Tiểu luận Exchange rate pass-Through in emerging markets

Chỉ số giá tiêu dùng: Tác giả sử dụng dữ liệu CPI từ IFS (dòng 64) cho tất cả các nước trừ khu vực đồng Euro (dữ liệu HICP từ AWM), Hồng Kông (BIS), Trung Quốc và Đài Loan (nguồn quốc gia). Chỉ số giá sản xuất: Tác giả sử dụng dữ liệu PPI từ IFS (dòng 62) cho tất cả các nước, trừ Hồng Kông, Đài Loan, Argentina và Trung Quốc (nguồn quốc gia). Lãi suất ngắn hạn: Tác giả sử dụng tỷ giá hối đoái đối với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, (từ IFS, đường 60B), khu vực đồng euro (AWM), Hồng Kông (từ BIS), và Đài Loan (từ Ngân hàng Trung ương Trung Quốc). Tác giả sử dụng lãi suất hối phiếu kho bạc cho Hungary và Mexico (từ IFS, đường 60C), và lãi suất tiền gửi ngân hàng đối với Trung Quốc, Cộng hoà Séc và Chile (từ IFS, dòng 60L).Xem từ điển chi tiết Nhập khẩu/GDP: Để tính toán tỷ lệ này, tác giả sử dụng hàng loạt chỉ số nhập khẩu danh nghĩa (của hàng hoá và dịch vụ, ngoại lệ với Trung Quốc, nơi chỉ bao gồm hàng hoá) và GDP. Tác giả sử dụng dữ liệu nhập khẩu danh nghĩa từ IFS (đường 99B) cho tất cả các nước ngoại trừ khu vực đồng Euro (ECB), Trung Quốc, Singapore, và Đài Loan (nguồn quốc gia). Tác giả sử dụng dữ liệu GDP danh nghĩa từ IFS (dòng 98c) cho tất cả các nước ngoại trừ khu vực đồng Euro (Eurostat), Trung Quốc, Singapore, và Đài Loan (nguồn quốc gia).

pdf33 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2255 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Exchange rate pass-Through in emerging markets, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểu luận EXCHANGE RATE PASS-THROUGH IN EMERGING MARKETS Tóm tắt Mục đích của bài nghiên cứu này là xem xét mức độ tác động của sự chuyển dịch tỷ giá (ERPT) tới g iá cả tại 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Theo kết quả của tác giả, dựa trên 3 mô hình vector tự hồi quy (VAR), phần nào trái ngược với các nghiên cứu trước đây rằng ERPT tác động vào cả giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các nước mới nổi luôn cao hơn ở các nước phát triển. Các thị trường mới nổi với mức lạm phát 1 con số (hầu hết là các nước Châu Á), sự chuyển dịch đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp và không quá khác biệt so với những nền kinh tế phát triển. Bài nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng về sự tương quan dương giữa mức độ ERPT và lạm phát, giống với giả thuyết của Taylor khi loại trừ 2 nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) ra khỏi phân tích. Cuối cùng, về mặt lý thuyết thì có sự tương quan dương giữa mở cửa nhập khẩu và ERPT, nhưng trên thực tế, tác giả chưa tìm thấy những bằng chứng thực nghiệm vững chắc về vấn đề này. 1. Giới thiệu: Việc xem xét ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái lên giá cả là rất quan trọng để đo lường sự phản ứng của chính sách tiền tệ lên những biến động tiền tệ. Nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng các biến động trong tỷ giá và giá cả không là một - một trong ngắn hạn tới trung hạn. Một học thuyết mở rộng đã được phát triển hơn 3 thập kỷ qua đã đưa ra những giải thích khác nhau rằng tại sao sự chuyển dịch tỷ giá hối đoái (ERPT) đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng là không hoàn toàn. Phân tích thực nghiệm cũng đã cung cấp bằng chứng về sự khác biệt giữa các quốc gia đối với ERPT. Taylor (2000) đã đưa ra tranh luận trong khía cạnh này rằng độ nhạy của giá cả tới sự biến động của tỷ giá hối đoái phụ thuộc hoàn toàn vào lạm phát. Bài nghiên cứu này kiểm định mức độ ERPT tới giá cả tại 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Tác giả sử dụng chiến lược mô phỏng cho các nước tiên tiến của McCarthy (2000) và được ứng dụng bởi Hahn (2003) cho khu vực sử dụng đồng euro. Tác giả ước lượng bằng mô hình vector tự hồi quy (VAR), trong đó bao gồm các yếu tố cơ bản như : biến đầu ra, tỷ giá hối đoái, giá nhập khẩu và giá tiêu dùng, lãi suất ngắn hạn, và giá dầu. Phương pháp vector tự hồi quy này chấp nhận sự nội sinh giữa các biến đang xem xét. Những cú sốc tỷ giá được xác định bởi sự sắp xếp thích hợp các biến và việc áp dụng một phương pháp đệ quy. Khi xếp thứ tự của các biến, tác giả tiến hành phân tích độ nhạy cho thứ tự thay thế khác nhau của các biến. Tác giả đã ước lượng các mô hình so sánh với một chuẩn mực của các nền kinh tế phát triển, cụ thể là khu vực đồng Euro, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Kết quả của tác giả xác nhận ERPT suy giảm qua chuỗi giá cả, tức là ERPT tác động lên giá tiêu dùng thấp hơn so với tác động lên giá nhập khẩu. Cũng có bằng chứng về ERPT lên giá tiêu dùng thấp ở các nền kinh tế phát triển, đặc biệt trong trường hợp của Mỹ và Nhật Bản. Trong nghiên cứu trước đây, ERPT tác động lên cả giá tiêu dùng và giá nhập khẩu ở khu vực Châu Âu là hơi cao hơn so với ở Mỹ. Phân tích của tác giả phần nào trái ngược với các thông lệ trước đây là ERPT của "các nền kinh tế mới nổi" luôn luôn cao hơn "các nền kinh tế phát triển". Đối với các nền kinh tế mới nổi có mức lạm phát là một con số (nhất là các nước châu Á trong mẫu của tác giả), ERPT thấp và không mấy khác biệt so với mức độ hiện tại của các nền kinh tế phát triển. Nói chung, nghiên cứu thừa nhận sự tương quan dương giữa mức độ ERPT và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor. Kết quả này chỉ trở nên rõ ràng sau khi loại trừ 2 nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ), vì những khó khăn áp dụng trong thực nghiệm liên quan đến sự bất ổn nghiêm trọng kinh tế vĩ mô ở hai nước này. Cuối cùng, về mặt lý thuyết thì có tương quan dương giữa mở cửa nhập khẩu và ERPT, nhưng trên thực tế, tác giả chưa tìm thấy những bằng chứng thực nghiệm vững chắc về vấn đề này. 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây: Hai thập kỷ qua, một lượng lớn tài liệu kinh tế về ERPT đã được nghiên cứu. Bắt đầu từ những quan điểm khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm kiểm tra vai trò của ERPT ở các nền kinh tế nhỏ và lớn. Các nghiên cứu đã được tiến hành ở các nước phát triển bao gồm: Anderton (2003): “Extra-Euro Area Manufacturing Import Prices and Exchange Rate Pass-Through”  Sự dịch chuyển trong việc thay đổi tỷ giá có ảnh hưởng đến tỷ giá đồng euro tới giá sản phẩm nhập khẩu trong khu vực ngoài châu Âu thì dao động khoảng 50%-70%. Trong khi giá thị trường thì ước tính dao động từ 30%-50%.  Các quốc gia thành viên châu âu nhưng không phải trong khu vực chung châu âu áp một mức lớn hơn lên giá thị trường trong khi khu vực chung châu âu nhập khẩu từ Mỹ chịu mức độ ảnh hưởng lớn của ERPT. Campa và Goldberg (2004): “Exchange Rate Pass-Through into Import Prices”  Đánh giá mức độ chuyển dịch tỷ giá vào giá nhập khẩu của 23 nước OECD.  Các nước có tỷ giá hối đoái và lạm phát biến động ít hơn có thể sẽ có tỷ lệ chuyển dịch tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu thấp hơn.  Điều quan trọng cho sự thay đổi chuyển dịch là một thay đổi đáng kể trong thành phần của gói nhập khẩu quốc gia. Campa, Goldberg và González-Mínguez (2005): “Exchange Rate Pass-Through to Import Prices in the Euro Area”  Phân tích thực nghiệm sự chuyển dịch của tỷ giá hối đoái đến giá nhập khẩu, giữa các nước và các loại sản phẩm, trong khu vực đồng Euro.  Không tìm thấy bằng chứng thuyết phục rằng sự ra đời của đồng euro gây ra một sự thay đổi trong sự chuyển dịch của tỷ giá vào giá. Hahn (2003): “Pass-Through of External Shocks To Euro Area Inflation”  Nghiên cứu tác động chuyển dịch của cú sốc bên ngoài đến lạm phát khu vực sử dụng đồng Euro.  Cú sốc bên ngoài giải thích phần lớn các biến trong các chỉ số giá và góp phần lớn hơn đến lạm phát trong khu vực Euro khi bắt đầu sử dụng đồng tiền chung Châu Âu. Ihrig và cộng sự (2006): “Exchange Rate Pass-Through in the G-7 countries”  Có sự sụt giảm giá nhập khẩu và biến động giá tiêu dùng gần như tất cả các nước G7. Khoảng một nửa các quốc gia này có sự biến động sụt giảm đáng kể.  Biến động tỷ giá hối đoái cho cả hai giá tiêu dùng và nhập khẩu đã giảm trong cùng một khung thời gian. Phần lớn biến động giá tiêu dùng được giải thích bởi sự suy giảm trong biến động tỷ giá hối đoái.  Những nước mà sự suy giảm trong giá cả nhập khẩu và biến động giá tiêu dùng cũng tương đối lớn, cho thấy giảm biến động giá nhập khẩu có thể giải thích sự thay đổi trong biến động giá tiêu dùng. McCarthy (2000): “Pass-Through of Exchange Rates and Import Prices to Domestic Inflation in Some Industrialized Economies”  Kiểm định sự chuyển giá của các nhân tố bên ngoài vào lạm phát trong nước ở một số nền kinh tế công nghiệp hóa.  TGHĐ có ảnh hưởng không đáng kể đến lạm phát giá cả trong nước trong khi giá nhập khẩu có tác động mạnh mẽ hơn.  Sự chuyển dịch có mức độ lớn hơn ở những nước có nhập khẩu lớn và phụ thuộc nhiều vào tỷ giá và giá nhập khẩu. Ngoài ra còn có một nguồn tài liệu áp dụng cho các nền kinh tế mới nổi bao gồm: Choudri và Hakura (2006): “Exchange Rate Pass-Through to Domestic Prices : Does the Inflationary Environment Matter?”  Sử dụng số liệu của 71 nước phát triển và mới nổi trong giai đoạn 1979 – 2000 để kiểm chứng mức độ của sự phá giá lên lạm phát.  Mức độ chuyển dịch mạnh hay yếu phụ thuộc vào mức độ lạm phát ban đầu của nước phá giá. Sự chuyển dịch yếu đối với nước có mức lạm phát ban đầu thấp và cao đối với nước có mức lạm phát ban đầu cao. Frankel và cộng sự (2005): “Slow Pass-Through Around the World: A New Import for Developing Countries?”  ERPT ở các nước đang phát triển là cao hơn và ở các nước phát triển là thấp hơn.  Trong thập niên 90, sự ảnh hưởng bởi ERPT này yếu đi đối với các nước đang phát triển và được giải thích bởi những thay đổi trong môi trường tiền tệ. Mihaljek và cộng sự (2000): “A Note On The Pass-Through From Exchange Rate And Foreign Price Changes To Inflation In Selected Emerging Market Economies” Nguyên cứu sự dịch chuyển thông qua các thay đổi của tỷ giá hối đoái và thay đổi giá nhập khẩu (tính bằng ngoại tệ) vào lạm phát trong nước của nhóm 13 nước có nền kinh tế thị trường mới nổi và đưa ra các nhận định sau:  Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái mạnh mẽ và cũng tương quan đồng thời với lạm phát nhiều hơn là với sự thay đổi của giá nhập khẩu.  Giá nhập khẩu và độ co giãn tỷ giá của lạm phát là như nhau ở 4 quốc gia trong mẫu. 2 nước có độ co giãn giá nhập khẩu cao hơn, và 7 nước độ co giãn tỷ giá cao hơn.  Sự khác biệt về hệ số dịch chuyển giữa các quốc gia là lớn và có liên quan đến biến động của lạm phát.  Sự dịch chuyển từ thay đổi tỷ giá hối đoái vào lạm phát mạnh hơn sự dịch chuyển từ giá nhập khẩu, nhưng đã giảm kể từ giữa những năm 1990, có thể là do kết quả của nhiều điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách cơ cấu trong các nền kinh tế mới nổi. Để đơn giản hóa, các nhà kinh tế truyền thống đã giả định rằng giá cả hàng hóa mậu dịch – được tính trong cùng một loại tiền tệ - là ngang nhau giữa các quốc gia, ví dụ như điều kiện ngang giá sức mua PPP. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, giả định này hầu như không có sự ủng hộ, ít nhất là trong trường hợp mẫu nhỏ và kiểm tra trong ngắn hạn đến trung bình. Cùng với các bằng chứng này, tài liệu lý thuyết đã phát triển hơn hai thập kỷ qua cung cấp những giải thích khác nhau rằng tại sao ERPT là không hoàn toàn. Trong bài báo chuyên đề của ông, Dornbusch (1987) chỉ ra sự chuyển dịch không hoàn toàn là do các công ty hoạt động trong một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và điều chỉnh tăng giá để phản ứng với một cú sốc tỷ giá. Burstein et al. (2003) nhấn mạnh vai trò (phi mậu dịch) đầu vào trong nước trong chuỗi phân phối hàng hóa mậu dịch. Burstein et al. (2005) chỉ ra vấn đề đo lường CPI mà bỏ qua điều chỉnh lớn chất lượng tỷ giá hối đoái hàng hóa mậu dịch cụ thể như sau: Dornbusch (1987): “Exchange Rates and Prices”  Sự thay đổi của tỷ giá ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa.  Nghiên cứu xem những lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều và những lĩnh vực bị ảnh hưởng ít khi tỷ giá thay đổi.  Sự thay đổi của tỷ giá làm cho các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng mạnh.  Dự đoán về sự di chuyển quốc tế của các công ty và sự mất cân bằng tỷ giá hối đoái trong tương lai. Burstein và cộng sự (2003): “Distribution Cos ts And Real Exchange Rate Dynamics During Exchange-Rate-Based-Stabilizations”  Nghiên cứu vai trò của các lĩnh vực phân phối trong việc hình thành hành vi của tỷ giá hối đoái thực tế trong quá trình thay đổi tỷ giá.  Chi phí phân phối là một trong những lý do tại sao PPP thất bại vì chi phí phân phối thường không được coi là yếu tố quyết định quan trọng của RER. Burstein và cộng sự (2005): “Large Devaluations and the Real Exchange Rate”  Nguyên nhân chính đằng sau sự sụp đổ lớn trong tỷ giá hối đoái thực xảy ra sau khi phá giá lớn là sự điều chỉnh giảm trong giá hàng hóa phi mậu dịch và dịch vụ chứ không phải là sự thất bại của tương quan PPP đối với hàng hoá mậu dịch.  Việc sử dụng giá bán lẻ hàng hoá mậu dịch dẫn đến sự phóng đại các phần nhỏ của sự suy giảm trong RER mà điều này là do sự thay đổi trong giá cả hàng hoá mậu dịch qua các nước. Một hướng khác của lập luận nhấn mạnh hơn vai trò của chính sách tiền tệ, bằng cách bù đắp một phần những tác động của thay đổi tỷ giá lên giá (Gagnon và Ihrig, 2004). Devereux và Engel (2001) và Bacchetta và Van Wincoop (2003) đã khám phá vai trò của giá cả nội tệ trong việc giảm mức độ ERPT như sau: Gagnon và Ihrig (2004): “Monetary Policy And Exchange Rate Pass-Through”  Chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tỷ giá kỳ vọng và sự chuyển dịch của tỷ giá. Khi doanh nghiệp tín nhiệm và tin vào việc ổn định lạm phát của ngân hàng trung ương thì ít có sự biến động sẽ làm giảm sự chuyển dịch của tỷ giá vào giá trong nước. Devereux và Engel (2001): “Endogenous Currency Of Price Setting In A Dynamic Open Economy Model”  Các doanh nghiệp xuất khẩu có thể lựa chọn đồng tiền mà họ định được giá cho việc bán hàng ra thị trường nước ngoài.  Một quốc gia có chính sách tiền tệ có nhiều biến động sẽ thấy rằng giá nhập khẩu sẽ được thiết lập lại bằng ngoại tệ (theo đồng tiền của người bán), và có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ tỷ giá hối đoái sang giá nhập khẩu .  Một đất nước có chính sách tiền tệ ít biến đổi và thị trường tài chính quốc tế hoàn hảo có nhiều khả năng thiết lập giá hàng hóa nhập khẩu theo đồng nội tệ và sự chuyển dịch của tỷ giá là rất thấp. Bacchetta và Van Wincoop (2003): “Why Do Consumer Prices React Less Than Import Prices To Exchange Rates?”  Mức độ biến động của tỷ giá lên giá tiêu dùng thấp hơn nhiều so với giá nhập khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu có xu hướng định giá bằng đồng tiền của nước xuất khẩu và nhà sản xuất định giá bằng nội tệ, trong trường hợp này sự chuyển dịch hoàn toàn lên giá nhập khẩu và không có sự chuyển dịch lên giá tiêu dùng.  Các nhà sản xuất hàng hóa cuối cùng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá bên cạnh chi phí sản xuất, nên họ muốn đặt giá bằng nội tệ để tránh biến động giá lớn so với hàng tiêu dùng khác. Thực vậy các cách tiếp cận lý thuyết khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm cho cả những nền kinh tế phát triển và mới nổi đã phát hiện bằng chứng về ERPT không hoàn toàn. Những nghiên cứu này cũng tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các nước, đương nhiên dẫn đầu với câu hỏi cái gì đã quyết định cơ bản của sự chuyển dịch. Riêng Taylor (2000) đã đưa ra giả thuyết độ nhạy giá cả đến sự biến động tỷ giá hối đoái phụ thuộc hoàn toàn vào lạm phát. Lý do cho điều này liên quan đến sự tương quan dương giữa mức độ và sự tồn tại lâu dài của lạm phát, kết hợp với mối quan hệ giữa sự tồn tại lâu dài của lạm phát và sự chuyển dịch. Liên kết thứ hai có thể được nói rõ như sau: Càng lạm phát liên tục, thì tỷ giá hối đoái càng ít biến động được hiểu là tạm thời và các công ty càng có thể đối phó thông qua điều chỉnh giá. Bằng chứng qua các nghiên cứu khác nhau đã ủng hộ toàn bộ giả thuyết của Taylor. SỰ tương quan dương giữa mức độ chuyển dịch và lạm phát mạnh mẽ hơn, tuy nhiên, khi các thị trường mới nổi được bao gồm trong mẫu được xem xét (xem riêng bảng dữ liệu bằng chứng trong Choudhri và Hakura, 2006). Điều này có thể không ngạc nhiên, khi các tranh luận của Taylor trở nên có ý nghĩa hơn cho tỷ lệ lạm phát cao. Taylor (2000): “Low Inflation, Pass-Through, and the Pricing Power of Firms”  Phá giá đồng tiền không phải lúc nào cũng gây ra lạm phát. Những nước có tỷ lệ lạm phát thấp sẽ ít bị lạm phát sau khi phá giá.  Với lạm phát ổn định ở mức thấp, khi doanh nghiệp định giá sản phẩm trước một thời hạn nào đó sẽ định giá theo kỳ vọng là giá sẽ không biến đổi nhiều. Trong môi trường lạm phát cao thì sự chuyển dịch này sẽ từ thấp thành cao vì doanh nghiệp biết rằng lạm phát sẽ lên cao, do đó cũng sẽ định giá trước cho sản phẩm cao theo. Yếu tố quyết định quan trọng khác của ERPT từ một quan điểm lý thuyết là mức độ mở cửa thương mại của một quốc gia. Hầu hết các kết nối tức thì giữa 2 biến là dương: Quốc gia càng mở cửa giao thương, sự biến động tỷ giá hối đoái chuyển dịch vào CPI thông qua giá nhập khẩu càng nhiều. Tuy nhiên, bức tranh trở nên phức tạp hơn khi tác giả đưa vào nghiên cứu rằng lạm phát có thể tương quan âm với sự mở cửa, như thực nghiệm phát hiện bởi Romer (1993). Romer (1993): “Openness and Inflation: Theory and Evidence”  Mối quan hệ giữa mở cửa và lạm phát sẽ mạnh hơn trong các quốc gia có chính trị bất ổn và ngân hàng trung ương ít độc lập.  Việc mở rộng chính sách tiền tệ không được dự đoán trước sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực sụt giảm và trên thực tế những thiệt hại của sự sụt giảm này sẽ lớn hơn trong nền kinh tế mở cửa nhiều hơn. Điều này đưa đến một kênh gián tiếp, theo đó sự mở cửa tương quan âm với lạm phát và mức độ của sự chuyển dịch khi đưa vào tài khoản giả thuyết của Taylor. Các kênh trực tiếp và gián tiếp đi theo chiều ngược nhau và dấu hiệu chung của sự tương quan giữa sự chuyển dịch và sự mở cửa do đó có thể dương hay âm. Bài v iết này xem xét lại các kết quả từ các nghiên cứu trước, tìm ra độ lớn của ERPT và sự khác biệt giữa các quốc gia bằng mô hình VAR cho các nước mới nổi và cho nền kinh tế các nước công nghiệp hóa, ví dụ như: Khu vực sử dụng đồng Euro, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Cách tiếp cận phương trình song song được sử dụng để tính đến khả năng nội sinh cao và tiềm năng giữa các biến xem xét. Đơn giản, chỉ cần bỏ qua sự đồng thời đó, như thường được thực hiện trong các phương trình đơn, sẽ cho kết quả sai lệch với phương trình song song. Hơn nữa, khung mô hình được lựa chọn thì hấp dẫn vì nó chỉ ra các phản ứng năng động của các biến với những cú sốc ngoại s inh qua thời gian. Công trình nghiên cứu cho đến nay đã ước tính các mô hình phương trình đơn lẻ hoặc hệ thống các mô hình phương trình cho từng quốc gia riêng biệt, hoặc thiết lập các mô hình phương trình đơn khác cho một hệ thống các quốc gia lớn (trích theo Choudhri và Hakura, 2006, và Mihaljek v.v…, 2000). Thay vào đó, trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng phương pháp hệ thống một số nước đáng kể trong 3 khu vực thị trường mới nổi chính của thế giới, cụ thể là Châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp tương tự với ba nền kinh tế công nghiệp lớn, đảm bảo tính so sánh thông qua các kết quả nghiên cứu của các quốc gia này. Bằng cách đánh giá từng mô hình của mỗi quốc gia trong khoảng thời gian dài nhất, hơn nữa tác giả hướng tới độ chính xác cao nhất có thể trong ước lượng sự chuyển dịch cho mỗi quốc gia. Về mặt này, thành phần quan trọng để phân tích là việc thiết lập cơ sở dữ liệu có thể so sánh được và phù hợp với mỗi quốc gia theo định kỳ hàng quý, mà tiêu biểu cho thách thức chủ yếu cho các dữ liệu sẵn có và chất lượng cho các nước thị trường mới nổi. Điều này cũng đã giúp tác giả đáp ứng những yêu cầu của một hệ thống phương pháp nghiên cứu dựa trên số lượng biến tương đối cao để cho phép xem xét động lực đủ phong phú và để tránh sự thiên lệch biến bị bỏ sót. Sau khi tác giả sử dụng những kết quả của các quốc gia tác giả xem xét để nghiên cứu các thông lệ trước đây rằng ERPT ở thị trường mới nổi cao hơn trong nền kinh tế công nghiệp hóa và nghiên cứu các mô hình sự chuyển dịch tỷ giá trong mối tương quan của chúng, trích dẫn theo McCarthy (2000) và Choudhri và Hakura (2006). Dù ERPT cao hay không cao ở thị trường mới nổi có đặt thành vấn đề để xác định cán cân thương mại cũng như sự lựa chọn chế độ tỷ giá của một quốc gia. Mức độ tương đối cao của sự chuyển dịch cho các nước đang phát triển cũng đã được xem như là một nhân tố cơ bản chứng minh rõ ràng "khuynh hướng tránh dao động tỷ giá" của các nước đang phát triển. Nó cũng có ý nghĩa bởi vì sự chuyển dịch thấp ở thị trường mới nổi có thể khiến năng lực thị trường của các công ty ở những quốc gia này gia tăng không ngừng, như là xu hướng toàn cầu hoá. Tuy nhiên, những quốc gia thị trường mới nổi bộc lộ những nét đặc trưng quan trọng gây khó khăn trong việc ước lượng ERPT. Một số nước châu Á thường xuyên theo đuổi các chính sách tích cực nhằm kiểm soát tỷ giá hối đoái. Các quốc gia Trung và Đông Âu đã trải qua một sự chuyển biến căn bản nền kinh tế của họ trong những năm 1990. Cuối cùng, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Mỹ Latinh đã trải qua những bất ổn kinh tế vĩ mô mạnh được đặc trưng bởi tỷ lệ lạm phát rất cao và / hoặc biến động tỷ giá và lãi suất mạnh. Kết quả của tác giả chỉ hỗ trợ một phần quan điểm phổ biến rằng mức độ ERPT ở thị trường mới nổi cao hơn ở các nước phát triển (sử dụng như một chuẩn mực của Mỹ, khu vực sử dụng đồng Euro và Nhật Bản). Cụ thể hơn, tác giả thấy rằng nền kinh tế mới nổi lạm phát thấp (đặc biệt là nền kinh tế của các nước châu Á) sự chuyển dịch đến giá tiêu dùng khá thấp. Liên quan đến vấn đề này, bài nghiên cứu ủng hộ toàn bộ giả thuyết của Taylor, việc tìm kiếm bằng chứng về tương quan dương giữa sự chuyển dịch và lạm phát ở những thị trường mới nổi. Mối liên kết này có ý nghĩa mang tính thống kê trên tất cả các phương pháp xác định khác nhau đang được xem xét khi loại trừ 2 nước. Như trong các nghiên cứu liên quan, thông thường, vai trò của sự mở cửa được tìm thấy là yếu, thậm chí sau khi kiểm soát được mức độ tỷ lệ lạm phát. 3. Phương pháp nghiên cứu: Phân tích được thực hiện bằng cách sử dụng mô hình VAR chuẩn : Yt = c +∑ΦiYt −1 +εt (1) Trong đó : Yt : đại diện cho biến nội sinh c : hằng số Φi : Ma trận hệ số tự hồi quy ε : biến nhiễu Để nhận diện những thay đổi cấu trúc , tác giả sắp xếp các biến theo thứ tự chính xác và áp dụng phân tích Cholesky đến ma trận phương sai hiệp phương sai của phần dư giản đơn. Sử dụng mô hình VAR 6 nhân tố bao gồm : - oilt: Chỉ số giá dầu. - yt : biến đầu ra. - et: tỷ giá hối đoái. - pimt: chỉ số giá nhập khẩu. - cpit: Chỉ số giá tiêu dùng. - it : lãi suất ngắn hạn. Trong đó, tỷ giá hối đoái và 2 biến chỉ số giá sẽ là những biến chính trong phân tích này. Biến đầu ra và giá dầu được dùng để nhận diện được những tác động lên nền kinh tế. Biến lãi suất dùng để mô tả sự tác động của chính sách tiền tệ lên sự chuyển giá Trong mô hình đường cơ sở thì các biến được sắp xếp theo thứ tự như trên. Việc sử dụng một tiến trình được lặp đi lặp lại để nhận diện ra những cú shock tác động đồng thời đến những biến tương ứng và những biến xếp sau cùng, nhưng lại không có tác động gì đến những biến đứng trước. Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả xếp biến giá dầu đứng đầu. Vì những cú shock về giá dầu có thể ảnh hưởng đến những biến còn lại trong hệ thống một cách đồng thời những giá dầu lại không hề bị ảnh hưởng bởi những cú shock do những biến khác mang lại. Biến tiếp theo là biến sản lượng và tỷ giá hối đoái. Với sự sắp xếp này thì các tác giả giả định rằng sự ảnh hưởng cùng lúc của những cú shock về cầu lên tỷ giá hối đoái cùng lúc đó chỉ ra rằng có một độ trễ trong việc tỷ giá hối đoái tác động ngược lại lên sản lượng. Những biến về giá được sắp xếp tiếp theo và vì thế bị ảnh hưởng bởi cú shock của những biến trước. Theo chuỗi giá thì biến giá nhập khẩu sẽ đứng trước biến giá tiêu dùng vì có sự tác động của cú shock trong giá nhập khẩu lên giá tiêu dùng nhưng không có chiều ngược lại. Biến tỷ lệ lãi suất được xếp cuối cùng khi có tính đến thị trường tiền tệ và cụ thể là chính sách tiền tệ có phản ứng lại cùng lúc với những biến trên trong mô hình. Sau đó, tác giả sử dụng phân tích độ nhạy cảm bằng cách sử dụng 2 phương pháp đáng tin cậy khác nhau dựa trên sự thay đổi thứ tự của các biến trong phân tích Cholesky. Ở mô hình thay thế đầu tiên, tác giả sắp xếp các biến theo thứ tự như sau: (Mô hình thay thế thứ 1) oilt , it , yt , et , pimpt , cpit , lúc này biến lãi suất được đưa ra trước tỷ giá hối đoái. Việc sắp xếp này cho thấy tác động đồng thời của tỷ giá hối đoái lên sự thay đổi của công cụ chính sách tiền tệ. Điều này có thể giải thích dựa trên nền tảng của những carry-trade chuẩn, do đó, tỷ giá hối đoái cao hơn sẽ làm cho đồng tiền quốc gia đó trở nên hấp dẫn hơn bằng cách tận dụng sự thất bại của kinh doanh chênh lệch giá – trong khi những yếu tố khác là bằng nhau. Ở mô hình thay thế thứ 2, trong trường hợp với mô hình baseline đã bao gồm những điều chỉnh với các biến và sắp xếp thứ tự khác nhau các biến theo phân tích Cholesky. Trong mô hình trước, tác giả đã bao gồm biến giá dầu như một biến có thể mô tả tác động về phía cung cũng như là chi phí quốc tế và vì vậy có thể có ích để tháo bỏ những tác động tỷ giá hối đoái ngoại s inh khỏi những chi phí thế giới. Một luận chứng tương tự được áp dụng cho sự tăng trưởng của giá nội địa. Tác giả thay thế giá dầu bằng giá sản xuất nội địa ppit . Một biến khác được sử dụng cho mục đích này là biến về tiền lương. Tuy nhiên, biến này lại không thể tìm được cho một vài nước. Đối với sự thay đổi thứ tự các biến, trong mô hình thay thế thứ 2 này, tác giả dựa trên quan điểm rằng tỷ giá không bị ảnh hưởng đồng thời bởi những cú sốc do những biến khác trong hệ thống mang lại, ví dụ đầu tiên nó được thay thế theo thứ tự như sau: et , pimpt , yt , ppit , cpit , it . Đã có rất nhiều những bài nghiên cứu thảo luận về ERPT dựa trên nền tảng của một vài mô hình cấu trúc, đã đưa đến những kết luận khác nhau liên quan đến việc xác định tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào những giả thiết ẩn ý của mô hình (Marston,1990 và Devereu at al, 2006). Trong những mô hình này, vai trò đặc biệt quan trọng là giả định rằng có hay không việc các công ty tự định giá bằng đồng nội tệ ở nơi họ bán sản phẩm hoặc là định giá bằng đồng tiền nơi mà sản phẩm được sản xuất ra. Trong khi những mô hình này cung cấp những khái niệm chặt chẽ về ERPT phụ thuộc vào những giả định ẩn ý khác nhau của mô hình, điều này đưa đến kết luận mạnh mẽ rằng có sự kết nối đồng thời giữa tỷ giá hối đoái và tập hợp con của những nguyên tắc hợp lý. Tất cả bài nghiên cứu này đều hướng đến việc chỉ trích rằng những biến kinh tế vĩ mô có rất ít giá trị giải thích cho tỷ giá hối đoái trong ngắn và trung hạn. Đặc biệt, rất khó để có thể phát hiện sự đảo ngược của tỷ giá hối đoái thực – tính bất ổn của cái sau dường như được điều khiển bởi sự tăng trưởng của tỷ giá hối đoái danh nghĩa và điều này không thể phù hợp với những giải thích chủ yếu. Kết hợp với điều này, mô hình thay thế thứ 2 cho phép tỷ giá hối đoái bị tác động bởi cú sốc từ những biến khác trong mô hình nhưng với một độ trễ, ngụ ý rằng ít nhất những yếu tố khác có khuynh hướng chi phối (ví dụ những giao dịch nhiễu hay thông tin không hoàn hảo – cả 2 yếu tố này đều có vai trò rất quan trọng trong những thị trường mới nổi). 4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu: Nội dung: - Tác giả sử dụng mô hình VAR để tìm hiểu mức độ của ERPT và những yếu tố khác giữa các nền kinh tế mới nổi và đã phát triển. - Sử dụng cách tiếp cận bằng phương trình cân bằng để tìm hiểu có sự ảnh hưởng lẫn nhau nào giữa các biến nghiên cứu hay không - Áp dụng các mô hình này lên 3 vùng cần tìm hiểu là Châu á, Châu mỹ latinh và Đông và Trung Âu với khung thời gian nghiên cứu dựa theo số liệu hằng quý để có thể có được mức độ chính xác nhất có thể có khi xảy ra sự chuyển dịch. - Sau đó sử dụng những kết quả nghiên cứu của các nước trên để kiểm nghiệm lại quan điểm truyền thống khi cho rằng ERPT ở những thị trường mới nổi thì luôn cao hơn những thị trường đã phát triển và tìm hiểu về những mô hình của sự pass-through của tỷ giá giữa các quốc gia này dưới dạng những mối tương quan Kết quả: - Phần nào lật ngược lại những quan điểm thông thường truyền thống trước kia rằng ERPT trong giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các thị trường mới nổi thì luôn cao hơn ở những thị trường đã phát triển. - Tìm thấy những bằng chứng cho thấy có mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ của ERPT và làm phát. - Có sự tồn tại của một mối quan hệ cùng chiều giữa độ mở trong nhập khẩu của nền kinh tế và ERPT Cụ thể như sau: Ở mô hình baseline: Những ước lượng ERPT lên giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở tất cả các nước thị trường mới nổi trong mẫu được tóm tắt ở bảng 3 và 4 cho 2 mốc thời g ian, cụ thể là sau 4 quý và 8 quý. Đối với hầu hết các nước thì kết quả của tác giả nhìn chung hợp lý cho cả chỉ số CPI và giá nhập khẩu. ERPT sụt giảm theo chuỗi giá cả, tức là ERPT lên giá nhập khẩu cao hơn giá tiêu dùng. Đặc biệt, 1 năm sau cú sốc, sự chuyển dịch lên giá nhập khẩu cao hơn và không có sự khác biệt ở các nước Argentina, Chile, Hungary, Mexico, Ba Lan và Thổ Nhĩ kỳ, hơi thấp hơn tại Cộng hòa Séc và Hàn Quốc, và khá thấp ở hầu hết những nước Châu Á khác. ERPT đến CPI cao nhất tại Hungary và Mexico. Ở Châu Á, sự chuyển dịch tỷ giá lên CPI thấp cả sau 4 quý và 8 quý. Đối với Singapore, trong khi các ước lượng điểm của hệ số là âm, sự chuyển dịch đến CPI không đáng kể. Sau đó, tác giả áp dụng cùng 1 phương pháp với các nước khu vực đồng euro, Mỹ và Nhật Bản để đánh giá mức độ chuyển dịch cao hay không ở thị trường mới nổi. Bảng 5 cho thấy các bằng chứng ở khu vực đồng euro trùng khớp với những ước lượng được tìm thấy trong những nghiên cứu khác sử dụng những phương pháp tương tự (xem Hahn, 2003) hoặc phương pháp thay thế (ví dụ Anderton, 2003 và Campa et all. 2005 cho giá nhập khẩu). Ở Mỹ, những ước đoán trùng khớp với quan niệm rằng ERPT rất thấp ở Mỹ, cả trong giá nhập khẩu và giá tiêu dùng (Ví dụ Gagnon và Ihrig, 2004, cho giá tiêu dùng). Ở Nhật Bản, ERPT lên CPI rất nhỏ cả sau 4 quý và 8 quý. Đối với giá nhập khẩu, dự đoán tại thị trường Nhật là cao hơn so với khu vực đồng euro và Mỹ, và điều này phù hợp theo thống kê với sự chuyển dịch toàn bộ sau 1 năm. So sánh những dự đoán sự chuyển dịch của nền kinh tế đã và đang phát triển, kết quả của tác giả một phần trái ngược với những lý lẽ trước đây khi cho rằng mức độ ERPT ở những nước thị trường mới nổi luôn luôn cao hơn so với những nước phát triển. Cụ thể hơn, tác giả tìm thấy rằng trong nền kinh tế mới nổi có mức lạm phát thấp (đặc biệt là nền kinh tế Châu Á) sự chuyển dịch lên giá tiêu dùng khá thấp. Bước phân tích tiếp theo của tác giả giúp hiểu rõ các yếu tố kinh tế vĩ mô của ERPT. Tác giả bắt đầu bằng việc khám phá liệu có sự phù hợp với giả thuyết của Taylor là có bằng chứng về sự tương quan dương giữa sự chuyển dịch và lạm phát. Nhằm mục đích minh họa, tác giả bắt đầu việc phân tích bằng việc kiểm tra trực quan mối quan hệ giữa mức độ ERPT sau 1 năm và lạm phát ở các thị trường mới nổi trong mẫu (xem hình 1). Hình 1: Sự chuyển dịch giá tiêu dùng so với lạm phát trung bình ở thị trường mới nổi. (trục y: Tích lũy phản ứng của giá tiêu dùng lên 1% cú sốc tỷ giá sau 1 năm trục x: Lạm phát trung bình trong thời gian dự đoán) Ghi chú: Mô hình sử dụng là mô hình cơ bản. Các nước đánh dấu trên biểu đồ là: Argentina (AG), Thổ Nhĩ Kỳ (TK), Mexico (MX), Cộng Hòa Séc (CZ), Hungary (HN), Hà Lan (PL), Chile (CL), Hàn Quốc (KR), Trung Quốc (CN), Hồng Kông (HK), Đài Loan (TW), Singapore (SG). TK HK TW HN KR CN SG CL MX AG 70 60 40 50 20 30 CZ PL 10 0 -0.2 1.0 0.8 0.6 0.4 0.2 0.0 Như trong hình 1, hai nhóm nước có thể được xác định. Nhóm đầu tiên, lạm phát trung bình hàng năm chưa tới 10%, mức độ ERPT thấp (thường ít hơn 10%). Nhóm thứ hai, lạm phát trung bình cao hơn - từ 10 đến 20%, mức độ ERPT lên giá tiêu dùng cao hơn (khoảng 40%). Những nhóm nước này góp phần ủng hộ các giả thuyết của Taylor. Hai nước khác trong mẫu, Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ, là ngoại lệ, bởi vì chúng có tỷ lệ lạm phát trung bình rất cao (trên 60%) và sự chuyển dịch lên giá tiêu dùng thấp. Kiểm tra đơn giản hình ảnh của biểu đồ trên cho thấy nếu hai nước này được lấy vào phân tích thì giả thuyết của Taylor sẽ bị bác bỏ. Tuy nhiên, các phương pháp VAR có thể không thỏa đáng đối với các nước đã từng có sự bất ổn kinh tế vĩ mô được phản ánh trong siêu lạm phát hay tỷ lệ lạm phát rất cao. Lấy ví dụ của Argentina, các biến tài chính biến đổi quá nhiều (đi theo tốc độ khác nhau của việc điều chỉnh hơn mức "bình thường"). Bằng cách hạn chế giai đoạn mẫu để loại trừ lạm phát cao, thay vào đó, không chỉ giới hạn số lượng dữ liệu mà còn làm cho mẫu không hoàn chỉnh ở giai đoạn lạm phát cao, có thể dẫn đến sai lệch. Ví dụ khi rơi vào thời kỳ lạm phát cao, trong lúc chính sách ổn định kinh tế vĩ mô vẫn được thực hiện, làm cho đồng tiền được định giá cao (bật lại từ sự định giá quá thấp trong thời kỳ siêu lạm phát). Trong những trường hợp này, rất khó để phục hồi lại mối quan hệ cơ bản giữa biến động tỷ giá và giá làm cho các mẫu biến động bất thường phát sinh theo một môi trường kinh tế bất ổn. Phương pháp VAR và tất cả các ước lượng kinh tế nói chung không thể phản ánh được sự chuyển dịch nếu giá, tỷ giá và lãi suất biến động quá mức. Ngược lại những cái nhìn sâu sắc về kinh tế được đề xuất bởi Taylor để tìm sự hỗ trợ nếu nghiên cứu này loại trừ Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina. Nhấn mạnh tương quan dương giữa sự chuyển dịch và lạm phát được xác nhận bởi hai tiêu chuẩn của sự tương quan - các sản phẩm thời điểm Pearson và xếp hạng hệ số tương quan Spearman - giữa hệ số chuyển dịch và một số yếu tố quyết định chính đáng. Các kết quả xuất hiện trong Bảng 6. Những đo lường này xác nhận rằng có mối tương quan dương giữa sự chuyển dịch và lạm phát ở cả 4 quý và 8 quý. Hệ số tương quan có ý nghĩa cả trong trường hợp hệ số tương quan của Pearson và Spearman ở cả 4 quý và 8 quý với mức ý nghĩa 1%. Các đo lường khác của sự bất ổn kinh tế vĩ mô cũng tương quan dương với ERPT, mặc dù nói chung mức độ có ý nghĩa là hơi nhỏ hơn. Tương tự như nghiên cứu của Choudhri và Hakura (2006) và McCarthy (2000), tác giả tìm thấy rất ít bằng chứng của tương quan dương giữa ERPT tới giá tiêu dùng và mức độ mở cửa. Phát hiện này có thể được xem là đáng ngạc nhiên trong tương quan dương kỳ vọng giữa các biến, như là kết quả của sự ảnh hưởng từ giá nhập khẩu đến giá tiêu dùng. Một cách hợp lý, kết quả nghiên cứu trước đó cho thấy mối tương quan âm giữa lạm phát và mức độ mở cửa theo nghiên cứu của Romer (1993). Sau khi kiểm soát lạm phát, hệ số tương quan giữa sự chuyển dịch và mức độ mở cửa là dương, mặc dù không có ý nghĩa thống kê. Ở mô hình thay thế thứ 1: Để ước lượng sự chuyển dịch bằng phương pháp thay thế này cho thấy kết quả tương đồng với phần nghiên cứu trước (xem bảng 7 và 8). Một ngoại lệ khác là Hungary khi ước lượng ERPT đến giá nhập khẩu và CPI sụt giảm nghiêm trọng. Đối với giá nhập khẩu, trước một năm sau cú sốc, hệ số chuyển dịch khá cao và gần bằng 1 tại Argentina, Mexico và Ba Lan. Trong trường hợp Chile, hệ số chuyển dịch lên giá nhập khẩu hiện tại được thấy là khá thấp và gần với mức độ của CH Séc và Hàn Quốc một năm sau cú sốc (trong khu vực là từ 0.7 đến 0.8). Một năm sau cú sốc, mức độ chuyển dịch lên giá nhập khẩu vẫn giữ ở mức rất thấp trong trường hợp của Singapore và Đài Loan, mặc dù trong những trường hợp trước, mức độ này tăng lên nhanh chóng sau 2 năm sau cú sốc. Xét đến chỉ số giá CPI, hệ số chuyển dịch giống như trước, vẫn giữ ở mức khá thấp so với giá nhập khẩu tương đương. Hệ số bây giờ được nhận thấy là cao nhất trong vòng 1 năm sau cú sốc tại CH Séc, Me xico và Ba Lan. Tại Châu Á, ERPT lên giá tiêu dùng một lần nữa lại cho thấy là thấp. Một lần nữa, trong trường hợp của Singapore, mặc dù ước lượng điểm của các hệ số là số âm nhưng chúng không khác 0 là bao nhiêu. Kết quả tổng quan các quốc gia được đặc trưng bởi tỷ lệ lạm phát thấp hơn 10% nhìn chung đặc trưng bởi mức độ ước lượng ERPT vẫn như cũ. Khi Argentina và Turkey nổi bật lên với mức chuyển dịch lên giá tiêu dùng rất thấp. Ngoại trừ 2 quốc gia này, tương quan giữa sự chuyển dịch và lạm phát vẫn là dương sau 4 và 8 quý, mặc dù mức ý nghĩa thấp hơn so với các kết quả đầu tiên (bảng 9). Một phương pháp đo lường sự ổn định kinh tê vĩ mô khác cũng có tương quan cùng chiều đến mức độ của ERPT ở những mức ý nghĩa khác nhau ở cả thời kỳ 1 và 2. Cuối cùng, một lần nữa tác giả không tìm thấy những bằng chứng nào cho thấy có mối quan hệ cùng chiều có ý nghĩa giữa ERPT và độ mở của nền kinh tế ngay cả sau khi đã điều chỉnh lạm phát. Ở mô hình thay thế thứ 2 : với mô hình tương đối khác biệt này, kết quả có được rất tương đồng với những thảo luận của những phần trước (bảng 10 và 11). Sự chuyển dịch đến giá nhập khẩu rất gần với 1, ở cả giai đoạn sau 1 và 2 năm, ở Argentina, Chile, Hungary, Poland, Mexico và Turkey, trong khi những tính toán lại cho thấy kết quả thấp hơn nhiều ở những nước Châu Á và ở CH Séc. Sự chuyển dịch lên giá tiêu dùng nhìn chung là thấp hơn sự chuyển dịch lên giá nhập khẩu đối với tất cả các quốc gia và một vài trường hợp ở các nước châu á thì lại gần bằng 0 sau cả giai đoạn 1 và 2 năm. Lặp lại phân tích tương quan, tác giả tìm ra được những bằng chứng của sự tương quan dương giữa chuyển dịch lên giá CPI và lạm phát (ở mức ý nghĩa 1%) sau khi loại bỏ Argentina và Turkey khỏi mẫu (xem bảng 12). Tham số tương quan giữa sự chuyển dịch lên giá CPI và những phương pháp đo lường tính bất ổn kinh tế vĩ mô cũng là tương quan cùng chiều và có ý nghĩa cho tất cả những giai đoạn nghiên cứu. Mối quan hệ giữa sự chuyển dịch CPI và độ mở của nền kinh tế cũng có mối quan hệ cùng chiều sau khi điều chỉnh tỷ lệ lạm phát nhưng lại không có ý nghĩa thống kê. 6. Nhận xét cuối cùng: Bài viết này cung cấp bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về mô hình ERPT lên giá nội địa dựa trên mô hình vector tự hồi quy được xem xét ở một số quốc gia, bao gồm một số lượng lớn các nước thị trường mới nổi từ ba khu vực chính mới nổi trên thế giới và nhóm các nước công nghiệp hóa. Qua kết quả của các quốc gia chỉ ra một sự sụt giảm trong ERPT theo chuỗi giá cả. Phân tích phần nào trái ngược với các nghiên cứu trước đây rằng ERPT ở "các nước mới nổi" luôn cao hơn so với "các nền kinh tế phát triển". Đối với thị trường mới nổi có tỷ lệ lạm phát chỉ một con số (nhất là các nước châu Á) ERPT là rất thấp và không quá khác biệt so với mức độ ERPT ở các nền kinh tế phát triển. Để tổng quát hơn, tác giả thấy rằng mối quan hệ giữa sự dịch chuyển và lạm phát có ý nghĩa thống kê khi loại trừ 2 nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ). Hơn nữa, các bằng chứng về một mối tương quan dương giữa sự chuyển dịch và mức độ mở cửa thấp hơn mối tương quan giữa sự chuyển dịch và lạm phát, ngay cả sau khi kiểm soát lạm phát. Phụ lục: Các nguồn dữ liệu Dữ liệu sử dụng cho các thị trường mới nổi trong nghiên cứu này bao gồm khoảng thời gian tối đa giữa các mẫu 1975:1 đến 2004:1 (xem hàng đầu tiên của Bảng 1). Đối với khu vực đồng Euro, Mỹ và Nhật Bản, thời kỳ mẫu bắt đầu từ 1983:1. Các mẫu chính xác cho mỗi quốc gia mới nổi, tùy thuộc vào dữ liệu sẵn có, là mô tả trong hàng đầu tiên của bảng 1. Các nguồn tin tương ứng như sau: Giá dầu trên danh nghĩa: của IMF Thống kê - từ nay trở đi IFS -, Vương quốc Anh Brent giá đô la Mỹ (11.276 dòng). Output: Tác giả sử dụng GDP đối với Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Chile (từ IFS, dòng 99bvp), Nhật Bản và Mexico (OECD), khu vực đồng euro (từ Khu vực của ECB Wide Model - từ nay trở đi AWM, xem Fagan và cộng sự, 2005), Đài Loan và Argentina (quốc gia nguồn), và Hoa Kỳ (từ IFS, dòng 99bvr). Do thiếu các dữ liệu sẵn có, tác giả lựa chọn dữ liệu sản xuất công nghiệp trong các trường hợp của Trung Quốc (nguồn quốc gia), Cộng hòa Séc (OECD) và Ba Lan (IFS dòng 66). Tỷ giá hối đoái danh nghĩa có hiệu lực: Tác giả sử dụng tỷ giá danh nghĩa có hiệu lực từ IFS (dòng phân vào đâu) cho tất cả các nước thị trường mới nổi, trừ Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan (BIS), Thổ Nhĩ Kỳ, Me xico (OECD) và Argentina (JP Morgan). Đối với Mỹ và Nhật Bản, tác giả sử dụng dữ liệu IFS, và dữ liệu AWM cho khu vực đồng euro. Chỉ số giá nhập khẩu: Tác giả sử dụng dữ liệu về giá nhập khẩu (hàng hoá chỉ) từ IFS (dòng 76) cho Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hungary và Ba Lan, và từ các nguồn thay thế trong trường hợp sau: khu vực đồng euro (dữ liệu ECB), Đài Loan, Argentina và Mexico (quốc gia nguồn). Trong trường hợp của Chile, tác giả kết hợp dữ liệu giá nhập khẩu từ dòng 76 IFS cho đến 1995:4, và sau đó Banco de Chile dữ liệu giảm phát nhập khẩu. Do không có sẵn dữ liệu, tác giả sử dụng dữ liệu giảm phát nhập khẩu cho Cộng hòa Séc (OECD OEO), và đơn vị IFS giá trị nhập khẩu (dòng 75) cho Hồng Kông và Thổ Nhĩ Kỳ. Tác giả không truy cập được dữ liệu liên quan đến giá nhập khẩu cho các mẫu đầy đủ trong trường hợp của Trung Quốc. Chỉ số giá tiêu dùng: Tác giả sử dụng dữ liệu CPI từ IFS (dòng 64) cho tất cả các nước trừ khu vực đồng Euro (dữ liệu HICP từ AWM), Hồng Kông (BIS), Trung Quốc và Đài Loan (nguồn quốc gia). Chỉ số giá sản xuất: Tác giả sử dụng dữ liệu PPI từ IFS (dòng 62) cho tất cả các nước, trừ Hồng Kông, Đài Loan, Argentina và Trung Quốc (nguồn quốc gia). Lãi suất ngắn hạn: Tác giả sử dụng tỷ giá hối đoái đối với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, (từ IFS, đường 60B), khu vực đồng euro (AWM), Hồng Kông (từ BIS), và Đài Loan (từ Ngân hàng Trung ương Trung Quốc). Tác giả sử dụng lãi suất hối phiếu kho bạc cho Hungary và Mexico (từ IFS, đường 60C), và lãi suất tiền gửi ngân hàng đối với Trung Quốc, Cộng hoà Séc và Chile (từ IFS, dòng 60L).Xem từ điển chi tiết Nhập khẩu/GDP: Để tính toán tỷ lệ này, tác giả sử dụng hàng loạt chỉ số nhập khẩu danh nghĩa (của hàng hoá và dịch vụ, ngoại lệ với Trung Quốc, nơi chỉ bao gồm hàng hoá) và GDP. Tác giả sử dụng dữ liệu nhập khẩu danh nghĩa từ IFS (đường 99B) cho tất cả các nước ngoại trừ khu vực đồng Euro (ECB), Trung Quốc, Singapore, và Đài Loan (nguồn quốc gia). Tác giả sử dụng dữ liệu GDP danh nghĩa từ IFS (dòng 98c) cho tất cả các nước ngoại trừ khu vực đồng Euro (Eurostat), Trung Quốc, Singapore, và Đài Loan (nguồn quốc gia). Bảng 1 Những chỉ số được tổng hợp cho những thị trường mới nổi trong giai đoạn mẫu dự báo (các tỷ lệ phần trăm trung bình được tính hằng năm - trừ khi có những ghi chú khác) Châu Á CEECs và Thổ Nhĩ Kỳ Châu Mỹ Latinh Trung Quốc Hong Kong Hàn Quốc Singapore Đài Loan CH Sec Hungary Ba Lan TN Kỳ Argentina Chile Mexico Giai doạn nghiên cứu Lạm phát trung bình Sụt giảm neer trung bình Tỷ lệ int trung bình (hằng năm) Lạm phát chuẩn Thay đổi tỷ lệ neer chuẩn Tỷ lệ int chuẩn (hằng năm) Tăng trưởng sản lượng tb Nhập khẩu/GDP(%) 91Q1 04Q1 5.7 2.9 6.0 11.6 13.5 3.6 14.1 19.1 86Q1 04Q1 4.5 1.3 6.2 5.9 10.8 3.1 4.8 132.2 76Q4 04Q1 7.0 4.6 12.3 8.1 34.6 5.2 5.5 34.0 75Q1 04Q1 2.1 -0.4 4.8 3.6 8.1 2.7 7.1 64.7 80Q2 04Q1 2.5 0.3 6.3 5.5 11.1 4.6 6.4 44.3 93Q1 04Q1 5.8 -1.8 5.3 5.6 9.7 2.4 2.2 62.9 88Q403Q3 17.4 7.9 19.9 15.1 15.0 8.7 2.9 50.9 91Q1 03Q4 17.4 9.5 21.5 16.6 16.8 7.4 3.2 28.5 89Q1 03Q4 65.1 53.9 68.8 40.9 162.6 33.4 5.4 25.4 89Q104Q1 66.4 8.6 726742.7 25922.9 1135.8 5045048.5 1.9 10.2 80Q103Q4 13.2 -0.6 20.9 12.1 29.9 13.5 4.4 27.9 80Q1 03Q4 34.0 27.3 35.3 46.2 252.6 26.7 2.6 21.1 Gh i chú: đối với Trung Quốc, Hungary và Phần Lan, sản lượng công nghiệp được sử dụng để thay thế cho GDP thực Dấu dương/âm đối với tỷ giá hối đoái có nghĩa là giám giá/tăng giá Bảng 2: Nhập khẩu/GDP Những chỉ số tổng hợp tại Mỹ, Nhật và khu vực đồng euro (các tỷ lệ được tính hằng năm- trừ khi có những ghi chú khác) Mỹ Nhật Khu vực đồng euro Giai đoạn nghiên cứu mẫu 83Q1 04Q1 83Q1 04Q1 83Q1 03Q4 Lạm phát trung bình Sụt giảm neer trung bình Lạm phát chuẩn Tỷ giá neer chuẩn Tăng trưởng sản lượng trung bình Tăng trưởng sản lượng chuẩn Nhập khẩu/GDP (%) 3.1 1.6 1.6 14.0 3.4 2.4 9.0 0.9 -3.2 2.6 18.2 2.5 3.6 11.8 3.0 -0.1 1.8 10.1 2.2 2.1 11.7 Ghi chú: dấu dương/âm đối với sự thay đổi tỷ giá có nghĩa là sự sụt giảm/ tăng giá Nhập khẩu/ GDP trong khu vực đồng euro là những giao dịch bên ngoài khu vực Bảng 3 Tích lũy tác động khi tỷ giá thay đổi 1% Mô hình cơ bản Tích lũy tác động đối với giá nhập khẩu (theo % ) Trung Quốc Hồng Kông Hàn Quốc Singapore Đài Loan CH Sec Hungary Ba Lan TN Kỳ Argentina Chile Mexico 4 quý 8 quý -- -- 0.43 0.93 0.78 0.57 0.13 0.76 0.12 -0.12 0.72 0.48 1.26 1.77 0.86 1.30 0.91 1.76 0.87 1.23 1.00 0.82 1.54 1.99 Ghi chú: xem nội dung chính để biết về mô tả mô hình cơ bản. Kích thước mẫu như dòng đầu tiên của bảng 1. Bảng 4 Tích lũy tác động khi tỷ giá thay đổi 1% Mô hình cơ bản Tích lũy tác động đối với giá tiêu dùng (theo % ) Trung Quốc Hồng Kông Hàn Quốc Singapore Đài Loan CH Se c Hungary Ba Lan TN Kỳ Argentina Chile Mexico 4 quý 8 quý 0.88 0.77 0.07 037 0.19 0.13 -0.15 -0.06 0.01 0.01 0.61 0.77 0.48 0.91 0.31 0.56 0.09 0.12 0.02 0.04 0.35 0.35 0.76 1.39 Ghi chú: xem nội dung chính để biết về mô tả mô hình cơ bản. Kích thước mẫu như dòng đầu tiên của bảng 1. Bảng 5 Tích lũy tác động khi tỷ giá thay đổi 1% Mô hình cơ bản Tác động tích lũy của giá nhập khẩu (theo %) Tác động tích lũy của CPI (theo %) Mỹ Nhật Khu vực đồng euro Mỹ Nhật Khu vực đồng euro 4 quý 8 quý 0.24 0.38 1.14 1.05 0.60 0.72 0.01 0.02 0.02 0.04 0.07 0.13 Ghi chú: xem nội dung chính để biết về mô tả mô hình cơ bản. Kích thước mẫu như dòng đầu tiên của bảng 2. Bảng 6 Mối tương quan giữa tỷ giá và CPI theo những biến được chọn Mô hình cơ bản Tương quan Pearson Tương quan Spearman T = 4 T = 8 T = 4 T = 8 Lạm phát trung bình Sự sụt giảm neer trung bình Lạm phát chuẩn Tỷ giá neer chuẩn Nhập khẩu/GDP - đo lường thông thường - điều chỉnh theo lạm phát 0.78*** 0.61** 0.70** 0.62** -0.31 0.04 0.79*** 0.73*** 0.79*** 0.66** -0.28 0.07 0.87*** 0.28 0.70** 054 -0.36 0.25 0.73*** 0.47 0.70** 0.33 -0.32 0.38 Ghi chú: */**/*** thể hiện những tương quan ở mức ý nghĩa 10/5/1% sử dụng phương pháp t-test 1 bên. Kiểm định mức ý nghĩa của tương quan Spearman được dựa trên tài liệu Spearman’s rho Conover (1999). Trong trường hợp những mối tương quan mở được điều chỉnh bởi lạm phát tác giả sử dụng phần thừa từ những phương trình liên quan đến cả tỷ giá theo CPI và nhập khẩu/GDP theo lạm phát. Bảng 7 Tác động tích lũy khi tỷ giá thay đổi 1% Mô hình thay thế thứ nhất Tác động tích lũy của giá nhập khẩu (theo %) Trung Quốc Hong Kong Hàn Quốc Singapore Đài Loan Cộng hòa Séc Hungary Ba Lan TN Kỳ Argentina Chile Mexico 4 quý 8 quý - - 0.53 1.05 0.75 0.51 0.01 0.70 0.19 -0.11 0.73 0.59 0.75 0.74 0.91 1.21 0.36 0.85 0.86 1.30 0.77 0.39 1.44 1.81 Ghi chú: xem nội dung chính để biết về mô tả mô hình cơ bản. Kích thước mẫu như dòng đầu tiên của bảng 1. Bảng 8 Tác động tích lũy khi tỷ giá thay đổi 1% Mô hình thay thế thứ nhất Tác động tích lũy của giá tiêu dùng (theo %) Trung Quốc Hong Kong Hàn Quốc Singapore Đài Loan Cộng hòa Séc Hungary Ba Lan TN Kỳ Argentina Chile Mexico 4 quý 8 quý 0.07 0.76 0.15 0.41 0.12 0.01 -0.07 -0.09 0.03 -0.02 0.55 0.72 0.07 0.06 0.30 0.53 0.08 0.10 0.02 0.39 0.11 -0.55 0.60 1.11 Ghi chú: xem nội dung chính để biết về mô tả mô hình cơ bản. Kích thước mẫu như dòng đầu tiên của bảng 1. Bảng 9 Mối tương quan giữa tỷ giá và CPI theo những biến được chọn Mô hình thay thế thứ nhất Tương quan Pearson Tương quan Spearman T = 4 T = 8 T = 4 T = 8 Lạm phát trung bình Sự sụt giảm neer trung bình Độ lệch chuẩn lạm phát Đô lệch chuẩn tỷ giá ảnh hưởng thực Nhập khẩu/GDP - đo lường thông thường - điều chỉnh theo lạm phát 0.62** 0.56** 0.62** 0.61** -0.15 0.13 0.52* 0.60** 0.64** 0.60** -0.15 0.08 0.56** 0.27 0.48* 0.39 -0.18 0.18 0.41 0.44* 0.49* 0.19 -0.39 0.12 Ghi chú: */**/*** thể hiện những tương quan ở mức ý nghĩa 10/5/1% sử dụng phương pháp t-test 1 bên. Kiểm định mức ý nghĩa của tương quan Spearman được dựa trên tài liệu Spearman’s rho Conover (1999). Trong trường hợp những mối tương quan mở được điều chỉnh bởi lạm phát tác giả sử dụng phần thừa từ những phương trình liên quan đến cả tỷ giá theo CPI và nhập khẩu/GDP theo lạm phát. Bảng 10 Tác động tích lũy khi tỷ giá thay đổi 1% Mô hình thay thế thứ hai Tác động tích lũy của giá nhập khẩu(theo %) Trung Quốc Hong Kong Hàn Quốc Singapore Đài Loan Cộng hòa Séc Hungary Ba Lan TN Kỳ Argentina Chile Mexico 4 quý 8 quý - - 0.54 1.05 0.70 0.46 -0.30 0.28 0.25 0.09 0.58 0.23 1.50 2.20 0.80 0.99 0.97 1.70 1.12 0.65 0.93 0.67 0.48 1.94 Ghi chú: xem nội dung chính để biết về mô tả mô hình cơ bản. Kích thước mẫu như dòng đầu tiên của bảng 1. Bảng 11 Tác động tích lũy khi tỷ giá thay đổi 1% Mô hình thay thế thứ hai Tác động tích lũy của giá tiêu dùng (theo %) Trung Quốc Hong Kong Hàn Quốc Singapore Đài Loan Cộng hòa Séc Hungary Ba Lan TN Kỳ Argentina Chile Mexico 4 quý 8 quý -0.05 0.07 0.15 0.41 0.18 0.12 -0.25 -0.24 -0.03 -0.04 0.56 0.50 0.61 1.20 0.25 0.49 0.05 0.10 0.07 0.25 0.31 0.25 0.72 1.32 Ghi chú: xem nội dung chính để biết về mô tả mô hình cơ bản. Kích thước mẫu như dòng đầu tiên của bảng 1. Bảng 12 Mối tương quan giữa tỷ giá và CPI theo những biến được chọn Mô hình thay thế thứ hai Tương quan Pearson Tương quan Spearman T = 4 T = 8 T = 4 T = 8 Lạm phát trung bình Sự sụt giảm neer trung bình Độ lệch chuẩn lạm phát Đô lệch chuẩn tỷ giá ảnh hưởng thực Nhập khẩu/GDP 0.75*** 0.58* 0.63** 0.55** 0.85*** 0.75*** 0.76*** 0.63** 0.88** 0.33 0.68** 0.55** 0.83*** 0.45 0.71* 0.42 - đo lường thông thường - điều chỉnh theo lạm phát -0.15 0.20 -0.09 0.31 -0.20 0.41 -0.10 0.58 Ghi chú: */**/*** thể hiện những tương quan ở mức ý nghĩa 10/5/1% sử dụng phương pháp t-test 1 bên. Kiểm định mức ý nghĩa của tương quan Spearman được dựa trên tài liệu Spearman’s rho Conover (1999). Trong trường hợp những mối tương quan mở được điều chỉnh bởi lạm phát tác giả sử dụng phần thừa từ những phương trình liên quan đến cả tỷ giá theo CPI và nhập khẩu/GDP theo lạm phát.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_16_erpt_8599.pdf
Luận văn liên quan