Phân cấp nhiệm vụ cho cấp dưới, nhưng chưa bảo đả m tương ứng các điều
kiện cần thiết để thực hiện, còn thiếu sự ăn khớp, đồng bộ giữa các ngành, các lĩnh
vực có liên quan, chưa tạo điều kiện thực tế cho địa phương chủ động cân đối các
nguồn lực và các nhu cầu cụ thể của mình.
- Một số nội dung phân cấp đã được pháp luật quy định nhưng chậm được
triển khai thực hiện hoặc thực hiện không triệt để. Mặt khác, các quy định phân cấp
hiện hành chưa phù hợp với thực tiễn của mỗi khu vực, vùng lãnh thổ, chưa phân
biệt rõ sự khác nhau giữa đô thị và nông thôn.
Những hạn chế, bất cập trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ
yếu là do các nguyên nhân: nhận thức, quan điểm về các chủ trương, giải pháp
phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh chưa rõ ràng,
rành mạch, thiếu nhất quán, lo ngại phân cấp mạnh dẫn đến tình trạng cục bộ, cát
cứ, phân tán. Trong tổ chức chỉ đạo còn thiếu quyết tâm, mạnh dạn từ xây dựng,
ban hành thể chế, chính sách đến tổ chức thực hiện; chưa chú trọng tổng kết, đánh
giá, rút kinh nghiệm. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng với yêu cầu
của phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3006 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
-----o0o-----
TIỂU LUẬN
Bộ môn: Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Giảng viên: PGS-TS Võ Kim Sơn
Tên tiểu luận:
Đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và
chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Học viên: Trần Ngọc Huy Vũ
Lớp: Cao học HCC 16M
Huế, tháng 8 năm 2012
1
Phân công, phân cấp trong hoạt động quản lý nhà nước là một chủ trương lớn,
nội dung quan trọng được đề cập một cách có hệ thống và nhất quán trong các văn
kiện của Đảng ta thời gian gần đây. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) đề ra phương hướng “phân định trách nhiệm, thẩm
quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết
hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ”. Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định “phân công, phân cấp, nâng
cao tính chủ động của chính quyền địa phương” và “phân cấp mạnh, toàn diện
trong hệ thống hành chính nhà nước” là một trong những định hướng nhằm cải
cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước. Ngày 30/6/2004, Chính phủ
đã ra Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP về việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý
nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Hiện nay, có một số quan niệm khác nhau xung quanh khái niệm “phân cấp”.
Theo một số tác giả, phân cấp chính là phân quyền giữa trung ương và địa phương.
Phân cấp là phân ra, chia thành các cấp, các hạng. Phân cấp có sự chuyển giao
quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để thực hiện cho sát dân và sát tình hình thực
tiễn, đồng thời, để giảm bớt khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải quyết
những việc sự vụ. Việc phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn rõ ràng và
bảo đảm tính thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Có quan niệm khác cho rằng,
phân cấp có thể theo hai hướng: một hướng nằm ngang là sự phân chia căn cứ vào
sự khác nhau của các công việc của một cấp; hướng nằm dọc (thẳng đứng) là sự
phân chia theo cơ cấu thứ bậc công việc giữa các cấp khác nhau.
Cần phân biệt “phân cấp quản lý” theo nghĩa là phân quyền với một số khái
niệm gần với nó là phân công, phân nhiệm vì phân công và phân nhiệm đều để chỉ
sự xác định quyền hạn, trách nhiệm cả theo chiều ngang và chiều dọc. Thông
thường, người ta sử dụng khái niệm phân công để chỉ quan hệ theo chiều ngang với
dụng ý phân biệt nó với phân cấp. Nếu “phân cấp quản lý” được hiểu là phân giao
quyền hạn cho một cơ quan hoặc một cấp chính quyền nào đấy thì thực ra sử dụng
thuật ngữ phân công và phân cấp là đầy đủ và chính xác hơn.
Như vậy, cho đến nay, mặc dù được sử dụng một cách rộng rãi, song cách hiểu
về phân cấp còn chưa hoàn toàn thống nhất.
Dưới góc độ ngôn ngữ, “cấp” được hiểu là loại hạng trong một hệ thống (xếp
theo trình độ cao thấp, trên dưới). Từ đó, phân cấp quản lý được cắt nghĩa là giao
bớt một phần quyền quản lý cho cấp dưới, quy định nhiệm vụ và quyền hạn cho
mỗi cấp. Như vậy, ở đây có hai nội dung cần lưu ý là chuyển giao thẩm quyền cho
cấp dưới và xác định thẩm quyền của mỗi cấp trong đó.
2
Hiện nay, căn cứ vào cách phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ, ở Việt Nam
hình thành các cấp chính quyền: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Phân
cấp quản lý nhà nước, trước hết được hiểu là phân cấp giữa trung ương với chính
quyền cấp tỉnh; đồng thời, còn bao hàm cả phân cấp giữa các cấp chính quyền địa
phương với nhau.
Theo các văn kiện của Đảng, phân cấp được tiến hành theo hướng phân cấp rõ
hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ và trên cơ
sở nguyên tắc chính quyền trung ương quản lý tập trung một số lĩnh vực theo ngành
dọc được xác định từ yêu cầu thực tế. Đối với một số lĩnh vực khác, trung ương
trực tiếp quản lý một phần, còn một phần phân cấp cho địa phương quản lý. Cũng
với tinh thần đó, hiện nay phân cấp được hiểu là việc chuyển giao nhiệm vụ, thẩm
quyền từ cơ quan quản lý nhà nước cấp trên xuống cơ quan quản lý nhà nước cấp
dưới nhằm đạt mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả quản lý.
Việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn chỉ có thể được tiến hành một khi thẩm
quyền và trách nhiệm của cấp chuyển giao và cấp được chuyển giao đã được xác
định hết sức rõ ràng. Vì vậy, bản thân khái niệm phân cấp phải hàm chứa trong đó
nội dung phân định thẩm quyền của từng cấp hay nói một cách khác, phân định
thẩm quyền là tiền đề cho việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn (hoặc rộng hơn
nữa, điều chỉnh khối lượng nhiệm vụ, quyền hạn cho phù hợp với khả năng và điều
kiện thực tế của mỗi cấp chính quyền).
Trên cơ sở những lập luận đó, có thể đưa ra khái niệm về phân cấp quản lý nhà
nước như sau: Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm
giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa khối lượng và tính
chất thẩm quyền với năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường
chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.
Mối quan hệ giữa trung ương và địa phương là một vấn đề chính trị - pháp lý,
liên quan đến việc xác định hình thức nhà nước và nguyên tắc tổ chức quyền lực
nhà nước trong mô hình nhà nước tương ứng.
Quy chế pháp lý của từng cấp chính quyền được thể hiện ở địa vị hiến định, ở
khối lượng thẩm quyền mà cấp đó đảm nhiệm. Khi thực hiện những thẩm quyền
của mình, mỗi cấp chính quyền có tính độc lập tương đối, song không biệt lập với
các chủ thể quản lý nhà nước khác. Đồng thời, thực tiễn quản lý nhà nước không
loại trừ trường hợp có nhiều chủ thể quản lý có cùng chung khách thể và đối tượng
quản lý, nhưng phạm vi quản lý lại ở mức độ khác nhau. Vì vậy, vấn đề đặt ra là
cần định rõ phạm vi hoạt động của mỗi cấp chính quyền nhà nước. Từ đó, mối quan
hệ giữa trung ương và địa phương, xét về bản chất, thể hiện ở việc phân cấp quản
3
lý nhà nước, có nghĩa là phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước trung
ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương mà trước hết là cấp tỉnh. Đối với một
số trường hợp khác, phân cấp được tiến hành để giải quyết mối quan hệ trực tiếp
giữa trung ương và các cấp chính quyền thấp hơn - cấp huyện hoặc cấp xã.
Mối quan hệ giữa trung ương và địa phương (trước hết là cấp tỉnh) được quyết
định bởi mô hình tổ chức nhà nước và các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quyền
lực nhà nước. Theo Hiến pháp và truyền thống tổ chức Nhà nước, Việt Nam luôn là
một Nhà nước đơn nhất. Đặc trưng của mô hình Nhà nước này là quyền lực nhà
nước được tập trung, thống nhất; Nhà nước là chủ thể duy nhất mang chủ quyền
quốc gia và các cơ quan nhà nước được tổ chức theo thứ bậc và hoạt động theo trật
tự hiến định, luật định. Từ đây, việc xác định, mối quan hệ giữa trung ương - địa
phương phải bảo đảm tuân thủ nguyên tắc về chủ quyền quốc gia là nơi thể hiện
tính tối cao của quyền lực nhà nước trong quan hệ đối nội và tính độc lập của nó
trong quan hệ đối ngoại. Chủ quyền quốc gia đòi hỏi bảo đảm tính thống nhất, tập
trung của quyền lực nhà nước, đặc biệt trong việc quyết định những vấn đề quan
trọng, có liên quan đến đời sống của một bộ phận lớn hoặc của toàn bộ xã hội, đến
lợi ích của Nhà nước. Cũng chính xuất phát từ yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia
mà các cơ cấu lãnh thổ địa phương trong Nhà nước đơn nhất không thể được thừa
nhận quy chế độc lập tuyệt đối và không có khái niệm “Nhà nước trung ương” và
“Nhà nước địa phương” trong mô hình Nhà nước đơn nhất.
Đề cập đến mối quan hệ trung ương - địa phương, cần phải giải quyết một vấn
đề mang tính lý luận là kết hợp hai khía cạnh: tập trung hoá quyền lực nhà nước để
bảo đảm chủ quyền quốc gia và dân chủ vốn là đặc trưng của chế độ nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Tập trung quyền lực là một yếu tố nhằm bảo đảm tính thống nhất
của quyền lực nhà nước, nhằm thực hiện triệt để nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Trong một số lĩnh vực và trường hợp, Nhà nước mà biểu
tượng là các cơ quan trung ương phải thể hiện rõ vai trò của mình bằng cách đưa ra
quyết định cuối cùng để bảo vệ lợi ích của toàn quốc gia, dân tộc. Cũng chính vì
vậy mà một số lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội không thể được phân cấp
cho địa phương như lĩnh vực quốc phòng, tư pháp, ngoại giao, chính sách tiền tệ...
Ngoài mục tiêu bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước, mối quan hệ
trung ương - địa phương phải được xác định sao cho phù hợp với nhu cầu, nguyên
tắc dân chủ, bảo đảm quyền tự chủ, sáng tạo của địa phương và phát huy tối đa
năng lực, tiềm năng của địa phương nhằm góp phần vào sự phát triển toàn diện và
vững mạnh của cả nước. Để kết hợp hai khía cạnh nói trên, vấn đề đặt ra là cần
khai thác một cách khoa học và vận dụng thích hợp nguyên tắc phối hợp trong thực
hiện quyền lực nhà nước vốn là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước
4
ta. Để có cơ chế phối hợp một cách hiệu quả, điều đầu tiên là cần phân định rõ
thẩm quyền của từng chủ thể quản lý nhà nước hay nói một cách khác, tiền đề của
phối hợp phải là tính rõ ràng trong việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn. Bên cạnh
đó, để thực hiện nguyên tắc pháp chế, mối quan hệ trung ương - địa phương phải
được xây dựng dựa trên một nền tảng và cơ sở pháp lý vững chắc. Vì vậy, việc
phân định thẩm quyền phải được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật và
nhiệm vụ cấp bách đặt ra hiện nay là hình thành cơ sở lý luận để xây dựng và tiếp
tục hoàn thiện các nguyên tắc pháp lý, các quy định pháp luật về mối quan hệ giữa
trung ương - địa phương.
Công cuộc đổi mới đất nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế tạo ra những tiền đề và đòi
hỏi phải đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa
phương nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Để đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước hiện nay, cần tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung
ương và địa phương, tập trung vào phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa
Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung
là cấp tỉnh) trên các lĩnh vực chủ yếu nhất: quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát
triển; ngân sách nhà nước; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự
nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức. Trên cơ sở đó, để tiếp tục
phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền địa phương các cấp (tỉnh - huyện - xã).
Giải bài toán phân cấp gắn với giao quyền cho địa phương, theo các chuyên gia,
cần đẩy mạnh phân cấp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền
địa phương với nhau. Phân cấp một cách đồng bộ, thẩm quyền đi đôi với trách
nhiệm, phân cấp nhưng vẫn phải đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất của
chính quyền Trung ương, phân cấp phải đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám
sát của Trung ương với việc đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính
quyền địa phương... chỉ có làm được những điều căn bàn này công cuộc cải cách
chính quyền địa phương mới đem lại những hiệu quả thiết thực.
Để giải quyết những bất cập trong phân cấp hiện nay, nhiều chuyên gia cũng đã
đưa ra mô hình tự quản ở địa phương. Xu hướng chung của thế giới là làm cho "ít
Nhà nước” hơn và tăng tính tự quản của cộng đồng. Theo đó Nhà nước cần tập
trung giải quyết những vấn đề chiến lược quốc kế dân sinh, giải quyết những vấn
đề lớn mà phạm vi cộng đồng không giải quyết nổi, tránh tình trạng ôm đồm quá
5
nhiều công việc trong khi cấp dưới có thể hoàn toàn giải quyết. Vì vậy, những việc
đã phân cấp cho địa phương thì nên giao cho địa phương toàn quyền giải quyết.
Trung ương chỉ thực hiện kiểm tra về tính hợp pháp chứ không nên can thiệp. Phải
phân cấp toàn diện từ nhiệm vụ, tài chính và nhân sự, phân cấp từng bước phù hợp
với năng lực cấp tỉnh. Bên cạnh đó, xác định rõ nguyên tắc phối hợp giữa Chính
phủ và địa phương theo hướng tăng cường phân cấp và nâng cao hiệu quả giám sát
của Chính phủ. "Phân cấp, phân quyền không có nghĩa là làm giảm vai trò của
Trung ương mà ngược lại Trung ương làm đúng việc phải làm.”
Quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phân cấp quản
lý, những năm qua Chính phủ đã có nhiều giải pháp tích cực, cụ thể để đổi mới,
tăng cường phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương. Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp đã được tăng thêm thẩm quyền, trách nhiệm
trong việc quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương; quyết định các dự án đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; phân bổ và
điều hành ngân sách địa phương; quản lý đất đai, tài nguyên, doanh nghiệp; quản lý
các hoạt động sự nghiệp và quyết định một số vấn đề về tổ chức bộ máy, cán bộ
công chức. Từ việc thí điểm phân cấp nhiều hơn cho Thủ đô Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh trong một số lĩnh vực, đã rút ra những bài học bổ ích để tiếp tục đẩy
mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh.
Những kết quả đạt được về phân cấp những năm vừa qua đã phát huy được
tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương; khai thác các nguồn lực góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, phục vụ tốt hơn nhu cầu của tổ chức và lợi ích của nhân dân.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và
chính quyền địa phương các cấp vừa qua xét về tổng thể vẫn chưa đáp ứng được
những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, còn nhiều hạn chế, bất hợp lý:
- Phân cấp nhưng chưa bảo đảm quản lý thống nhất, còn biểu hiện phân tán,
cục bộ; kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; chưa chú trọng việc thanh tra,
kiểm tra đối với những việc đã phân cấp cho địa phương.
- Chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi
cấp chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, tổ chức cung
cấp dịch vụ công, đại diện chủ sở hữu đối với các tổ chức kinh tế nhà nước và tài
sản nhà nước. Chưa xác định rõ trách nhiệm của mỗi cấp, của tập thể và cá nhân
đối với những nhiệm vụ đã được phân cấp.
6
- Phân cấp nhiệm vụ cho cấp dưới, nhưng chưa bảo đảm tương ứng các điều
kiện cần thiết để thực hiện, còn thiếu sự ăn khớp, đồng bộ giữa các ngành, các lĩnh
vực có liên quan, chưa tạo điều kiện thực tế cho địa phương chủ động cân đối các
nguồn lực và các nhu cầu cụ thể của mình.
- Một số nội dung phân cấp đã được pháp luật quy định nhưng chậm được
triển khai thực hiện hoặc thực hiện không triệt để. Mặt khác, các quy định phân cấp
hiện hành chưa phù hợp với thực tiễn của mỗi khu vực, vùng lãnh thổ, chưa phân
biệt rõ sự khác nhau giữa đô thị và nông thôn.
Những hạn chế, bất cập trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ
yếu là do các nguyên nhân: nhận thức, quan điểm về các chủ trương, giải pháp
phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh chưa rõ ràng,
rành mạch, thiếu nhất quán, lo ngại phân cấp mạnh dẫn đến tình trạng cục bộ, cát
cứ, phân tán. Trong tổ chức chỉ đạo còn thiếu quyết tâm, mạnh dạn từ xây dựng,
ban hành thể chế, chính sách đến tổ chức thực hiện; chưa chú trọng tổng kết, đánh
giá, rút kinh nghiệm. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng với yêu cầu
của phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.
Phân cấp quản lý nhà nước là một nội dung của cải cách hành chính và rộng
hơn là đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Vì vậy, nó phải được tiến hành
trên cơ sở những định hướng và quan điểm chỉ đạo xuyên suốt hai quá trình nói
trên, trong đó phải kể đến các nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; tập trung dân chủ; pháp chế. Quản lý nhà nước
đòi hỏi sự phân công lao động để đạt được mục tiêu và hiệu quả quản lý. Để sự
phân công đó đạt được độ chín về mặt khoa học, độ thuyết phục về tính thực tế và
sự hứa hẹn về mức độ hiệu quả, theo tôi, phân cấp cần bám sat và tiến hành theo
các định hương cụ thể sau đây:
1. Phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển
a) Về phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Chính phủ thống nhất quản lý công tác quy hoạch trên phạm vi cả nước. Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp quyết định quy hoạch cấp quốc gia, bao gồm:
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các tỉnh và thành
phố trực thuộc Trung ương; quy hoạch các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng có
ý nghĩa chiến lược; quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng kinh tế; quy hoạch
chung xây dựng các đô thị (từ loại II trở lên); quy hoạch phát triển các khu công
nghiệp, khu công nghệ cao. Các bộ quản lý ngành phối hợp với Bộ Kế hoạch và
Đầu tư xây dựng quy hoạch phát triển ngành, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
7
Bộ trưởng Bộ quản lý ngành quyết định quy hoạch cụ thể phát triển nội bộ ngành,
lĩnh vực theo phân công của Chính phủ.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của cả nước, của ngành, của vùng kinh tế, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng các quy hoạch cấp địa phương, bao gồm:
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của các tiểu vùng lãnh thổ thuộc tỉnh
và của các đơn vị hành chính trực thuộc; quy hoạch cụ thể phát triển ngành trên địa
bàn; quy hoạch xây dựng các đô thị (từ loại III trở xuống), nông thôn của tỉnh trình
Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn, trước khi quyết định.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của cấp nào do cấp đó
quyết định. Chính phủ lập, trình Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của cả nước; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập, trình Hội đồng nhân dân cùng
cấp quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
b) Về phân cấp quản lý đầu tưC
ăn cứ tính chất, phạm vi hoạt động, lĩnh vực đầu tư, quy mô và nguồn vốn đầu
tư mà thực hiện phân cấp cụ thể, không lệ thuộc vào nhóm A, B hoặc C, không áp
dụng cơ chế uỷ quyền của cấp trên cho cấp dưới. Chính quyền cấp tỉnh được quyền
quyết định các dự án đầu tư từ ngân sách địa phương và cấp giấy phép cho các dự
án đầu tư nước ngoài phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng
quản lý của địa phương.
2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân định rõ quyền và trách nhiệm quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước
của các cấp. Chính phủ điều hành ngân sách trung ương do Quốc hội phê chuẩn.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập dự toán, điều chỉnh, phân bổ, quyết toán ngân sách
địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt. Căn cứ Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định một số chế độ, tiêu chuẩn
định mức chi tiêu ngân sách trong trường hợp không trái quy định của pháp luật;
quyết định một số loại, mức lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân phù hợp
với đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương.
Điều chỉnh lại các nguồn thu và tăng tỷ lệ để lại cho địa phương theo hướng để các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt mức phát triển trung bình của cả nước tự cân
đối được chi thường xuyên theo định mức của Chính phủ.
3. Phân cấp quản lý đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước
Phân định rõ quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu
nhà nước của các cấp về đất đai, tài nguyên theo hướng:
8
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước,
quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp tỉnh. Chính quyền địa phương
các cấp trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể về quản lý nhà nước đối với
đất đai, tài nguyên trên địa bàn (trừ những trường hợp có quy định riêng của Chính
phủ); chịu trách nhiệm quản lý sự biến động đất đai và thanh tra, kiểm tra việc sử
dụng đất trên địa bàn.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập quy hoạch, quyết định kế hoạch sử dụng đất;
quyết định hạn mức giao đất, cho thuê đất, thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng
đất của địa phương trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được Chính phủ
phê duyệt; quyết định giá đất cụ thể theo khung giá các loại đất do Chính phủ quy
định.
Phân định rõ quyền quản lý, sử dụng tài sản của các cấp (gắn với trách nhiệm),
theo đó có loại tài sản cấp quốc gia, có loại tài sản cấp tỉnh, có loại tài sản cấp
huyện, có loại tài sản cấp xã. Tài sản của cấp nào do cấp đó quyết định và chịu
trách nhiệm quản lý, sử dụng, định đoạt theo quy định của pháp luật.
4. Phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà nước
Phân định rõ quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu
nhà nước của mỗi cấp chính quyền đối với doanh nghiệp nhà nước tuỳ theo quy
mô, đặc điểm, tính chất và tầm quan trọng của mỗi loại hình doanh nghiệp nhà
nước.
Chính phủ quản lý thống nhất thể chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi và
quyết định hỗ trợ trong những trường hợp cần thiết đối với doanh nghiệp nhà nước
và các tổ chức kinh tế khác. Chính quyền cấp tỉnh quyết định việc sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước do địa phương trực tiếp quản lý theo đề án tổng thể đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với
doanh nghiệp nhà nước trực thuộc.
Thủ tướng Chính phủ thông qua đề án thành lập công ty nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước; quyết định thành lập các tổng công ty nhà nước và các doanh
nghiệp đặc biệt quan trọng; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập
các loại doanh nghiệp nhà nước còn lại.
Đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ cấu quản trị doanh nghiệp nhà nước
cho phù hợp với cơ cấu góp vốn và cơ cấu đại diện chủ sở hữu, bảo đảm đầy đủ
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc
Giám đốc đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị và phải có cơ cấu tổ
chức giám sát phù hợp, có hiệu quả.
9
5. Phân cấp quản lý các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công
Chính phủ thống nhất quản lý chiến lược, quy hoạch, thể chế, chính sách và
thanh tra, kiểm tra các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; chỉ đạo các bộ, ngành tổ
chức cung ứng các dịch vụ công thiết yếu nhất, quan trọng trên phạm vi cả nước và
những dịch vụ công mà chính quyền địa phương không có khả năng, điều kiện thực
hiện.
Phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh quyết định:
- Quy hoạch mạng lưới tổ chức, quyết định thành lập và quản lý các đơn vị sự
nghiệp, dịch vụ công trên địa bàn như: giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá,
thể dục thể thao, dịch vụ công ích vệ sinh, môi trường, nước sạch... và các dịch vụ
phục vụ sản xuất (khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công...);
- Các chủ trương, biện pháp cụ thể để khuyến khích phát triển và đẩy mạnh xã
hội hoá các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công ở các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế,
khoa học công nghệ, văn hoá, thể dục thể thao... để phục vụ tốt hơn nhu cầu của
nhân dân địa phương. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức,
đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công về kế hoạch, tài chính, nhân lực, tổ chức, cán bộ.
Chuyển giao cho chính quyền cấp tỉnh trực tiếp quản lý các đơn vị sự nghiệp
hiện do các bộ, ngành đang quản lý, trừ một số đơn vị sự nghiệp đặc thù, phức tạp,
có tính chất quan trọng, chính quyền địa phương chưa đủ khả năng, điều kiện quản
lý.
Chính quyền các thành phố chịu trách nhiệm quản lý các dịch vụ công cộng
trên địa bàn đô thị; trực tiếp thực hiện các hoạt động đầu tư, xây dựng, khai thác, sử
dụng, duy tu, bảo dưỡng, kiểm tra theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt;
bảo đảm trật tự an toàn giao thông, vệ sinh môi trường...; quyết định chủ trương
khuyến khích phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và phát triển các loại hình dịch vụ
vận tải hành khách công cộng trên địa bàn.
6. Phân cấp quản lý về tổ chức bộ máy và cán bộ công chức.
Trên cơ sở các quy định khung của Chính phủ, chính quyền cấp tỉnh quyết
định việc thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh (trừ một số cơ quan chuyên môn do Chính phủ quy định thống nhất)
và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp huyện, phù hợp với tình hình,
đặc điểm cụ thể của mỗi địa phương; quyết định việc điều chỉnh một số nhiệm vụ
cụ thể giữa các sở, ban, ngành của cấp tỉnh và cấp huyện (không phải là những
nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu theo chức năng của mỗi cơ quan chuyên môn).
10
Căn cứ vào các định mức, tiêu chuẩn biên chế do Chính phủ quy định, chính
quyền cấp tỉnh xác định tổng biên chế hành chính của địa phương trình Chính phủ
quyết định; quyết định tổng biên chế sự nghiệp của tỉnh; quyết định phân bổ chỉ
tiêu biên chế cán bộ, công chức hành chính cho từng cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh và
Ủy ban nhân dân cấp huyện; quyết định các chế độ khuyến khích, thu hút nhân tài,
nhân lực có trình độ cao về làm việc tại địa phương; quyết định cụ thể số lượng cán
bộ chuyên trách, công chức thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định khung của
Chính phủ; quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách
cấp xã phù hợp với đặc điểm, tính chất và khả năng ngân sách của mỗi địa phương.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh và quy trình cán bộ, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm,
cách chức, từ chức đối với người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân và đơn vị sự nghiệp thuộc cấp tỉnh, không phải thoả thuận với các bộ,
ngành liên quan.
Phân cấp quản lý đem lại lợi ích toàn cục vì hệ thống phân cấp quản lý mới
quy định những việc trung ương cần làm, nhất thiết phải làm và những việc trung
ương phải "để" cho địa phương làm. Địa phương được phân cấp mạnh thì sẽ chủ
động trong quản lý, có thể tự mình ra các chủ trương cụ thể phù hợp với tình hình,
điều kiện của nơi đó. Ngoài ra, địa phương sẽ chủ động hơn về nguồn lực tài chính,
tổ chức và cán bộ thực hiện. Khắc phục tình trạng các cơ quan quản lý trung ương
can thiệp vào công việc của địa phương. Cần phải khẳng định rằng nền kinh tế Việt
Nam là nền kinh tế thống nhất không có sự phân biệt rõ ràng giữa kinh tế trung
ương và kinh tế địa phương. Tuy nhiên, thực chất đến nay kinh tế trung ương và địa
phương vẫn tồn tại song song; phân cấp quản lý sắp tới phải khắc phục tình trạng
địa phương chủ nghĩa và tình trạng lợi ích kinh tế đối lập giữa 2 cấp này.
Hiện nay phân cấp quản lý trung ương - địa phương là xu thế phổ biến trên thế
giới. Phân cấp quản lý sẽ khắc phục tình trạng trung ương ôm đồm nhiều việc, quản
lý nhiều việc cụ thể trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá - xã hội, dịch vụ công...
trong khi đó địa phương bị động trong thẩm quyền giải quyết các vấn đề này. Phân
cấp quản lý là để trung ương làm đúng chức năng của mình, chủ yếu tập trung vào
hoạch định chính sách vĩ mô; xây dựng thể chế; thanh tra, kiểm tra... Tổ chức thực
hiện cụ thể, quản lý cụ thể thì chính quyền địa phương do sát dân, sát việc nên có
khả năng quản lý tốt hơn. Phân cấp quản lý nhà nước sẽ làm cho bộ máy nhà nước
thực hiện đúng vai trò chức năng theo đúng cấp của mình, tạo sự năng động trong
việc giải quyết công việc và là một giải pháp góp phần chống quan liêu (căn bệnh
"trầm kha" của bộ máy nhà nước).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tran_ngoc_huy_vu_9283.pdf