-Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì công nghiệp
hóa nông thôn giữ một vai trò quan trọng và khó thực hiện nhất. Nhiệm vụ dạy
nghề nông thôn đóng vai trò quyết định cho sự thành công của công nghiệp hóa
nông thôn . Phải coi công tác dạy nghề nông thôn như là quốc sách hàng đầu.
-Phải hoạch định định hướng phát triển kinh tế cụ thể cho từng địa phương,
từng vùng, sao cho phù hợp vớiđặc thù của địa phương đó, vùng đó. Từ đó xác
định được hướng đầu tư cụ thể cho từng trường dạy nghề ở từng địa phương,
từng khu vực. Việc đầu tư trang thiết bị cho từng trường dạy nghề khác nhau thì
khác nhau, sao cho phù hợp với nhu cầu đào tạo của địa phương mà trường dạy
nghề đó đảm trách.
13 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3277 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Dạy nghề ở nông thôn theo từng đặc thù kinh tế ở từng địa phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
TIỂU LUẬN
Dạy nghề ở nông thôn theo từng đặc
thù kinh tế ở từng địa phương
Trang 2
MỞ ĐẦU
ua nghiên cứu học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội chúng ta nhận ra
rằng, nguyên nhân và động lực cho sự phát triển xã hội là sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố cấu thành lực lượng
sản xuất thì người lao động đóng vai trò quyết định và công cụ lao động giữ vai
trò cực kỳ quan trọng. Như vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội như chiếc
chìa khóa để con người có thể mở cửa những lĩnh vực khác nhau khi nghiên cứu
về lịch sử, xã hội.
Quan tâm hơn nữa đến việc phát triển hệ thống dạy nghề và đảm bảo chất
lượng, gắn yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp với nâng cao ý
thức kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại cũng như năng lực hành
nghề. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc làm trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực của các ngành
các địa phương, đặc biệt khu vực nông thôn.
Giáo dục nghề nghiệp đã phục hồi sau nhiều năm suy giảm, quy mô đào
tạo của dạy nghề cũng như trung học chuyên nghiệp tăng nhanh, tỷ lệ lao động
qua đào tạo có tăng ,tuy nhiên quy mô hiện nay còn rất thấp so với yêu cấu
chuyển đổi cơ cấu lao động trong quá trình công nghiệp hóa, yêu cầu phát triển
đa dạng về ngành nghề, đặc biệt là ở vùng nông thôn để đào tạo được người lao
động có đầy đủ sức khỏe, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng được yêu cầu
làm chủ được những kỹ thuật hiện đại là việc vô cùng khó khăn .
Trình độ dân trí ở nông thôn Việt Nam chúng ta hiện nay còn thấp, thậm chí ở
một số nơi còn quá thấp. Việc dạy chữ, xóa mù đã là việc làm khó khăn thì việc
dạy nghề cho người dân ở nông thôn là việc làm cực kỳ khó khăn mà chúng ta
cần phải làm gấp. Nhận thức được vấn đề này, bản thân tôi xin chọn đề tài này
làm hướng nghiên cứu và làm tiểu luận.
Hướng nghiên cứu của đề tài này là trung giải quyết về cách thức và biện
pháp dạy nghề ở nông thôn theo từng đặc thù kinh tế ở từng địa phương, từng
vùng. Một khi người lao động ở nông thôn được đào tạo nghề, nắm bắt được kỹ
thuật hiện đại thì công cuộc cách mạng công nghiệp hóa nông thôn của chúng ta
sẽ thành công.
Tiểu luận này có 3 chương :
Chương 1 : Lý luận Hình thái kinh tế – Xã hội.
Chương 2 : Vai trò và vị trí của việc đào tạo nghề ở nông thôn, thực trạng
về công tác dạy nghề ở nông thôn Việt Nam hiện nay.
Chương 3 : Cách thức và giải pháp dạy nghề ở nông thôn theo từng đặc
thù kinh tế ở từng địa phương, từng vùng.
Chương 1 : LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI.
1.1. Hình thái kinh tế xã hội là gì ?
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội trong từng giai đọan lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
Q
Trang 3
xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ
sản xuất ấy.
Như vậy:Hình thái kinh tế - xã hội là một xã hội trọn vẹn trong tưng giai
đoạn lịch sử nhất định.
Cấu trúc của một hình thái kinh tế - xã hội gồm: Lực lương sản xuất, quan
hệ sản xuất ( mà những quan hệ sản xuất ấy tạo nên kết cấu kinh tế tức cơ sở hạ
tầng của xã hội) và kiến trúc thượng tầng.
Cho đến nay, lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua các hình
thái kinh tế xã hội sau :
+ HTKTXH công xã nguyên thuỷ : khoảng 4 triệu năm.
+ HTKTXH chiếnm hữu nô lệ : gần 4000 năm.
+ HTKTXH phong kiến : gần 1500 năm.
+ HTKTXH tư bản chủ nghĩa : cho đến nay gần 500 năm.
Một khi hình thái xã hội này được thay thế bằng một hình thái kinh tế xã
hội khác thì xã hội loài người phát triển lên một mức cao hơn. Vì vậy, tìm ra
được nguyên nhân và động lực làm cho hình thái kinh tế xã hội này ra đời thay
cho hình thái kinh tế xã hội khác tức là tìm ra được nguyên nhân và động lực cho
sự phát triển, từ đó định hướng cho đầu tư tương lai. Nếu đầu tư đúng thì kinh tế
xã hội sẽ nhanh phát triển, còn nếu đầu tư sai thì phải trả giá không phải 1 hoặc
vài năm mà là cả một thế hệ.
Để nghiên cứu kỹ hình thái kinh tế xã hội trước tiên chúng ta phải tìm
hiểu về: lực lượng sản xuất ; quan hệ sản xuất ; cơ sở hạ tầng ; kiến trúc thượng
tầng và mối quan hệ giữa chúng.
a. Phương thức sản xuất :
Phương thức sản xuất là cách thức sản xuất ra của cải vật chất. Bao gồm
2 mối quan hệ :
* Quan hệ giữa con người với giới tự nhiên.
* Quan hệ giữa con người với con người.
b. Lực lượng sản xuất :
Tổng hợp sức mạnh của con người tác động vào giới tự nhiên trong quá
trình sản xuất vật chất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ của con
người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất. Lực lượng sản xuất bao
gồm : Tư liệu lao động và đối tượng lao động ; tư liệu lao động gồm: công cụ
lao động và phương tiện lao động.
- Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ phát triển của các yếu tố
tạo nên kết cấu của lực lượng sản xuất, đó là:
+ Sức khỏe của người lao động .
+ Tri thức kinh nghiệm, kỹ năng người lao động.
+ Mức độ hoàn thiện của công cụ lao động.
+ Khả năng khai thác hợp lý đối tượng lao động.
Trình độ của lực lượng sản xuất biến đổi theo chiều hướng ngày càng hoàn
thiện.
* Người lao động : là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất để tạo
nên của cải vật chất cho xã hội. Người lao động có những tiêu chuẩn về : sức
Trang 4
khoẻ, tuổi tác, trí tuệ và trình độ chuyên môn. Ở những quốc gia khác nhau tiêu
chuẩn về ngươi lao động cũng khác nhau.
* Tư liệu sản xuất : Là phần giới tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất.
- Tư liệu lao động : Phần giới tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất vật
chất gồm: công cụ lao động và phương tiện lao động :
Công cụ lao động là những vật trung gian để truyền sức lực từ người lao
động đến với những vật khác trong quá trình sản xuất.
Phương tiện lao động là những vật hỗ trợ con người vận chuyển, bảo quản
trong quá trình sản xuất. Ví dụ như : xe đưa đón công nhân, hệ thống thông gió,
hệ thống chiếu sáng, trang thiết bị bảo hộ lao động.
- Đối tượng lao động là những vật nhận sự tác động của công cụ lao động
trong quá trình sản xuất vật chất như : đất đai, cây cối,…v.v..
Một vật, tuỳ theo trường hợp cụ thể mà nó có thể là đối tượng lao động
hoặc là phương tiện lao động hoặc là công cụ lao động.
Ví dụ :
- Đối với người thợ sửa máy thì chiếc máy cày là đối tượng lao động. Nhưng
đối với người công nhân đang lái máy để cày trên đồng ruộng thì chiếc máy cày
là công cụ lao động. Trong trường hợp dùng máy cày để chuyên chở nông dân
từ nhà ra đồng ruộng để làm thì chiếc máy cày là phương tiện của người nông
dân.
- Sức khoẻ, tuổi tác, trí tuệ và trình độ chuyên môn của người lao động phải
phù hợp với hàm lượng chất xám thể hiện trong công cụ lao động. Nói một cách
khác, giữa người lao động và công cụ lao động phải có sự phù hợp nhất định về
trình độ phát triển. Một khi sức khoẻ, trí tuệ và trình độ chuyên môn của người
lao động được nâng cao, hàm lượng chất xám trong công cụ lao động nhiều thì
nâng suất lao động sẽ tăng lên rất nhiều.
Vì vậy, người lao động đóng vai trò quyết định trong quá trình sản xuất, công cụ
lao động đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình sản xuất vì chính công
cụ lao động quyết định năng suất lao động. Đây là 2 yếu tố chính thể hiện trình
độ lực lượng sản xuất.
c. Quan hệ sản xuất :
The hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm : quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ về quản
lý và phân công lao động ; quan hệ về phân phối sản phẩm.
+ Quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất : được thể hiện qua các hình thức sở
hữu : sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
+ Quan hệ về quản lý và phân công lao động : thể hiện mối quan hệ giữa
người có quyền quản lý và phân công lao động với người chịu sự quản lý và
chấp hành phân công lao động. (Người có quyền quản lý và phân công lao động
là người sở hữu về tư liệu sản xuất, người không sở hữu tư liệu sản xuất thì phải
chịu sự quản lý và phân công.
+ Quan hệ về phân phối sản phẩm : thể hiện mối quan hệ về quyền lợi được
hưởng đối với thành quả lao động làm ra. (Người sở hữu về tư liệu sản xuất thì
phải chịu sự phân phối, không có quyền đòi hỏi trước sự bất công trong phân
phối).
Trang 5
Trong 3 yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất thì yếu tố quan hệ về sở hữu tư
liệu sản xuất đóng vai trò quyết định đối với 2 quan hệ còn lại vì :
Trong 2 yếu tố cấu thành phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố
động và mang tính cách mạng, luôn luôn vận động và phát triển đến trình độ cao
hơn. Quan hệ sản xuất là yếu tố tĩnh mang tính bảo thủ, có đôi lúc nó làm chậm
sự phát triển của lực lượng sản xuất (thông thường vì yếu tố lợi nhuận ). Để so
sánh 2 nền sản xuất, người ta so sánh phương thức sản xuất.
1.2 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất:
a. Trình độ lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất :
* Trình độ của lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất phải tương
xứng như thế ấy, tức là quan hệ sản xuất phải tương ứng với trình độ của lực
lượng sản xuất.
Ví dụ :
Với người lao động mù chữ, công cụ lao động là cái cày, cái cuốc, phương tiện
lao động là chiếc xe bò, đối tượng lao động là ruộng vườn thì cách quản lý và
phân công cũng như phân phối sản phẩm khác với việc người lao động là một kỹ
sư chế tạo máy, công cụ lao động là những chiếc máy, phương tiện lao động là
chiếc xe con để đi làm và đối tượng lao động là sắt thép.
* Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì
quan hệ sản xuất cũng phai thay đổi theo cho phù hợp với trình độ đang có của
lực lượng sản xuất. Khi đó phương thức sản xuất thay đổi. Ở phương thức sản
xuất mới, trình độ của lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển để đến một lúc
nào đó quan hệ sản xuất lại thay đổi, một phương thức sản xuất mới ra đời.
Như vậy, Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định tính chất quan hệ sản xuất,
quyết định sự ra đời và biến đổi của kiểu quan hệ sản xuất, quyết định các hình
thức kinh tế của quan hệ sản xuất.
b. Quan hệ sản xuất tác động ngược lại lực lượng sản xuất :
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất thông qua
việc quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ
chức, quản lý, phân công sản xuất, quy định phương thức phân phối của cải vật
chất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo
hai hướng:
* Nếu quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì
sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và vì thế mà xã hội phát triển theo.
* Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, điều này gây ra kiềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tức là kiềm
hãm sự phát triển của xã hội.
Vì vậy, để phát triển xã hội thì phải phát triển lực lượng sản xuất trong đó
đặc biệt là đầu tư vào người lao động và công cụ lao động. Khi người lao động
có sức khoẻ, trí tuệ và trình độ chuyên môn cao, công cụ lao động hiện đại thì sẽ
tạo cho xã hội nhiều của cải vật chất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng
sản xuất, vì vậy phải không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất thông qua việc
Trang 6
hoàn thiện chính sách sở hữu tư liệu sản xuất, quản lý và phân công lao động
hợp lý khoa học, phân phối sản phẩm hợp lý.
1.3 . Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng :
1.3.1 Những khái niệm:
a. Cơ sở hạ tầng :
Toàn bộ những quan hệ sản xuất trong xã hội tạo nên kết cấu kinh tế của
xã hội hay còn được gọi là cơ sở hạ tầng. Trong một xã hội bao giờ cũng tồn tại
các quan hệ sản xuất sau :
* Quan hệ sản xuất thống trị : Đây là quan hệ sản xuất của phương thức sản
xuất đương thời, giữ vai trò thống trị và chi phối tất cả những quan hệ sản xuất
khác. Quan hệ sản xuất thống trị nào thì chế độ chính trị đó.
* Quan hệ sản xuất tàn dư : là quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất cũ
tồn đọng lại.
* Quan hệ sản xuất mầm mống : là quan hệ sản xuất của phương thức sản
xuất tương lai, nó hình thành và phát triển hoàn thiện trong hình thái kinh tế xã
hội đương thời đến một lúc nào đó hình thái kinh tế xã hội mới thay thế hình
thái kinh tế xã hội đương thời và quan hệ sản xuất mầm mống sẽ trở thàn quan
hệ sản xuất thống trị.
Ví dụ : Trong giai đoạn hiện nay, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã
hình thành và đang hoàn thiện phát triển trong hình thái kinh tế xã hội tư bản
chủ nghĩa.
b. Kiến trúc thượng tầng :
Là hệ tư tưởng xã hội và những thiết chế tương ứng với hệ tư tưởng ấy.
Hệ tư tưởng xã hội được thể hiện qua các học thuyết và lý luận mà xã hội đó sử
dụng. Những thiết chế tương ứng là những tổ chức người và những phương tiện
vật chất mà tổ chức ấy sử dụng để thể hiện tư tưởng .
* Hệ tư tưởng xã hội bao gồm các học thuyết :
- Về chính trị.
- Về pháp quyền.
- Về tôn giáo.
- Các ngành khoa học.
* Những thiết chế tương ứng với các quan điểm, tư tưởng và những phương
tiện vật chất mà họ sử dụng để thực hiện tư tưởng, như:
- Nhà nước.
- Giáo hội.
- Các viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học.
- Những phương tiện vật chất như nhà, xưởng, đền đài, xe cộ…
Các học thuyết về chính trị và pháp quyền được thể hiện qua thiết chế nhà nước
và các công sở, học thuyết về tôn giáo thể hiện qua giáo hội và nhà thờ, đền,
chùa…, các học thuyết về khoa học thể hiện qua các viện, các trung tâm nghiên
cứu.
Các yếu tố trong kiến trúc thượng tầng luôn thay đổi trong vai trò thống trị
theo từng giai đoạn lịch sử.
1.3.2 Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Trang 7
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng :
* Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng sẽ tương ứng như vậy.
* Khi cơ sở hạ tầng biến đổi cơ bản sẽ dẫn đến sự biến đổi về cơ bản của kiến
trúc thượng tầng.
Ví dụ :
Nếu quan hệ sản xuất phong kiến là quan hệ sản xuất thống trị thì toàn bộ
hệ tư tưởng và thiết chế tương ứng cũng phải thay đổi theo cho đúng kiểu tư bản
chủ nghĩa.
b. Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng :
Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng thể hiện qua chức năng xã
hội của nó. Cụ thể:
* Kiến trúc thượng tầng luôn duy trì, củng cố, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ
tầng đã sinh ra nó . Trước hết và quan trọng nhất là với quan hệ sản xuất thống
trị.
* Kiến trúc thượng tầng luôn đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ và những gì
ảnh hưởng xấu đến vị trí, vai trò, cơ sở hạ tầng của xã hội đương thời
Ví dụ :
Nhà nước tư bản chủ nghĩa luôn duy trì, bảo vệ và phát triển quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, lợi ích của các tập đoàn tư bản luôn đặt lên hàng đầu.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo
hai hướng: Nếu nó tác động cùng chiều với sự vận động của các quy luật kinh
tế thì nó sẽ thúc đẩy sự hoàn thiện cũa cơ sở hạ tầng, nếu không kết quả sẽ
ngược lại.
Từ tất cả những nội dung trên, ta đi đến kết luận :
Lực lượng sản xuất tự nó thường xuyên biến đổi theo chiều hướng ngày
càng phát triển, nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất
định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi theo cho phù hợp. Quan hệ sản xuất thay
đổi tức là cơ sở hạ tầng thay đổi thì dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng
tầng. Đến đây, tất cả các yếu tố tạo nên một hình thái kinh tế xã hội đã thay đổi,
tức là hình thái kinh tế xã hội này đã chuyển sang hình thái kinh tế xã hội khác,
xã hội này đã chuyển sang một xã hội khác cao hơn.
Như vậy, sự phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử tự nhiên,
tức là nó không theo ý muốn chủ quan của con người mà tuân theo những quy
luật khách quan, trong đó và trước hết và quan trọng nhất là quy luật về: lực
lượng sản xuất – quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng.
Nói một cách khác là sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình
lịch sử tự nhiên, nó không tuân theo ý muốn chủ quan của con người mà tuân
theo quy luật khách quan.
Như vậy lần đầu tiên trong lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã vạch
ra một cách khoa học nguồn gốc, động lực của sự phát triển xã hội, tìm ra những
nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi của những hiện tượng xã hội,
đặt cơ sỡ khoa học cho các khoa học về xã hội.
1.4. Vận dụng vào xã hội ta hiện nay :
Trang 8
Hiểu rõ được lý luận hình thái kinh tế xã hội, từ đó ta có thể hiểu được sự
vận dụng của Đảng và Nhà nước ta đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay :
a. Tập trung phát triển lực lượng sản xuất :
Khoảng 2020 , về cơ bản Việt Nam phải trở thành nước công nghiệp,
Với nhiệm vụ của công nghiệp hóa là vừa chuyển kinh tế nông nghiệp sang kinh
tế công nghiệp, vừa phải đưa một số lĩnh vực sản xuất đi vào kinh tế tri thức.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế tất dẫn đến thay đổi cơ cấu lao động.Do vậy,
nhiệm vụ nâng cao dân trí lúc này không đơn thuần là việc tăng số năm đi học
trung bình ( tức là mặt bằng dân trí hiểu theo nghĩa thông thường) của người
dân, mà về cơ bản là thay đổi cơ cấu học vấn, cơ cấu tay nghề của đội ngũ lao
động .
Thông qua quan điểm công nghiệp hoá chúng ta lựa chọn những ngành
công nghệ thích hợp, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin tạo
tiềm năng nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới. Đồng thời, chúng ta cũng đẩy
mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp, mở mang dân trí và dạy nghề nông thôn.
Giải phóng và khai thác nhanh mọi khả năng của lực lượng sản xuất, phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phong phú và đa dạng tạo ra nguồn sản
phẩm và nguồn tích luỹ, đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay.
b. Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất :
Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Chế độ công hữu phải là kết quả hợp quy luật của quá trình xã hội hoá thực sự
chứ không thể tạo ra bằng biện pháp hành chính,cưỡng ép. Đi đôi với việc đa
dạng về hình thức sở hữu và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành chế độ
công hữu hợp quy luật, chúng ta thực hiện chính sách cải cách tiền lương, chính
sách cán bộ, cải cách quản lý và phân công lao động. Thực hiện phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
c. Hoàn thiện kiến trúc thượng tầng :
Thực hiện chính sách cải cách hành chính, cải tổ bộ máy nhà nước, chỉnh
đốn Đảng và chuẩn hoá cán bộ nhà nước.
Chương 2 : VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA VIỆC ĐÀO TẠO NGHỀ Ở NÔNG
THÔN, THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC DẠY NGHỀ Ở NÔNG THÔN
VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1 Vai trò, vị trí của việc đào tạo nghề ở nông thôn:
Nói đến công nghiệp hóa là nói đến một cuộc cách mạng công nghiệp
toàn diện, trong đó có công nghiệp hóa nông thôn. Công nghiệp hóa nông thôn
là yếu tố không thể thiếu trong qúa trình công nghiệp hóa đất nước. Bỡi vì, Đặc
Trang 9
thù ở Việt Nam chúng ta nền sản xuất nông nghiệp chiếm một tỷ trọng khá lớn,
mà sản xuất nông nghiệp thì tập trung ở nông thôn. Nông thôn Việt Nam chúng
ta còn quá lạc hậu, trình độ dân trí còn quá thấp.
Tỷ lệ người lao động qua đào tạo ở nước ta còn thấp, chỉ có hơn 10%. Với
xã hội công nghiệp, bất cứ làm nghề gì cũng phải qua đào tạo . Số lao động ở
khu vực nông nghiệp của ta rất lớn, song những người làm nghề nộng hầu hết
không qua đào tạo
Muốn đẩy mạnh được công nghiệp hóa nông thôn thì việc đào tạo nghề
cho người lao đông ở nông thôn là rất cần thiết. Vì lẽ chúng ta có thể xây dựng
và mở rộng đường sá, xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, đưa máy móc, trang
thiết bị kỹ thuật về đến nông thôn và xây dựng ở nông thôn những nhà máy hiện
đại trong một thời gian ngắn. Nhưng để đào tạo được người lao động có đầy đủ
sức khỏe, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng được yêu cầu làm chủ được
những kỹ thuật hiện đại thì cần phải có một qúa trình lâu dài chứ không phải
muốn làm là làm được ngay.
Ngày 26/03/1998 Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 67/1998/QĐ-
TTg về việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về đào tạo nghề từ Bộ Giáo
dục - Đào tạo sang Bộ Lao động Thương binh và xã hội, ngày 23/05/1998 Thủ
tướng chính phủ đã có thêm nghị định số 33/1998/NĐ-CP về việc tái thành lập
Tổng cục dạy nghề. Điều này nói lên tầm quan trọng của công tác dạy nghề và
sự quan tâm của Nhà nước đối với công tác dạy nghề. Dạy nghề nông thôn là
một mảng của công tác dạy nghề này.
2.2 Thực trạng về công tác dạy nghề ở nông thôn Việt Nam hiện nay:
Đi đôi với việc tái thành lập Tổng cục dạy nghề, hệ thống các trường dạy
nghề cũng được thành lập trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, công tác đào tạo
nghề còn nhiều bất cập, đặc biệt là công tác đào tạo nghề ở khu vực nông thôn
gặp phải muôn vàn khó khăn.
Ngoài những khó khăn nhìn chung trong công tác đào tạo nghề như :
- Chưa có chương trình đào tạo thống nhất trên phạm vi toàn quốc cho
từng nghề hoặc từng nhóm nghề cụ thể, mỗi trường đều phải tự xây dựng
chương trình đào tạo riêng, thiếu sự thống nhất và định hướng cụ thể.
- Trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy và học tập phần đông còn sơ
sài, thiếu thốn, chưa theo kịp nhu cầu thực tế ngoài xã hội. Chỉ dạy được những
nghề mà nhà trường có trang thiết bị giảng dạy, chứ chưa có đủ khả năng giảng
dạy theo nhu cầu người học và nhu cầu xã hội.
- Công tác giáo dục và đào tạo không phù hợp với xã hội trong giai đọan
chuyển tiếp. Chỉ có một số ít trường dạy nghề thực hiện được công tác đào tạo
nghề theo địa chỉ, tức là đào tạo đúng người đúng nghề và sau khi lành nghề là
có nhà máy, xí nghiệp nhận về làm việc.
Giáo dục nghề nghiệp kém phát triển, nội dung còn lạc hậu, học sinh sinh
viên ra đời chưa được chuẩn bị tốt để hành nghề, không đáp ứng được lao động
kỹ thuật, nhất là ở các cơ sở liên doanh hay nước ngoài. Phần đông các trường
dạy nghề, chỉ có thể giảng dạy một số ít nghề nhất định, tức là giảng dạy những
gì mình có chứ không phải dạy theo cầu người học và nhu cầu xã hội.
Trang 10
Liên kết kém giữa giáo dục kỹ thuật và dạy nghề với sản xuất và việc làm.
Công tác đào tạo nghề ở nông thôn còn gặp những khó khăn khác như :
- Để có thể học được một nghề nhất định, đòi hỏi người học phải đạt tối
thiểu một trình độ văn hóa nhất định. Trong khi đó, ở nông thôn mặt bằng trình
độ văn hóa còn qúa thấp.
- Ở các địa phương, đội ngũ giáo viên ở các trường dạy nghề còn thiếu
trầm trọng, chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý, đã có trường hợp
điều một ông cán bộ phòng Văn hóa thông tin về làm hiệu trưởng trường dạy
nghề.
- Chưa có một định hướng cụ thể về danh mục nghề cần phải đào tạo cho
người lao động theo đặc thù kinh tế của từng địa phương cụ thể, từng vùng kinh
tế cụ thể. Đòi hỏi phải làm được như vậy, có như vậy, mới phù hợp với sự phát
triển kinh tế trong tương lai của từng địa phương, từng vùng.
Chương 3 : CÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP DẠY NGHỀ Ở NÔNG THÔN
THEO TỪNG ĐẶC THÙ KINH TẾ Ở TỪNG ĐỊA PHƯƠNG, TỪNG
VÙNG.
Đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn là nhiệm vụ vừa mang tính
cấp bách và cũng là nhiệm vụ lâu dài để đảm bảo công cuộc công nghiệp hóa
nông thôn thành công.
3.1 Giải pháp lâu dài :
- Xây dựng định hướng phát triển kinh tế cụ thể cho từng địa phương, từng
vùng, sao cho phù hợp với đặc thù của địa phương đó, vùng đó. Việc này đồng
nghĩa với việc sẽ xây dựng những nhà máy, xí nghiệp trong tương lai phù hợp
với đặc thù của địa phương đó, vùng đó . Từ đó xác định được hướng đầu tư cụ
thể cho từng trường dạy nghề ở từng địa phương, từng khu vực. Việc đầu tư
trang thiết bị cho từng trường dạy nghề khác nhau thì khác nhau, sao cho phù
hợp với nhu cầu đào tạo của địa phương mà trường dạy nghề đó đảm trách.
Tránh cách làm cào bằng giống nhau như cách làm lâu nay gây lãng phí và
không hiệu qủa .
- Bước vào thế kỷ XXI, chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định
trong việc phát huy nội lực, phát triển đất nước, hợp tác và cạnh tranh trong hội
nhập khu vực và quốc tế, điều đó đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao học vấn của
người lao động. Vì vậy, việc phổ cập trung học cơ sở trong giai đoạn 2006 –
2010 có ý nghĩa chiến lược quan trọng, nhằm tạo nền cho sự phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Việc mở mang dân trí, xóa mù chữ ở nông thôn
chúng ta đã đạt được kết quả tương đối khả quan. Tuy nhiên, để người lao động
nông thôn có thể tiếp thu được những kiến thức kỹ thuật mới thì điều đó vẫn
chưa đủ. Cần có một chiến lược lâu dài và cụ thể trong việc nâng cao trình độ
Trang 11
văn hóa của người lao động ở nông thôn. Đảm bảo người lao động nông thôn có
thể tiếp thu những kiến thức kỹ thuật mới một cách dễ dàng.
- Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế cụ thể cho từng địa phương, từng
vùng. Từ đó hoạch định một kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên dạy nghề giỏi
về chuyên môn và nhiệt tâm với nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu đào tạo của
từng địa phương, từng vùng.
Đồng thời cũng cần phải có những chế độ ưu đãi đặc biệt đối với những giáo
viên dạy nghề ở nông thôn, nếu chế độ đãi ngộ không phù hợp dễ xảy ra hiện
tượng giáo viên bỏ lớp dạy ở nông thôn để trở về thành phố hoạt động nghề
nghiệp với mức sống cao hơn.
- Từng bước xây dựng và hoàn thiện chương trình đào tạo cho từng nghề,
từng nhóm nghề cụ thể. Từng bước trang bị những trang thiết bị giảng dạy và
học tập hiện đại, phù hợp với yêu cầu trong thực tế đào tạo nghề.
3.2 Giải pháp trước mắt :
- Lập mô hình các lớp tập huấn kiến thức cho nông dân theo chuyên đề cũng
có tác dụng đem tri thức đến đông đảo nông dân phục vụ phát triển sản xuất
nông nghiệp và xây dựng đời sống văn hóa trong gia đình nộng dân và các thôn,
ấp, bản. Như mô hình dạy nghề VAC để tập huấn cho nông dân về kỷ thuật
chăn nuôi, làm vườn, bảo quản, sơ chế sản phẩm.
- Nhà nước và chính quyền địa phương cần phải có sách lược xây dựng những
nhà máy, xí nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, chế biến thức ăn gia súc . . .
Yêu cầu về trình độ chuyên môn của người lao động ở các nhà máy thuộc loại
này không cao, rất phù hợp với trình độ văn hóa của người lao động ở nông thơn
hiện nay. Điều này đáp ứng được lượng lao động dôi thừa ở nông thôn.
- Tạo sự thu hút giáo viên dạy nghề về nông thôn công tác bằng những chế độ
ưu đãi đặc biệt . Chính quyền địa phương cần quan tâm sâu sát và tích cực hơn
nữa đối với công tác đào tạo nghề ở địa phương mình, tránh làm qua loa đại khái
.
- Các trường dạy nghề ở các địa phương phải luôn luôn chủ động tích cực
trong công tác đào tạo. Phải thực hiện đúng tiêu chí : Giảng dạy những gì mà
người học cần, xã hội cần chứ không phải giảng dạy những gì mình có. Khi học
nghề xong, người lao động phải áp dụng được những điều đã học vào công việc,
nếu không sẽ xảy ra lãng phí như lâu nay đã xảy ra.
- Đặc biệt có thể phát triển các trường nghề ngay trong các doanh nghiệp và
các cơ sở sản xuất mục đích đào tạo những lao động kỹ thuật chưa lành nghề,
làm việc ở những vị trí lao động phụ trợ hoặc những nghề đơn giản theo nhu
cầu của cơ sở sản xuất đó. Giáo viên là những cán bộ kỹ thuật, công nhân có
trình đô cao được cơ sở sản xuất cử ra trực tiếp tham gia giảng dạy. Quá trình
thực tập của học sinh cũng được tiến hành ngay ở những vị trí lao dộng cụ thể
có nhu cầu đào tạo của cơ sở sản xuất.
- Phải có chính sách khuyến khích học nghề mạnh hơn nữa và tích cực vận
động nhiều hơn nữa. Lâu nay chúng ta có chính sách khuyến khích học nghề
nhưng chưa kích thích được người học bỡi nhiều nguyên do, trong đó có nguyên
do học nghề xong thì người lao động cũng không áp dụng được những điều đã
Trang 12
học vào công việc hàng ngày của mình, những điều đã học không phù hợp với
nhu cầu người học.
- Tiếp tục phát huy các trung tâm hướng nghiệp, tìm việc làm, các câu lạc bộ
nghề, mở nhiều lớp ngắn hạn tại các khu dân cư , nhất là các lớp dạy nghề
truyền thống ( có kết hợp hiện đại hóa)
- Hiện nay một số nông thôn đang bị đô thị hóa nên cần xây dựng chương trình
dạy nghề phù hợp cho các nông dân độ tuổi trên 30, nhất là lao động nữ
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, ta có thể rút ra một số kết luận :
- Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì công nghiệp
hóa nông thôn giữ một vai trò quan trọng và khó thực hiện nhất. Nhiệm vụ dạy
nghề nông thôn đóng vai trò quyết định cho sự thành công của công nghiệp hóa
nông thôn . Phải coi công tác dạy nghề nông thôn như là quốc sách hàng đầu.
- Phải hoạch định định hướng phát triển kinh tế cụ thể cho từng địa phương,
từng vùng, sao cho phù hợp với đặc thù của địa phương đó, vùng đó. Từ đó xác
định được hướng đầu tư cụ thể cho từng trường dạy nghề ở từng địa phương,
từng khu vực. Việc đầu tư trang thiết bị cho từng trường dạy nghề khác nhau thì
khác nhau, sao cho phù hợp với nhu cầu đào tạo của địa phương mà trường dạy
nghề đó đảm trách.
- Phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên dạy nghề giỏi về chuyên môn và
chuyên môn đó phù hợp với nhu cầu đào tạo nghề của từng địa phương, từng
vùng. Đồng thời cũng cần phải có những chế độ ưu đãi đặc biệt đối với những
giáo viên dạy nghề ở nông thôn.
- Kết hợp giảng dạy ở trường phổ thông với việc học nghề tại cơ sở sản xuất
để tăng năng lực thích nghi cùa lao động ( năng lực bảo đảm được tuyển dụng).
- Chính quyền địa phương cần quan tâm sâu sát và tích cực hơn nữa đối với
công tác đào tạo nghề ở địa phương mình . Phải coi công tác dạy nghề như là
chìa khóa để phát triển kinh tế ở địa phương mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ giáo dục và đào tạo, Triết học tập 1.2.3, Nhà xuất bản chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003.
[2] Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản Chính
Trị quốc gia,Hà Nội, 2003.
Trang 13
[3] Tiến sỹ: Lê Thanh Sinh, Phép biện chứng duy vật với quản lý doanh nghiệp,
Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
[4] PGS .TS Vũ Tình, Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noi_dung_6709.pdf