Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, các quan điểm coi cá nhân và các công ty xuyên quốc
gia là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế mặc dù chưa được bàn nhiều, nhưng đã
được đề cập đến trong một số bài viết cụ thể. Tuy nhiên, để nghiên cứu vấn đề này,
cần phải xem xét mọi khía cạnh, mọi góc độ của quan điểm cho rằng cá nhân, các
công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia là chủ thể của Luật Quốc tế. Bởi vì đã là
chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế thì sẽ có quyền năng chủ thể. Quyền năng chủ
thể của tổ chức quốc tế không phải dựa trên cơ sở của “những thuộc tính tự nhiên”
như các loại chủ thể có chủ quyền. Mà nó dựa trên thực chất của quyền năng chủ thể
Luật Quốc tế, phát sinh và tồn tại trên cơ sở các văn bản pháp lý quốc tế thiết lập nên
tổ chức quốc tế đó. Do đó, một số tác giả vẫn không đồng tình với quan điểm coi các
thực thể này là chủ thể của Luật Quốc tế.
38 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3605 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an hệ quốc tế và thực hiện các chức năng chính trị của mình,
các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết được luật quốc tế hiện đại
thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành lập một quốc
gia dân tộc độc lập, có chủ quyền. Nói cách khác, các dân tộc đang đấu tranh giành độc
lập là chủ thể quá độ lên chủ thể cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, với tính
chất chủ thể như vậy, nên các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các quốc gia đều
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
13
là những chủ thể chủ yếu của luật quốc tế hiện đại và là những chủ thể bình đẳng với
nhau về mặt pháp lý.
Các điều kiện để dân tộc được coi là chủ thể của Luật Quốc tế:
Dân tộc đó phải đang bị quốc gia, dân tộc khác áp bức, bóc lột. Nghĩa là trên thực
tế dân tộc đó đang bị một dân tộc hay quốc gia khác đô hộ, chi phối, áp đặt mọi mặt về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của dân tộc mình. Đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của dân tộc này hoàn toàn bị lệ thuộc vào dân tộc, quốc gia đang nắm
quyền cai trị, bóc lột họ. Dân tộc bị bóc lột không có quyền và không thể thực hiện
được ý chí của mình một cách độc lập với các dân tộc hay quốc gia đô hộ mình. Ví dụ:
dân tộc Việt Nam bị cai trị bởi quốc gia Pháp.
Trên thực tế đang tồn tại một cuộc đấu tranh với mục đích giải phóng dân tộc,
giành quyền tự quyết và thành lập một quốc gia độc lập
Đã thành lập được cơ quan lãnh đạo phong trào, đại diện cho dân tộc đó trên
trường quốc tế. Nghĩa là cuộc đấu tranh của dân tộc phải có tổ chức chặt chẽ, thống
nhất thể hiện thông qua một cơ quan đại diện cho quyền lợi, ý chí của dân tộc đó trong
các quan hệ quốc tế, độc lập với quốc gia, dân tộc đang đô hộ họ. cơ quan lãnh đạo
phong trào sẽ vạch ra đường lối, chủ trương kháng chiến giải phóng dân tộc, thành lập
một quốc gia độc lập trong tương lai
2.1.2.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của dân tộc đang đấu tranh
giành quyền dân tộc tự quyết
Đặc trưng quyền năng chủ thể luật quốc tế của các dân tộc đang đấu tranh có
những điểm riêng biệt so với các chủ thể khác của Luật Quốc tế. Các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết phát sinh từ chủ
quyền dân tộc, được dân tộc đó thực hiện và bảo vệ. Xuất phát từ chủ quyền dân tộc và
nguyên tắc dân tộc tự quyết, các dân tộc đang đấu tranh nhằm thành lập một quốc gia
dân tộc độc lập có những quyền dân tộc cơ bản sau:
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
14
Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất
cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị
mình;
Được pháp luật quốc tế bảo vệ và bảo đảm trong phạm vi và mức độ nhất định
như việc Luật Quốc tế đang bảo vệ và bảo đảm cho quyền năng chủ thể như
những quốc gia độc lập khác. Được các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, các
tổ chức quốc tế...giúp đỡ;
Quyền được thiết lập những quan hệ với các chủ thể khác của LQT hiện đại;
Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên
chính phủ;
Được tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế và độc lập
trong quá trình thực thi luật quốc tế.
Cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại, đi đôi với các quyền quốc
tế cơ bản, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết cũng có
những nghĩa vụ quốc tế cơ bản. Đó là nghĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của các dân tộc khác, của các chủ thể khác
của luật quốc tế hiện đại
2.1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ
2.1.3.1. Khái niệm
Trong thời đại ngày nay, tổ chức quốc tế giữ vai trò rất quan trọng trong việc hợp tác
quốc tế, giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Tổ chức quốc tế là chủ thể của luật quốc tế được hiểu là tổ chức quốc tế liên chính phủ-
là tổ chức do các quốc gia thành lập lên trên cơ sở một điều ước quốc tế nhằm thực
hiện các quyền năng nhất định theo tôn chỉ, mục đích thành lập tổ chức đó, phù hợp
với pháp luật quốc tế hiện đại.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
15
Như vậy, khác với quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ
thể luật quốc tế không phải căn cứ vào thuộc tính tự nhiên vốn có là chủ quyền, mà do
sự thỏa thuận của các quốc gia thành viên. Phạm vi quyền năng chủ thể của các tổ chức
quốc tế liên quốc gia được xác định cụ thể trong điều lệ của chính tổ chức đó. Do đó,
số lượng các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế khác nhau sẽ khác nhau Điểm
khác biệt này thể hiện ở chỗ: Quốc gia có thể tham gia ký kết bất kỳ điều ước quốc tế
nào xuất phát từ lợi ích của chính mình. Còn tổ chức quốc tế không tự xác định được
phạm vi quyền và nghĩa vụ cho mình khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, mà tham
gia trong phạm vi được các thành viên trao quyền. Do đó, tổ chức quốc tế là chủ thể
phái sinh, chủ thể có quyền năng hạn chế (không đầy đủ) của luật quốc tế.
Ví dụ: WTO không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề
an ninh, quốc phòng...theo thỏa thuận của các thành viên, WTO chỉ tham gia các điều
ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực thương mại hành hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu
trí tuệ...
2.1.3.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính
phủ
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ thể Luật Quốc tế
không phải căn cứ vào “những thuộc tính tự nhiên” vốn có như quốc gia mà do thỏa
thuận của những quốc gia thành viên trao cho. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ xuất
hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX nhưng vấn đề quyền năng chủ thể luật quốc tế của
thực thể này chỉ được đặt ra trong lý luận và thực tiễn sinh hoạt quốc tế từ nửa đầu thế
kỷ XX. Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ dựa trên
điều kiện (hiến chương, quy chế…) của mỗi tổ chức, trong đó quy định rõ phạm vi
quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức này. Như vậy, các tổ chức quốc tế liên chính phủ
khác nhau thì sẽ có những phạm vi quyền năng chủ thể Luật Quốc tế không giống
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
16
nhau. Nhìn chung các tổ chức quốc tế liên chính phủ có các quyền quốc tế cơ bản sau
đây:
Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế;
Quyền được tiếp nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận các
quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên của tổ chức cử
đến;
Quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao;
Quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau;
Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp
quốc;
Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với nhau và
giữa thành viên với tổ chức quốc tế.
Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia ký
kết với các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế khác.
Ngoài các quyền cơ bản nêu trên, tổ chức quốc tế liên chính phủ có nghĩa vụ tôn
trọng các nguyên tắc của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của tổ chức quốc tế và các
chủ thể khác của luật quốc tế; thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một chủ thể luật quốc
tế.
2.1.4. Chủ thể đặc biệt
Ngoài các loại chủ thể trên thì Luật Quốc tế còn có 1 loại chủ thể đạc biệt khác, đó là
các thực thể có quy chế pháp lý – chính trị đặc biệt khác (các vùng lãnh thổ) như
Vatican, Đài Loan, Ma Cao, Hồng Kông.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm cho rằng Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế giới. Tuy
nhiên, trên thực tế Vatican không phải là một quốc gia độc lập theo đúng nghĩa. Nhìn
dưới góc độ các yếu tố cấu thành ta thấy: Tòa thánh Vatican có lãnh thổ xác dịnh với
diện tích rất nhỏ khoảng 0,4km2 và nằm trọn trong lãnh thổ của Italia, có dân cư sinh
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
17
sống khoảng 1000 người, có bộ máy điều hành, có khả năng tham gia một cách độc lập
vào các quan hệ pháp luật quốc tế nhất định (Tòa thánh Vatican đã tham gia một số
công ước quốc tế như: Công ước Viên 1961 về thiết lập quan hệ ngoại giao, tòa thánh
còn tham gia với tư cách quan sát viên của một số tổ chức quốc tế như Liên hợp
quốc...). Nhìn vào hình thức bên ngoài, Tòa thánh giống như một quốc gia tồn tại độc
lập, nhưng nếu xem xét sâu xa các yếu tố này, Vatican lại không phải một quốc gia, vì:
Về lãnh thổ mà Vatican đặt trụ sở thực chất thuộc về Italia, Vatican có được
lãnh thổ này là do một điều ước quốc tế được ký kết giữa Italia và Vatican.
Về dân cư, thực chất những người dân sống tại Vatican đều là công dân của rất
nhiều quốc gia khác nhau: Thụy Sỹ, Italia... họ chỉ được coi là dân cư của
Vatican khi họ phục vụ cho Giáo hoàng. Yếu tố dân cư không mang tính ổn
định, họ xuất hiện chủ phục vụ cho Giáo hoàng yếu mang tính thực hiện công
vụ với Vatican.
Về Chính phủ: Giáo hoàng của Vatican không phải là một thiết chế quyền lực
và Vatican không có các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Do đó, khi cần
để duy trì quyền lực nhà nước hay trật tự, Vatican cần phải có sự trợ giúp của
Italia. Chính Phủ này không giống Chính phủ khác trên thế giới.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, Vatican chỉ là một thiết chế mang tính tôn
giáo. Sở dĩ nó đựợc cho là chủ thể của Luật Quốc tế vì trong các giai đoạn lịch sử phát
triển của Luật Quốc tế, Vatican đóng vai trò quan trọng khi trở thành trung gian hòa
giải một số tranh chấp, bất hoà trong quan hệ quốc tế. Do đó, họ được phép tham gia
vào một số điều ước quốc tế nhất định
2.2. Quan điểm hiện đại
Theo quan điểm hiện đại, chủ thể của luật quốc tế ngoài 4 loại trên còn có thêm 3
loại nữa là cá nhân, pháp nhân (các công ty xuyên quốc gia), tổ chức phi chính phủ
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
18
2.2.1. Cá nhân
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, luật quốc tế, trong một thời gian dài, đã phủ
nhận cá nhân con người và chỉ quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến quốc gia.
Từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai tình thế đã thay đổi, Luật
quốc tế hiện đại gắn chặt với vấn đề nhân quyền. Hiến chương Liên hợp quốc xác định
một trong những mục đích chính của mình là tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Nhiều điều ước, quốc tế về quyền con người đã được ký kết. Thế nhưng điều đó có
đồng nghĩa với tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân con người hay không? Cá
nhân là chủ thể của Luật quốc tế là một vấn đề đang được tranh cãi chưa ngã ngũ.
Nhà luật học quốc tế người Anh A.Brownlee có những quan điểm trái ngược nhau về
vấn đề này. Một mặt ông cho rằng theo điều luật chung cá nhân không thể là chủ thể
của luật quốc tế được, nhưng trong một số lĩnh vực nhất định cá nhân được xem xét
như chủ thể của luật quốc tế; mặt khác theo ý kiến của Brownlee thì “thật là vô ích nếu
như xếp cá nhân vào “hàng ngũ” những chủ thể của luật quốc tế, bởi vì làm như vậy là
vô hình chung công nhận một số quyền của cá nhân mà trên thực tế không có, phủ
nhận tính tất yếu của sự khác biệt giữa cá nhân và các chủ thể khác trong luật quốc
tế”.
L.Oppenhame từ năm 1947 đã để ý rằng: “Mặc dù chủ thể chính của luật quốc tế là
quốc gia nhưng nhà nước có thể xem cá nhân như một chủ thể của các quyền và nghĩa
vụ quốc tế và trong khuôn khổ đó công nhận cá nhân là một chủ thể của luật quốc tế”.
Tiếp đó ông đã làm rõ ý kiến của mình bằng ví dụ: Những cá nhân làm nghề cướp biển
trước hết chịu trách nhiệm pháp lý theo những qui tắc của luật quốc tế, chứ không phải
nội luật của nhiều quốc gia khác nhau.
Quan điểm mới cho rằng cá nhân có thể là chủ thể của Luật Quốc tế vì các nguyên
nhân sau:
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
19
2.2.1.1. Trách nhiệm pháp lý
Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945 khẳng định cá nhân là chủ thể của trách nhiệm
pháp lý quốc tế. Theo Điều 6 thì kẻ lãnh đạo, chủ mưu, tòng phạm, tham gia vào việc
soạn thảo hay trực tiếp thực hiện kế hoạch, âm mưu chống hoà bình, chống loại người,
tội phạm chiến tranh phải chịu trách nhiệm về những hành động đó. Các công chức cao
cấp thậm chí là người đứng đầu các nhà nước cũng không thể được miễn truy tố trách
nhiệm pháp lý hay được giảm nhẹ mức độ hình phạt (Điều 8). Kẻ bị xét xử nếu hành
động theo lệnh của cấp trên hay của Chính phủ cũng không được miễn trách nhiệm
pháp lý.
Theo Công ước quốc tế 1968 về việc không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với những tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người, trong trường
hợp các tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người, không phụ thuộc vào việc
các tội phạm đó diễn ra vào thời bình hay thời chiến, không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm.
Theo Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948, những cá
nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm mưu, kích động và những ý
định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt mà không phụ thuộc vào việc kẻ đó là
lãnh đạo một quốc gia hay tư nhân. Tội phạm diệt chủng bị xử bởi toà án quốc gia bị
diệt chủng hoặc Toà án hình sự quốc tế. Toà do các nước thành viên tham gia Công
ước hoặc Liên hợp quốc lập ra.
2.2.1.2. Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên toà án quốc tế
Theo Điều 25 của Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người 1950 bất kỳ cá
nhân nào đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội đồng Châu Âu về quyền con người.
Đơn cần phải đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục về việc vi phạm nhân quyền
đối với người làm đơn do Nhà nước tham gia Công ước gây ra. Đơn được lưu trữ tại
Ban thư ký của Hội đồng Châu Âu và được xem xét chỉ sau khi mọi biện pháp, phương
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
20
tiện pháp lý đã được áp dụng trong nước theo khuôn khổ của luật quốc tế nhưng không
có tác dụng, trong thời hạn sáu tháng kể từ khi các cơ quan pháp lý trong nước có
quyết định cuối cùng về vụ việc này.
Theo Điều 190 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 cá nhân có quyền
được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án
quốc tế về biển.
Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên các toà án quốc tế cũng được công nhận ở
nhiều tài liệu khác của luật quốc tế.
2.2.1.3. Vị thế pháp lý (status) của một số nhóm cá nhân trong luật
quốc tế
Theo Công ước về vị thế của người tị nạn 1951, vị thế pháp lý của người dân bị nạn
được xác định bởi pháp luật của nước mà họ đang sống. Công ước quy định cho người
tị nạn có những quyền như quyền lao động theo hợp đồng, quyền lựa chọn nghề
nghiệp, quyền tự do di chuyển…
Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của các kiều dân và thành viên trong gia đình họ
1990 tuyên bố: Mỗi kiều dân lao động và thành viên trong gia đình có quyền được
công nhận là chủ thể pháp lý, trước hết là những chủ thể pháp lý quốc tế. Theo Điều 35
của Công ước thì Nhà nước không được cản trở sự di dân quốc tế của nhân dân lao
động và các thành viên trong gia đình họ. Luật quốc tế cũng được xác định vị thế pháp
lý quốc tế của người phụ nữ có chồng, của trẻ em và nhiều nhóm cá nhân khác.
Qua những chứng cứ và ví dụ trên đây chúng ta có thể tạm cho rằng Nhà nước trong
một số lĩnh vực (mặc dù không nhiều lắm) đã tạo cho cá nhân một số đặc thù của tính
chủ thể pháp lý quốc tế. Phạm vi của tính chủ thể pháp lý đó ngày càng được mở rộng
hơn bởi vì mỗi thời đại lịch sử lại sản sinh ra những chủ thể mới của luật quốc tế.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
21
2.2.2. pháp nhân - Công ty xuyên Quốc gia
2.2.2.1. Khái niệm
Công ty Xuyên quốc gia là một trong những chủ thể phi quốc gia quan trọng nhất.
Đó là những tổ chức kinh doanh có quyền sở hữu hoặc hoạt động kinh doanh diễn ra
trên địa bàn nhiều quốc gia. Trong kinh tế, thường có sự phân biệt giữa Công ty Quốc
tế (International Corporation) với Công ty Đa quốc gia (Multunational Corporation)
và Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation). Trong đó, Công ty Quốc tế
là công ty có sự quốc tế hoá thị trường, tức là hoạt động ở cả thị trường nội địa lẫn thị
trường nước ngoài. Công ty Đa quốc gia là công ty có sự quốc tế hóa nguồn vốn, tức là
có chủ đầu tư thuộc các quốc tịch khác nhau. Công ty xuyên quốc gia là công ty có sự
quốc tế hoá hoạt động kinh doanh nhưng chủ đầu tư thường thuộc một quốc tịch.
Nhìn chung, các cách phân loại nói trên không được sử dụng phổ biến trong
nghiên cứu Quan hệ quốc tế. Đối với Quan hệ quốc tế, một sự xếp hạng theo quy mô
địa lý và doanh số, sự phân biệt quốc tịch của công ty mẹ hay mức độ ảnh hưởng trong
Quan hệ quốc tế thường có ý nghĩa nhiều hơn sự phân loại bởi những tiêu chí trên giúp
đánh giá được khả năng tương tác và vai trò của chúng trong Quan hệ quốc tế. Tuy
nhiên, trong bài này, xuất phát từ góc độ có ảnh hưởng xuyên quốc gia trong Quan hệ
quốc tế, thuật ngữ Công ty xuyên quốc gia được sử dụng chung để chỉ tất cả các công
ty hoạt động trên quy mô quốc tế, tức là bao gồm cả ba loại nói trên
2.2.2.2. Vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của Công ty xuyên quốc gia.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng lẫn chất, vai trò to lớn đối với sự phát triển
kinh tế cùng với các tác động ngày càng tăng trong Quan hệ quốc tế đang đem lại cho
Công ty xuyên quốc gia khả năng của một chủ thể Quan hệ quốc tế. Điều này được thể
hiện trên 4 tiêu chí của chủ thể Quan hệ quốc tế là tham gia, mục đích, năng lực và ảnh
hưởng.
Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian, Công ty xuyên quốc gia
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
22
bắt đầu ghi dấu ấn lớn trong Quan hệ quốc tế với việc vươn ra thị trường nước ngoài từ
nửa cuối thế kỷ XIX, phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Về mặt
không gian, ngày nay, các Công ty xuyên quốc gia đã “phủ sóng” hầu như khắp mọi
quốc gia trên thế giới. Thậm chí, nhiều Công ty xuyên quốc gia có tầm hoạt động trên
quy mô toàn cầu. Về kênh quan hệ, các Công ty xuyên quốc gia tham gia vào Quan
hệ quốc tế
không chỉ qua quan hệ giữa Công ty xuyên quốc gia với quốc gia khác, giữa Công
ty xuyên quốc gia với công ty khác mà còn trong nội bộ công ty qua quan hệ giữa trụ
sở với các chi nhánh của mình ở nước ngoài. Về hình thức quan hệ, đó là sự phân công
lao động quốc tế, đầu tư nước ngoài, thương mại xuyên quốc gia, giao dịch tài chính
quốc tế, chuyển giao công nghệ, thu hút lao động nước ngoài,… Về lĩnh vực tham gia,
hoạt động của Công ty xuyên quốc gia không chỉ diễn ra trong mọi ngành kinh tế lớn
mà còn đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên cạnh đó, sự tham gia của Công
ty xuyên quốc gia trong chính trị - lĩnh vực quan trọng trong Quan hệ quốc tế - là rất
đáng kể như đã trình bày trong phần trên. Ngoài ra, Công ty xuyên quốc gia còn hiện
diện khá lớn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều lĩnh vực khác nhau của
Quan hệ quốc tế như khoa học, văn hoá, xã hội,…. Không chỉ về bề rộng, mức độ tham
gia Quan hệ quốc tế của các Công ty xuyên quốc gia cũng rất sâu sắc, đặc biệt trong
kinh tế. Điều này tạo khả năng cho Công ty xuyên quốc gia tham gia sâu hơn nữa vào
đời sống kinh tế, chính trị và xã hội quốc tế.
Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích, tất cả các Công ty xuyên quốc gia đều có mục
đích lợi nhuận. Lợi nhuận chính là mục đích cơ bản, bao trùm và xuyên suốt của các
Công ty xuyên quốc gia và được phản ánh trong điều lệ, trong tổ chức và mọi hoạt
động kinh doanh. Không có mục đích lợi nhuận, không phải là Công ty xuyên quốc
gia. Trên phương diện Quan hệ quốc tế, mục đích này là động lực chính hướng hoạt
động của Công ty xuyên quốc gia ra bên ngoài nhằm khai thác hơn nữa lợi nhuận trên
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
23
thị trường quốc tế. Trước kia, mục đích lợi nhuận đã khiến Công ty xuyên quốc gia
góp phần đưa quan hệ bóc lột, sự nô dịch thực dân và sự can thiệp chính trị vào Quan
hệ quốc tế. Ngày nay, mục đích lợi nhuận vẫn tiếp tục quy định cố gắng mở rộng thị
trường, tăng cường hoạt động và phát triển các hình thức tác động khác nhau của
chúng trong Quan hệ quốc tế. Thông qua quá trình kinh doanh quốc tế, các Công ty
xuyên quốc gia có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế các nước như
đầu tư vốn, kích thích xuất khẩu, mở rộng sản xuất, cải tổ cơ cấu, chuyển giao công
nghệ, phát triển kỹ năng quản lý, tạo việc làm,… Các tác dụng tích cực đó đã khiến
mục đích lợi nhuận của Công ty xuyên quốc gia dễ hoà hợp hơn với mục đích phát
triển của các nước. Đồng thời, việc giảm thiểu sự can thiệp chính trị thô bạo như trước
kia cũng góp phần làm giảm mâu thuẫn với mục đích an ninh chính trị của các nước
đang phát triển. Và từ đó, sự nghi ngại, chống đối Công ty xuyên quốc gia ở các nước
này cũng giảm theo. Đó chính là cơ hội cho Công ty xuyên quốc gia mở rộng hoạt
động ra khắp thế giới để thực hiện mục đích lợi nhuận.
Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực, các Công ty xuyên quốc gia có nguồn tài lực và
nhân lực riêng từ các chủ sở hữu và những người tham gia khác. Nguồn tài chính của
chúng rất lớn và nguồn nhân lực của chúng cũng dồi dào. Thậm chí, có những Công
ty xuyên quốc gia có số tài sản vượt xa GDP của nhiều nước phát triển. Đó là chưa kể
xu hướng M&A đang tạo ra những Công ty xuyên quốc gia khổng lồ trong nền kinh
tế quốc tế. Các Công ty xuyên quốc gia được luật pháp chính quốc cũng như nước sở
tại trao cho quyền tự chủ và những thẩm quyền riêng trong hoạt động kinh doanh. Luật
pháp của chính quốc thì rộng rãi, luật pháp nước sở tại thì khuyến khích, luật pháp
quốc tế thì còn thiếu và phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển vốn lại là chính quốc
nên càng tạo điều kiện cho sự tự trị của Công ty xuyên quốc gia. Cơ sở tài chính,
nguồn nhân lực và những thẩm quyền như vậy đem lại cho các Công ty xuyên quốc
gia khả năng độc lập trong quyết định và tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Công ty
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
24
xuyên quốc gia tự quyết định thị trường, mặt hàng, đối tác, tổ chức, nhân lực, chính
sách và biện pháp kinh doanh của nó ở bất kỳ nước nào mà không chịu sự áp chế của
ai, miễn là phù hợp với luật pháp. Sự độc lập và tự chủ của Công ty xuyên quốc gia
còn được thể hiện qua khả năng tác động lên quốc gia và can thiệp vào một số khu vực
thuộc thẩm quyền quốc gia. Hiện nay, cho dù vẫn phải chịu sự điều chỉnh nhất định
của quốc gia, năng lực này của Công ty xuyên quốc gia vẫn đang được củng cố nhờ xu
hướng tự do hoá thương mại, sự chào đón của các quốc gia nhận đầu tư, sự phát triển
năng lực của bản thân các Công ty xuyên quốc gia và cả xu hướng tăng cường hợp tác
giữa chúng.
Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong Quan hệ quốc tế, Công ty xuyên quốc gia
có được vị trí khá lớn trong Quan hệ quốc tế không chỉ nhờ thực lực to lớn và khả năng
kiến tạo các quan hệ xuyên quốc gia. Ảnh hưởng này còn được quy định bởi nhu cầu
phát triển ngày càng tăng của mọi quốc gia trên thế giới. Nhu cầu phát triển này đã
đem lại vị thế quan trọng cho Công ty xuyên quốc gia trong chính sách đối ngoại của
các quốc gia. Hơn nữa, các Công ty xuyên quốc gia chủ yếu xuất phát từ các trung tâm
chính trị và kinh tế lớn của thế giới như Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhờ sự hậu
thuẫn của các thế lực này, ảnh hưởng kinh tế và tiếng nói chính trị của Công ty xuyên
quốc gia trong Quan hệ quốc tế được tăng lên đáng kể. Đáng chú ý, sau Chiến tranh
Lạnh, ảnh hưởng của Công ty xuyên quốc gia trong Quan hệ quốc tế có chiều hướng
tăng lên. Nếu sự nổi lên của yếu tố kinh tế trong Quan hệ quốc tế đem lại vị thế
quốc tế cao hơn cho Công ty xuyên quốc gia, thì xu thế thống nhất của thị trường thế
giới đem lại ảnh hưởng toàn cầu cho chúng. Trong khi đó, do khả năng chi phối chính
trị của kinh tế ngày một lớn nên khả năng tác động tới quốc gia và Quan hệ quốc tế của
Công ty xuyên quốc gia cũng rất đáng kể. Nhìn chung, Công ty xuyên quốc gia vẫn có
khả năng tác động lên quốc gia, kể cả chính quốc lẫn nước sở tại, buộc chúng thay đổi
hay điều chỉnh hành vi đối nội và đối ngoại.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
25
2.2.3. Các tổ chức phi chính phủ
2.2.3.1. Khái niệm
Các tổ chức phi chính phủ, viết tắt tiếng Anh là NGO (Non governmental
Organizations) là từ dùng để chỉ chung cho các tổ chức đứng ngoài chính phủ, hoạt
động tự nguyện, phi lợi nhuận, song song và bổ trợ cho các chương trình kinh tế, xã
hội của nhà nước. Ở một số nước, khái niệm này được mở rộng hơn, có thể là sự pha
trộn giữa tính tự nguyện và tính thương mại. Các nước trên thế giới ngày nay đều có
nhiều tổ chức phi chính phủ, chủ yếu hoạt động nội quốc. Số các tổ chức phi chính phủ
quốc tế trên thế giới có khoảng vài chục ngàn.
Hiện nay có 3 loại hình tổ chức NGO phổ biến là:
(1) Tổ chức phi chính phủ mang tính quốc gia (NNGO), chiếm đa số tuyệt đối,
là tổ chức mà các thành viên có cùng một quốc tịch, hoat động trong phạm vi một
nước, chủ yếu phục vụ cộng đồng. Tuy nhiên, hiện nay đã có một số NNGO hoạt động
ra ngoài phạm vi lãnh thổ một quốc gia;
(2) Các NGO mang tính quốc tế: chiếm số lượng ít hơn nhiều, là tổ chức có đa
quốc tịch các thành viên, hoạt động rộng khắp trên thế giới và chịu sự điều chỉnh của
pháp luật nước sở tại nơi nó hợp tác;
(3)Tổ chức NGO mang tính chất chính phủ (GNGO), mặc dầu có tính tự
nguyện, phi lợi nhuận nhưng lại do Chính phủ lập ra hoặc dựa hoàn toàn vào ngân sách
chính phủ.
2.2.3.2. Vai trò của tổ chức phi chính phủ trong quan hệ quốc tế
Ngày nay, tiếng nói của các tổ chức phi chính phủ đối với các vấn đề thuộc mối
quan tâm của cộng đồng quốc tế càng được các nước và các tổ chức quốc tế lớn (như
Liên Hiệp quốc) quan tâm. Hàng năm, Ngân hàng thế giới (WB) đều tổ chức các hội
nghị tư vấn với các tổ chức phi chính phủ. Còn với Liện Hiệp quốc, Theo Điều 71 Hiến
chương Liên Hiệp quốc, Hội đồng Kinh tế và Xã hội có thể ký kết các hiệp ước phù
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
26
hợp để tư vấn cho các tổ chức phi chính phủ có liên hệ với các vấn đề thuộc thẩm
quyền của mình. Các hiệp ước đó có thể được ký kết với các tổ chức quốc tế và cả các
tổ chức quốc gia, nếu thích hợp, sau khi đã tham vấn Thành viên hữu quan của Liên
Hiệp Quốc. Như vậy, ở phương diện nào đó Liên Hiệp quốc đã có quan hệ cũng như đã
tác động đến hoạt động của các tổ chức này thông qua các hiệp ước. Các tổ chức phi
chính phủ càng ngày càng có nhiều tiếng nói trong các vấn đề thuộc mối quan tâm
chung của cộng đồng quốc tế. Khối lượng viện trợ cho một dự án của các tổ chức NGO
thường nhỏ (vài trăm đến vài nghìn đô la), trong thời gian ngắn (1-2 năm), nhưng
thường sát với nhu cầu của cộng đồng, và phù hợp với năng lực quản lý nên được đánh
giá là hiệu quả hơn viện trợ song phương, mặc dầu chi phí hành chính cho các dự án
này tương đối cao. Nếu trước đây, các tổ chức NGO tập trung vào viện trợ khẩn cấp,
viện trợ nhân đạo thì nay đang chuyển hướng sang viện trợ phục vụ phát triển. Các
NGO đã đóng góp tích cực trong việc góp phần hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hoiọ,
nâng cao năng lực đối tác ở các nước, các cộng đồng hưởng lợi từ các chương trình, dự
án của họ. Các NGO cũng đóng góp vào việc tăng cường hiểu biết của quốc tế đối với
đất nước và con người quốc gia thụ hưởng và ngược lại, góp phần vào việc xây dựng
một thế giới hoà bình, ổn định và phát triển.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
27
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CÁC QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA
LUẬT QUỐC TẾ
3.1. Ưu và nhược điểm của quan điểm truyền thống
3.1.1. Ưu điểm
Theo quan điểm truyền thống thì luật quốc tế có 4 loại chủ thể sau đây:
- Các quốc gia có độc lập, chủ quyền
- Các tổ chức quốc tế liên chính phủ
- Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết
- Các thực thể có quy chế pháp lý – chính trị đặc biệt khác (các vùng lãnh thổ)
Các chủ thể của Luật Quốc tế có một địa vị pháp lí ngang bằng nhau trong các Điều
ước Quốc tế song phương hay đa phương mà họ kí kết hay tham gia do đó khi thực hiện
các Điều ước này họ ý thức được nghĩa vụ và quyền lợi của mình.
Đây là quan điểm chính thống của các nước XHCN trong đó có Việt Nam, nó được
đánh giá khách quan và chính xác dựa trên các tiêu chí mà luật quốc tế yêu cầu đối với
một chủ thể luật quốc tế.
Các cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ không được các quốc gia này
nhìn nhận là một chủ thể của luật quốc tế bởi lẽ :
- Các chủ thể này không tham gia vào những quan hệ pháp luật Quốc tế một cách độc
lập mà thường đóng vai trò thực hiện các điều ước quốc tế do quốc gia của các cá nhân,
các công ty xuyên chính phủ đó tham gia kí kết.
- Các chủ thể này chưa có đủ khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do
hành vi của mình gây ra, chẳng hạn, khi một cá nhân, pháp nhân thực hiên một hành vi
xâm phạm tới các quan hệ pháp luật quốc tế thì chỉ phải chịu hình phạt nằm trong các
quy định pháp luật của các quốc gia sở tại, mà không phải chịu các chế tài từ các quy
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
28
định của luật quốc tế, trách nhiệm pháp lí của các vi phạm này thường được giải quyết
với danh nghĩa của quốc gia (trừ trường hợp đối với những tội phạm chiến tranh và tội
phạm chống loài người).
3.1.2. Nhược điểm
Xã hội luôn vận động phát triển, đang thay đổi từng ngày mà quan điểm này là một
quan điểm “cứng nhắc” nên có thể nó không còn phù hợp cho xã hội ngày nay nữa. Vì
bên cạnh chủ thể quốc gia, sự nổi lên của các chủ thể phi quốc gia là một trong
những nhân tố tạo nên những thay đổi ấn tượng của quan hệ quốc tế thời hiện đại.
Công ty Xuyên quốc gia là một trong những chủ thể phi quốc gia quan trọng nhất với
những đặc điểm như tính cá nhân, tính quốc tế, mức độ thể chế, quan hệ với quốc gia,
có sự gắn bó đáng kể với chính trị. Sự chi phối lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế, mục
đích lợi nhuận quá lớn của các công ty xuyên quốc gia đã quy định điều này. Không
kể quá khứ gắn với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, sự can thiệp của công ty
xuyên quốc gia vào công việc nội bộ nước khác là hiện tượng không hề hiếm trong
trong thời hiện đại. Hiện nay, các phương pháp hoạt động chính trị của công ty xuyên
quốc gia thường là gây sức ép đối với nước sở tại và vận động hành lang ở chính
quốc để thay đổi c h í n h sách và luật pháp. Ngược lại, hoạt động của công ty xuyên
quốc gia cũng chịu ảnh hưởng khá lớn của môi trường chính trị chính quốc và nước
sở tại cũng như mối quan hệ chính trị giữa chúng.
Sự ảnh hưởng của công ty xuyên quốc gia còn biểu hiện ở chỗ nhiều khi công ty
xuyên quốc gia được sử dụng như công cụ chính sách đối ngoại như bao vây cấm vận
quốc gia nào đó. Các công ty xuyên quốc gia buộc phải tuân theo quyết định của
quốc gia dù điều đó trái với lợi ích của chúng.
Vậy tại sao chúng ta lại không công nhận công ty xuyên quốc gia nói riêng và các
chủ thể phi quốc gia nói chung là chủ thể của luật quốc tế?.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
29
3.2. Ưu và nhược điểm của quan điểm hiện đại
3.2.1. Ưu điểm
- Nếu công nhận cá nhân là chủ thể Luật Quốc tế đồng nghĩa sẽ thể chế những quy
định về quyền con người được ghi nhân trong Hiến chương Liên hợp quốc là tôn trọng
và bảo vệ quyền con người. Khi đó, cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp
lý quốc tế được nảy sinh từ điều Luật Quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu
quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các
Toà án Quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó. Và lẽ tất nhiên những viện dẫn vào
nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ của nước khác để cản trở sự điều tiết của Luật
Quốc tế đối với vấn đề quyền con người sẽ không còn tồn tại nhiều như hiện nay
- Pháp nhân tổ chức phi chính phủ có tác động đáng kể trong quan hệ quốc
tế. Và đó là tác động có tính hai mặt. Thông qua quá trình hoạt động và mạng lưới
quốc tế của mình, các pháp nhân, tổ chức phi chính phủ góp phần mở rộng quan hệ
quốc tế, phát triển quan hệ kinh tế, văn hóa quốc tế, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau,
thúc đẩy toàn cầu hoá, hình thành Luật lệ trong quan hệ quốc tế, chuyển tải các giá trị
xuyên biên giới và củng cố hệ thống quốc tế. Các đóng góp tích cực nhất của pháp
nhân, tổ chức phi chính phủ là phát triển kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho hợp tác và
hội nhập quốc tế, thúc đẩy xu hướng thống nhất của thế giới
3.2.2. Nhược điểm
Theo quan điểm của pháp luật hiên đại thì Tư pháp quốc tế là một bộ phận của luật
quốc tế hay nói cách khác là đang xem xét luật quốc tế theo nghĩa rộng bao hàm cả
công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế. Như đã nói, tùy thuộc vào quan điểm của mỗi
quốc gia cho nên nếu xem Tư pháp Quốc tế là bộ phận của Luật Quốc tế thì cá nhân
và pháp nhân cũng là chủ thể của Luật Quốc tế, và nó dẫn tới một số hậu quả sau:
Đối với việc công nhận cá nhân:
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
30
- Đứng ở góc độ quốc gia nếu công nhận cá nhân là chủ thể của luật quốc tế thì sẽ
phát sinh hiện tượng các nước khác dựa vào con bài nhân quyền để can thiệp vào công
việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền và sẽ lại vi phạm nguyên tắc chủ quyền
quốc gia.
Mặt khác việc cá nhân ngày càng tích cực tham gia vào hoạt động trên trường quốc
tế làm cho các hoạt động này phức tạp hơn, khó điều khiển hơn, như một số ý kiến cho
rằng “thật là vô ích nếu như xếp cá nhân vào hàng ngũ những chủ thể của Luật Quốc
tế, bởi vì làm như vậy là vô hình chung công nhận một số quyền của cá nhân mà trên
thực tế không có, phủ nhận tính tất yếu của sự khác biệt giữa cá nhân và các chủ thể
khác trong luật quốc tế”.2
Đối với việc công nhận pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ:
Khi công nhận pháp nhân, các tổ chức phi chính phủ là chủ thể của luật quốc tế
cũng gây ra những tác động tiêu cực đối với quan hệ quốc tế. Pháp nhân, tổ chức phi
chính phủ góp phần tạo ra hình thức thống trị và lệ thuộc mới trong quan hệ quốc tế.
Pháp nhân, tổ chức phi chính phủ nắm công cụ tài chính và công nghệ trong tay, chúng
sẽ tác động lên Luật lệ Quốc tế và chi phối sự phân công lao động quốc tế mới có lợi
cho chúng. Trong đó, các nước đang phát triển có nguy cơ ngày càng phụ thuộc vào
các nước công nghiệp phát triển khi trở thành nơi cung cấp nguyên liệu, lao động và
sản phẩm sơ chế giá rẻ cũng như nơi tiêu thụ hàng hoá giá cao của các pháp nhân. Các
pháp nhân, tổ chức phi chính phủ được cho rằng đang khoét sâu thêm mâu thuẫn trong
xã hội, khi duy trì sự bóc lột các nước đang phát triển, chèn ép nền sản xuất nội địa,
duy trì bất bình đẳng về cơ hội và thu nhập, trói buộc bằng nợ nần, chuyển giao công
nghệ lạc hậu, thủ phạm tàn phá tài nguyên và môi trường, gây ra đụng độ giá trị Văn
hoá Phương Tây và bản địa, tiếp tục sự can thiệp chính trị vào công việc nội bộ các
2 Brownlee A. Luật quốc tế. M. 1977. tr 117.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
31
nước dưới nhiều hình thức khác nhau… Nói chung, pháp nhân, các tổ chức phi chính
phủ vẫn tiếp tục gây lo ngại cho các nước đang phát triển và hoàn toàn có thể tạo ra
những vấn đề lớn trong quan hệ quốc tế bởi khả năng can thiệp chính trị và lũng đoạn
kinh tế của chúng. Vì thế, đã có những cố gắng trong quan hệ quốc tế nhằm ngăn chặn
các khả năng này3. Các tác động hai mặt của pháp nhân, tổ chức phi chính phủ đối với
quan hệ quốc tế là một thực tế. Và đó cũng là cơ sở để khẳng định thêm tư cách chủ thể
quan hệ quốc tế của pháp nhân, tổ chức phi chính phủ. Việc đánh giá vai trò chủ thể
QHQT của pháp nhân, tổ chức phi chính phủ không chỉ có ý nghĩa đối với việc nghiên
cứu QHQT, mà còn có thể là cần thiết đối với nước ta trong bối cảnh mở cửa thu hút
đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về chủ quyền quốc gia: Trên phương diện lý luận và thực tiễn, các cá nhân, pháp
nhân, và các tổ chức quốc tế phi chính phủ không thể có tư cách pháp lý ngang bằng và
bình đẳng với các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế, bởi lẽ các chủ thể này là
những chủ thể luôn chịu sự điều chỉnh của luật quốc gia, các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của các chủ thể này đều do quốc gia công nhận . Luật quốc gia do nhà nước ban hành
và bảo đảm thực hiện nên không có bất kì một nhà nước nào lại đặt các cá nhân, pháp
nhân , tổ chức ngang bằng và bình đẳng với các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Bởi vì
nếu đặt thể nhân và pháp nhân ngang bằng và bình đẳng với quốc gia sẽ dẫn đến sự
phủ nhận chủ quyền quốc gia – một thuộc tính chính trị pháp lý gắn liền và vốn có của
quốc gia. Sở dĩ có tình trang phủ nhận chủ quyền quốc gia bởi:
Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn đối với lãnh thổ của mình, chủ quyền đó
gọi là quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ. Đây chính là quyền tối cao của quốc
gia thực hiện trên phạm vi lãnh thổ của mình. Quyền tối cao này là thuộc tính không
thể tách rời của quốc gia tức là chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ xuất hiện kể từ
khi quốc gia được hình thành trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc cơ bản của luật quốc
tế. Quyền này được thể hiện như sau:
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
32
Về phương diện quyền lực được thể hiện: quyền lực của quốc gia được thực hiện
trên phạm vi lãnh thổ của chính quốc gia mình. Quyền lực này là quyền tối cao đối với
tất cả mọi người, mọi tổ chức hoạt động trên phạm vi lãnh thổ của Quốc gia.
Quyền lực tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ được thực hiện thông qua hoạt
động của hệ thống các cơ quan nhà nước bao gồm: cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp bao trùm lên tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội của Quốc gia.
Quyền lực này mang tính hòan tòan và riêng biệt không chia xẻ với bất cứ quốc
gia nào khác và là chủ quyền thiêng liêng của mỗi quốc gia, mọi dân cư và tài sản tồn
tại trên lãnh thổ quốc gia đều lệ thuộc vào quyền lực đó.
Các Quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền lực của quốc gia chủ nhà không
có quyền chia sẻ áp đặt quyền lực của mình lên lãnh thổ của quốc gia khác. Mọi hành
vi xâm phạm tới quyền tối cao của quốc gia sở tại đều bị coi là trái với pháp luật quốc
tế
Về phương diện vật chất được thể hiện: Chỉ có quốc gia là “người” có đầy đủ
quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt vấn đề lãnh thổ trên cơ sở lợi ích phù hợp
với sự lựa chọn tự do của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó.
Việc công nhận cá nhân, pháp nhân, tổ chức phi chính phủ là chủ thể của luât
quốc tế đã phủ nhận chủ quyền quốc gia trên cả hai phương diện quyền lực lẫn vật
chất
3.3. Đánh giá quan điểm cá nhân, pháp nhân là chủ thể của luật quốc tế
Ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới đều thừa nhận rằng bên cạnh hệ
thống pháp luật quốc gia thì còn tồn tại hệ thống pháp luật quốc tế và trên thực tế chỉ
tồn tại 2 hệ thống pháp luật này. Vì vậy mà Tư pháp Quốc tế nếu không thuộc Luật
quốc gia thì chỉ có thể thuộc Luật Quốc tế và ngược lại. Đây là vấn đề quan điểm
của mỗi nước, vì vậy có nhiều quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Theo nhóm
chúng tôi thì cần phải dựa trên những đánh giá toàn diện về tất cả các nội dung như
nguồn Luật, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, chủ thể, biện pháp chế
tài để có thể có một cái nhìn chính xác về vị trí của Tư pháp Quốc tế trong hệ thống
pháp luật.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
33
Như đã nói, tùy thuộc vào quan điểm của mỗi quốc gia cho nên nếu xem Tư
pháp Quốc tế là bộ phận của Luật Quốc tế thì cá nhân và pháp nhân cũng là chủ thể
của Luật Quốc tế. Trong phạm vi của đề tài đặt ra, chúng tôi không đi sâu về vấn đề
vị trí của Tư pháp Quốc tế nhưng chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây cũng là một
trong các lý do chủ yếu dẫn đến sự khác biệt về quan điểm của các quốc gia trên thế
giới về việc công nhận hay không công nhận cá nhân, pháp nhân là chủ thể của Luật
Quốc tế. Một số quốc gia cho rằng cá nhân, pháp nhân là chủ thể của Luật Quốc tế
vì quốc gia đó đang hiểu khái niệm Luật Quốc tế theo nghĩa rộng hơn, tức là bao
hàm cả Công và Tư pháp Quốc tế.
Để trả lời cho câu hỏi cá nhân, pháp nhân có phải là chủ thể của luật quốc tế hay
không chúng ta sẽ đi trả lời Tư pháp Quốc tế có là bộ phận của Luật Quốc tế không?
3.3.1. Về đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế
Đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế là những quan hệ phát sinh, tồn tại và phát
triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Đó là quan hệ chính trị, kinh tế,
thương mại, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng, văn hóa, giáo dục,... Trong đó,
quan hệ cơ bản và quan trọng nhất chi phối các mối quan hệ khác là quan hệ chính trị
được thiết lập và thực hiện giữa các chủ thể quốc tế với nhau . Thật vậy, xu hướng tất
yếu hiện nay đó là tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia với nhau trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội: từ kinh tế, văn hóa đến giáo dục, y tế, xây dựng cơ
sở hạ tầng... Nhưng ẩn sau hầu hết các quan hệ này đều ít nhiều có liên quan đến chính
trị. Trong khi đó, các quan hệ được thiết lập giữa các thể nhân, pháp nhân mang quốc
tịch của các quốc gia khác nhau trong các lĩnh vực dân sự, lao động, hôn nhân gia đình,
thương mại, đầu tư,... gọi chung là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngoài. Các quan hệ này thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
34
Vì thế có thể suy ra rằng các quan hệ xã hội mà cá nhân, pháp nhân tham gia với các
quan hệ mà Luật Quốc tế điều chỉnh là không thống nhất với nhau.
3.3.2. Về phương pháp điều chỉnh
Về phương pháp điều chỉnh thì Luật quốc tế điều chỉnh chủ yếu bằng phương pháp
thỏa thuận (thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế) giữa các chủ thể của Luật quốc
tế với nhau. Còn Tư pháp quốc tế điều chỉnh bằng hai phương pháp mang tính đặc thù
của ngành luật này đó là phương pháp thực chất - bằng cách áp dụng các quy phạm
thực chất, trong đó quy phạm này quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như
cách thức áp dụng các biện pháp chế tài theo quy định của một hệ thống pháp luật quốc
gia xác định và phương pháp xung đột – áp dụng các quy phạm xung đột để “dẫn
chiếu” đến hệ thống pháp luật quốc gia cần được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó.
Như vậy ở đây chúng ta cũng thấy rõ sự khác nhau giữa phương pháp điều chỉnh của
Luật quốc tế và phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
3.3.3. Về biện pháp chế tài
Biện pháp chế tài của Tư pháp quốc tế và Luật quốc tế cũng khác nhau về mặt bản
chất. Biện pháp chế tài của Tư pháp quốc tế là bồi thường thiệt hại mang tính tài sản,
pháp luật của các quốc gia được áp dụng để điều chỉnh. Còn chế tài trong Luật quốc tế
mang tính chính trị, phản đối về ngoại giao… tuy rằng có những trường hợp áp dụng
các chế tài mang tính tài sản như bồi thường thiệt hại do các hành vi vi phạm pháp luật
quốc tế gây thiệt hại của quốc gia gây nên cơ sở pháp lý của việc áp dụng các biện
pháp chế tài là do chính các chủ thể thỏa thuận trong các điều ước quốc tế.
3.3.4. Về chủ thể
Chúng ta thấy rằng: Chủ thể cơ bản của Luật quốc tế đó là các quốc gia có chủ
quyền. Còn chủ thể cơ bản của Tư pháp quốc tế đó là các thể nhân và pháp nhân của
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
35
các nước khác nhau, trong một số trường hợp quốc gia tham gia với tư cách là chủ thể
đặc biệt của Tư pháp quốc tế. Như vậy chủ thể của Luật quốc tế và Tư pháp quốc tế là
các “loại” chủ thể khác nhau về quyền lực và địa vị pháp lý khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật. Bởi lẽ, các thể nhân, pháp nhân và các tổ chức quốc tế phi chính phủ là
những chủ thể luôn chịu sự điều chỉnh và chi phối của pháp luật quốc gia. Trong khi
đó, luật quốc gia do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện nên không có bất kỳ một
Nhà nước, một quốc gia nào lại đặt các cá nhân, pháp nhân, tổ chức ngang bằng và
bình đẳng với quốc gia trong quan hệ quốc tế.
3.3.5. Nguồn luật điều chỉnh
Pháp luật quốc gia được coi và vẫn tiếp tục được coi là nguồn cơ bản của Tư pháp
quốc tế. Điều này đã được công nhận trong khoa học pháp lý của nhiều quốc gia trên
thế giới. Ở mỗi quốc gia khác nhau (ngoại trừ những trường hợp áp dụng các nguyên
tắc và quy phạm thực chất và xung đột thống nhất trong các điều ước quốc tế) trong
việc điều chỉnh các quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài tham gia
không sử dụng một loại quy phạm của Tư pháp quốc tế chung, mà mỗi quốc gia khác
nhau áp dụng các quy phạm khác nhau. Còn nguồn của luật quốc tế là điều ước quốc tế
và tập quán quốc tế.
Từ đó, ta nhận thấy rằng không thể đưa Tư pháp quốc tế vào hệ thống Luật quốc tế
được.
3.3.6. Quan điểm về chủ thể của luật quốc tế ở Việt Nam
Ở Việt Nam, chủ thể của Luật Quốc tế vẫn theo quan điểm truyền thống. Nghĩa là chỉ
công nhận những chủ thể sau là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế:
Các quốc gia.
Các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân chủ tự quyết.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
36
Tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Những chủ thể đặc biệt khác.
Tuy nhiên, do đặc thù của xu thế hợp tác và phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu
như hiện nay, vai trò của các cá nhân, các tập đoàn, các công ty đa quốc gia, công ty
xuyên quốc gia, các hiệp hội quốc tế phi chính phủ trong các quan hệ quốc tế ngày
càng gia tăng. Dẫn đến khả năng thừa nhận có sự tham gia của các thực thể này vào
một số lĩnh vực nhất định của quan hệ pháp luật quốc tế, ví dụ trong quan hệ kinh tế
quốc tế, nhân đạo, nhân quyền, môi trường quốc tế…
Trong bài viết “Cá nhân – chủ thể của Luật Quốc tế?” 4, tác giả Nguyễn Đức Lam đã
nói: chúng ta có thể tạm thời cho rằng cá nhân là một trong những chủ thể của Luật
Quốc tế. Cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ
điều Luật Quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền
con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các Toà án Quốc tế để đảm bảo
cho các quyền đó….
Trong bài viết: công ty xuyên quốc gia – chủ thể của quan hệ quốc tế trên tạp chí khoa
học, ĐHQG Hà Nội, ngày 28/07/2008, tác giả Hoàng Khắc Nam cũng cho rằng: Bên
cạnh chủ thể quốc gia, sự nổi lên của các chủ thể phi quốc gia là một trong những
nhân tố tạo nên những thay đổi ấn tượng của quan hệ quốc tế thời hiện đại. Công ty
Xuyên quốc gia là một trong những chủ thể phi quốc gia quan trọng nhất, đó là những
tổ chức kinh doanh có quyền sỡ hữu hoặc hoạt động kinh doanh diễn ra trên địa bàn
nhiều quốc gia. Từ những năm 1980, nhất là sau chiến tranh Lạnh, các công ty xuyên
quốc gia phát triển rất mạnh và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong quan hệ quốc
tế.(…) các công ty xuyên quốc gia có khả năng đóng vai trò của một chủ thể quan hệ
4 Nguồn:
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
37
quốc tế. Do có tính độc lập tương đối với quốc gia nên các công ty xuyên quốc gia có
thể được coi là chủ thể phi quốc gia…
Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, các quan điểm coi cá nhân và các công ty xuyên quốc
gia là chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế mặc dù chưa được bàn nhiều, nhưng đã
được đề cập đến trong một số bài viết cụ thể. Tuy nhiên, để nghiên cứu vấn đề này,
cần phải xem xét mọi khía cạnh, mọi góc độ của quan điểm cho rằng cá nhân, các
công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia là chủ thể của Luật Quốc tế. Bởi vì đã là
chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế thì sẽ có quyền năng chủ thể. Quyền năng chủ
thể của tổ chức quốc tế không phải dựa trên cơ sở của “những thuộc tính tự nhiên”
như các loại chủ thể có chủ quyền. Mà nó dựa trên thực chất của quyền năng chủ thể
Luật Quốc tế, phát sinh và tồn tại trên cơ sở các văn bản pháp lý quốc tế thiết lập nên
tổ chức quốc tế đó. Do đó, một số tác giả vẫn không đồng tình với quan điểm coi các
thực thể này là chủ thể của Luật Quốc tế.
Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và
các tổ chức phi chính phủ
38
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Sách:
1. Giáo trình luật quốc tế - Đại học luật Hà Nội.
2. sách chuyên khảo luật quốc tế - ThS. Ngô Hữu Phước.
Web side:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_lam_2019.pdf