Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VIII). Hiện nay, hầu hết các chính sách về quản lý ngoại hối đã được đổi mới phù hợp với thông lệ quốc tế: tự do hoá lãi suất ngoại tệ, định tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu; kết hối ngoại tệ đã xoá bỏ; cơ chế dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi 19 ngoại tệ, cơ chế TTNT đã được điều chỉnh …tuy nhiên tình trạng đô la hoá vẫn nằm ngoài sự kiểm soát của NHNN. Nguyên nhân gây ra đô la hoá, cái lợi cái hại của đô la hoá đã được tranh luận, thảo luận nhiều trên báo chí và các cuộc hội thảo. Quốc hội đã chất vấn, Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã giải trình cặn kẽ vấn đề này. Song sự thực vẫn là sự thực. Một đồng tiền nước ngoài nghiễm nhiên được song song lưu hành với đồng bản tệ, ngày càng lấn át vị thế của đồng Việt Nam là điều không thể chấp nhận. Tinh thần nghị quyết trung ương 4 (khoá VIII) vẫn có giá trị chỉ đạo trong hiện tại. 1.1. Ngoại tệ mạnh là tài sản quý của quốc gia. Tất cả các nguồn ngoại tệ chảy vào Việt Nam phải tập trung thống nhất vào Nhà nước. Các luồng ngoại tệ chảy ra khỏi biên giới Việt Nam phải được ngân hàng cho phép theo luật định. Bởi vậy, vấn đề tiên quyết là Nhà nước cần phải xoá bỏ chế độ đa sở hữu ngoại tệ. 1.2. Nghiêm cấm các dịch vụ kiều hối không qua ngân hàng. Người thụ hưởng kiều hối không được lĩnh kiều hối bằng ngoại tệ tiền mặt và phải bán toàn bộ cho ngân hàng lấy tiền Việt Nam theo tỷ giá khi bán. Người thụ hưởng kiều hối (có giấy chứng nhận của ngân hàng trả kiều hối), khi có yêu cầu chuyển ngoại tệ ra nước ngoài được quyền mua ngoại tệ theo tỷ giá khi mua, rồi thực hiện chuyển tiền qua ngân hàng. 1.3. Các doanh nghiệp nước ngoài cần thực hiện trả lương người lao động Việt Nam bằng tiền Việt Nam. Những người đi công tác, thăm quan nước ngoài, khi về có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng. Khách nước ngoài đến Việt Nam, kiều bào về thăm quê hương phải đổi ngoại tệ lấy tiền Việt Nam tại các bàn đổi tiền để chi tiêu. Trước khi rời Việt Nam, được quyền đổi lại lấy ngoại tệ theo tỷ giá khi đổi. 1.4. Những ngoại tệ còn tàng trữ trong dân cư sẽ được đổi lấy tiền Việt theo tỷ giá chính thức trong một thời hạn nhất định. Sau thời hạn đó, mọi hành động tàng trữ, mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do bị nghiêm cấm. 20 Những biện pháp cứng rắn và hợp tình hợp lý trên đây nhằm đạt mục đích giữ vững chủ quyền quốc gia về tiền tệ. Đồng ngoại tệ mạnh nằm trong tay những phần tử bất chính có thể gây ra những hậu quả khó lường về an ninh chính trị, kinh tế và văn hoá, xã hội. Trong lịch sử cận đại, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được vấn đề này đối với tiền Quan Kim, Quốc tệ, tiền Đông Dương, tiền đô la Mỹ (thời kỳ mới thống nhất đất nước). Ngày nay, vấn đề ấy đặt ra chỉ khác trước về phương pháp thực hiện và điều kiện lịch sử, nhưng đó là một yêu cầu bức thiết và có khả năng hiện thực. 2. Một khi mọi giao dịch ngoại tệ đều thông qua quan hệ mua bán thì cần chấm dứt việc huy động vốn và cho vay vốn bằng ngoại tệ. Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đều được thực hiện thông qua ngân hàng. Đặt ra vấn đề này nhằm phòng ngừa những rủi ro bất khả kháng. Khi các doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ trung dài hạn không có khả năng tái tạo ngoạit tệ để trả nợ ngân hàng đúng hạn gốc và lãi, hoặc khi gặp sự cố người gửi ngoại tệ rồng rắn đòi rút tiền ra, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp ấy, NHNN không thể đóng vai trò là người cho vay cuối cùng để cứu hộ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác bởi vì NHNN không có quyền năng phát hành ngoại tệ. 21 KẾT LUẬN Quản lý và kinh doanh ngoại hối là một mảng hoạt động rất khó khăn nhưng rất quan trọng của ngành ngân hàng. Nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho đất nước, song nó cũng phải thường xuyên đối mặt với những rủi ro khó lường. Kinh doanh ngoại hối không phải chỉ vì lợi ích của riêng ngân hàng mà thông qua các nghiệp vụ, dịch vụ ngoại hối, nó có vai trò thúc đẩy các ngành khác liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại của Nhà nước. Trong 3 năm vừa qua, công tác quản lý và kinh doanh ngoại hối đã thu được những kết quả đáng nghi nhận, giữ được ổn định giá trị đối nội, đối ngoại của đồng tiền Việt Nam, góp phần phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Những thiếu sót, bất cập đang tồn tại là những khuyết điểm khó tránh trong quá trình hội nhập và phát triển. Như vậy hoạt động của ngân hàng nói chung, hoạt động ngoại hối nói riêng cần ra sức khắc phục những tồn tại, khó khăn, dũng cảm vượt lên chính mình để không bị tụt hậu trước những đổi mới của thời đại và cố gắng phấn đấu để VND sớm trở thành đồng tiền có khẳ năng chuyển đổi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 22 1. Giáo trình Ngân hàng Trung ương Học viện Ngân hàng 2. Thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ. Nhà xuất bản tài chính Hà Nội 1996 3. Tạp chí ngân hàng 4. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng 5. Thị trường tài chính tiền tệ 23 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ....... 2 1. Khái niệm ............................................................................................. 2 2. Vai trò của quản lý ngoại hối ................................................................ 3 3. Mục đích quản lý ngoại hối ................................................................. 4 3.1. Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia .................... 4 3.2. Bảo tồn dự trữ ngoại hối Nhà nước ............................................... 4 3.3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế ............................................. 4 4. Cơ chế quản lý tỷ giá ............................................................................ 5 4.1. Cơ chế tự do tỷ giá........................................................................ 5 4.2. Cơ chế quản lý tỷ giá ................................................................... 5 4.2.1. Cơ chế nhà nước thực hiện quản lý tỷ giá hoàn toàn .................. 5 4.2.2. Cơ chế quản lý tỷ giá có điều tiết .............................................. 5 5. Hoạt động ngoại hối của NHNN .......................................................... 6 5.1. Hoạt động mua bán ngoại hối ....................................................... 6 5.1.1. Mua bán trên thị trường trong nước ........................................... 6 5.1.2. Mua bán trên thị trường quốc tế ................................................. 7 5.2. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN ...................................... 7 Chương II Thực trạng hoạt động quản lý ngoại hối những năm đầu thế kỷ 21....................................................................... 9 A. Những mặt tích cực ........................................................................... 10 1. Về chính sách lãi suất ngoại tệ.............................................................. 10 2. Về chính sách tỉ giá .............................................................................. 11 3. Về công cụ dự trữ bắt buộc ................................................................... 12 4. Về chính sách kết hối ........................................................................... 12 5. Về quy định trạng thái ngoại tệ ............................................................. 13 6. Về chính sách kiều hối ......................................................................... 13 24 B. Những yếu kém bất cập ..................................................................... 14 1. Về điều hành chính sách lãi suất ........................................................... 14 2. Về điều hành chính sách tỷ giá ............................................................. 14 3. Về công cụ dự trữ bắt buộc ................................................................... 15 4. Về dịch vụ kiều hối .............................................................................. 15 5. Về nguồn nhân lực ............................................................................... 15 Chương III. Những giải pháp kiến nghị trong hoạt động quản lý ngoại hối ................................................................... 16 Kết luận ................................................................................................... 20 Tài liệu tham khảo .................................................................................... 21 Mục lục .................................................................................................... 22

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchinh_sach_quan_ly_ngoai_hoi_vn_thuc_trang_va_giai_phap_4481.pdf
Luận văn liên quan