Tiểu luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) trong thập niên đầu thế kỷ 21, những vấn đề đặt ra và giải pháp

Tiểu luận cao học học viện ngoại giao: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) trong thập niên đầu thế kỷ 21, những vấn đề đặt ra và giải pháp? Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể được coi là sự phản biện hung hồn nhất đối với lý thuyết “vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói”- một lý thuyết khẳng định rằng các nước nghèo sẽ không thể cải thiện được tình hình của mình do tiết kiệm và đầu tư luôn ở mức thấp. Đầu nước trực tiếp ngoài chính là nguồn bổ sung cho mức đầu tư thấp ở các nước nghèo, giúp các nước này đạt mức tăng trưởng tốt hơn, nhờ đó mà dần cải thiện được tích lũy và đầu tư của mình. Tuy nhiên, có một lượng vốn chỉ là điều kiện cần, mặc dù không thể thiếu cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Lượng vốn này cần phải được sử dụng hiệu quả và vấn đề này lại liên quan đến thể chế và mức độ bình đẳng trong việc đối xử với các nhà đầu tư. Lượng vốn này cũng cần phải được kiểm soát để không phá vỡ các cân đối vĩ mô, không gây ra những tác động xấu về mặt xã hội. Đây mới chính là điều kiện đủ để đảm bảo cho việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững của dòng vốn đầu tư nước ngoài. Là một nước với nền kinh tế đang chuyển đổi, với mục tiêu công nghiệp hóa thành công, tiến dần mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2020, Việt Nam rất cần sự hỗ trợ từ phía nguồn vốn FDI và cần hơn nữa là phải biết cách tận dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả nhất. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu nắm vững những lý thuyết cơ bản nhất về FDI, thực trạng FDI tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực này trong những năm gần đây là vấn đề rất có ý nghĩa và bổ ích đối với mỗi học viên chuyên ngành quan hệ quốc tế của Việt Nam hiện nay. Nội dung I. LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ FDI 1. Khái niệm 2. Phân loại FDI 3. Tác động của FDI II. THỰC TRẠNG FDI TẠI VIỆT NAM TRONG THẬP KỶ ĐẦU THẾ KỶ 21 1. Tổng quan về FDI tại Việt Nam trong thập kỷ đầu thế kỷ 21 2. Cơ cấu FDI tại Việt Nam a. Theo lĩnh vực đầu tư b. Cơ cấu FDI theo nước chủ đầu tư c.Cơ cấu FDI theo địa bàn d. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư 3. Đóng góp của FDI vào GDP của Việt Nam III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1.Nhóm các giải pháp chung a.Hoàn thiện các chính sách về FDI b.Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý; nâng cao năng lực thực thi của các cơ quan chức năng c. Tăng sự phối hợp và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý d. Tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan và cá nhân tham gia quản lý FDI e .Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính 2. Nhóm các giải pháp riêng a.Hoàn thiện bộ máy quản lý về FDI b.Xây dựng chính sách c.Hoàn thiện pháp luật về FDI d.Hoạt động xúc tiến đầu tư e. Đào tạo nhân lực phục vụ FDI f .Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ FDI KẾT LUẬN

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11220 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) trong thập niên đầu thế kỷ 21, những vấn đề đặt ra và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nội dung Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể được coi là sự phản biện hung hồn nhất đối với lý thuyết “vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói”- một lý thuyết khẳng định rằng các nước nghèo sẽ không thể cải thiện được tình hình của mình do tiết kiệm và đầu tư luôn ở mức thấp. Đầu nước trực tiếp ngoài chính là nguồn bổ sung cho mức đầu tư thấp ở các nước nghèo, giúp các nước này đạt mức tăng trưởng tốt hơn, nhờ đó mà dần cải thiện được tích lũy và đầu tư của mình. Tuy nhiên, có một lượng vốn chỉ là điều kiện cần, mặc dù không thể thiếu cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Lượng vốn này cần phải được sử dụng hiệu quả và vấn đề này lại liên quan đến thể chế và mức độ bình đẳng trong việc đối xử với các nhà đầu tư. Lượng vốn này cũng cần phải được kiểm soát để không phá vỡ các cân đối vĩ mô, không gây ra những tác động xấu về mặt xã hội. Đây mới chính là điều kiện đủ để đảm bảo cho việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững của dòng vốn đầu tư nước ngoài. Là một nước với nền kinh tế đang chuyển đổi, với mục tiêu công nghiệp hóa thành công, tiến dần mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2020, Việt Nam rất cần sự hỗ trợ từ phía nguồn vốn FDI và cần hơn nữa là phải biết cách tận dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả nhất. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu nắm vững những lý thuyết cơ bản nhất về FDI, thực trạng FDI tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực này trong những năm gần đây là vấn đề rất có ý nghĩa và bổ ích đối với mỗi học viên chuyên ngành quan hệ quốc tế của Việt Nam hiện nay. LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ FDI 1. Khái niệm Với ý nghĩa cốt lõi nhất, FDI hay đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Theo IMF: FDI là hình thức đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu của một thực thể cư trú tại một nền kinh tế nhằm có được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp cư trú tại một nên kinh tế khác. Lợi ích lâu có nghĩa là tồn tại một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp. [nguồn: IMF 1993] Theo OECD: FDI phản ánh mục tiêu của một thực thể cư trú tại một nền kinh tế (“nhà đầu tư trực tiếp”) muốn có được lợi ích lâu dài trong một thực thể cư trú tại một nền kinh tế khác nền kinh tế của nhà đầu tư (“doanh nghiệp đầu tư trực tiếp”). Lợi ích lâu dài ngụ ý một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng kể trong việc quản lý doanh nghiệp đó. [nguồn: OECD 1996] Có thể thấy FDI được đặc trưng bởi mục đích tìm kiếm lợi ích lâu dài và một mức độ ảnh hưởng đáng kể của các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy từng thái độ và mục tiêu phát triển, mỗi quốc gia lại có những tiêu chuẩn riêng về mức sở hữu tối thiểu và các yếu tố của mối quan hệ đầu tư trực tiếp (như đại diện trong ban giám đốc, tham gia vào quá trình ra quyết định, các giao dịch vật chất bên ngoài công ty, việc trao đổi nhân sự quản lý, cung cấp các thông tin kĩ thuật, cung cấp tín dụng dài hạn với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường). Tựu chung lại, có thể thấy sự khác biệt cơ bản của FDI so với các hình thức đầu tư quốc tế khác như sau: Thứ nhất, mọi hình thức đầu tư quốc tế đều được tiến hành ở bên ngoài nước của công ty đầu tư, nhưng FDI, khác với các hình thức khác, được tiến hành bên trong công ty đầu tư: quyền kiểm soát đối với việc sử dụng những nguồn lực được di chuyển vẫn nằm trong tay nhà đầu tư, cho phép nhà đầu tư đưa ra quyết định sản xuất và đầu tư. Thứ hai, trong khi mọi hình thức đầu tư liên quan đến việc di chuyển của nguồn lực tài chính ra khỏi biên giới, FDI còn liên quan đến việc di chuyển những tài sản và nguồn lực khác, ví dụ như công nghệ, kĩ năng quản lý và những kĩ năng khác, khả năng tiếp cận thị trường, năng lực kinh doanh….Vì vậy, có thể nói, FDI không chỉ bao gồm dòng chảy của các nguồn lực tài chính vào nước chủ nhà mà đây là một gói các nguồn lực và tài sản cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của nước chủ nhà. FDI cũng liên quan đến quyền kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài đối với hoạt động sản xuất tại nước chủ nhà. 2. Phân loại FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới hiện nay có các hình thức chủ yếu sau: - Đầu tư vào thành lập tổ chức kinh tế: có thể là thành lập tổ chức 100% vốn nước ngoài hoặc góp vốn thành lập và tham gia quản lý doanh nghiệp liên doanh. Theo hình thức này nhà đầu tư sẽ thành lập một pháp nhân mới theo luật pháp nước chủ nhà. Đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức được các TNCs thường lựa chọn ở những nước có môi trường đầu tư rõ ràng, ổn định và thích hợp với nhiều ngành nghề khác nhau. Hình thức doanh nghiệp liên doanh là hình thức khá phát triển ở các nước đang phát triển. Hình thức này có sự gắn bó trách nhiệm và quyền hạn chặt chẽ giữa các bên liên doanh, sử dụng được ưu thế của cả hai bên. Hình thức liên doanh lại có nhiều nhược điểm về cơ chế quản trị, về sự đóng góp của từng bên vào hoạt động liên doanh, về phân phối kết quả kinh doanh… Do đó, hình thức này chỉ thích hợp trong giai đoạn đầu của quá trình thu hút vốn FDI, thích hợp với những lĩnh vực đầu tư bắt buộc cần phải có sự tham gia liên doanh của chủ nhà: đó các dự án lớn ở các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng, các dự án nông – lâm nghiệp, các dự án sử dụng nhiều tài nguyên. - Đầu tư theo hợp đồng bao gồm: hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT). + Đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư theo đó bên nước ngoài và bên chủ nhà cam kết thực hiện các nghĩa vụ và được hưởng các quyền lợi tương xứng ghi trong một hợp đồng hợp tác kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới, hoạt động đầu tư được quản lý trực tiếp bởi một ban điều hành. Đây là hình thức đơn giản, dễ thực hiện thích hợp với giai đoạn đầu mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên nước ngoài thường đóng góp thiết bị, công nghệ, vật tư, tham gia kiểm soát chất lượng, còn bên trong nước thường tổ chức sản xuất theo chỉ dẫn của nước ngoài. Tuy nhiên, hình thức đầu tư này dễ gây tranh chấp do trách nhiệm thường không rõ ràng và không có pháp nhân quản lý. Khi môi trường đầu tư đã ổn định hình thức này ít được áp dụng. + Đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT là hình thức đầu tư phải có chính quyền chủ nhà đứng ra ký hợp đồng đầu tư với nhà đầu tư nước ngoài, sau đó phải thành lập một pháp nhân để điều hành, quản lý dự án, hoạt động của dự án này sẽ theo một chu trình mẫu tùy vào từng loại hợp đồng. Hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT có xu hướng phát triển trong những năm gần đây. Những lĩnh vực thích hợp cho hình thức này là các công trình kết cấu hạ tầng có khả năng khai thác như đường giao thông, cảng, sân bay, cầu… - Đầu tư phát triển kinh doanh: là mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực hoạt động của một doanh nghiệp đang tồn tại. - Đầu tư mua cổ phiếu của các doanh nghiệp và có tham gia quản lý hoạt động kinh doanh. - Mua lại và sáp nhập qua biên giới (M&A: Cross-border Merger and Acquisition): là một hình thức FDI liên quan đến việc mua lại, sáp nhập với một doanh nghiệp nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động. 3. Tác động của FDI Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Nhà nước nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất, kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án là khá cao, đặc biệt là trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân. Vì vậy FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. - Đối với nước chủ đầu tư : Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở các nước tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Mặt khác đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. - Đối với nước nhận đầu tư: FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động. FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác. FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục được tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy mà mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học - kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm được chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế. Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với nó sẽ là những hoạt động Marketing được mở rộng không ngừng. Bên cạnh những tác động tích cực, FDI còn có những tác động tiêu cực đối với cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư: - Với nước chủ đầu tư: vốn đầu tư chảy ra nước ngoài có khả năng làm giảm tăng trưởng GDP và việc làm của quốc gia; khi các công ty lớn đầu tư ra nước ngoài sản xuất những mặt hàng cùng loại sẽ tạo nên khả năng cạnh tranh mới giữa các doanh nghiệp ngoài nước với chính doanh nghiệp trong nước, thậm chí cạnh tranh với chính doanh nghiệp đầu tư. - Với nước nhận đầu tư: nhà đầu tư nước ngoài có thể kiểm soát thị trường địa phương, làm mất tính độc lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài; FDI chính là công cụ phá vỡ hàng rào thuế quan bảo hộ, làm mất tác dụng của công cụ thuế quan; tạo cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn đến suy giảm sản xuất của các doanh nghiệp trong nước; FDI, nhất là của các TNCs, có thể gây nên những vấn đề phức tạp mới về chuyển giao các công nghệ quá hiện đại mà không phù hợp; lợi nhuận thu được có xu hướng chuyển ra nước ngoài, làm giảm tiềm lực phát triển kinh tế lâu dài; các nước phát triển có xu hướng chuyển giao các công nghệ lạc hậu sang các nước nhận đầu tư; góp phần làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội mới như phân hóa đội ngũ cán bộ, “chảy máu chất xam”, tham nhũng, hối lộ… II. THỰC TRẠNG FDI TẠI VIỆT NAM TRONG THẬP KỶ ĐẦU THẾ KỶ 21 Tổng quan về FDI tại Việt Nam trong thập kỷ đầu thế kỷ 21 Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 và việc kí kết Hiệp Định thương mại Việt Mỹ đã có tác động lớn đến thái độ của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, dòng vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2003 vẫn không có nhiều biến chuyển so với giai đoạn trước đó. Lý do là cùng thời điểm đó, Việt Nam lại thực hiện mở cửa thị trường chứng khoán khiến cho dòng vốn chảy vào kênh khác hơn là FDI. Từ sau năm 2003, FDI bắt đầu tăng nhanh và đạt mức kỉ lục vào năm 2008 với số vốn đăng kí lên đến 71726 triệu USD, gấp 3,34 lần tổng vốn đăng kí năm 2007 (21347,8 triệu USD). Trong năm 2009 và 2010, FDI vào Việt Nam đã giảm đi so với năm 2008 do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mặc dù vậy, lượng vốn đăng kí vẫn ở mức cao. Trong năm 2009, Việt Nam vẫn thu hút được 1.054 dự án với tổng vốn đăng kí là gần 21.500 triệu USD. Năm 2010 Việt Nam thu hút được 1155 dự án, tổng vốn đăng kí là 18595 triệu USD. [nguồn: theo số liệu từ Tổng cục thống kê và Trung tâm Nghiên cứu Đầu tư nước ngoài]. Để thấy được bức tranh tổng quan về tình hình FDI vào Việt Nam trước và sau năm 2000, ta có thể tham khảo biểu đồ dưới đây. Biểu đồ FDI được cấp phép tại Việt Nam thời kỳ 1988 – 2010 Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục thống kê và Trung tâm Nghiên cứu Đầu tư nước ngoài. Theo biểu đồ trên, có thể thấy có một khoảng cách lớn và ngày càng tăng giữa FDI công bố và FDI thực hiện. Mặc dù lượng vốn FDI đăng ký được công bố là lớn, nhưng thực tế cho thấy sự chênh lệch giữa con số đăng ký và con số thực hiện ngày càng gia tăng. Tỷ lệ giải ngân đạt mức cao nhất trong giai đoạn 1997 – 2004 (73,5%), nhưng đã giảm mạnh xuống còn 30,4% trong giai đoạn 2006-2008. Một phần của nguyên nhân của tình trạng này là do xu hướng đua nhau thu hút FDI và có tình trạng khai quá lượng FDI thu hút được tại các địa phương. Phần khác là do việc thực hiện các dự án FDI gặp khó khăn so với dự kiến ban đầu hoặc do tình trạng nhiều nhà đầu tư đăng ký dự án chỉ để giữ chỗ hoặc lấy đất và sau đó bán lại dự án để thu lời. 2. Cơ cấu FDI tại Việt Nam a. Theo lĩnh vực đầu tư - Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã chú trọng thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Trong giai đoạn trước năm 2000, chủ trương thu hút FDI của chính phủ là ưu đãi các dự án sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Đến giai đoạn 2000 – 2010, đặc biệt từ sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã bãi bỏ các ưu đãi đó. Trong giai đoạn này, định hướng FDI vào các lĩnh vực công nghiệp-xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo… (các sản phẩm mà Việt Nam có thế mạnh về nhân công). Đây cũng chính là những dự án mà Việt Nam có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao và có lợi thế so sánh. Vì vậy, cho đến nay các dự án thuộc các lĩnh vực nêu trên, đặc biệt là các dự án trong lĩnh vực chế biến, chế tạo vẫn giữ vai trò quan trọng, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định. Biểu đồ FDI trong lĩnh vực công nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1988-2009 Đơn vị: Triệu USD STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư 1 Công nghiệp khai mỏ 130 10980.4 2 Công nghiệp chế biến, chế tạo 7475 88579.5 3 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước 72 2231.4 4 Xây dựng 521 7964.4 Tổng số 8198 109755.7 Nguồn: Tổng cục thống kê. - Lĩnh vực dịch vụ: Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành luật đầu tư nước ngoài. Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có những chuyển biến tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuât, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ khách sạn, nhà hàng; các hoạt động kinh doanh tài sản và dịch vụ, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc, tài chính tính dụng tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động. Cùng với việc thực hiện lộ trình thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút FDI phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ, FDI tập trung chủ yếu vào các hoạt động liên quan đến tài sản và dịch vụ tư vấn bao gồm xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng KCN (54,42% tổng vốn FDI trong khu vực dịch vụ), nhà hàng, khách sạn (24,48); giao thông vận tải-liên lạc (10,64%). Biểu đồ FDI trong lĩnh vực dịch vụ tại Việt Nam giai đoạn 1988-2009 Đơn vị: Triệu USD STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư 1 Khách sạn và nhà hàng 379 19402.8 2 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 554 8435.3 3 Tài chính, tín dụng 69 1103.7 4 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 1867 45505.7 5 Giáo dục và đào tạo 128 275.8 6 Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 73 1033.3 7 HĐ văn hóa và thể thao 129 2838.0 8 HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng 118 658.3 Tổng số 3317 79252.9 Nguồn: Tổng cục thống kê. - Lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp: Đến hết năm 2009, lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp có 738 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng kí là 4379, 1 triệu USD. Trong số này, các dự án về nông nghiệp và lâm nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn là 87,64% tổng vốn đăng kí ngành. Các dự án thủy sản chỉ chiếm 12,36%. Biểu đồ FDI vào Việt Nam trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp giai đoạn 1988-2009 Đơn vị: Triệu USD STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư 1 Nông nghiệp và lâm nghiệp 575 3837.7 2 Thủy sản 163 541.4 Tổng số 738 4379.1 Nguồn: Tổng cục thông kê. Cơ cấu FDI theo lĩnh vực tại Việt Nam giai đoạn 1988-2009 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tính đến hết năm 2009, so với cơ cấu FDI của thế giới, có thể thấy cơ cấu FDI của Việt Nam đã có sự chuyển dịch cùng chiều theo hướng tăng dần tỉ trọng các ngành dịch vụ. Cơ cấu này đã có sự thay đổi rất nhiều so với năm 2007, khi FDI vào dịch vụ mới chỉ chiếm 25% tổng số vốn đăng kí. Nguyên nhân của hiện tượng này là đến năm 2009, rất nhiều các hạn chế thâm nhập của Việt Nam về dịch vụ đã được dỡ bỏ theo cam kết gia nhập WTO trong đó có các hạn chế trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ, phân phối, giáo dục. b. Cơ cấu FDI theo nước chủ đầu tư Cho đến nay, đã có 92 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó 69, 1% vốn đăng kí đến từ các nhà đầu tư Châu Á, 16,2% từ EU và 11,8% từ các nhà đầu tư Mĩ. Các nhà đầu tư sớm nhất đến thị trường Việt Nam là các nhà đầu tư từ Úc và EU bao gồm cả Unilever, British Petroleum và Shell. Các công ty Châu Á tham gia vào thị trường Việt Nam chậm hơn khi Việt Nam trở thành một địa điểm đầu tư tự nhiên đặc biệt là đối với các nhà đầu tư mở rộng sản xuất đối với dây chuyền may mặc. Các công ty Mĩ tham gia thị trường Việt Nam muộn nhất do bị hạn chế bởi lệnh cấm của Mĩ cho đến năm 1994. Các quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam là các quốc gia trong khu vực Châu Á, bao gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Nhật Bản,Thái Lan. Việt Nam vẫn chưa nhận được nhiều FDI từ EU và nhiều quốc gia phát triển khác trên thế giới. Cơ cấu FDI tại Việt Nam theo đối tác đầu tư năm 2009 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trong giai đoạn 1988-2009, FDI đến từ 5 quốc gia Châu Á đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam đã chiếm đến 41,6% tổng vốn đăng kí. Điều này chứng tỏ là các doanh nghiệp EU chưa tham gia một cách tích cực vào thị trường Việt Nam mặc dù hộ có những lợi thế nhất định về qui mô. Tuy không phải là quốc gia có nhiều vốn đầu tư tại Việt Nam nhất, nhưng Hoa Kỳ vẫn thể hiện xu thế là nhà đầu tư lớn tại Việt Nam (năm 2009, Hoa Kỳ là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, với số vốn đăng ký 9,8 tỷ USD). Nhiều tập đoàn tên tuối lớn của Hoa Kỳ như Chevron, General Elctric, ConccoPhillips, AEC, AIG, Ceaterpillar, CitiGroup, ExxonMobil, Ford... đã có mặt tại Việt Nam và dự báo trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ trở thành nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam. Đáng lưu ý, trong những năm gần đây, dòng FDI từ Trung Quốc đổ vào Việt Nam là khá lớn và trong năm 2010, Trung Quốc đã đứng hàng thứ 11, sau Top 10 có vốn FDI đăng ký vào Việt Nam, cho thấy xu các nhà đầu tư Trung Quốc cũng đang chuyển sự chú ý đáng kể đến Việt Nam. c.Cơ cấu FDI theo địa bàn Trên thực tế, cho đến năm 2010, tất cả 64 tỉnh thành trong ở Việt Nam đã thu hút được những lượng FDI nhất định. Tuy nhiên sự phân bổ của FDI theo tỉnh thành là không đồng đều; FDI chủ yếu tập trung ở các khu vực trọng điểm kinh tế, đặc biệt là tại các tỉnh có cơ sở hạ tầng phát triển nhất và có sẵn lao động có kĩ năng. Cơ cấu FDI tại Việt Nam theo địa bàn năm 2009 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Vùng Đồng bằng Sông Hồng có tổng số 3230 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 37 tỉ USD, chiếm 20% tổng số vốn đăng kí cả nước, trong đó Hà Nội đứng đầu chiếm 56% số dự án và 59% số vốn đăng kí cả vùng. Tiếp đến là Hải Phòng (390 dự án với tổng vốn đăng kí là 7,78 tỉ USD), tiếp đến là Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh (với xấp xỉ 200 dự án và vốn đăng kí hơn 2 tỉ USD). Vùng trọng điểm phía Nam thu hút được 7344 dự án với tổng vốn đăng kí là 89,66 tỉ USD, chiếm 47% tổng vốn đăng kí trong đó thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước với 3683 dự án với tổng vốn đăng kí là 30, 98 tỉ chiếm 34,55% vốn đăng kí của vùng. Tiếp theo thứ tự là Bà Rịa - Vũng Tàu( với 296 dự án với tổng vốn đăng kí là 25,7% tỉ) chiếm 28,7% tổng vốn đăng kí vùng;Đồng Nai xếp thứ ba vùng với 19,8% tổng vốn đăng kí; tiếp đến là Bình Dương với 15,5% tổng vốn đăng kí. Vùng trọng điểm miền Trung nổi lên mạnh mẽ trong hai năm 2008, 2009 và thu hút được lượng FDI tăng đột biến trong 2 năm này. Cho đến năm 2007, FDI vào khu vực này mới chỉ chiếm 6% tổng vốn đăng kí cả nước thì đến hết năm 2009, khu vực này đã thu hút được 820 dự án đầu tư với vốn đăng kí là 51,73 tỉ USD chiếm 27% tổng vốn đăng kí cả nước, trong đó đứng đầu là Ninh Thuận với 22 dự án với vốn đăng kí là 10 tỉ USD, tiếp đến là Phú Yên với 52 dự án và 8 tỉ USD. d. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư Hiện nay hình thức 100% vốn nước ngoài hiện chiếm 74,4% tổng số dự án; 50,7% vốn đăng kí; trong khi đó hình thức liên doanh chiếm 22, 2% số dự án và 38% vốn đăng kí. Hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 3.1% tổng số dự án, 8,3% vốn đăng kí; số còn lại là dưới các hình thức khác như BOT, công ty cổ phần... 3. Đóng góp của FDI vào GDP của Việt Nam FDI là một nguồn vốn quan trọng đóng góp vào GDP ở Việt Nam. Theo số liệu của từ Tổng cục thống kê, tỷ trọng FDI trong tổng đầu tư vốn của Việt Nam tăng từ 12% năm 2006 lên 25,5% năm 2007 và 24,1% năm 2008, 30% vào năm 2009 . Đóng góp của FDI trong GDP của Việt Nam cũng rất lớn và ngày càng tăng từ 6.3% năm 1995 lên đến 19% năm 2009. Bảng thống kê đóng góp của các khu vực kinh tế vào GDP (%) Khu vực kinh tế 2002 2003 2005 2007 2009 Tổng GDP 100 100 100 100 100 Khu vực nhà nước 39 39 38 36 33 Khu vực tư nhân 48 46 46 46 48 Khu vực FDI 13 15 16 18 19 Nguồn: Tổng cục thống kê. III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Trên cơ sở nghiên cứu tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thập kỷ đầu thế kỷ 21 có thể thấy hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng FDI tại Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục như sau: Về bộ máy quản lý: Hoạt động phân cấp quản lý còn thiếu hiệu quả, các tỉnh chạy đua cạnh tranh thu hút FDI phá vỡ các qui hoạch về ngành nghề, địa phương. Việc thực hiện chức năng phân tích, dự báo, thẩm định, cấp phép, kiểm tra giám sát việc thực hiện các nghĩa vụ của các doanh nghiệp FDI còn chưa kịp thời, thiếu hiệu quả, không theo kịp khối lượng cũng như mức độ phức tạp của hoạt động FDI tại Việt Nam. Hoạt động quản lý các dự án trong quá trình thực hiện còn gây nhiều phiền hà, rắc rối cho doanh nghiệp FDI. Về công tác qui hoạch và lập chiến lược: Cho đến nay, dù đã ý thức được tầm quan trọng của một chiến lược FDI, Việt Nam vẫn chưa đưa ra một chiến lược tổng thể và một qui hoạch cụ thể đối với FDI cho nên hoạt động thu hút và sử dụng FDI còn mang tính tự phát và thiếu đồng bộ. Công tác qui hoạch ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn nhiều bất cập đặc biệt là trong bối cảnh phân cấp cấp phép và quản lý FDI về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Về hệ thống chính sách và pháp luật liên quan đến FDI: Các chính sách về thâm nhập FDI còn duy trì nhiều hạn chế, các chính sách khuyến khích FDI còn dàn trải, và không hiệu quả chưa hướng FDI vào các lĩnh vực và khu vực mong muốn. Các luật điều chỉnh còn chưa bao trùm hết các khía cạnh của hoạt động FDI, đặc biệt là hoạt động M&A và hoạt động cạnh tranh. Còn có sự thiếu đồng bộ, mâu thuẫn giữa luật chung và luật chuyên ngành, hiệu lực pháp luật còn chưa cao. Hoạt động xúc tiến đầu tư vẫn chưa được quan tâm đúng mức bằng nguồn ngân sách hợp lý. Hoạt động này còn thiếu chuyên nghiệp, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Thiếu một văn bản pháp luật cụ thể qui định về xúc tiến đầu tư khiến cho cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành địa phương còn chưa hiệu quả. Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực phục vụ FDI chưa có định hướng chiến lược dài hạn, chiến lược về nhân lực còn tách rời với chiến lược kinh tế, chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiêp FDI về lao động lành nghề, công nhân kĩ thuật cao và cán bộ quản lý. Hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng thiếu hiệu quả. Việt Nam đã đầu tư rất nhiều vốn và kêu gọi nhiều hinh thức đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhưng năng lực cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn không theo kịp được sự phát triển kinh tế nói chung cũng như nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng. Các khâu yếu nhất của cơ sơ hạ tầng bao gồm: hệ thống đường giao thông, cảng biển, điện vẫn chưa được cải thiện. Xét từ góc độ khả năng thu hút đầu tư, các tồn tại trong cơ sỏ hạ tầng, hệ thống chính sách và pháp luật là những rào cản lớn nhất. Theo Jestro (2007), các hạn chế lớn nhất trong môi trường đầu tư của Việt Nam liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về FDI là: cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống pháp luật kinh tế kém phát triển; chính sách quản lý của chính quyền địa phương thiếu minh bạch. Xét về góc độ quản lý FDI theo mục tiêu phát triển của Việt Nam, các tồn tại trong qui hoạch, xúc tiến đầu tư và đảm bảo các dự án FDI thực hiện đúng các nghĩa vụ đối với Việt Nam đang là những hạn chế lớn nhất. Tất cả những hạn chế này, đều có những ảnh hưởng tiêu cực lên hoạt động thu hút và sử dụng FDI trong ngắn hạn và dài hạn. Trước đà phục hồi của nền kinh tế thế giới và khu vực, Việt Nam đang đứng trước những tiềm năng thu hút FDI hết sức to lớn. Nguồn vốn này nếu được sử dụng hiệu quả sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế đưa Việt Nam đến gần hơn với mục tiêu bước đầu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Muốn vậy, Việt Nam cần phát huy những kết quả tốt đã đạt được và nhanh chóng khắc phục các tồn tại trong hoạt động thu hút và sử dụng FDI trong thời gian qua. Chính phủ Việt Nam cũng đã sớm nhìn nhận vấn đề này và đã ban hành Nghị Quyết 13/NQ-CP ngày 07/04/2009 về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý FDI trong thời gian tới. Nghị Quyết khẳng định nhiệm vụ tổng quát trong công tác đầu tư nước ngoài trong thời gian tới là tập trung khắc phục các mặt tồn tại của môi trường đầu tư, hạn chế đến mức thấp nhất tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần đạt mục tiêu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và bền vững môi trường. Đây là những định hướng và yêu cầu đối với công tác thu hút và quản lý FDI hoàn toàn phù hợp với tình hình hoạt động hiện nay và xu hướng FDI trong thời gian tới. Tuy nhiên, để thực hiện được những mục đích và yêu cầu đó, cần phải có những giải pháp cụ thể hơn trong công tác quản lý và sử dụng FDI. IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1.Nhóm các giải pháp chung a.Hoàn thiện các chính sách về FDI Việc thiếu một chiến lược riêng đối với FDI, chính sách FDI thiếu đồng bộ, không có qui hoạch hợp lý là một trong những yếu tố gây khó khăn cho hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng FDI. Do đó, để nâng cao hiệu quả của công tác này, trước hết cần hoàn thiện các chính sách cũng như nâng cao hiệu quả của các chính sách. Trước hết, cần nhanh chóng xây dựng một qui hoạch cụ thể cho vốn FDI. Qui hoạch mới về FDI của Việt Nam cần được hình thành trên cơ sở khảo sát và đánh giá khách quan thực trạng tình hình thu hút FDI thời kỳ 2001 - 2010, định hướng, mục tiêu của Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, xu thế phát triển của FDI thế giới sau khủng hoảng kinh tế với sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc và các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs). Qui hoạch này cần hình thành theo 4 định hướng lớn, gồm chất lượng và hiệu quả cao; phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các - bon; có cam kết về chuyển giao công nghệ thích hợp với từng ngành, từng dự án và lao động có kỹ năng cao; Đưa ra những yêu cầu cụ thể về hạ tầng và lao động để từ đó lập các chiến lược, kế hoạch về lao động và hạ tầng phù hợp, thống nhất. Trong qúa trình xây dựng qui hoạch, đổi mới chính sách FDI cần tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp, các bộ ngành, để có thể biết được nhu cầu thực sự của ngành đối với sự tham gia của vốn đầu tư nước ngoàivà khả năng thực hiện chính sách của các cơ quan này. Xây dựng nhóm kĩ trị năng động, chịu trách nhiệm trực tiếp với Thủ tướng, được tuyển chọn từ các chuyên viên, công chức trẻ, có trình độ, từ các Bộ ngành để tham gia, lồng ghép ý tưởng. Nhóm này sẽ chịu trách nhiệm xây dựng chính sách cho toàn Chính phủ, thường xuyên có tương tác hai chiều với Thủ tướng và các Bộ, cơ quan thực thi chính sách. Sau nữa cần tạo cơ chế để các bộ ngành thường xuyên trao đổi với các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là những nhà đầu tư đang hoạt động với qui mô lớn để tránh cho họ những rủi ro khi có thay đổi về chính sách và giải quyết các vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của họ. Tiếp tục phát huy hoạt đông gặp gỡ hàng năm giữa Thủ tướng và các doanh nghiệp, phát triển hoạt động này thành những cuộc gặp gỡ riêng của thủ tướng và các doanh nghiệp FDI, như vậy các doanh nghiệp FDI và nhà nước sẽ có cơ hội trao đổi tiến đến những mục tiêu chung. b.Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý; nâng cao năng lực thực thi của các cơ quan chức năng Để thực hiện phân cấp quản lý FDI một cách có hiệu quả thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý có đầy đủ năng lực từ đội ngũ hành chính thông thường cho đến đội ngũ cán bộ chuyên trách về hoạch định, xúc tiến đầu tư, đào tạo nhân lực, đội ngũ thanh tra hoạt động FDI. Để thực hiện được điều đó, trước hết cần rà soát lại đội ngũ cán bộ đang làm việc tại các cơ quan liên quan trực tiếp tới FDI, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ đầu tư quốc tế, am hiểu kinh tế thị trường và tập quán thông lệ quốc tế. Các chương trình đào tạo đặc biệt cần được xây dựng để trang bị cho người học không chỉ những kĩ năng và kiến thức về đầu tư và tài chính, các kĩ năng tính toán mà còn trang bị cho họ khả năng bao quát tình hình kinh tế vĩ mô, các về văn hóa, xã hội học, nhân khẩu học, marketing có tính đến yếu tố quốc tế vì FDI gắn với các TNCs đầu vào và đầu ra là các thị trường quốc tế.Trang bị cho đội ngũ này đấy đủ kiến thức về quản lý nhà nước và khả năng kết hợp giữa kiến thức về đầu tư với kiến thức quản lý. Đối với các cán bộ không đủ tiêu chuẩn vừa phải đào tạo lại (nếu còn trẻ), vừa phải mạnh dạn chuyển công tác đi cơ quan khác. Thứ hai, cần chú trọng đào tạo thường xuyên cho đội ngũ cán bộ quản lý. Mở các khóa học đào tạo ban đầu, đào tạo dài hạn, và sau đó chú trọng mở các khóa đào tạo ngắn hạn vài ngày, một vài tuần nhằm bồi dưỡng nâng cao năng lực làm việc trong suốt quá trình. Phải có cơ chế chính sách tuyển dụng và sử dụng và đãi ngộ tương ứng với năng lực và hiệu quả công việc đã thực thi. Ngoài ra, cần xây dựng đội ngũ thanh tra có năng lực và chuyên môn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ và tài chính để phục vụ tốt hơn nữa hoạt động quản lý đối với các dự án FDI sau cấp phép. c. Tăng sự phối hợp và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý Do đặc điểm của hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng FDI là bao gồm rất nhiều nội dung, các nội dung này lại thuộc các lĩnh vực chuyên môn không giống nhau, cần có sự tham gia của nhiều bộ ngành, cơ quan để các hoạt động có thể thống nhất theo một mục đích chung. Ngoài ra, cấp Trung ương và địa phương cũng cần phối hợp với nhau để đảm bảo các chính sách FDI của nhà nước được thực thi đúng ở địa phương và các thông tin về FDI ở địa phương được cập nhật kịp thời về Trung ương cho mục đích phân tích dự báo. Do đó cần có biện pháp để tăng sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý các bộ ngành, các cấp; đồng thời, phải tăng trách nhiệm giải trình của từng bộ ngành, cơ quan, từng vị trí cán bộ để những người làm công tác quản lý có trách nhiệm hơn đối với các quyết định quản lý của mình. Trên cơ sở rà soát, tổng kết, đánh giá tình hình phân cấp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư cần lấy ý kiến của các bộ, ngành và địa phương nghiên cứu và ban hành một văn bản quy định về quy chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương, và giữa các bộ ngành trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Cần tạo ra cơ chế giúp các Bộ, cơ quan có báo cáo nhanh, cập nhật thông tin hàng tháng về tình hình tiếp nhận, cấp Giấy chứng nhận đầu tư và vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài thuộc phạm vi thẩm quyền của mình về Bộ Kế hoạch và Đầu tư một cách cập nhật nhất. d. Tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan và cá nhân tham gia quản lý FDI Việc này có thể được thực hiện bằng cách yêu cầu các bộ, ngành tham gia thẩm tra dự án có trách nhiệm trả lời trong thời hạn quy định; đồng thời chịu trách nhiệm về các nội dung thẩm tra thuộc chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan mình; đặc biệt là các nội dung về quy hoạch, đất đai, môi trường, công nghệ…Qui định quyền và trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu các cơ quan quản lý cũng như những chế tài đối với việc thực hiện không đúng chức năng, quyển hạn. Các cơ quan quản lý cần công khai các chính sách về FDI, đặc biệt là nguồn ngân sách cho hoạt động xúc tiến, đào tạo nhân lực và xây dựng hạ tầng cho FDI. Công khai danh tính của công chức và chấp nhận cơ chế đánh giá cán bộ công chức hàng năm dối với đội ngũ cán bộ trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến FDI. e .Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính Xây dựng được một nền hành chính thống nhất, thông suốt là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước. Do đó, để nâng tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về FDI, nhất thiết phải thực hiện cải cách hành chính để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI, và cho chính cho các cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý của mình. Trước hết, cần sắp xếp bộ máy các cơ quan theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, ít đầu mối: Các cơ quan quản lý FDI các cấp cần rà soát lại hệ thống phòng ban chức năng và đội ngũ cán bộ. Xóa bỏ, hợp nhất những phòng ban có chức năng tương đương hoặc có thể hợp nhất để tạo ra hệ thống quản lý đơn giản nhất, loại bỏ những qui định chồng chéo và tiết kiệm thời gian cho nhà đầu tư. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý hành chính: đổi mới tư duy từ “ban phát” sang “phục vụ”. Cần có chế độ lương bổng và đãi ngộ chính đáng. Tuy nhiên cũng cần ban hành cơ chế thưởng phạt đích đáng đối với cán bộ thực thi công việc. Tiếp đến, Nhà nước cần thực hiển rà soát tổng thể, bãi bỏ các loại giấy tờ trái với qui định của luật, những giấy phép không cần thiết (theo tinh thần của đề án 30), kèm theo việc sửa đổi bổ sung các qui định về những giấy phép còn lại. Đối với các thủ tục gia nhập thị trường, đặc biệt là các điều kiện kinh doanh, giấy phép kinh doanh, các bộ ngành cần tăng cường cơ chế phối hợp để đảm bảo rà soát , bãi bỏ thủ tục một cách hợp lý. Thực hiện minh bạch hóa đối với các thủ tục và qui trình đầu tư: Đẩy mạnh hơn nữa chính sách một cửa công khai qui trình thủ tục có liên quan đến toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Việc thực hiện cơ chế một cửa theo chỉ đạo của chính phủ nhằm giảm tầng nấc thời gian trong việc giải quyết công việc của doanh nghiệp cần được các địa phương duy trì và thực hiện nghiêm túc, nhằm thể hiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đối tượng trong nền kinh tế. Thủ tục hành chính liên quan đến quá trình đầu tư cần được công bố cụ thể, công khai và thực hiện một cách nhất quán. Hướng tới phát triển hiệu quả hệ thống chính phủ điện tử nhằm giảm chi phí và tăng tính minh bạch trong hoạt động kinh tế xã hội. Mạng thông tin điện tử nội bộ và mạng thông tin điện tử chính phủ phải phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác quản lý nhà nước, nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu quản lý cũng nhu cầu tiếp cận thông tin từ phía các nhà đầu tư.Nhân rộng mô hình quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001 trong các cơ quan làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp FDI để các cơ quan này hoạt động hiệu quả hơn, chuyên nghiệp hơn ,phục vụ các nhà đầu tư hiệu tốt hơn. Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, nâng cao năng lực cán bộ quản lý, tăng cường phối hợp và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý sẽ làm tăng tính minh bạch trong môi trường quản lý, môi trường đầu tư; từ đó góp phần giảm bớt nạn tham ô, tham nhũng để các hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về FDI nói riêng diễn ra hiệu quả hơn. 2. Nhóm các giải pháp riêng a.Hoàn thiện bộ máy quản lý về FDI Việc phân cấp quản lý có những mặt trái của nó và đã gây ra những hệ lụy nghiêm trọng tới ngân sách nhà nước, gây mất cân bằng về thị trường và qui hoạch qui hoạch. Tuy nhiên, từ những kết quả tích cực mà hoạt động phân cấp mag lại có thể khẳng định rằng phân cấp là một chủ trương đúng đắn và cần phải tiếp tục được thực hiện. Để hoạt động phân cấp đạt hiệu quả cao hơn trong bối cảnh năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu kém, Việt Nam nên thay đổi một số qui định. Ngoài ra, tuy hoạt động quản lý nhà nươc về FDI đã được phân cấp nhưng ở mỗi cấp, các cán bộ quản lý phải kiêm rất nhiều nhiệm vụ từ việc đưa ra các chính sách, qui hoạch đến việc quản lý các dự án trong quá trình hoạt động. Điều này khiến cho hoạt động quản lý thiếu hiệu quả vì cơ quan quản lý phải ôm đồm quá nhiều nhiệm vụ cùng một lúc, chưa kể đến thực tế là đội ngũ cán bộ quản lý FDI của Việt Nam còn thiếu năng lực quản lý. Do đó, nhà nước cần xem xét việc tách riêng cơ quan chính sách FDI và cơ quan quản lý FDI: một cơ quan chuyên thực hiện việc nghiên cứu, hoạch định chính sách, tổ chức gặp gỡ xúc tiến đầu tư, một cơ quan chỉ chuyên quản lý các công tác liên quan đến hoạt động của các dự án FDI. Như vậy sẽ giúp các cơ quan tập trung hơn vào nhiêm vụ của mình và chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả quản lý tốt hơn. b.Xây dựng chính sách Mặc dù đã có những chuyển biến mạnh mẽ về mặt chính sách FDI, nhưng như đã chỉ ra, trong những năm qua Việt Nam chỉ thu hút được vốn và công nghệ của các nhà đầu tư nhỏ và khu vực Châu Á. Do đó nhìn tổng thể, chúng ta vẫn chưa thu hút được công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến, hiện đại của các TNCs của các quốc gia phát triển cao (Mỹ, EU, NB). Kinh nghiêm thế giới đã chỉ ra rằng nhiều quốc gia coi những TNC hàng đầu trên thế giới là những đối tác chiến lược trong thu hút FDI của mình và Việt Nam cũng cần phải học tập quan điểm này. Đã đến thời điểm Việt Nam phải chấm dứt ngay tình trạng dải thảm đỏ, đưa ra nhiều chính sách ưu đãi đối với thu hút FDI. Việc thu hút FDI trong những năm tới phải kèm theo những điều kiện chặt chẽ và những mục tiêu rõ ràng, minh bạch, bình đẳng đối với tất cả các nhà đầu tư. c.Hoàn thiện pháp luật về FDI Có thể thấy hệ thống pháp luật liên quan đến FDI của Việt Nam vẫn còn nhiều khe hở và những qui định bất hợp lý. Điều này khiến cho việc ra các quyết định quản lý FDI gặp nhiêu khó khăn. Do đó, để nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về FDI, Việt Nam cần phải sửa đổi, bổ sung các văn bản luật có liên quan như: Luật Đầu tư; Luật Doanh nghiệp; Luật đất đai; luật tài nguyên; luật môi trường; luật xuất nhập khẩu và các văn bản luật khác liên quan đến tài chính và ngân hàng để tăng cường đến một mức độ cao các chế tài phạt đối với các hoạt động và hành vi vi phạm. d..Hoạt động xúc tiến đầu tư Trước hết, cần nhanh chóng đưa ra một chiến lược khoa học về xúc tiến đầu tư trong đó các mục tiêu của chiến lược cân phải tương thích với các mục tiêu của chiến lược FDI, từ đó đưa ra các phương hướng thực hiện hiệu quả. Nhà nước cần xem xét việc tạo lập các qui định rõ ràng hơn cho hoạt động xúc tiến trong đó qui định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể của hoạt động xúc tiến đầu tư, các yêu cầu và tiêu chí đánh giá các cơ quan làm công tác xúc tiến đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư cần phải định hướng được các nhà đầu tư vào các ngành mũi nhọn của chiến lược FDI. Đa dạng hóa các công cụ xúc tiến đầu tư. Tiếp tục đẩy mạnh tham gia các hội thảo quốc tế, hội chợ thương mại, đón các phái đoàn đầu tư nươc ngoài, tổ chức các cuộc họp và hội thảo cũng như cử các phái đoàn đầu tư sang thăm các quốc gia khác; kết hợp sử dụng các biện pháp phi liên lạc cá nhân như các sách hướng dẫn, tài liệu xúc tiến, viết thư trực tiếp, quảng bá trên các phương tiện truyền thông. Một công cụ xúc tiến mà Việt Nam cần chú trọng phát triên và sử dụng chính là các website xúc tiến, bởi đây là một công cụ giúp thực hiện việc xúc tiến ít tốn kém nhưng rất hiệu quả, phù hợp với điều kiện ngân sách hạn hẹp cho xúc tiến của Việt Nam. e. Đào tạo nhân lực phục vụ FDI Có thể thấy nguyên nhân cơ bản gây ra những hạn chế trong chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam là việc thiếu tương thích giữa chiến lược đào tạo và chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược thu hút FDI. Do đó, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho FDI, chiến lược lược đào tạo của Việt Nam cần được thay đổi theo hướng cụ thể hóa những ngành mũi nhọn cần đào tạo nhân lực phù hợp với những ngành mũi nhọn ưu tiên phát triển và thu hút FDI, từ đó đưa ra phương hướng đào tạo cụ thể. Hoàn thiện chiến lược giáo dục là giải pháp lâu dài nhất cho bài toán nguồn nhân lực cho FDI tại Việt Nam. Tuy nhiên, để kịp thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ FDI, chính phủ cần kịp thời thực hiện một số giải pháp liên quan đến các hệ thống đào tạo kĩ thuật và dạy nghề. Một biện pháp nữa là tăng cường cộng tác giữa giáo dục đại học, cao đẳng kĩ thuât và doanh nghiệp trong đó, sinh viên dành phần lớn thời gian cho hoạt động thực hành với các mẫu là sản phẩm từ các doanh nghiệp FDI, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia nước ngoài; cho sinh viên thực tập dài hạn tại các doanh nghiệp FDI để tăng khả năng việc làm cho sinh viên và khả năng tuyển dụng nhân lực tốt cho doanh nghiệp. f .Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ FDI Cơ sở hạ tầng yếu kém không chỉ là hạn chế đối với việc thu hút FDI mà còn là cản trở lớn đối với quá trình phát triển của Việt Nam. Do đó, cải tạo hơn nữa cơ sở hạ tầng là một trong những nhiệm vụ mà Việt Nam phải giải quyết trong thời gian tới. Hoạt động xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng định hướng FDI của Việt Nam phải đưa ra một qui hoạch khoa học nhằm giải quyết các khâu hạ tầng yếu kém nhất theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài mà trước hết là khả năng kết nối giao thông kém giữa các hình thức vận tải, kết nối giữa các khu công nghiệp và các hệ thống giao thông, kết nối với Lào và Campuchia, kết nối giao thông đến các khu vực khuyến khích đầu tư, chất lượng đường sá, sự tắc nghẽn tại các cảng biển và chất lượng cơ sở hạ tầng tại các KCN, KCX, hiện tượng thiếu điện. KẾT LUẬN Có thể khẳng định rằng, hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã được hoàn thiện và đã bao trùm được tất cả các khía cạnh liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong hơn 20 qua, hoạt động này đã không ngừng được tăng cường để phù hợp với sự biến động của dòng vốn FDI. Đặc biệt là từ khi Viêt Nam chuẩn bị các thủ tục gia nhập WTO và trở thành thành viên của tổ chức này, hoạt động quản lý nhà nước về FDI đã có những bước thay đổi tích cực theo hướng hài hòa hóa với các thông lệ quốc tế và tiến tới đối xử bình đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, hoạt động quản lý nhà nước về FDI tại Việt Nam đã đạt được nhiều mục tiêu quản lý. Trước hết hoạt động này đã tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng với hành lang pháp lý khá đầy đủ, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiến hành đầu tư thuận lợi và hiệu quả. Quan trọng hơn, hoạt động này đã góp phần tích cực vào cải thiện chất lượng phát triển, khai thác tốt tiềm năng về lao động và tài nguyên của Việt Nam, nâng cao xuất khẩu, tăng thu nhập và cải thiện tích lũy cho Việt Nam. Tuy nhiên, do còn bị ảnh hưởng bởi cơ chế quản lý cũ cộng với sự non nớt, thiếu kinh nghiệm của một nhà nước mới mở cửa nền kinh tế, hoạt động quản lý nhà nước về FDI ở Việt Nam vẫn chưa giúp FDI tạo ra các ngoại ứng tích cực mãnh mẽ, cũng như chưa loại bỏ được hết các ngoại ứng tiêu cực của dòng vốn này. Trong thời gian tới, nhà nước Việt Nam cần phải triên khai những biện pháp kinh tê-xã hội đồng bộ hơn nữa để dòng vốn FDI có thể thực sự hỗ trợ một cách hiệu quả cho mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của đất nước./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận cao học- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) trong thập niên đầu thế kỷ 21, những vấn đề đặt ra và giải pháp.doc