Tư duy tập hợp lực lượng của Việt Nam trong giai đoạn 1986 – 1995 đã có những
thay đ ổi phù hợp với tình hình quốc tế, tình hình trong nước và nhu cầu đổi mới nội
tại. Quan điểm ''khép kín'' trong thế đối đầu trước đây thay thế bằng quan điểm mở
cửa, hội nhập, phát triển mạnh mẽ quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng
và khu vực, tham gia tích cực vào đời sống quốc tế. Một trong những biểu hiện rõ nét
nhất kết quả của sự đổi mới tư duy này thành công của nước ta trong việc gia nhập
ASEAN, hoà mình vào dòng chảy khu vực hoá diễn ra hết sức sôi nổi, biểu trưng cho
xu thế chung là hoà bình và hợp tác. Thành công này và những thành tựu mà Việt Nam
đạt được sau khi gia nhập ASEAN đã chứng tỏ tính sáng suốt của việc đổi mới tư duy
tập hợp lực lượng sau năm 1986: tư duy ý thức hệ dẫn đến việc phân loại bạn – thù
thông thường giản đơn một chiều đã được thay thế bằng tư duy đặt lợi ích quốc gia –
dân tộc lên trên hết, trở thành nhân tố quyết định.
13 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5973 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng của Việt Nam giai đoạn 1986 – 1995 trong việc gia nhập ASEAN, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng của Việt Nam
giai đoạn 1986 – 1995 trong việc gia nhập ASEAN
TÓM TẮT BÀI TIỂU LUẬN
Với đề tài “Đổi mới tư duy đối ngoại từ năm 1986 đến nay”, bài tiểu luận của tôi
tập trung làm rõ vấn đề Đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng của Việt Nam giai
đoạn 1986 – 1995 trong việc gia nhập ASEAN. Đặt vấn đề nghiên cứu trong bối
cảnh thế giới, khu vực và tình hình trong nước giai đoạn này, bài tiểu luận đặt ra và
giải quyết hai câu hỏi cụ thể sau: Một là, sự đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng của
Việt Nam trong giai đoạn này dựa trên những cơ sở nào? – Câu trả lời là do những vận
động kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước có những biến chuyển nhanh chóng,
phức tạp. Hai là, tư duy mới về tập hợp lực lượng biểu hiện như thế nào trong việc
Việt Nam gia nhập ASEAN giai đoạn 1986 – 1995? – Từ 1986 – 1991, Việt Nam tuy
đã có hướng mở rộng quan hệ với các nước những vẫn còn giữ tư duy tập hợp lực
lượng trên cơ sở ý thức hệ. Đến 1991 – 1995, Việt Nam đã nhất quán tư duy “sẵn sàng
làm bạn” với tất cả các nước, quan hệ Việt Nam – ASEAN trên cơ sở đó đã được cải
thiện và phát triển lên một tầm cao mới. Tóm lại, việc thay đổi tư duy về tập hợp lực
lượng đã tạo ra những bước chuyển mình mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới. Gia nhập ASEAN, một hệ quả của việc đổi mới tư duy
này, tạo tiền đề vô cùng thuận lợi cho Việt Nam trên đường phát triển.
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đổi mới tư duy đối ngoại là một trong những
vấn đề được đặc biệt chú trọng. Kể từ cột mốc Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986),
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung và đổi mới tư duy đối ngoại, trong đó
phải kể đến tư duy về vấn đề tập hợp lực lượng, nói riêng đã có những thay đổi mang
tính bước ngoặt. Việt Nam ta từ chỗ chỉ “chơi” với các nước nội khối xã hội chủ nghĩa,
phân biệt bạn – thù một chiều đã chuyển sang mở rộng và phát triển hợp tác với tất cả
các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Rõ ràng thay đổi này tạo ra không gian hợp tác và phát triển
rộng mở hơn cho Việt Nam, phát huy được bài học kinh nghiệm quý báu là kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong phạm vi và thời gian có hạn, với khả năng nghiên cứu còn rất nhiều hạn
chế, bài tiểu luận của tôi chỉ đưa ra được những cái nhìn khái quát nhất về Đổi mới tư
duy về tập hợp lực lượng của Việt Nam giai đoạn 1986 – 1995 trong việc gia nhập
ASEAN, với các nội dung chính sau:
I. Cơ sở đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng
1. Tình hình thế giới và khu vực
2. Tình hình trong nước
II. Đổi mới tư duy tập hợp lực lượng với ASEAN và thực tiễn triển khai trong
giai đoạn 1986 – 1995
1. Giai đoạn 1986 – 1991
2. Giai đoạn 1991 – 1995
Bài tiểu luận chắc chắn còn có nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp
của các thầy cô.
Sinh viên trình bày
Nguyễn Phạm Thanh Phương
II. Cơ sở đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng
1. Tình hình thế giới và khu vực
a) Tình hình thế giới
Cuối thập niên 80 – đầu thập niên 90 của thế kỷ XX có những dấu hiệu rõ rệt dự
báo sự kết thúc của thời kỳ Chiến tranh lạnh với sự tồn tại của trật tự hai cực chi phối
quan hệ quốc tế kéo dài mấy thập kỷ như việc nối lại gặp gỡ cấp cao giữa hai cường
quốc đứng đầu hai cực Mỹ - Xô, xu thế tăng cường đối thoại khu vực và sự khủng
hoảng nghiêm trọng ở một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Cục diện chính
trị thế giới vì thế mà thay đổi nhanh chóng, phức tạp. Trong bối cảnh đó, các nước lớn
bắt đầu tiến hành điều chỉnh chiến lược theo hướng đẩy mạnh hòa hoãn, cải thiện quan
hệ với nhau, tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh từ trong nội bộ, chú trọng phát
triển nội lực và chạy đua kinh tế. Các nước đều điều chỉnh đường lối, tập trung phát
triển kinh tế quốc gia, tăng cường hợp tác với nhau trên những lĩnh vực các bên cùng
có lợi, đồng thời đấu tranh nhằm hạn chế những bất đồng để bảo vệ lợi ích kinh tế của
nước mình. Ưu tiên phát triển kinh tế trở thành một trong những xu thế chủ đạo trong
quan hệ quốc tế.
Tiến trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên hầu khắp các lĩnh vực từ
kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa,… Đặc biệt, những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ bắt đầu từ cuối những năm 70 đã thúc đẩy quá trình phân
công lao động quốc tế chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu với sự chuyên môn hóa
ngày càng gia tăng. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã thúc đẩy xã hội hóa sản
xuất vật chất, tạo ra những bước nhảy vọt về tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, đẩy mạnh việc cơ cấu lại các ngành kinh tế, tạo ra nhiều ngành kinh tế mới và
thúc đẩy kinh tế tri thức.1 Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế
cũng phát huy vai trò ngày càng lớn đối với sự phát triển của từng quốc gia.
Tình hình kinh tế và chính trị thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, đặc biệt, sự sụp
đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô năm 1991 đã tác
động mạnh đến trật tự thế giới nói chung và đến các nước đồng minh trong khối xã hội
chủ nghĩa nói riêng. Việt Nam cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng đó, dẫn đến quan
niệm đồng minh, tập hợp lực lượng của ta cũng có nhiều biến chuyển mạnh.
1 Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 320.
b) Tình hình khu vực
Cùng với toàn cầu hóa, quá trình khu vực hóa cũng phát triển mạnh, trong đó
nhân tố kinh tế ngày càng có vị trí quan trọng trong mối quan hệ giữa các quốc gia nói
chung và các nước trong khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, có tốc độ tăng trưởng cao trên
thế giới, các nước trong khu vực nhận thức được tầm quan trọng của việc thúc đẩy
phát triển kinh tế và hợp tác, mong muốn ùng tồn tại hòa bình.
Từ đầu thập niên 80, khu vực Đông Nam Á đã có những dấu hiệu đi vào hòa bình
và ổn định. Mối quan hệ căng thẳng giữa ASEAN và Đông Dương đã bắt đầu được cải
thiện, cả hai phía thể hiện những nỗ lực đối thoại bắt đầu từ 1985. Tuy nhiên, giai đoạn
1986 – 1991, vấn đề Campuchia lại trở thành một trở ngại lớn trong quá trình bình
thường hóa quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực. Với việc Việt Nam rút
hết quân khỏi Campuchia năm 1989 và đến khi Hiệp định Pari về Campuchia được ký
kết vào tháng 10/1991 thì trở ngại này mới được gỡ bỏ. Quan hệ Việt Nam – ASEAN
bắt đầu có những chuyển biến tích cực, mở ra những triển vọng hợp tác mới.
Năm 1991, sự tan rã của Liên bang Xô Viết làm cán cân so sánh lực lượng thế
giới nghiêng hẳn về một bên. Trong tình hình có nhiều biến động như thế, các cường
quốc đều bắt đầu giảm dần sự hiện diện quân sự tại Đông Nam Á, tạo ra khoảng trống
quyền lực ở khu vực. Do đó, vấn đề quan ngại chung của các nước trong khu vực lúc
này không chỉ là làm thế nào để tập trung ổn định kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội
trong mỗi nước mà còn đặt ra nhu cầu hợp tác để phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh,
ngăn chặn nguy cơ can thiệp của nước lớn lên khu vực. Quan hệ giữa các nước trong
khu vực đã “thoát khỏi” cái bóng ý thức hệ, vấn đề được quan tâm thúc đẩy hàng đầu
là “bảo đảm được môi trường quốc tế thuận lợi và giữ được các khu vực thị trường
truyền thống, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của mình trong những năm
70 – 80”2. Việc nối lại quan hệ giữa hai khối trong khu vực là ASEAN và Đông
Dương là một đòi hỏi bức thiết và trở thành một chính sách quan trọng của cả hai phía.
* Tiểu kết: Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới cùng với những thành
tựu khoa học – công nghệ hiện đại và quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra sâu
rộng làm cho nhu cầu đối thoại, hợp tác ngày càng gia tăng và trở nên tất yếu. Hơn
nữa, cục diện chính trị thế giới chuyển biến mau lẹ, phức tạp với việc trật tự đối đầu
2 TS. Vũ Dương Huân, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vi sự nghiệp đổi mới (1975 – 2000), Học viện Quan hệ
Quốc tế, Hà Nội, 2002, tr. 135 – 136.
hai cực đi dần đến hồi cuối và rồi chấm dứt hoàn toàn, mở ra một trang mới trong quan
hệ quốc tế hiện đại, đòi hỏi các quốc gia phải kịp thời nhìn nhận và điều chỉnh lại tư
duy tập hợp lực lượng để ứng phó với tình hình mới, bắt kịp xu thế của thời đại, bảo vệ
lợi ích quốc gia – dân tộc.
2. Tình hình trong nước
a) Thuận lợi
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, trong đó có đổi mới về tư duy về đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội VI được xem là cột mốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc sau ngày thống nhất đất nước.
Những thành tựu thu được qua 5 năm đầu tiến hành đổi mới 1986 – 1991 đã tạo
thế và lực mới cả ở bên trong lẫn bên ngoài. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đã được tạo ra. Với chính sách mở cửa, hội nhập, đa dạng hóa quan
hệ, Việt Nam đã chủ động phá thế bao vây và cô lập, từng bước mở rộng quan hệ quốc
tế, tăng cưởng khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế.
Năm 1991 với cột mốc đáng lưu ý là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
(6/1991) đánh dấu một bước quan trọng trong đổi mới tư duy đối ngoại, nhất là hình
thành cách tiếp cận mới về đặc điểm, tính chất của thời đại, cơ bản hình thành đường
lối, chính sách đối ngoại thời kì đổi mới: đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính
sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá theo tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất
cả các nước trong cộng động thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Sau
Đại hội VII, tình hình thế giới chuyển biến nhanh chóng, phức tạp và cơ bản, tác động
mạnh tới Việt Nam: Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ.
b) Thách thức
Mặc dù bắt đầu tiến hành đổi mới từ năm 1986 và thu được những thành tựu
bước đầu đáng khích lệ trong giai đoạn 1986 – 1991 nhưng nước ta vẫn phải đối mặt
với tình trạng bị bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế. Nền kinh tế nước ta
còn trì trệ, tỉ lệ lạm phát vẫn ở mức cao, tình trạng thiếu hụt lương thực vẫn diễn ra. Tư
duy mới về nền kinh tế thị trường đã hình thành nhưng còn chưa hoàn thiện, cơ sở vật
chất kỹ thuật của nước ta còn quá thiếu thốn và nghèo nàn trong giai đoạn đầu của quá
trình đổi mới.
Sự tan rã của khối xã hội chủ nghĩa khiến Việt Nam lâm vào nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế với việc nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đãi về giá chấm dứt, nợ
nước ngoài phải trả tăng, có sự đảo lộn lớn về thị trường xuất nhập khẩu, về nhiều
chương trình hợp tác kinh trế và nhiều hợp đồng về lao động, trong một thời gian ngắn
phải chuyển một phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị trường truyền thống
sang các thị trường mới, chịu tác động lớn về biến động cung – cầu và giá cả thị
trường của thị trường thế giới; trong khi còn bị một số nước bao vây cấm vận.3 Những
thay đổi này không những gây ra những thách thức về kinh tế - xã hội mà còn gây ra
nguy cơ mất ổn định chính trị khi có một bộ phận nhân dân bắt đầu nghi ngờ về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam khi mà những chỗ dựa từ “các anh lớn” như
Liên Xô và Trung Quốc không còn.
* Tiểu kết: Đến giữa thập niên 80, Việt Nam vẫn duy trì quan điểm thế giới là
cuộc đấu tranh một mất một còn giữa hai phe với thắng lợi tất yếu của phe XHCN đối
với phe TBCN. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 80, sự tương phản giữa tốc độ phát triển
thần kì của các nước công nghiệp mới ở châu Á với khủng hoảng kinh tế của cả Việt
Nam lẫn khối XHCN đã buộc các Việt Nam phải sửa đổi cách nhìn thế giới của mình.
Xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan của quá trình đổi mới, cùng với những biến
chuyển sâu sắc của tình hình thế giới và khu vực, Việt Nam không thể tiếp tục duy trì
tư duy tập hợp lực lượng “bạn – thù”, giới hạn quan hệ với một số nước nhất định.
Hơn nữa, khi Liên Xô không còn, “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam cần phải được thay đổi thích ứng với thời cuộc mới. Với mục tiêu duy trì hòa
bình, ổn định để thúc đẩy phát triển thì việc tăng cường và mở rộng các mối quan hệ
với bên ngoài, trước hết là với các nước trong khu vực trở thành tất yếu.
III. Đổi mới tư duy tập hợp lực lượng với ASEAN và thực tiễn triển khai
trong giai đoạn 1986 – 1995
1. Giai đoạn 1986 – 1991
Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (2/1985) “chủ trương chuyển từ đối đầu
sang đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, với các đối tác chính”, khẳng định xu thế
đối thoại giữa hai nhóm nước ở Đông Nam Á là ASEAN và ba nước Đông Dương.
Đây có thể xem là định hướng ban đầu cho một bước đột phá trong tư duy đối ngoại
3 TS Vũ Quang Vinh , Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986 – 2000), Nxb Thanh Niên,
Hà Nội, 2001.
trong Đại hội VI của Đảng. Đảng ta đã nhận rõ vai trò sống còn của mở cửa và hội
nhập với thế giới trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Chúng ta chủ trương quan hệ rộng rãi với các nước, không phân
biệt chế độ chính trị, thậm chí với cả các nước trước đây có lúc là kẻ thù trực tiếp của
nhân dân ta. Riêng đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đại hội VI đã thể
hiện thiện chí: ''Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương
lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình,
xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác”4.
Trước những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới (Đông Âu
sụp đổ, Liên Xô đang trên đường tan rã, thế đối đầu hai cực dần đi đến hồi kết), Bộ
Chính trị khóa VI đã ban hành Nghị quyết 13 (5-1988) về "nhiệm vụ và chính sách đối
ngoại trong tình hình mới" với chủ đề "giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế”. Nghị
quyết chỉ ra “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta sau khi giải phóng miền Nam,
cả nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội là phải củng cố và giữ vững hoà bình để
tập trung xây dựng và phát triển kinh tế”, đồng thời nhấn mạnh chính sách "thêm bạn
bớt thù", đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có
lợi. Lúc này, để giải toả sức ép trong vấn đề Cam-pu-chia và khai thông quan hệ với
các nước khác thì ASEAN là một “trung gian” đầy tiềm năng.
Tư duy bạn thù đơn giản một chiều dựa trên ý thức hệ là chính đã bó buộc Việt
Nam chỉ quan hệ với các nước XHCN, xem mình là thành trì, là người lính tiền đồn
của chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Đông Nam Á. Việt Nam đưa quân vào Campuchia với
một trong những lý do là để thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả; tuy nhiên, vấn đề
Campuchia lại trở thành một chướng ngại lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng, phát
triển quan hệ với các nước. Việt Nam muốn đặt quan hệ, mở rộng hợp tác với ASEAN
thì trước hết phải phá thế bao vây cấm vận, giải quyết được vấn đề Campuchia.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới về đối ngoại mà
điển hình là tư duy tập hợp lực lượng, Việt Nam từng bước rút quân khỏi Campuchia
và tiến hành đối thoại với các nước trong khu vực. Việt Nam tiến hành đối thoại lần
đầu tiên với Indonesia – đại diện do ASEAN cử ra – vào tháng 7/1987; tham gia các
cuộc gặp gỡ không chính thức về Cam-pu-chia giữa các bên liên quan: JIM-1
(7/1988), JIM -2 (2/1989), IMC (2/1990); tăng cường trao đổi đoàn cấp cao, tuyên bố
4 Nguyễn Thị Mai Hoa, Bước phát triển tư duy đối ngoại của Đảng trong quan hệ các nước láng giềng và khu
vực thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, 5/2005.
sẵn sàng nghiên cứu việc tham gia hợp tác khu vực; thúc đẩy thương mại giảm sút do
ảnh hưởng của việc Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
Tuy nhiên đổi mới tư duy về tập hợp lực lượng nói chung, việc củng cố quan hệ
với ASEAN nói riêng ở giai đoạn 1986 - 1991 còn rất hạn chế do hai nguyên nhân chủ
yếu. Một là, giai đoạn trước năm 1986, do lăng kính ý thức hệ, Việt Nam xem ASEAN
là một khối SEATO trá hình do Mỹ chi phối, hơn nữa, ta lại tự cho mình là người lính
tiền đồn chống chủ nghĩa tư bản ở Đông Nam Á nên đã không coi trọng hợp tác với
ASEAN. Hai là, trước năm 1990 hoạt động của ASEAN bị cuốn vào các vấn đề chính
trị nhất là “vấn đề Cam-pu-chia”, đồng thời các nước ASEAN chưa coi trọng hợp tác
nội khối mà vẫn hướng ra ngoài cho nên ASEAN “thế và lực” chưa mạnh và các hợp
tác về kinh tế thương mại chưa cao, nên cũng chưa là điểm nhắm đến của Việt Nam5.
Việc Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia năm 1989 đã loại bỏ một rào cản
lớn trong quan hệ Việt Nam – ASEAN. Những cố gắng của Việt Nam cùng với các
nước trong khu vực tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề Campuchia kết thúc
bằng việc ký kết Hiệp định Pari về Campuchia (10/1991, hứa hẹn một bước chuyển
mới trong quan hệ của Việt Nam với ASEAN.
2. Giai đoạn 1991 – 1995
Tư duy đối ngoại của Đảng được hình thành rõ hơn, hoàn chỉnh hơn tại Đại Hội
Đảng lần thứ VII. Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm được xác định là “giữ vững hòa bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội”. Vấn đề hội nhập được cụ thể hóa bằng chủ trương “đa phương hóa, đa dạng
hóa” quan hệ quốc tế, với tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”
Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (6/1992) khẳng định tư tưởng chỉ đạo trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam là “giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và
chủ nghĩa xã hội; đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt”; xác định bốn
5 Vũ Khoan, Việt Nam và ASEAN, Tạp chí Cộng Sản, tháng 11/1994.
phương châm đối ngoại lớn, trong đó có “tích cực tham gia hợp tác khu vực đồng thời
mở rộng quan hệ với tất cả các nước”6.
Năm 1993, Việt Nam công bố ''Chính sách bốn điểm mới củaViệt Nam đối với
khu vực'', thể hiện quan điểm ''tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước
láng giềng cũng như với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tư cách là
một tổ chức khu vực'' đồng thời bày tỏ mong muốn ''sẵn sàng gia nhập ASEAN vào
thời điểm thích hợp''. Như vậy, đến thời điểm này, chúng ta đã nhận thức được vai trò
và vị trí ngày càng quan trọng của ASEAN trong khu vực. ASEAN tập hợp những
nước nhỏ và vừa có điều kiện địa lý, lịch sử tương đối gần gũi với Việt Nam; mặc dù
có những điểm khác nhau về văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau nhưng với
chủ trương “thống nhất trong đa dạng”, tăng cường hợp tác song vẫn tôn trọng độc lập
chủ quyền của các quốc gia thành viên, duy trì nguyên tắc chủ chốt là đồng thuận
ASEAN đã tạo nên sức lôi cuốn đối với nước ta.
Hơn nữa, mục tiêu của ASEAN về hoà bình, ổn định và mở rộng hợp tác có sự
giao thoa với mục tiêu đối ngoại của Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với chính sách đối
ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá của nước ta nhấn mạnh vai trò của hợp tác khu vực.
Đẩy mạnh quan hệ với ASEAN là mục tiêu quan trọng đối với Việt Nam, tạo điều kiện
cho nước ta nhanh chóng đuổi kịp và hòa nhập với sự phát triển kinh tế của các nước
trong khu vực và góp phần làm tăng vị trí cũng như vai trò của Việt Nam trên trường
quốc tế, tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia các cơ chế hợp tác lớn hơn ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương.
Việt Nam đã triển khai tích cực những chủ trương trên trong quan hệ với
ASEAN giai đoạn 1991 – 1995 một cách tích cực và hiệu quả Tháng 7/1992, Việt
Nam chính thức ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á, trở thành quan sát
viên của ASEAN. Trong hai năm 1991 – 1992, Việt Nam đã ký kết được nhiều hiệp
định hợp tác khu vực. Tháng 7/1994, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần
thứ 27, các nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố sẵn sàng công nhận Việt Nam là thành
viên chính thức của ASEAN. Cũng tại thời điểm này, Việt Nam tham gia Diễn đàn khu
vực ASEAN (ARF) với tư cách là thành viên sáng lập của diễn đàn này. Ngày
28/7/1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28, Việt Nam trở thành
6 Hồng Hà, Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của ta, Tạp chí Cộng sản, 12/1992.
thành viên thứ bảy của ASEAN, đồng thời tuyên bố gia nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA).
Những nỗ lực của Việt Nam trong việc bình thường hóa quan hệ với các nước
ASEAN và tiến tới gia nhập tổ chức khu vực này đã gặt hái được thành công. Tuy
nhiên để đạt được những bước chuyển tưởng như dễ dàng đó cần phải có một quá trình
đấu tranh để đổi mới tư duy tập hợp lực lượng truyền thống, từ chỗ phân loại bạn – thù
và “khép kín” quan hệ chuyển sang hội nhập vào dòng chảy khu vực hóa, tìm kiếm
tiếng nói chung với các quốc gia trong khu vực.
KẾT LUẬN
Tư duy tập hợp lực lượng của Việt Nam trong giai đoạn 1986 – 1995 đã có những
thay đổi phù hợp với tình hình quốc tế, tình hình trong nước và nhu cầu đổi mới nội
tại. Quan điểm ''khép kín'' trong thế đối đầu trước đây thay thế bằng quan điểm mở
cửa, hội nhập, phát triển mạnh mẽ quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng
và khu vực, tham gia tích cực vào đời sống quốc tế. Một trong những biểu hiện rõ nét
nhất kết quả của sự đổi mới tư duy này thành công của nước ta trong việc gia nhập
ASEAN, hoà mình vào dòng chảy khu vực hoá diễn ra hết sức sôi nổi, biểu trưng cho
xu thế chung là hoà bình và hợp tác. Thành công này và những thành tựu mà Việt Nam
đạt được sau khi gia nhập ASEAN đã chứng tỏ tính sáng suốt của việc đổi mới tư duy
tập hợp lực lượng sau năm 1986: tư duy ý thức hệ dẫn đến việc phân loại bạn – thù
thông thường giản đơn một chiều đã được thay thế bằng tư duy đặt lợi ích quốc gia –
dân tộc lên trên hết, trở thành nhân tố quyết định. Việc ta gia nhập ASEAN là bước
khởi đầu quan trọng cho một loạt sự gia nhập khác vào AFTA, AIA (Khu vực Đầu tư
ASEAN), ASEM, APEC và gần đây nhất là WTO… Những thành tựu này chứng tỏ sự
đúng đắn trong việc đổi mới tư duy tập hợp lực lượng của ta từ sau năm 1986, góp
phần xây dựng môi trường hoà bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội
và hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
2. Vũ Dương Huân, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vi sự nghiệp đổi mới
(1975 – 2000), Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội, 2002.
3. PGS.TS. Tô Huy Rứa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Trần Khắc Việt,
PGS.TS. Lê Ngọc Tòng, Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ
1986 đến nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
4. Vũ Quang Vinh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại
(1986 – 2000), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2001.
5. Vũ Khoan, Việt Nam và ASEAN, Tạp chí Cộng Sản, tháng 11/1994.
6. Vũ Dương Huân, Về vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1(68), 3/2007.
7. Hồng Hà, Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của ta, Tạp chí Cộng
sản, 12/1992.
8. Nguyễn Thị Mai Hoa, Bước phát triển tư duy đối ngoại của Đảng trong
quan hệ các nước láng giềng và khu vực thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử
Đảng, 5/2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_tap_lon_nguyenphamthanhphuong_7216.pdf