PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để đưa nước ta trở thành một nước tiên tiến nhanh chóng hoà nhập vào dòng tiến hoá chung của nhân loại, chúng ta chỉ có một con đường là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đảng ra cũng xác định rằng để thực hiện được những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, không chỉ bằng nhiệt tình và lòng dũng cảm như trước đây mà cần phải phát huy hoạt động trí tuệ và tài năng sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân.
Đội ngũ trí thức là đại biểu tập trung cho trí tuệ dân tộc. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta thì trí thức tham gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí, là bộ phận nguồn lực khoa học kỹ thuật, trí thức góp phần lớn lao vào việc phát triển lực lượng sản xuất.
Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên không phải mọi cấp, mọi người dân hay một bộ phận không nhỏ trí thức chưa nhận thức được đầy đủ và sâu sắc vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đây là một thực trạng đã và đang tồn tại ở nước ta.
Vì vậy để làm rõ hơn vai trò của đội ngũ trí thức là một nhân tố cơ bản trong việc thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, em xin chọn đề tài “Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
6. Kết cấu:
CHƯƠNG I
TRÍ THỨC VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM
I.TRÍ THỨC VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
1.1 Trí thức là gì?
1.2Vai trò của trí thức với sự phát triển của xã hội
1.2THỰC TRẠNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM
1.2.1Sự ra đời hình thành và phát triển của trí thức Việt nam
1.2.2Thực trạng của đội ngũ trí thức Việt Nam
CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA CHO ĐỘI
NGŨ TRÍ THỨC
2.1.1Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là một tất yếu lịch sử
2.1.2Tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hưóng
xã hội chủ nghĩa , Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn
liền với kinh tế tri thức
2.1.3. Những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ trí thức.
2.2.ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM LÀ MỘT TRONG NHƯNG NHÂN TỐ CƠ BẢN CHO VIỆC THỰC HIỆN THÀNH CÔNG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
2.2.1Đội ngũ trí thức Việt Nam góp phần quan trọng trong xây dựng luận cứ khoa học cho đượng lối chính sách công nghiệp hoá hiện đại hoá
2.2.2Trí thức -là một trong những nguồn lực tham gia trực tiếp vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá
2.2.3 Đội ngũ trí thức Việt Nam tích cực tham gia vào việc truyền bá tri thức khoa học , đường lối chính sách công nghiệp hoá hiện đại hoá
2.2.4 Vai trò của trí thức Việt Nam trong lãnh đạo và quản lý đất
nước, điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
2.2.5 Đội ngũ trí thức với sự lãnh đạo của Đảng
2.2.6Đội ngũ trí thức trong vai trò quản lý đất nước
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRÍ TRONG SƯ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
KẾT LUẬN
63 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11583 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Chúng ta chủ trương " phát triển kinh tế vùng"[ 1,tr. 5] thông qua các chính sách phù hợp tạo điều kiện cho các vùng trong cả nước cùng phát triển đồng thời tạo ra sự liên kết trong các vùng miền,"phát triển kinh tế biển"[1,tr. 5] theo chiến lược toàn diện."Phát triển khoa học và công nghệ "ở nước ta phải phù hợp với xu hướng phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học công nghệ thế giới. Cố gắng đi ngay vào công nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vực then chốt và tưng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Việc tìm kiếm mô hình đã khó, nhưng việc giải quyết những vấn đề chung cho các mô hình công nghiệp hoá lại càng khó, đòi hỏi phải có trình độ trí tuệ của thời đại mới có thể giải quyết được.
2.1.4. Những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ trí thức
Ở nước ta, trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc vô cùng quan trọng, là lượng cơ bản hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Để đáp ứng nhưng nhu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá, đội ngũ trí thức Việt Nam cần có những năng lực và phẩm chất chủ yếu sau: nghiên cứu và nắm vững chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận, kim chỉ nam cho hoạt động của mình. Người trí thức rất cần có thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn khoa học, cách mạng. Chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống khoa học định hướng chuẩn xác cho quá trình tư duy, hoạt động khoa học sáng tạo của người trí thức. Hơn nữa chúng ta đang xây dựng đất nước theo con người đường xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ trí thức nước ta cũng như những giai cấp tầng lớp khác hoạt động theo sự chi phối của cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Nghiên cứu khoa học cũng phải làm luân cứ cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghiên cứu phải hướng vào những vấn đề lý luận và thực tiễn dự báo các xu thế phát triển,cung cấp luân cứ cho việc hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương phát triển kinh nghiệm tế xã hội.
Đội ngũ các nhà khoa học ở nước ta còn thiếu và chưa đủ sức vươn tới toàn bộ hệ tri thứcc của nhân loại. Điều kiện vật chất -kinh tế xã hội nhất là trình độ tổ chức khoa học ở nước ta còn hạn hẹp chưa tạo ra môi trường đồng đều cho các hướng nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy chúng ta phải đi thẳng vào công nghệ hiên đại đối với các ngành mũi nhọn
Trí thức phải là người có trình độ chuyên môn giỏi kết hợp với khả năng tổ chức, quản lý sử dụng nhưng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Căn cứ cho đòi hỏi này là : khoa học phải trở thành lượng sản xuất trực tiếp trên thế giới cũng như trong nước, giá trị nghiên cứu khoa học được nhân lên gấp bội, nếu những kết quả nghiên cứu đó phải được áp dụng ngay cho con người cho xã hội các nhà khoa học phải biết tổ chức quản lý quá trình nghiên cứu và đưa vào áp dụng những kết quả nghiên cứu trong thực tiễn, trí thức phải có kiến thức tổng hợp ( khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ ) để giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra .
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có nhiều vấn đề nan giải đặt ra như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái khủng hoảng năng lượng dân số và việc làm. Nếu chỉ có kiến thức ở lĩnh vực riêng rẽ nào đó thì đều không đủ. Đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay hoạt động trong điều kiện quốc tế hoá toàn câù hoá các lĩnh vực tri thức khác nhau, cho nên phải thông thạo niều ngoại ngữ, mặt khác phải biết sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để có thể tiếp thu và trao đổi với trí thức thế giới.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một công việc mới mẻ, phức tạp nên việc nhận thức đúng bản chất, con đường và bước đi của quá trình này là tối quan trọng. Đội ngũ trí thức phải hiểu biết thực tế, nhạy cảm với những vấn đề do thực tế đề ra để thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một cách nhanh chóng và phù hợp với điều kiện thực tế và hoàn cảnh của nước ta
Để Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 thì tốc độ tăng trưởng trung bình từ nay tới đó khoảng 10%/năm. Điểm lại sự phát triển của các nước trên thế giới, chưa thấy có nước nào giữ được mức tăng trưởng cao và bền trong hơn 20 năm. Chỉ số tăng trưởng kinh tế 10% năm đặt phía trước chúng ta quả là một thách thức lớn. Nhưng, vấn đề không chỉ là tăng trưởng để tạo ra GDP ngày càng lớn, mà còn là nhằm đạt tới trình độ văn hoá và văn minh cao hơn. Do đó để góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, đội ngũ trí thức phải là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất một cách chủ động.
2.2.Đội ngũ trí thức Việt Nam lực lượng cơ bản cho việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện, đại hoá đất nước
Không chỉ ở Việt Nam ta mà ở tất cả các nước trên thế giới đều nhất trí rằng sự hiểu biết, khả năng sáng tạo của mỗi con người là thứ tài sản quý giá nhất của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và còn là của toàn thể nhân loại. Vốn trí tuệ là nguồn lực thúc đẩy sáng tạo là sức mạnh nội sinh tạo ra sự phát triển của đất nước .
Ngày nay trên thế giới người ta đánh giá thế mạnh của một quốc gia chủ yếu vào vốn tài chính và vốn tri thức. Vốn tài chính chính là những tài sản hữu hình còn vốn tri thức là sự phản ánh tiềm năng của một quốc gia. Do vậy quốc gia nào có nhiều tiềm năng về vốn tri thức cung như biết sử dụng một cách hợp lý thì quốc gia đó sẽ phát triển nhanh bền vững. Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì yêu cầu đối với đội ngũ trí thức ngày càng cao. Trí thức lúc này không chỉ là những người có bằng cấp mà còn phải là những người lao động có trí tuệ sáng tạo, gắn sự nhgiệp của mình với với xã hội, với lý tưởng mà mình theo đuổi. Xã hội ngày càng phát triển thì đội ngũ trí thức càng phải đóng vai trò quan trọng và phải thực sự là lực lượng sản xuất trực tiếp .
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta là mục tiêu lâu dài, thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá là mục tiêu trước mắt. Để thực hiện thàn công mục tiêu lâu dài cũng như trước mắt đòi hỏi giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nước ta phải tiến hành hàng lọt những sáng tạo lịch sử với sự tham gia tích cực của đội ngũ trí thức. Như V.I.Lênin đã từng nói " không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tổ chức quần chúng để đi tới một năng xuất lao động cao hưn năng xuất của chủ nghĩa tư bản dựa trên những cơ sở mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được[16,tr. 217]
Bước vào thế kỷ XXI trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh như vũ bão. Hầu các nước trên thế giới đều quyết tâm xây dựng nền kinh tế tri thức dù là nước đã phát triển hay chưa phát triển.
Thế giới đã toàn cầu hoá nhiều mặt của đời sống xã hội. Đây là cả một vấn đề lớn, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và sự kiên định, dũng cảm của toàn thể nhân dân ta. Nhân tố con người là cực kỳ quan trọng, nhưng ở đây, là con người được hiểu không như là một lao động đơn giản mà với tư cách là con người có trí tuệ và là nhân cách văn hoá, có bản lĩnh văn hoá dân tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Chỉ có con người Việt Nam mang bản sắc dân tộc trong văn hoá Việt Nam, là chủ thể về trí tuệ và văn hoá Việt Nam mới thực sự giữ vai trò quyết định sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta. Trong nhân tố con người phải nói đến trí thức hay con người trí tuệ, đồng thời cũng phải đề cập đến văn hoá, tức con người có phẩm chất văn hoá, nhân cách văn hoá, bản lĩnh văn hoá.
Con người là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của lịch sử, nhưng đồng thời lại là con người tạo ra lịch sử. Hơn nữa, đối với chủ nghĩa xã hội, thì như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Trong quan hệ mật thiết với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa vì sự phát triển chủ nghĩa xã hội, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng là nội lực trí tuệ và văn hoá của toàn dân tộc. Đó là nội lực trí tuệ và văn hoá của toàn xã hội, nội lực trí tuệ và văn hoá từng ngành, nội lực trí tuệ và văn hoá của đông đảo nhân dân và của từng cá nhân cụ thể. Đây là quan điểm có ý nghĩa lý luận cần được quán triệt khi nói đến vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức. Nếu không thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao không ngừng trí tuệ và nền văn hoá chung của toàn xã hội thì cũng sẽ không thấy được động lực phát triển xã hội cũng như động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nhờ vào sức mạnh văn hoá truyền thống, Việt Nam đã chiến thắng những tên đế quốc đầu sỏ nhất để giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đưa nước ta lên vị thế một nước được cả nhân loại tiến bộ thừa nhận là có tiềm năng phát triển to lớn. Đến nay, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nội lực đó phải được phát huy mạnh mẽ bằng những chính sách mới của Đảng. Nếu không, đất nước sẽ không tranh khỏi tình trạng tụt hậu về nhiều mặt.
Tuy nhiên, không phải ai cũng thấy được vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong lịch sử phát triển của xã hội hói chung, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nói riêng, nếu không xuất phát từ một quan điểm lý luận rõ ràng về người trí thức cũng như mối quan hệ giữa đội ngũ trí thức với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, trước hết là mối quan hệ giữa trí thức với công nhân và nông dân khối đại đoàn kết dân tộc.
Từ thực tiễn những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga V.I.Lênin đã từng nhận định rằng nếu không có tri thức, trí tuệ học vấn không có sự tham gia của đội ngũ trí thức thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hôi chủ nghĩa cộng sản "Chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, nếu không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là một nguyện vọng mà thôi "[32,tr. 364-365]
Xuyên suốt lịch sử dân tộc đến đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, ta thấy có sự nhất quán trong nhận định về vị trí, vai trò người trí thức đối với đất nước cũng như sự nghiệp cách mạng. Nhưng trong diễn biến lịch sử đôi khi vẫn không có sự nhất quán vào lúc này hay lúc khác, ở người này hay người khác. Điều đó không chỉ xảy ra ở nước ta mà còn thấy ở hầu khắp các nước trên thế giới, không chỉ thấy ở thời điểm lịch sử hiện nay mà cũng có thể nói ở mọi thời kỳ khác nhau của lịch sử nhân loại. Cho nên, không phải ngẫu nhiên một nhà khoa học lịch sử. Ở đội ngũ trí thức nói chung, trong đó có đội ngũ trí thức Việt Nam nói riêng vẫn cần được hiểu sâu sắc thực chất họ là ai, họ quan trọng như thế nào, vì sao họ lại có vị trí quan trọng và mối quan hệ giữa họ với nhân dân và dân tộc cũng như với tiến trình phát triển của mỗi dân tộc và nhân loại nói chung. Do đó, cần phải thấy rõ vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta.
2.2.1. Đội ngũ trí thức Việt Nam cung cấp luận cứ khoa học cho đường lối chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Xác định mô hình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một cách phù hợp là một công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi có sự tham gia, tập trung của nhiều nhà khoa học ở các lĩnh vực khoa học khác nhau như khoa học tự nhiên, xã hội,kỹ thuật, công nghệ. Xuất phát từ tình hình thực tiễn không có mô hình công nghiệp hoá chung cho các nước. Trong khối ASEAN các nước như Thailand, Malaysia, Singapor đều có những mô hình phát triển riêng dựa vào những ưu thế thuận lợi của quốc gia mình.
Để có đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đúng đắn chúng ta phải khi thác những ưu thế của mình, hội nhập được với nền kinh tế thế giới. Sau 20 năm đổi mới chúng ta thấy rằng nếu không có mô hình, mục tiêu công nghiệp hoá thích hợp thì đất nước không thể phát triển. Nguyên nhân có thể hiểu là do việc nhận thức về công nghiệp hoá hiện đại hoá của chúng ta còn khá đơn giản máy móc chỉ quen việc áp đặt rập khuôn mô hình của Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng ta đã chậm trong điều chỉnh khắc phục những tồn tại yếu kém, thiếu những tổng kết kinh nghiệm. Nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hóa ở nước ta lại quá rộng chỉ chú trọng vào phát triển công nghiệp nặng, phát triển khép kín trong khi đó xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu .
Do đó đường lối công nghiệp hoá đúng đắn thì phải biết khai thác lợi thế của mình vừa hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Đó chính là nhu cấu xuất phát từ thực tế trong con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. Thực hiện nhiệm vụ này không ai khác là đội ngũ trí thức với những đặc điểm và thế mạnh riêng của mình.
Thực tế, trong quá trình quá trình tực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa qua, đội ngũ trí thức Việt Nam đã tực hiện nhiều chương trình, đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước, cấp bộ, cấp cơ sở. Tiêu biểu nhất là hệ chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 1991-1995, 1996-2000, 2001-2005. Kết quả nghiên cứu những chương trình, đề tài trên đã là cơ sở để Đảng ta từng bước xác định: mô hình bước đi của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. Đúng như khẳng định của Đảng tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương hai KhoáVIII:"Nhiều kết luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới"[6,tr. 50]
2.2.2. Đội ngũ trí thứcViệt Nam tham gia trực tiếp và tích cực vào việc truyền bá tri thức khoa học, đường lối chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá trí thức không chỉ là người đưa ra, phổ biến đường lối chính sác công nghiệp hoá hiện đại hoá mà còn phải là người trực tiếp tham gia thực hiện đường lối ấy. Trong công cuộc này trí thức phải là lực lượng chủ động vì họ gắn liền với khoa học công nghệ hiện đại. Họ là những người sáng tạo ra tri thức khoa học và công nghệ mới, tạo động lực cho sự phát triển của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng trong quản lý xã hội. Quản lý xã hội không phải là hình thức lao động đơn giản, mà là lao động phức tạp, đòi hỏi người quản lý phải có trình độ cao, có trình độ chuyên môn cao trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực đồng thời phaỉ có tri thức về quản lý .
Trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đội ngũ trí thức không chỉ là người đưa ra và phổ biến đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá mà còn là người thực hiện đường lối ấy thông qua việc đưa khoa học công nghệ vào sản xuất .
Trí thức trong công nghiệp hoá hiện, đại hoá mang tính chất của động hơn các tầng lớp khác vì họ là tầng lớp gắn liền với khoa học công nghệ hiện đại. Họ chính là người sáng tạo ra những tri thức khoa học tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội.
Truyền bá tri thức khoa học là một trong những chức năng xã hội của trí thức để nâng cao trình độ hiểu biết của mọi tầng lớp nhân dân. Đây là một yêu cầu của xã hội đối với đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay. Để quán triệt đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá tới nhân dân đội ngũ trí thức phải là nhưng người đi đầu trong việc tuyên truyền, làm mẫu rồi phổ biến rộng rãi. Đội ngũ trí thức phải làm rõ cơ sở khoa học, cụ thể hoá nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với từng lĩnh vực từng địa phương, từng ngành, đến từng đơn vị sản xuất.
Qua các phương tiện như truyền thanh truyền hình, sách, báo chí các nhà trí thức, các tổ chức nghiên cứu đã phổ biến rộng rãi nội dung, đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá tới mọi tầng lớp nhân dân. Các nhà khoa học đặc biệt là đội ngũ các nhà khoa học lý luận phải làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở khoa học, cụ thể hoá nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tới từng lĩnh vực từng ngành từng địa phương trong toàn quốc.
Đội ngũ trí thức ngoài việc giải thích rõ đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá tới mọi tầng lớp trong xã hội họ còn phải hướng dẫn để tất cả mọi thành phần lực lượng kinh tế có thể hiểu và thực hiện nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Qua đó có thể giúp cho mọi cấp mọi ngành cũng như toàn thể các tầng lớp nhân dân hiểu rõ được tính tất yếu, bản chất của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Từ đó sẽ nâng cao tính tích cực, chủ động trong các tầng lớp nhân dân trong việc tham gia vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hoá.
2.2.3. Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia lãnh đạo và quản lý đất nước, điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Nói đến vai trò của trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nước, điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa hoàn toàn không có nghĩa là coi trí thức như một tầng lớp xã hội đứng ngoài hoặc đứng cao hơn người lãnh đạo và quản lý đất nước. Trên thực tế, để lãnh đạo đất nước, Đảng phải coi trọng việc chuẩn bị về nhân sự thật tốt cho những người được Đảng giao phó trọng trách quản lý Nhà nước, về cả đức và tài, Đảng ta có thực sự là đạo đức, là ăn minh hay không chủ yếu phụ thuộc vào đức và tài của những người nắm quyền hành quản lý đất nước. Đây là công tác cán bộ nhưng lại liên quan đến vai trò trí thức trong quản lý đất nước.
Chung quanh vấn đề này có thể có hai cách hiểu khác nhau.
Một là, vấn đề quan hệ giữa người trí thức và đội ngũ trí thức với người quản lý đất nước tức những người nắm quyền lực của Đảng và Nhà nước.
Hai là, vấn đề nâng cao trí lực và sự hiểu biết của người quản lý đất nước để đủ tầm trí tuệ để đảm đương tốt được truyện ngắn mình phụ trách mà chúng ta thường gọi là trí thức hoá.
Về vấn đề thứ nhất cho hay, bất cứ một Nhà nước nào muốn quản lý đất nước có hiệu quả nhất thiết phải sử dụng trí thức, trọng dụng nhân tài bằng nhiều hình thức, hoặc giao trọng trách cho trí thức thành người có quyền lực hoặc chỉ tham khảo ý kiến
Họ như sử dụng chuyên gia. Ở đây, người lãnh đạo quản lý đất nước, dù là nhà trí thức giỏi về một lĩnh vực nào đó cũng không thể nhân danh người trí thức để nắm quyền lực, bởi lẽ, quyền lực mà họ có là do Đảng hoặc nhân dân giao phó thông qua bầu cử trực tiếp như đối với Quốc hội, hoặc gián tiếp như đối với các thành viên của Chính phủ và chính quyền các cấp. Do đó, có người cho rằng, đã trở thành người lãnh đạo, quản lý đất nước thì người trí thức không thể nhân danh nhà trí thức để biểu lộ quan điểm riêng của mình về lĩnh vực chuyên môn mà họ am hiểu. Điều đó không ai qui định nhưng trong thực tế lại cho ta thấy rõ ranh giới về quyền hạn và trách nhiệm giữa người trí thức với người lãnh đạo, quản lý đất nước. Đương nhiên, đó là nói đến nhà trí thức với ý nghĩa chuyên môn hẹp, chứ không nói đến trí thức với ý nghĩa là người có tầm hiểu biết rộng.
Một khi ý kiến của người trí thức biến thành trí tuệ của nhà lãnh đạo - quản lý, nó có thể trở thành quyền lực về mặt pháp lý, do đó trách nhiệm của họ càng nặng nề hơn. Ý kiến đó đúng thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả to lớn, nhưng không đúng thì thật tai hại. Do đó cần quan tâm đến vấn đề thứ hai, tức là việc làm cho người lãnh đạo, quản lý đất nước đủ tầm trí tuệ so với trách nhiệm được giao. Người lãnh đạo, quản lý đất nước trân trọng nhà trí thức và tham khảo ý kiến họ. Nhưng theo ý kiến ấy mà quyết định sai thì trách nhiệm bao giờ và trước hết đặt trên vai người lãnh đạo, quản lý. Cho nên, Đảng đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý đất nước phải có đủ phẩm chất, đức độ, đồng thời phải đủ sáng suốt khi tham khảo các ý kiến và nhất là khi ra các quyết định. Để có được sự sáng suốt đó, người lãnh đạo, quản lý cần nâng cao không ngừng trí lực của mình, có những hiểu biết ngang tầm với chức trách mà mình phụ trách.
Khi phê phán quan điểm xem trí thức như một giai cấp thì đồng thời cũng cần phê phán quan điểm coi trí thức như một giới thượng đẳng đứng ngoài hoặc đứng trên các giai cấp xã hội. Trí thức cũng chỉ là những con người bình thường trong nhân dân, họ có thể tham gia sản xuất như một công nhân thực thụ, họ cũng có thể là nhà bác học nhờ những sáng tạo văn hoá có giá trị của mình. Đương nhiên, họ cũng có thể trở thành nhà lãnh đạo, thậm chí là người lãnh đạo cao nhất nắm nhiều quyền lực trong tay.
Tóm lại, người trí thức vốn có mặt ở mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong thực tế có những cá nhân trong họ đã từng là những người lãnh đạo, quản lý đất nước ở những thời đại khác nhau. Có điều là ngày nay, do thời đại phát triển khoa học và công nghệ, trí lực, trí tuệ, trí thức đã trở thành nguồn gốc của phát triển thì vai trò của trí thức được chú ý hơn, được xem là lực lượng hạt nhân trên mọi lĩnh vực cuộc sống, trong đó nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, quản lý đất nước và điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa thành công Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Nhân tài và kiến quốc”[26,tr. 99] để căn dặn cán bộ và nhân dân ta: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều” [26,tr. 99]. … Người kêu gọi nhân dân ta, ai có tài năng và sáng kiến về những việc như kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục thì sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà.
Chỉ nhắc lại một vài ví dụ trên, chúng ta không những thấy rõ thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng người có tài, có đức như thế nào, mà còn thấy Người có cả những biện pháp cụ thể nhằm phát hiện người có tài, có đức để báo cáo cho Chính phủ biết mà sử dụng.
Không phải mọi người trong đội ngũ trí thức đều là những người có tài, có đức, nhưng có thể khẳng định, người có tài đức thực sự nếu được phát hiện, được đào tạo, được giao việc thì sẽ trở thành những trí thức có nhiều khả năng kiến thiết nước nhà. Cho nên, khi nói đến trí thức, người ta không quên nhắc đến người có tài hoặc hiền tài. Ở đây, nói đến vai trò trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nước, muốn nhấn mạnh đến người có tài, có đức không chỉ tham gia vào công việc kiến thiết đất nước như một trí thức bình thường, mà thực sự là người có tài đức đủ sức gánh vác những công việc trọng đại của đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi với cương vị người lãnh đạo, người quản lý hoặc người điều hành công việc ở tầm vĩ mô. Đó là cán bộ các cấp của Đảng được giao phó trọng trách đặc biệt ở nhiều lĩnh vực kiến thiết đất nước. Đó là nhân viên, viên chức Nhà nước các cấp có trọng trách quản lý đất nước. Đó là cán bộ đoàn thể đại diện trực tiếp hoặc gián tiếp của dân tham gia vào việc giám sát, theo dõi nhiều công việc có liên quan đến quốc kế dân sinh. Đó là những cán bộ có trách nhiệm xây dựng hạ tầng cơ sở, phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống của công nhân, nông dân, trí thứ và nhiều tầng lớp nhân dân.
Như vậy vai trò của đội ngũ trí thức trong thực hiện sự nghiệp công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hết sức quan trọng. Đội ngũ trí thức là người trực tiếp tham gia vừa là những người tham mưu, tuyên truyền chủ trương đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, để sớm đạt được thăng lợi trên đội ngũ trí thức Việt Nam cần tích cực tham gia chủ động hơn nữa, phát huy hết những ưu điểm thế mạnh của mình đông thời từng bước khắc phục các nhược điểm sai sót trong những bước phát triển của mình.
2.2.4. Đội ngũ trí thức Việt Nam trực tiếp đào tạo nguồn lực con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta phải cần có nhiều nguồn lực khác nhau tham gia. Một trong những nguồn lực đó chính là nguồn lực con người, mà yêu cầu đặt ra là phải không chỉ đông đảo về số lượng mà phải có chất lượng cao, giỏi chuyên môn, yêu đất nước, gắn bó sự nghiệp của mình với sự nghiệp của đất nước. Quyết tâm đưa nước ta ra khỏi hoàn cảnh một nước nông nghiệp lạc hậu. Có được nguồn nhân lực như vậy phần lớn phụ thuộc vào sự đóng góp trực tiếp của đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ trí thức giáo dục - đào tạo nói riêng.
Thế kỷ XXI là một thế kỷ mà khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão. Đặc điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu lại không giàu tài nguyên thiên nhiên. Do vậy muốn phát triển đất nước chúng ta phải dựa rất nhiều vào nguồn lực con người. Nguồn lực con người chính là nguồn lực quý báu nhất, có ý nghĩa quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đội ngũ trí thức nước ta đã tích cực trong việc nâng cao trình độ dân trí, nâng cao trình độ cho đội ngũ công nhân. Hàng năm nước ta có hàng triệu người đến tuổi lao động nhưng số người học tập đào tạo nghề còn rất thấp. Theo số liệu thống kê của Bộ giáo dục Đào tạo đến năm học 2004-2005 ở nước ta khối Trung học chuyên nghiệp gồm 285 trường với 466.504 học sinh. Còn Cao đẳng, Đại học là 230 trường với 1.319.754 sinh viên [www.edu.net]. Như vậy là so với năm học 1999 -2000 số lượng trường lớp và sinh viên đã được tăng lên đáng kể.Về chi ngân sách cho giáo dục chúng ta có thể thấy Đảng và Nhà nước đã bỏ ra một khoản tiền không nhỏ, cụ thể là năm 2001 là 15.609 tỷ đồng đến năm 2005 là 41.630 tỷ [www.edu.net].
Với sự đầu tư của Nhà nước như vậy cùng với sự tham gia tích cực của đội ngũ trí thức thì chắc chắn nguồn lực con người ở nước ta sẽ phát triển nhanh về số lượng cũng như chất lượng. Đội ngũ trí thức nước ta có nhiệm vụ phổ cập kiến thức khoa học - công nghệ làm cho nhiều tầng lớp trong xã hội có sự hiểu biết nhất định có khả năng tiếp thu ứng dụng khoa học công nghệ. Hình thành nguồn nhân lực của nước ta có tác phong công nghiệp, có kỷ luật sáng tạo biết ứng dụng khoa học - công nghệ lao động đạt năng suất cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta là sự nghiệp mang tính chất lâu dài bao trùm lên các ngành, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Để nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ kỹ thuật có chất lượng , đào tạo đội ngũ trí thức mới, đào tạo cán bộ khoa học quản lý. Không chỉ là sự nghiệp của đội ngũ trí thức - ở đây là đội ngũ trí thức giáo dục - đào tạo mà còn là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
2.3.1. Xây dựng đội ngũ trí thức mạnh về số lượng và chất lượng
Để phát huy tiềm năng của trí thức trong công cuộc đổi mới hiện nay, vấn đề cơ bản trước hết là phải xây dựng đội ngũ trí thức mạnh về số lượng và chất lượng. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, số lượng trí thức nước ta ngày một tăng lênh nhanh chóng và đang trở thành một lực lượng xã hội đông đảo. Nhưng trước tình hình phát triển mới của đất nước, lực lượng đó cần phải tiếp tục tăng hơn nữa để đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Ở nước ta hiện nay trên nhiều lĩnh vực của đời sống nhiều khu vực và thành phần kinh tế, nhiều ngành khoa học vẫn còn thiếu rất nhiều cán bộ khoa học chuyên môn. Để khắc phục tình trạng này, Đảng và Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế đào tạo để đáp ứng yêu cầu tăng cường cán bộ cho các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Quá trình đào tạo, cần phải hết sức chú ý giải quyết tính đồng bộ trong cơ cấu của đội ngũ trí thức, giữa lực lượng trí thức nghiên cứu triển khai và lực lượng trí thức kỹ thuật thực hành, thiết kế công nghệ, giữa trí thức khoa học xã hội - nhân văn và khoa học tự nhiên, giữa trí thức có trình độ cao và trí thức nói chung vốn đang tồn tại rất nhiều bất cập.
Đi đôi với vấn đề số lượng, việc nâng cao hơn nữa vấn đề chất lượng của đội ngũ trí thức cũng đang là một yêu cầu cấp bách. Để nâng cao chất lượng, cần phải chú ý tới hai nội dung cơ bản: Một là, trình độ học vấn chuyên môn, năng lực lao động sáng tạo; hai là, sự chín muồi về chính trị tư tưởng, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của trí thức.
Đối với nội dung thứ nhất, cần phải tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo trên mọi phương diện để khi ra trường người trí thức có đủ bản lĩnh, kiến thức để lao động và sáng tạo. Cần tránh khuynh hướng còn khá phổ biến hiện nay là tình trạng “loạn văn bằng” do một số trường đại học mở rộng cánh cửa đào tạo bằng mọi hình thức mà không tính đến chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Đối với nội dung thứ hai, cũng rất quan trọng bởi nó được quy định từ bản chất xã hội của người trí thức. Đã là người trí thức nhân dân, trí thức xã hội chủ nghĩa thì không thể không nói đến phẩm chất chính trị, tư tưởng và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu này đòi hỏi người trí thức không những cần nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải nắm vững đường lối cách mạng của Đảng, giúp cho người trí thức luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trước những đòi hỏi của đất nước, của nhân dân. Hay nói như lời của cố vấn Phạm Văn Đồng: “Lý tưởng cao quý, Tổ quốc, nhân dân, sự nghiệp cách mạng sẽ giúp chúng ta có sức mạnh dũng cảm và nhiệt tình hơn”.
Hai nội dung trên đồng thời cũng là hai mặt của một vấn đề thống nhất trong con người trí thức xã hội chủ nghĩa. Việc thường xuyên rèn luyện và nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn không chỉ là nhiệm vụ đặt ra nhằm nâng cao chất lượng đối với trí thức, mà còn là một trong những nhân tố quan trọng góp phần hình thành và phát triển tính tích cực chính trị - xã hội của họ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tiềm năng đội ngũ trí thức sẽ được phát huy tốt bởi vì Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và cụ thể hoá hơn nữa các chủ trương, chính sách đối với trí thức. Thực tế cho thấy, những chính sách đổi mới của Đảng với trí thức phần nhiều còn dừng ở phương hướng chiến lược, nằm chung trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện qua các văn kiện Đại hội và các Nghị quyết khác của Đảng. Các quan điểm và chủ trương của Đảng cần phải nhanh chóng được Nhà nước thể chế hoá thành các chính sách, pháp lệnh, chỉ thị… về các văn bản pháp luật khác thì mới phát huy được tác dụng. Các chính sách đó phải phù hợp với từng nhóm ngành và đặc điểm hoạt động chuyên môn của trí thức trên các lãnh vực khác nhau.
Những năm qua, đặc biệt là mấy năm gần đây chúng ta đã thật sự có nhiều đổi mới trong cách nhìn nhận. Tuy nhiên ở nhiều địa phương, đặc biệt là các địa phương các trung tâm khoa học, kinh tế, chính trị, đội ngũ trí thức vẫn chưa được đặt ở vị trí xứng đáng. Các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền ở nhiều địa phương còn chưa thật sự nhận thức được vai trò to lớn của người trí thức cũng như chưa biết tận dụng và phát huy tiềm năng trí tuệ quý báu của họ trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương mình. Họ chẳng những ít được tham gia tư vấn, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội địa phương mà còn chưa tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để trí thức lao động và sáng tạo.
Vì vậy, lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp cần thiết phải đổi mới thật sự quan điểm và cách nhìn nhận, đánh giá vai trò, vị trí của trí thức trong đời sống xã hội. Từ đó đề ra những chính sách đúng đắn trong việc ưu đãi, sử dụng họ sao cho phù hợp và sát thực, đạt hiệu quả cao.
2.3.2. Tạo động lực vật chất -tinh thần cho trí thức
Hiện nay tình trạng “chảy chất xám” ra nước ngoài thậm chí ngay cả ở trong nước cũng đang là một sự thực nhức nhối. Song, trong hệ thống chính sách của mình, Đảng và Nhà nước vẫn chưa có những biện pháp tích cực và hữu hiệu để khắc phục tình trạng này. Trước những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, chúng ta còn thiếu nhiều cán bộ khoa học có trình độ cao, nhiều cán bộ công nghệ có năng lực thực hành, cán bộ quản lý giỏi.
Trong khi đó, ước tính có tới "1,5 vạn người đã tốt nghiệp đai học và 1.600 người có học vị cao chưa tìm được việc làm"[3,tr. 47]. Điều đó đã gây lãng phí rất lớn cho Đảng và Nhà nước. Ở đây không chỉ lãng phí sức người, sức của đối với quá trình đào tạo ra được một người lao động có trình độ cao, mà còn để lãng phí một nguồn lao động có gía trị lớn cho xã hội.
Mặt khác, cũng do tác động của cơ chế thị trường, “chất xám” hiện nay đang thực sự trở thành hàng hoá và có xu hướng trôi dạt ra khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Lực lượng trí thức giỏi bỏ cơ quan Nhà nước đi làm thuê cho các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng đông đảo. Nhiều nhân tài cũng chuyển sang khu vực kinh tế tư nhân.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song nguyên nhân chính có lẽ vẫn là do những hấp dẫn về thu nhập cao ở các cơ sở đó. Để chủ động chống thất thoát lực lượng lao động này, Nhà nước cần nghiên cứu một cách đồng bộ và toàn diện các chính sách về đào tạo, sử dụng, đãi ngộ trí thức sao cho phù hợp với cơ chế mới. Cần ban hành những văn bản pháp luật quy định sự ràng buộc về pháp luật giữa cơ quan đào tạo, người được đào tạo và người sử dụng lao động. Khắc phục tình trạng Nhà nước chỉ biết bỏ kinh phí ra đào tạo, còn người sử dụng nghiễm nhiên sử dụng lao động đã được đào tạo mà không phải trả một khoản kinh phí nào.
Trong đội ngũ trí thức nước ta, có tới một nửa là cán bộ công tác trong ngành Giáo dục và Đào tạo. Trong nền kinh tế thị trường, ngành Giáo dục và Đào tạo đang đứng trước những thách thức mới. Các trường sư phạm không tuyển được học sinh giỏi, vì đang có sự lệch lạc về tâm lý xã hội cho rằng, học giỏi mà đi sư phạm là một sự “lãng phí” tài năng. Sở dĩ ngành Giáo dục và Đào tạo không hấp dẫn người tài vì đời sốgn giáo viên quá khó khăn. Gần đây Nhà nước ta có quan tâm đến việc thực hiện các chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với giáo viên.
Trong chế độ lương của giáo viên được xếp cao hơn một bậc so với các ngành khác, nhưng trên thực tế thì lương của họ lại bị hạ thấp, vì không còn phụ cấp thâm niên và một số phụ cấp ưu đãi khác. Điều đó chứng tỏ chế độ lương mới vẫn chưa đem lại những đổi thay tích cực cho đời sống vật chất của bộ phận trí thức công tác ở ngành Giáo dục. Nhà nước cần có hệ thống chính sách đồng bộ và một chế độ tài chính đủ hiệu lực để đào tạo, sử dụng có hiệu quả năng lực của đội ngũ giáo viên. Cần phải đầu tư vào giáo dục và đầu tư để tái sản xuất mở rộng sức lao động, là đầu tư có lãi nhất. Có như vậy mới thể hiện đúng tinh thần coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
2.3.3. Xây dựng hệ thống chính sách phù hợp đối với đội ngũ trí thức
Để tăng cường sức mạnh tổ chức Đảng ở những cơ sở cần nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và của từng đảng viên. Muốn vậy, Đảng phải “trí thức hoá’ đội ngũ của Đảng trên các nền nâng cao dân trí để đưa trí tuệ của Đảng ngang tầm với trí tuệ của thời đại. Đảng cần chú ý kết nạp trí thức trẻ vào Đảng và đề bạt vào các vị trí lãnh đạo những cán bộ trẻ có năng lực, giỏi chuyên môn.
Vì người lãnh đạo ở các cơ quan khoa học, văn hoá - nghệ thuật, các trường đại học… không những là người vững vàng về lập trường chính trị mà còn phải có trình độ chuyên môn, nắm vững được chuyên môn. Có như vậy Đảng mới có thể giữ vững được vị trí lãnh đạo của mình trước sự phát triển của khoa học công nghệ và những đổi thay to lớn của đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, Đảng cần tạo điều kiện để trí thức có thể làm tốt các chức năng phê phán, phản biện, chức năng phát hiện và dự báo tương lai. Trí thức cần được thu hút vào các tổ chức và hoạt động xã hội - chính trị đa dạng. Ngoài việc tham gia các tổ chức có tính chất Nhà nước như Mặt trận Tổ quốc, Liên hiệp công đoàn và các tổ chức, đoàn thể khác, trí thức còn cần được tập hợp vào các tổ chức có tính chất nghề nghiệp, qua đó có thể thu hút được đông đảo lực lượng trí thức bao gồm ở tất cả các ngành, các cấp, các thành phần kinh tế. Hướng họ cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung của đất nước, sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc đổi mới sự quản lý của Nhà nước đối với công tác trí thức. Sự đổi mới đó cần được thể hiện ở các mặt:
Nhà nước cần thể chế hoá kịp thời các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng đối với trí thức và tổ chức triển khai kịp thời việc thực hiện các chính sách đó. Cần thiết sửa đổi, bổ sung những chế độ, chính sách nào đã qua thực tiễn vẫn bộc lộ những điểm còn bất hợp lý, nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ để phát huy trí tuệ và tiềm năng của đội ngũ trí thức.
Nhà nước cũng cần kiện toàn và đổi mới công tác quản lý khoa học và đội ngũ cán bộ khoa học, văn hoá, nghệ thuật, như khoa học hoá các hoạt động hành chính của Nhà nước, sắp xếp tổ chức lại các cơ quan nghiên cứu khoa học hợp lý, tập trung xây dựng có trọng điểm các cơ quan nghiên cứu có chức năng thực hiện được những nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ thành những tập thể khoa học vững mạnh, giải tán các cơ quan hoạt động không có hiệu quả, hợp nhất các viện, các trung tâm có cùng chức năng nghiên cứu…
Công tác đào tạo đại học hiện nay có nhiều biểu hiện chứng tỏ sự quản lý của Nhà nước còn lỏng lẻo, chưa khoa học. Việc Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các hình thức học tập và các loại hình đào tạo đại học là phù hợp với những yêu cầu của nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Nhưng trong quá trình thực hiện còn nảy sinh nhiều biểu hiện tiêu cực từ khâu tuyển chọn đến học tập, thi cử… Nhà nước cần xem xét lại vấn đề này để đổi mới hơn nữa hình thức và nội dung đào tạo, bao hàm chất lượng cao cho đội ngũ trí thức tương lai.
Cùng với việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, bản thân người trí thức cũng cần phải tự đổi mới cả trong nhận thức cũng như trong hoạt động sáng tạo. Người trí thức chân chính không thể không trăn trở trước thực tế: dân tộc ta cần cù, chịu khó, nước ta giàu tài nguyên, chúng ta có nhiều tiềm năng trí tuệ, nhưng hiện nay vẫn chưa ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
Từ đó mà xác định cho mình trách nhiệm nâng cao tri thức, góp phần đưa đất nước đi lên con đường phát triển văn minh, giàu mạnh. Họ hiểu hơn ai hết chân lý của thời đại: “Trí thức là yếu tố chủ yếu của cuộc cách mạng ngày nay”. Đảng và Nhà nước đã dành cho trí thức những vị trí vẻ vang, đồng thời cũng là trách nhiệm rất nặng nề trong việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của Đảng trong giai đoạn đổi mới đất nước.
Hiện nay, cơ chế mới cũng mở ra cho trí thức những con đường lập nghiệp và khả năng sáng tạo phong phú. Người trí thức ngoài việc rèn luyện không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, còn cần phải xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, một tác phong làm việc khoa học, chủ động, sáng tạo và lối sống giản dị lành mạnh, ra sức phấn đấu vươn lên trở thành người chiến sĩ dũng cảm, trung thực trên mặt trận khoa học kỹ thuật, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, xứng đáng là người lao động chân chính trong chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chính sách của Đảng đối với trí thức thực chất là chính sách về xây dựng và sử dụng có hiệu quả những tiềm năng trí tuệ của trí thức phục vụ cho những mục tiêu chiến lược của Đảng và lợi ích của quốc gia, của dân tộc.
Việc xây dựng và thực hiện các chính sách đối với trí thức có liên quan mật thiết đến chất lượng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vì nó là một bộ phận của các chiến lược chung đó. Bởi vậy, Đảng đã từng bước đỏi mới những chủ trương, chính sách đối với đội ngũ trí thức, nhằm đáp ứng những dòi hỏi của thực tiễn đã và dang đặ ra. Những đổi mới đó có tác dụng tích cực trong việc hình thành và phát triển một đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhứng phẩm chất, trí tuệ và chính trị - tư tưởng mới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thể hiện tính nhất quán và đúng đắn trong những chủ trương và chính sách đối với trí thức của Đảng, chúng ta cũng phải thẳng thắn mà đánh giá rằng phần nào nó có tản mạnh, nhiều giải pháp đặt ra còn thiếu đồng bộ… dẫn đến làm nẩy sinh không tí những tiêu cực, hạn chế đến việc phát huy tiềm năng của trí thức.
Để khắc phục, Đảng cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách đối với trí thức. Năm 1957, Đảng có công bố “chính sách của Đảng lao động Việt Nam đối với trí thức”. Văn kiện đó đã có một tiếng vang, có sức thu hút khá lớn, động viên tập hợp trí thức trong giai đoạn cách mạng lúc bấy giờ.
Trong tình hình hiện nay, Đảng cũng dần có một số chủ trương chính sách mới về trí thức một cách chính thức và toàn diện hơn nhằm động viên đến mức cao nhất tiềm năng và trí tuệ của đội ngũ trí thức nước ta trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu mạnh.
Trong gần nửa thế kỷ qua, cùng với sự trưởng thành của cách mạng và phát triển đi lên của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ trí thức Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ một tầng lớp xã hội nhỏ bé, đến nay đội ngũ trí thức nước ta đã là một lực lượng khá đông đảo, có cơ cấu phong phú đa dạng và đang trở thành động lực mạnh mẽ trong công cuộc đổi mới đất nước. Sự trưởng thành của đội ngũ trí thức Việt Nam là kết quả của quá trình đào tạo, rèn luyện của Đảng và của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong mọi giai đoạn cách mạng. Quan điểm nhất quán của Đảng là đánh giá cao tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của trí thưc Việt Nam, coi trí thức là một bộ phận củ cách mạng, là nguồn vốn trí tuệ vô cùng quý báu của dân tộc.
Đảng đã nhiều lần khẳng định: cách mạng rất cần trí thức, không có trí thức thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội được. Từ nhận thức đó, Đảng đã xác định việc xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh đủ sức giải quyết những vấn đề của đất nước và thời đại đặt ra là nhiệm vụ chiến lược lâu dài trong suốt hành trình của Đảng và của cách mạng Việt Nam.
Trong từng giai cấp cách mạng, Đảng đã đề ra những chủ trương và chính sách phù hợp để đoàn kết, tập hợp lực lượng trí thức xung quanh Đảng, động viên họ thực hiện những nhiệm vụ cách mạng của Đảng giao phó. Thực tiễn đã chứng minh rằng trí thức nước ta đã tỏ ra xứng đáng là “động lực của cách mạng”, là lực lượng lao động quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng từ năm 1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo được những tiền đề để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với những vận hội mới. đó là xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội, là cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới và đường lối đổi mới của Đảng mở ra những khả năng chưa từng có để phát huy mọi nguồn lực của đất nước.
Để có thể “đi tắt, đón đầu”, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chúng ta phải xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức thành một lực lượng xã hội vững mạnh. Đó là những nhà lãnh đạo quản lý giỏi, những nhà khoa học và công nghệ năng động, uyên bác, những cán bộ văn hoá, giáo dục tài năng… Nếu không có một đội ngũ trí thức như vậy thì chúng ta không thể thực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, không thể hoà nhịp vào tiến trình phát triển chung của nhân loại.
Nhận thức được tầm quan trọng của trí thức trong sự nghiệp đổi mới, trong thời gian gần đây, cùng với những cải cách quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đảng đã có nhiều đổi mới trong công tác trí thức. Trong nhận thức mới, Đảng đã khẳng định trí thức là một tầng lớp xã hội độc lập và là một chủ thể bình đẳng trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức - nền tảng của chế độ mới xã hội chủ nghĩa; trí thức là động lực của sự phát triển đất nước. Những nhận thức đúng đắn đó là tạo cơ sở cho việc hoạch định các chính sách của Đảng đối với trí thức.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã từng bước hoàn thiện các chính sách đó để đảm bảo những lợi ích vật chất và tinh thần cho trí thức nhằm phát huy mạnh mẽ những tiềm năng của họ trong công cuộc đổi mới. Có thể nói mục tiêu của các chính sách của Đảng với trí thức trong giai đoạn hiện nay là tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để sử dụng và phát huy cao nhất năng lực của đội ngũ trí thức, mở rộng đào tạo bồi dưỡng để nhanh chóng xây dựng được một đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí phấn đấu vì sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để những chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng đi vào thực tiễn, Đảng cần phải tăng cường đổi mới hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự quản lý của Nhà nước đối với công tác trí thức. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là một nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển của đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
KẾT LUẬN
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém phát triển. Đảng ta đã xác định xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Sau 20 năm đổi mới với những tiền đề do công cuộc đổi mới tạo ra, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng(4-2006) đã xác định: Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này Đảng ta xác định "tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trườngđịnh hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền vơí phát triển kinh tế tri thức"[1,tr. 5] Như vậy công nghiệp hoá là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả giai cấp tầng lớp nhân dân. Để phát triển nền kinh tế tri thức chúng ta cần phát huy được vai trò chủ động, tích cực sáng tạo của đông đảo các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vai trò của đội ngũ trí thức vì công nghiệp hoá hiện đại hóa này nay gắn liền với hiện đại hóa và công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước phải dựa vào khoa học công nghệ. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam được thể hiện trong mọi lĩnh vực như khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá văn nghệ..
Trí thức Việt nam có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thể hiện trên nhiều phương diện. Đó là nghiên cứu khoa học tổng kết thực tiễn tiếp thu kinh nghiệm của thế giới. Trí thức nước ta là những người tạo luận cứ khoa học cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá. Xác định đúng đắn mô hình bước đi, giải pháp của qúa trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trí thức nước ta cũng là lực lượng chủ yếu trực tiếp thực hiện hai chiến lược quan trọng là khoa học - công nghệ, giáo dục -đào tạo và sẽ là lực lượng phổ biến và ứng dụng nhưng tri thức khoa học đó vào sản xuất và đời sống.
Như vậy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng là hết sức quan trọng. Để đội ngũ trí thức nước ta không chỉ đông về số lượng mà còn phải nâng cao về cất lượng cần phải có sự quan tâm và chăm lo hơn nữa của Đảng, Nhà nước, các cấp các ngành và toàn thể xã hội. Đó là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta trước mắt cũng như lâu dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Nhân Dân, số 18515, tháng 4-2006.
2. Phạm Tất Dong(1995), Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Trí Dũng(1995),"Chảy máu chất xám tại chỗ-một sự nhức nhối", Cộng sản,(1), tr .45.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam(1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ Bẩy, Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam(1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
6. Đảng Cộng sản Việt Nam(1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ Hai, Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam(2004), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Đắc Hưng(2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu đổi mới đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Lê Mạnh Hùng(1996), Kinh tế -xã hội Việt Nam-thực trạng, xu thế, giải pháp, NXB Thống kê, Hà Nội.
10. Nguyễn Thanh Tuấn(1995), Đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Luận án PTS triết học
11. Phan Thanh Khôi(1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, Luận án PTS Triết học, Hà Nội
12. V.I.Lênin(1974), Toàn tập, tập 1, NXB Tiến Bộ, M.
13. V.I.Lênin(1974), Toàn tập, tập 6, NXB Tiến Bộ, M.
14. V.I.Lênin(1979), Toàn tập, tập 7, NXB Tiến Bộ, M.
15. V.I.Lênin(1976), Toàn tập, tập 9, NXB Tiến Bộ, M.
16. V.I.Lênin(1977), Toàn tập, tập 36, NXB Tiến Bộ, M.
17. V.I.Lênin(1977), Toàn tập, tập 39, NXB Tiến Bộ, M.
18. V.I.Lênin(1977), Toàn tập, tập 40, NXB Tiến Bộ, M.
19. V.I.Lênin(1977), Toàn tập, tập 41, NXB Tiến Bộ, M.
20. V.I.Lênin(1978), Toàn tập, tập 44, NXB Tiến Bộ, M.
21. V.I.Lênin(1978), Toàn tập, tập 45, NXB Tiến Bộ, M.
22. C. Mác-Ph.Ăngghen(1980), Tuyển tập, Tập I, NXB Sự thật, Hà Nội
23. C. Mác-Ph.Ăngghen(1981), Tuyển tập, Tập II, NXB Sự thật, Hà Nội.
24. C. Mác-Ph.Ăngghen(1981), Tuyển tập, Tập VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
25. C. Mác-Ph.Ăngghen(1980), Hệ tư tưởng Đức, Tập VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
26. Hồ Chí Minh(1995), Về xây dựng con người mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Hồ Chí Minh(1993), Về đạo đức, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đỗ Mười(1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Phạm Xuân Nam(1994), Quá trình phát triển công nghiệp ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
31. Đỗ Nguyên Phương(1993), Những vấn đề chính trị - xã hội của cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Ngô Đình Xây(2002), "Những yêu cầu đối với trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa". Cộng sản , (27), tr 21-24.
Lời cảm ơn
Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô giáo và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới ThS Ngô Thị Phượng, người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo Khoa Triết học đã giúp đỡ dạy bảo tôi trong suốt quá trình học tập
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình bạn bè đã động viên giúp đỡ trong suốt khoá học.
Hà Nội, ngày15 tháng 5 năm2006
Sinh viên
Nguyễn Hồng Đức
Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước (63 trang)
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.doc