Tiểu luận Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “ cái đặc thù” của Việt Nam phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể ở Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý kinh tế bằng c hiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước, đồng thời sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.

pdf15 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 12250 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Tiểu luận ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2 ----------------***------------------ Câu 1: Làm rõ quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường? 1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội VI đến đại hội VIII Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà nó là thành tựu phát triển của toàn nhân loại. - Kinh tế hàng hoá ra đời từ kinh tế tự nhiên, kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. - Kinh tế hàng hoá là phương thức tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm của quá trình dung để thoả mãn nhu cầu con người thông qua trao đổi buôn bán. - Kinh tế thị trường là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, mối quan hệ giữa người với người. Phân biệt KTHH và KTTT +Giống: -Về bản chất: đều chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường -Về nguồn gốc: xuất phát từ kinh tế tự nhiên và sự phân công lao động xã hội +Khác: Về trình độ phát triển: KTTT phát triển sau nên với trình độ cao hơn, KTHH có đầu ra thông qua thị trường nhưng đầu vào thì chưa chắc, trong KTTT có cả đầu ra và đầu vào thông qua thị trường. Hai là, KTTT còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. - Tính tất yếu khách quan phải phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ lên XHCN vì KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế, là trình độ phát triển cao của KTHH, nó không phải là đặc trưng bản chất của một chế độ kinh tế cơ bản của xã hội mà nó tồn tại ở nhiều phương thức khác nhau. Trong thời kì quá độ có những cơ sở kinh tế là điều kiện tồn tại và phát triển của KTTT và phát triển KTTT là cần thiết cho quá trình xây dựng CNXH. Vì vậy, mô hình phát triển tổng quát của nước ta là: “ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. - Đặc trưng của mô hình: +Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh,cạnh tranh và hợp tác với nhau +Các đơn vị kinh tế lựa chọn kinh doanh và phương án tổ chức sản xuất theo sự hướng dẫn của thị trường. 3 +Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh bảo đảm phát triển hài hoà kinh tế và phát triển xã hội. Ba là, cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng xã hội ở nước ta. KTTT có vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội. Ở bất kỳ xã hội nào, kinh tế thị trường cũng có những đặc trưng chủ yếu sau: +Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. +Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường phát triển đầy đủ và có tác dụng là cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế. +Nền kinh tế có tính mở cao và vận động theo quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường. +Nền kinh tế hiện đại còn có sự điều tiết vĩ mô của nền kinh tế nhà nước. 2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X Tại Đại hội IX của Đảng (4/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX cũng xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, và với tính định hướng này làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. 4 Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là: Thứ nhất, về mục đích phát triển nhằm:  Thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.  Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Mục tiêu này thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản. Thứ hai, về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền...phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế. Vì thế, kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Mặt khác, tiến lên xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác. Cuối cùng, về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư 5 bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường địn hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi người. Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Câu 2: Hãy phân tích làm rõ đặc điểm của kinh tế thị trường hiện đại. Liên hệ với nền kinh tế của Việt Nam? * Kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cũng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ...để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. * Nền kinh tế thị trường hiện đại bao gồm những đặc điểm sau: - Các quy luật của thị trường, trước hết là quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quy luật cung - cầu..., là cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực trong nền kinh tế, chi phối toàn bộ các quá trình đó. - Thị trường phát triển toàn diện và đồng bộ, trong đó các loại thị trường đều phát triển. Tất các các bộ phận, các loại thị trường tương tác hỗ trợ lẫn nhau để hình thành 6 nên một hệ thống các quan hệ, thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, có các mối quan hệ hữu cơ, có tác dụng và là đầu mối của tất cả các hoạt động của nền kinh tế - xã hội. - Các chủ thể (kể cả trong nước và nước ngoài) tham gia thị trường bình đẳng và cạnh tranh với nhau là các thực thể kinh tế có lợi ích riêng, nhưng đều tuân thủ hệ thống pháp luật chung (kể cả luật pháp trong nước và các định chế quốc tế). - Các tín hiệu, thông tin thị trường về mọi hoạt động trong nền kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ, sử dụng các nguồn lực, cân đối lớn - vĩ mô và vi mô, do thị trường phát ra... đều được công khai, minh bạch và bình đẳng trong việc tiếp cận đối với mọi thành viên và chủ thể trong xã hội. - Thống nhất hình thành một trật tự thị trường, sản xuất xã hội, lưu thông phân phối và tiêu dùng dựa trên những tiến bộ mới nhất về khoa học, kỹ thuật và công nghệ. - Các phương tiện kỹ thuật tiên tiến được sử dụng một cách tối ưu cho mọi hoạt động của thị trường, thương mại điện tử trở thành phương thức giao dịch phổ biến; các cơ sở hoạt động về hậu cần - logistics1, ngày càng có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. * Liên hệ với Việt Nam Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị trường. Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân 1 Hệ thống hậu cầu hợp lý các luồng vận động của hàng hóa trong một nền kinh tế từ điểm đầu đến điểm cuối. 7 công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ở nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng với bảo đảm an sinh và công bằng xã hội. Bởi vấn đề bảo đảm xã hội, công bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là "phương tiện" để phát triển mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba điểm rất cơ bản là: Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiều hình thức sở hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu công cộng (công hữu, toàn dân) về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa nguồn lực bên trong và bên ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Bên cạnh đó phải chủ động đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để chúng trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các chính sách xã hội. Muốn cho nền 8 kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể như: - Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. - Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... - Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho người giàu, khuyến khích người có tài năng. Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm bảo đảm công bằng xã hội; thị trường có những nguyên tắc riêng trong điều tiết phân phối thu nhập. Chế độ phân phối trong xã hội là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội không thể chỉ dựa vào chính sách điều tiết và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, mà còn phải thực hiện tốt các chính sách phát triển xã hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội 9 chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trên các mặt, như Nhà nước đóng vai trò là "nhân vật trung tâm" và quản lý kinh tế vĩ mô, thông qua các chức năng: - Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường; - Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội bằng việc soạn thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và các chính sách (đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng) để hướng các chủ thể kinh tế vào thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội đã đặt ra; - Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế, nó bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc biệt là sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước; phân phối các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế. - Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế, trong đó Nhà nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh; bảo đảm nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường "tự điều chỉnh". Mặt khác, do thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó còn phải chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa - Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội. 10 Cơ chế thị trường là nhân tố "trung tâm" của nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước ta quản lý nền kinh tế – xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.Quan điểm cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì Nhà nước không cần phải can thiệp vào kinh tế và không cần thiết phải kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế… là hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa trong kinh tế thị trường, xét từ góc độ Nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội đúng hướng. * Tại sao trong cam kết WTO các nước chưa thừa nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường? “ Nền kinh tế thị trường” theo quan điểm của WTO là những nền “ thương mại tự do” tuyệt đối, các doanh nghiệp tham gia thị trường hoàn toàn độc lập với chính phủ nước họ. Nghĩa là mọi đối tác khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế thì phải là những thực thể kinh tế độc lập. Và các quyết định đưa ra của các thực thể này cũng phải độc lập với ý kiến của nhà nước, và dựa trên lợi ích kinh tế của mình. Độc lập cả về chiến lược đầu tư kinh doanh, địa bàn kinh doanh, giá cả hàng hoá, vốn liếng lợi nhuận, nhân sự, lương bổng,… Các doanh nghiệp chỉ phục tùng vào luật pháp, đóng thuế theo luật trong nước cũng như nước mà họ đầu tư đến. Họ không chịu một mệnh lệnh hành chính nào đến từ các cấp chính quyền. Trái với những điều nói trên là kinh tế thị trường. Hiện nay, nền kinh tế của chúng ta có hướng cải tiến theo kinh tế thị trường nhưng chưa toàn diện và chưa triệt để mà vẫn còn nhiều yếu tố bao cấp, chưa thoát khỏi tình trạng “ kế hoạch hoá tập trung quan liêu”. Ở các tập đoàn, các doanh nghiệp, nhà nước hoàn toàn quyết định về nhân sự, vốn liếng, quy định giá mua bán, được vay vốn ưu đãi, được giãn nợ… Những doanh nghiệp như thế thì không thể đứng độc lập như yêu cầu của WTO được. 11 Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. Vì: + Trong thời gian qua, kết cấu hạ tầng được đầu tư ngày càng tăng, tuy nhiên kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, trình độ công nghệ lạc hậu, máy móc cũ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng suất vẫn chưa cao +Chuyên môn hoá sản xuất chưa rộng chưa sâu,giao lưu hàng hoá còn nhiều hạn chế. +Dung lượng thị trường nhỏ hẹp, chưa có thị trường sức lao động theo đúng nghĩa của nó. Câu 3: Kinh tế thị trường Việt Nam, Mỹ khác nhau như thế nào? KINH TẾ THỊ TRƯỜNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN KHÁI NIỆM Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. ĐẶC ĐIỂM - Nhà nước có vai trò hạn hữu trong điều tiết cũng như phân phối thị trường. - Đa dạng các hình thức sở hữu, tuy nhiên kinh tế tư nhân là chủ yếu, các công ty nhà nước nắm vai - Sư can thiệp của Nhà nước là rất lớn. Dù vậy, các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được tôn trọng. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý. 12 trò rất ít trên thị trường. - Tuân thủ đúng các quy luật kinh tế, thương mại, phát triển một cách tự nhiên. Giá cả không được quyết định bởi người bán hay người mua mà là do sự phát triển của thị trường, khả năng cung cầu, - Đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. - Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát triển. ƯU ĐIỂM - Tuân thủ đúng các quy luật của kinh tế - Mô hình này thúc đẩy tính cạnh tranh và nguồn lực sản xuất (bên nào mạnh, có ưu thế cạnh tranh, sản xuất hàng tốt hơn và nhiều hơn sẽ có lợi thế hơn). Những vấn đề có liên quan đến việc phân bổ và sử dụng nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn,…về cơ bản được giải quyết khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cung cầu - Vận dụng được các tiến bộ, khoa học kĩ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng. Điều tiết thị trường, tìm ra những lợi thế của mình đồng thời đưa ra những thứ mà thị trường cần, tạo lợi thế cho các doanh nghiệp nước nhà. Tạo ra sân chơi chung và luật chơi bình đẳng cho mọi đối tương. - Sự can thiệp của Nhà nước có thể đảm bảo cho sự vận động phát triển của thị trường được ổn định, tối đa hóa hiệu quả kinh tế. - Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. - Kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế thành công. 13 NHƯỢC ĐIỂM Thị trường dễ phát triển lệch lạc, khả năng cung quá nhiều trong khi cầu yếu hoặc ngược lại - Sự phân biệt giàu nghèo được thể hiện rất rõ và ngày càng có xu hướng trầm trọng. Làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội. - Phúc lợi xã hội bị coi nhẹ. ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại vi” - Có thể gây ra lạm phát và thất nghiệp - Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. - Coi trọng giá trị kinh tế hơn là các giá trị khác, như môi trường, thiên nhiên…. - Các doanh nghiệp nhà nước tỏ ra quá thiếu hiệu quả, nguồn vốn đầu tư nhiều mà thường xuyên lỗ (hoặc tăng trưởng không xứng với mức độ đầu tư) - Quan hệ xã hội có chiều hướng đi xuống và lạnh dần, các mối quan hệ “thị trường” ngày càng nhiều (mua chức, mua điểm….) - Nảy sinh các tệ nạn xã hội. - Chưa thể tận dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật của thế giới, sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ. - Kết cấu hạ tầng kĩ thuật còn phát triển chưa đồng bộ với yêu cầu. - Các thành phần kinh tế chưa đa dạng, thành phần kinh tế tư nhân và nước ngoài chưa được khuyến khích Qua đó ta thấy, nền kinh tế thị trường của Mỹ là theo mô hình thể chế kinh tế thị trường tự do. Đó là một cơ chế thị trường tự do thuần khiết hơn so với các nền kinh tế khác. Trong mô hình kinh tế thị trường này, các mối quan hệ kinh tế đều được giải quyết thông qua thị trường là chính, còn sự can thiệp của nhà nước là hạn hữu. Trong môi trường này, thị trường lao động có tình linh hoạt cao và các luật lệ về thị 14 trường lao động đều thiên về bảo hộ người chủ tư bản hơn là người lao động làm thuê. Hiện nay, mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ đang chiếm ưu thế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “ cái đặc thù” của Việt Nam phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể ở Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước, đồng thời sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.  Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý vĩ mô của nhà nước là đặc điểm cơ bản nhất làm cho nền kinh tế thị trường của nước ta khác so với nền kinh tế thị trường của Mỹ. Danh mục tài liệu tham khảo: - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991 - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 - Giáo trình “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”- Nxb Chính trị quốc gia - - - - 15

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdffile5_2834.pdf
Luận văn liên quan