Tăng cường điều tra nguồn lợi ở các vùng xa bờ và với các loại cá di cư nhằm
nắm vững trữ lượng cho phép khai thác, điều kiện môi trường, mùa vụ khai thác của
các ngư trường., trên cơ sở đó quy định hạn mức cường lực khai thác cho mỗi địa
phương, xác định rõ chủng loại, cơ cấu đội tàu và công nghệ khai thác thích hợp
cho nghề khơi để tránh hiện tượng đầu tư, khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản;
Tiến hành đánh bắt thủy sản theo mùa vụ, đại điểm, loại ngư cụ được quy định cụ
thể của từng địa phương; Nghiêm cấm sử dụng các hình thức khai thác có tính hủy
diệt như xung điện, đánh mìn, hóa chất độc.
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2476 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp của các bộ ban ngành nhà nước về xuất khẩu thuỷ hải sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đóng góp
tích cực cho mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc, hoạt động xuất
khẩu đang chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP
Xuất khẩu càng phát triển, càng được mở rộng thì càng thúc đẩy nền sản xuất
trong nước phát triển theo, giúp giải quyết vấn đề việc làm cho một bộ phận lớn dân
số trong nước.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu. Để phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần phải có một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy
móc thiết bị, công nghệ hiện đại.Nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu được thu về từ các
hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển.Xuất khẩu góp phần tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển.
1.21) hoạt động xuất khẩu trước năm 1986
Giai đoạn trước 1986, cơ chế kinh tế Việt Nam là cơ chế tập trung, bao
cấp.không có khái niệm mở cửa hội nhập, chỉ hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa. Sản xuất chỉ nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu trong nước.
Trong giai đoạn này,hoạt động xuất khẩu nhỏ lẻ, chủ yếu là xuất một số mặt
hang nông sản thô sang các nước xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế chủ yếu là phải nhập
khẩu các mặt hang quan trọng cho sản xuất và tiêu dùng trong nước kể cả những
loại hang hoá mà trong nước có thể sản xuất được như gạo,vải mặc..
1.22) hoạt động xuất khẩu sau năm 1986
Đại hội Đảng VI (tháng 12/1986) đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đưa ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ, công tác hành chính,
từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội. Công cuộc đổi mới năm 1986 đánh dấu bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường và một loạt những thay đổi quan
điểm về tư duy, đường lối phát triển đất nước.Từ đây Việt Nam đã thực hiện chủ
trương mở cửa hội nhập kinh tế với tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ, chú trọng
đến hoạt động xuất nhập khẩu, xem nó như một hoạt động giữ vai trò và vị trí quan
trọng trong công cuộc phát triển đất nước
Giá trị xuất khẩu không ngừng gia tăng giữa các giai đoạn, đóng góp tích cực
cho sự phát triển kinh tế trong các thời kì
Số liệu về mức lưu chuyển ngoại thương bình quân và tốc độ tăng bình quân
năm trong mỗi thời kì kế hoạch 5 năm từ năm 1986 đến 2005 như sau: (đơn vị tính
triệu USD):
1986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005
Tổng mức 19717 39940 113440 240981
Chỉ số tăng 5 năm% 115.1 123.4 117.9 118.5
Tăng bình quân% 15.1 21.4 17.2 18.2
Xuất khẩu 7032 17156 51825 110830
Chỉ số tăng 5 năm% 130.7 119.3 122.1 117.9
Tăng bình quân% 28.0 17.8 21.6 17.5
Lấy ví dụ về tốc độ tăng trưởng GDP trong các giai đoạn từ 1986 đến 2005 khi hội nhập
kinh tế quốc tế và có sự đóng góp của xuất khẩu:
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng GDP
Biểu đồ: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.Một
số giai đoạn tiêu biểu về sự phát triển kinh tế Việt Nam sau đổi mới:
+ Giai đoạn 1986-1990, GDP tăng 4,4%/năm, phục hồi sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, kiềm chế lạm phát, đổi mới đời sống kinh tế xã hội và giải phóng sức sản
xuất.
+ Giai đoạn 1991-1995, khắc phục tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được tốc độ
tăng trưởng tương đối cao liên tục và tương đối toàn diện.Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) bình quân hàng năm trong thời kỳ 1991-1995 tăng 8,2%.
+Giai đoạn 1996-2000, đây là thời kỳ quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã gặp phải một
số khó khăn bên ngoài mà điển hình nhất là cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế khu
vực (giữa năm 1997 đến năm 1999); Và khó khăn bên trong là thiên tai nghiêm
trọng liên tiếp gây ra những tác động tiêu cực, đặt nền kinh tế đất nước trước những
thử thách quyết liệt. Mặc dù vậy tổng sẩn phẩm trong nước vẫn duy trì được nhịp độ
tăng trưởng khoảng GDP 6%/năm.
+Giai đoạn 2001-2005, kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh, năm sau cao hơn năm
trước. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7,5%/năm, trong đó nông
nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; dịch vụ tăng 7%. Qui mô
tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 838 nghìn tỷ đồng, gấp đôi
so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (khoảng 640
USD).
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước từ 1986-2005
Tốc độ tăng tổng sản phẩm 1986-
1990
1991-
1995
1996-
2000
2001-
2005
Trong nước 4,4 8,2 7,0 7,5
Cụ thể:
- Nông, lâm nghiệp và thủy
sản
4,1 4,42 3,8
- Công nghiệp và xây dựng 12,0 10,6 10,2
- Dịch vụ 8,6 5,69 7,0
Hoạt động xuất khẩu đã làm cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng
ngành, từng vùng làm tăng hiệu quả và chất lượng phát triển.
Bảng 3: Cơ cấu các ngành kinh tế trong giai đoạn từ 1986-2005
Năm Tỷ trọng nông, lâm
nghiệp và thủy sản
trong GDP (%)
Tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng
trong GDP (%)
Tỷ trọng dịch vụ
trong GDP (%)
1986 38,1 28,9 33
1990 38,7 22,7 38,6
2000 27,2 28,8 44,0
2005 20,9 41 38,01
Trong thời kì đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm
tăng khoảng 20%, nhờ đó đã đưa tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ mức
khoảng nửa tỷ USD/năm trong những năm trước đổi mới lên 26 tỷ USD năm 2004
và 32,23 tỉ USD năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ
36,3% USD năm 1990 lên 166 USD năm 2000 và khoảng 390 USD năm 2005.
Biểu 4 : Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 1986-
2005
Từ biểu đồ trên ta thấy tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta không ngừng
tăng trong các giai đoạn từ 1986 đến 2005 và giai đoạn sau cao hơn nhiều so với
giai đoạn trước đó.Giai đoạn đầu sau đổi mới, tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt
7.03 tỷ USD, sau đó tăng lên hơn 2 lần trong giai đoạn 1991-1995 và giai đoạn
2001-2005 tăng gấp hơn 15 lần so với giai đoạn 1986-1990
Hoạt động xuất khẩu trong hơn 20 năm đổi mới đã đóng góp quan trọng vào
tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước.Với mục tiêu phát triển xuất
khẩu cao làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP, tỷ trọng xuất khẩu chiếm trong
GDP và xuất khẩu bình quân đầu người ngày càng tăng thể hiện qua các thời kì
1986-2005
1986-1990 1991-2000 1996 - 2000 2001 -2005
xuất khẩu bình
quân(triệu USD) 1406 3431 10365 22166
tỷ trọng xuất khẩu so
với GDP(%) 20.5 25.2 37.4 54.0
xuất khẩuBQ/người$ 18.1 43.6 129.9 274.0
Giai đoạn 2006-2008:
năm 2006 2007 2008
Giá trị xuất
khẩu(tỷUSD)
39.6 48.4 62.9
Nhờ thực hiện đường lối mở cửa thu hút đầu tư,trong hơn 20 năm đổi mới
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội.Trong đó
không thể không kể đến sự đóng góp của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
và các thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.Tỷ trọng xuất khẩu của
các thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
không ngừng tăng và giữ vai trò trọng yếu trong tổng thu ngân sách nhà nước.
1.23 Hoạt động xuất khẩu với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội
của nhà nước ta
Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước là:
Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,phát triển sản xuất trong nước, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được hình thành về cơ bản ; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được
nâng cao.Trong 10 năm , từ năm 1991 đ ến 2000, xuất nhập khẩu đã đạt được nhiều
thành tựu lớn đóng góp tích cực vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội .Xuất khẩu
đang là đầu ra quan trọng cho nhiều ngành kinh tế góp phần quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong những giai đoạn tiếp theo, chính phủ tiếp tục có những chính sách nhằm
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất
khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để
xuất khẩu; góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nhanh chóng rút ngắn khoảng
cách phát triển kinh tế giữa nước ta và các nước trong khu vực.
1.3) Về tài nguyên thuỷ hải sản ở nước ta
Nước ta có đường bờ biển dài 3.2 nghìn km (bằng6/7 biên giới lục địa) với
gần 1 triệu km2 thềm lục địa với hàng nghìn đảo và quần đảo.Nhiệt độ vùng biển
tương đối ấm và ổn định quanh năm thích hợp cho sự sinh trưởng của các loài thuỷ
sản nước mặn, nước lợ.
Biển Việt nam có trữ lượng cá lớn và đặc sản biển phong phú: hang chục vạn ha
diện tích mặt nước trên đất liền( bao gồm 40 vạn ha hồ lớn, 54 vạn ha vùng ngập
nước, 5.7 vạn ha ao và 44 vạn km sôngvà kênh rạch) có thể nuôi tôm, cá và các loại
thuỷ sản khác.Do đó, ngành nuôi thuỷ sản nước ta, kể cả thuỷ sản nước mặn, nước
lợ, nước ngọt, có thể trở thành ngành sản xuất chính.
Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác,
sản lượng cho phép khai thác 50 - 60 nghìn tấn/năm, có giá trị cao là tôm biển, tôm
hùm và tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý
nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60 - 70 nghìn
tấn/năm); hằng năm có thể khai thác từ 45 á 50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế
như rong câu, rong mơ v.v... Bên cạnh đó, còn rất nhiều loài đặc sản quí như bào
ngư, đồi mồi, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai, v.v... có giá
trị xuất khẩu cao được ưa chuộng trên thị trường quốc tế.
Bị chi phối bởi đặc thù của vùng biển nhiệt đới, nguồn lợi thuỷ sản nước ta
có thành phần loài đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao. Chế
độ gió mùa tạo nên sự thay đổi căn bản điều kiện hải dương học, làm cho sự phân
bố của cá cũng thay đổi rõ ràng, sống phân tán với quy mô đàn nhỏ. Tỷ lệ đàn cá
nhỏ có kích thước dưới 5 x 20m chiếm tới 82% số đàn cá, các đàn vừa (10 x 20m)
chiếm 15%, các đàn lớn (20 x 50m trở lên) chỉ chiếm 0,7% và các đàn rất lớn (20 x
500m) chỉ chiếm 0,1% tổng số đàn cá. Số đàn cá mang đặc điểm sinh thái vùng gần
bờ chiếm 68%, các đàn mang tính đại dương chỉ chiếm 32%.
Tài nguyên thuỷ hải sản nước ta là vô cùng phong phú, đóng góp tích cực
cho xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu thuỷ hải sản nước ta là một trong những hoạt
động xuất khẩu chiến lược đóng góp một tỷ trọng lớn trong GDP hang năm của
nước ta.
Chương II:Phân tích thực tế tình hình xuất khẩu thuỷ hải sản ở nước ta
2.1) Nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ hải sản
Bảng 5. Tổng hợp kết quả đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá biển
Việt Nam
Vùng
biển
Loại cá
Ðộ
sâu
Trữ lượng Khả năng khai thác
(tấn)
Tỷ lệ
trong toàn
bộ biển
Việt Nam
(%)
Tấn Tỷ lệ
(%)
Tấn Tỷ lệ (%)
Vịnh
Bắc Bộ
Cá nổi
nhỏ
390.000 57,3 156.000 57,3
16,3
Cá đáy <
50m
39.200 5,7 15.700 5,7
>
50m
252.000 37 100.800 37
Cộng 681.200 272.500
Miền
Trung
Cá nổi
nhỏ
500.000 82,5 200.000 82,5
14,5
Cá đáy <
50m
18.500 3,0 7.400 3,0
>
50m
87.900 14,5 35.200 14,5
Cộng 606.400 242.600
Ðông
Nam
Bộ
Cá nổi
nhỏ
524.000 25,2 209.600 25,2
49,7
Cá đáy <
50m
349.200 16,8 139.800 16,8
>
50m
1.202.700 58,0 481.100 58,0
Cộng 2.075.900 830.400
Tây
Nam
Bộ
Cá nổi
nhỏ
316.000 62,0 126.000 62,0
12,1
Cá đáy <
50m
190.700 38,0 76.300 38,0
Cộng 506.700 202.300
Gò nổi Cá nổi
nhỏ
10.000 100 2.500 100 0,2
Toàn
vùng
biển
Cá nổi
đại
dương
(*)
(300.000) (120.000) 7,2
Tổng
cộng
Cá nổi
nhỏ
1.740.000 694.100
Cá đáy 2.140.000 855.900
Cá nổi
đại
dương
(*)
(300.000) (120.000)
Toàn bộ 4.180.000 1.700.000 100
(*) Số liệu suy đoán theo sản lượng đánh bắt của các nước quanh biển Ðông
Bảng 6. Trữ lượng và khả năng khai thác tôm vỗ ở vùng biển Việt Nam
Vùng
biển
200m Tổng cộng
Trữ
lượng,
tấn
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Trữ
lượng,
tấn
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Trữ
lượng,
tấn
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Trữ
lượng,
tấn
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Trữ
lượng,
tấn,
Cho
phép
khai
thác,
tấn
Vịnh
Bắc Bộ
318 116 114 42 430 158
Miền
Trung
7 3 2.462 899 13.482 4.488 34 12 15.985 5.402
Ðông
Nam Bộ
8.160 2.475 2.539 927 6.092 2.224 1.852 676 18.641 6.300
Tây
Nam Bộ
9.180 3.351 166 61 9.346 3.412
Cộng 17.664 5.945 5.281 1.929 19.574 6.712 1.886 688 44.402 15.272
Bảng 7. Trữ lượng và khả năng khai thác mực nang ở vùng biển Việt Nam
Khu vực
Trữ lượng
và KN
Khai thác
(tấn)
< 50m
50 -
100m
100 -
200m
> 200m
Tổng
cộng
Vịnh Bắc
Bộ
Trữ lượng 1.500 400 1.900
Cho phép
khai thác
600 160 760
Miền
Trung
Trữ lượng 3.900 3.840 4.500 1.300 13.540
Cho phép
khai thác
1.560 1.530 1.800 520 5.410
Nam Bộ
Trữ lượng 24.900 10.800 7.400 5.600 48.700
Cho phép
khai thác
9.970 4.300 2.960 2.250 19.480
Cộng
Trữ lượng 30.300 14.990 11.900 6.910 64.100
Cho phép 12.130 5.990 4.760 2.770 25.650
khai thác
Tỷlệ (%) 47,3 23,3 18,6 10,8 100
Bảng 8. Trữ lượng và khả năng khai thác mực ống ở biển Việt Nam
Khu vực
Trữ
lượng và
KN Khai
thác (tấn)
< 50m
50 - 100m
100 -
200m
>
200m
Tổng
cộng
Vịnh Bắc
Bộ
Trữ lượng 9.240 2.520 11.760
Cho phép
khai thác
3.700 1.000 4.700
Tỷ lệ % 78,6 21,4 10
Miền
Trung
Trữ lượng 320 140 2.000 3.000 5.760
Cho phép
khai thác
130 180 810 1.190 2.310
Tỷ lệ % 5,5 7,5 35,3 51,7 10
Nam Bộ
Trữ lượng 21.300 12.800 2.600 4.900 41.500
Cho phép
khai thác
8.500 5.100 1.000 2.000 16.600
Tỷ lệ % 51,3 30,9 6,1 11,7 10
Cộng
Trữ
lượng
30.900 15.700 1.600 7.900 59.100
Cho phép
khai thác
12.400 6.300 1.800 3.100 23.600
Tỷlệ (%) 52,2 26,7 7,8 13,3 10
2.11) Thực trạng nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản nước ta
Theo số liệu đã công bố của Tổng Cục Thống kê, GDP của ngành Thuỷ sản
giai đoạn 1995 - 2003 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên 24.125 tỷ đồng. Trong các hoạt
động của ngành, khai thác hải sản giữ vị trí rất quan trọng. Sản lượng khai thác hải
sản trong 10 năm gần đây tăng liên tục với tốc độ tăng bình quân hằng năm khoảng
7,7% (giai đoạn 1991 - 1995) và 10% (giai đoạn 1996 - 2003). Nuôi trồng thuỷ sản
đang ngày càng có vai trò quan trọng hơn khai thác hải sản cả về sản lượng, chất
lượng cũng như tính chủ động trong sản xuất. Điều này tất yếu dẫn đến sự chuyển
đổi về cơ cấu sản xuất - ưu tiên phát triển các hoạt động kinh tế mũi nhọn, đem lại
hiệu quả kinh tế cao.
Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở khắp mọi
miền đất nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Đến năm 2003, đã
sử dụng 612.778 ha nước mặn, lợ và 254.835 ha nước ngọt để nuôi thuỷ sản. Trong
đó, đối tượng nuôi chủ lực là tôm với diện tích 580.465 ha.
Bên cạnh những tiềm năng đã biết, Việt Nam còn có những tiềm năng mới
được xác định có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản như sử dụng vật liệu chống
thấm để xây dựng công trình nuôi trên các vùng đất cát hoang hoá, chuyển đổi mục
đích sử dụng các diện tích trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ
sản…Nuôi biển là một hướng mở mới cho ngành Thuỷ sản, đã có bước khởi động
ngoạn mục với các loài tôm hùm, cá giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc,… với các hình
thức nuôi lồng, bè. Nuôi nước ngọt đang có bước chuyển mạnh từ sản xuất nhỏ tự
túc sang sản xuất hàng hoá lớn, điển hình là việc phát triển nuôi cá tra, cá ba sa xuất
khẩu đem lại giá trị kinh tế cao; Nuôi đặc sản được mở rộng; Sự xuất hiện hàng loạt
các trang trại nuôi chuyên canh (hoặc canh tác tổng hợp nhưng lấy nuôi trồng thuỷ
sản làm hạt nhân) chuyển đổi phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến
sang bán thâm canh và thâm canh đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Tuy nhiên hoạt động nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản ở Việt Nam phần
lớn còn manh mún, nhỏ lẻ,công nghệ nuôi trồng và khai thác còn lạc hậu, năng suất
và hiểu quả chưa cao.Hoạt động khai thác chủ yếu ở ven bờ.Sản lượng khai thác
tăng bình quân 9%/năm nhưng năng suất giảm dần do sự suy giảm nguồn lợi hải sản
đặc biệt là nguồn lợi thuỷ hải sản ven bờ.Mặc dù vùng nước ven bờ chỉ chiếm một
diện tích gần 17% tổng diện tích thềm lục địa nhưng phải chịu áp lực khai thác rất
cao ( chiếm 70% sản lượng khai thác toàn vùng biển).Nhiều nghiên cứu khoa học
cho rằng lượng hải sản ven bờ đã bị khai thác quá mức sản phẩm khai thác có cả
các cá thể chưa trưởng thành và các đàn cá đi đẻ.Khai thác xa bờ còn nhiều bất cập,
chưa quản lý được hoạt động khai thác dẫn đến khai thác bừa bãi, làm cạn kiệt tài
nguyên và ảnh hưởng đến môi trường.
Nuôi trồng hải sản nước ta hiện nay mới tập trung vào một số doanh nghiệp,
xí nghiệp liên doanh và các hộ có vốn, sản xuất mang tính tự phát ở một số vùng
ven biển; còn đại bộ phận người dân ven biển chưa có sự hiểu biết và điều kiện
tham gia nuôi trồng hải sản trên biển. Việc sử dụng diện tích mặt nước biển để nuôi
hải sản chưa đáng kể, việc giao, cho thuê mặt nước biển còn nhiều bất cập, sản
lượng nuôi chưa nhiều, giống loài thủy sản tham gia sản xuất còn ít, giá trị kim
ngạch xuất khẩu so với tiềm năng hiện có còn thấp. Cơ chế chính sách khuyến khích
đầu tư, phát triển công nghệ và xây dựng cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì đáng kể
để phục vụ yêu cầu sản xuất, đã làm hạn chế phát triển phong trào nuôi trồng thủy
sản trên biển và hải đảo.
2.12) Thực trạng ngành công nghiệp chế biến thuỷ hải sản trong nước
Chế biến thuỷ hải sản là một khâu quan trọng nhằm nâng cao giá trị xuất
khẩu.Hiện nay ngành công nghiệp chế biến thuỷ hải sản ở nước ta đa phần công
nghệ còn lạc hậu, chủng loại mặt hang chế biến còn hạn chế, còn gặp rất nhiều khó
khăn về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trong chế biến.Trong nhiều năm vừa
qua, hang thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam luôn gặp các vấn đề về vệ sinh an toàn
thực phẩm.Hàng xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn chất lượng theo yêu cầu của nước
nhập khẩu đều bị trả lại và trong trường hợp xấu nhất có thể bị cấm nhập sang nước
đó.Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã bị cảnh cáo thậm chí
rất nhiều doanh nghiệp bị đình chỉ mặt hàng, cấm xuất khẩu.Lấy ví dụ như nhiều
doanh nghiệp thời gian vừa qua đã liên tục bị phía Nhật, EU và ngay cả thị trường
dễ tính như Nga ra cảnh báo và cấm xuất một số sản phẩm thuỷ sản sang nước họ.
Hiện tại nhiều doanh nghiệp phải nhập nguyên liệu về chế biến, nhập nguyên
liệu thức ăn để tự tổ chức nuôi trồng. Thực trạng này là hậu quả mối quan hệ giữa
người nuôi với doanh nghiệp chế biến xuất khẩu chưa có mối lien hệ chặt chẽ để
cùng chia sẻ lợi nhuận, rủi ro>người nuôi không rõ bán cho ai vẫn cứ nuôi còn
doanh nghiệp chế biến thì không cần quan tâm đến tổ chức sản xuất nguyên liệu,
không liên kết và không có trách nhiệm với người nuôi.
Vấn đề môi trường cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm với các doanh
nghiệp chế biến thuỷ hải sản nước ta ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu
của chính doanh nghiệp vì khi buôn bán với nước ngoài, vấn đề môi trường xung
quanh doanh nghiệp cũng là một tiêu chí mà họ rất quan tâm khi đặt quan hệ làm ăn
với các doanh nghiệp Việt nam.Do vậy mỗi doanh nghiệp chế biến cần chủ động xử
lý chất thải công nghiệp của mình không chỉ vì công việc kinh doanh của mình mà
còn vì môi trường xã hội xung quanh.
2.3) Thực trạng xuất khẩu và thị trường tiêu thụ thuỷ hải sản
Ngành Thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh so với các ngành kinh tế
khác. Tỷ trọng GDP của ngành Thuỷ sản trong tổng GDP toàn quốc liên tục tăng, từ
2,9% (năm 1995) lên 3,4% (năm 2000) và đạt 3,93% vào năm 2003.
Từ cuối thập kỷ 80 đến năm 2000, ngành thuỷ sản đã có những bước tiến
không ngừng. Các chỉ tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã
hội ngành Thuỷ sản thời kỳ 1991 - 2000 đã được hoàn thành vượt mức:
CHỈ TIÊU Đơn vị Kế hoạch Thực hiện
Tổng sản lượng thuỷ
sản
Trong đó:
- Sản lượng khai thác
hải sản
- Sản lượng nuôi trồng
thuỷ sản
tấn
-
-
1.600.000
1.000.000
600.000
2.174.784
1.454.784
720.000
Kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản
triệu USD 900 - 1.000 1.478,6
Thu hút lao động
thuỷ sản
nghìn người 3.000 3.400
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản tương đương với các ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ ngành thuỷ sản đang dần chuyển từ
sản xuất mang nặng tính nông nghiệp sang sản xuất kinh doanh theo hướng công
nghiệp hoá.
GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU (triệu USD)
Năm Toàn quốc
Công nghiệp
- Xây dựng -
Dịch vụ
Nông - Lâm - Thuỷ sản
Tổng số
Riêng Thuỷ
sản
1996 7.255,9 4.214,1 3.041,8 670,0
1997 9.185,0 5.952,0 3.233,0 776,5
1998 9.360,3 6.036,0 3.324,3 858,6
1999 11.540,0 8.627,8 2.912,2 976,1
2000 14.308,0 10.186,8 4.121,2 1.478,5
2001 15.100,0 10.090,4 5.009,6 1.816,4
Tốc độ tăng
trưởng
bình quân
13,0 14,9 9,5 14,6
Nguồn: Niên giám Thống kê Nông - Lâm - Thuỷ sản
Việc xuất khẩu các mặt hang thuỷ sản của Việt Nam trong nhiều năm gần
đây luôn tiềm ẩn nhiều khó khăn.Trước hết phải kể đến những thiên tai ảnh hưởng
đến các vùng nuôi trồng, các vụ kiện chống bán phá giá cá tra, cá basa như trong
năm 2004 đã gây ra không ít khó khăn cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.Sự cạnh
tranh gay gắt của thị trường xuất khẩu với những đòi hỏi khắt khe về vệ sinh an toàn
thực phẩm, về kí quỹ trên cơ sở xuất khẩu hang năm với một khoản tiền tương ứng
để phòng chống bán phá giá… từ phía nhà nhập khẩu.Ngoài ra, trong thực tế hiện
nay hang thuỷ sản xuất khẩu của nước ta khi vào một số thị trường vẫn phải thong
qua khâu trung gian hoặc mượn thương hiệu nước ngoài, người tiêu dung nước
ngoài chưa quen với thương hiệu, sản phẩm Việt Nam.Các thị trường khác, mặc dù
cũng đã được quan tâm xúc tiến xuất khẩu nhưng kết quả vẫn chưa được như mong
muốn và chưa tương xứng với tiềm năng.
Một vấn đề khó khăn nữa với xuất khẩu thuỷ sản Việt nam đó là sự lien kết
giữa doanh nghiệp chế biến xuất khẩu với nguồn cung nguyên liệu trong nước còn
lỏng lẻo, chưa có sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà lợi ích giữa các bên làm cho nguồn
cung nguyên liệu của ngư dân và người nuôi trồng thuỷ sản cho các doanh nghiệp
xuất khẩu lúc thừa, lúc thiếu, lúc giá cao, lúc thì sụt giá một cách tệ hại.Chất lượng
và vệ sinh an toàn thực phẩm còn chưa đảm bảo ngay từ khâu nuôi trồng khai thác
đến khâu chế biến xuất khẩu
Trong năm 2008 vừa qua, do tình hình lạm phát trong nước cao và khủng
hoảng kinh tế thế giới đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu về nguồn
nguyên liệu do nhiều cơ sở đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản giảm cường độ ra khơi
và thu hẹp diện tích nuôi trồng do đó đã tao ra một số biến động cho thị trường
nguyên liệu.Việc giảm giá thành sản phẩm cũng đang là vấn đề mà doanh nghiệp
xuất khẩu phải quan tâm trong thời điểm kinh tế suy thoái, đây là một vấn đề tưởng
đơn giản nhưng lại khá nan giải cho các đơn vị xuất khẩu khi mà giá nguyên liệu,
thức ăn chăn nuôi trong nước liên tục tăng
Đánh giá về xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong năm 2008 vừa qua là một
năm khó khăn với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam: Nằm trong bối
cảnh chung của hoạt động xuất khẩu của cả nước, thủy sản Việt Nam vừa trải qua
một năm đầy “sóng gió” ngay đầu năm 2008 như lạm phát, nền kinh tế tăng trưởng
chậm, tỷ giá USD bấp bênh, chi phí đầu vào tăng vọt, lãi suất ngân hang tăng
cao…Tuy nhiên theo số liệu của cục hải quan Việt nam cả năm 2008 xuất khẩu thuỷ
sản của Việt nam đạt 1236 nghìn tấn, trị giá 4.509 tỷ USD, tăng 33.7% về khối
lượng và 19.8% về giá trị so với cùng kì năm trước.Trong giai đoạn khó khăn như
trong năm 2008, các doanh nghiệp đã chuyển từ trọng tâm các cuộc khủng hoảng là
Mĩ, EU, Nhật… sang những thị trường mới là nga, Ai cập…Năm 2008 Việt nam
xuất khẩu thuỷ sản sang 160 thị trường với gần 70 sản phẩm các loại.
Năm 2008 EU nhập khẩu 349 nghìn tấn thủy sản Việt Nam với trị giá 1,14
tỷ USD, tăng 26% về giá trị, chiếm 25,4% cơ cấu thị phần của ngành thủy sản, tiếp
tục giữ vị trí nhà nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất.
Năm 2008, Hàn Quốc vẫn đứng vững ở vị trí thứ 4 trong top các thị trường
nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam và đứng thứ 2 về nhập khẩu thủy sản khô từ Việt
Nam (nửa đầu năm nhập khẩu mạnh), xuất khẩu tôm đông lạnh và mực bạch tuộc
sang thị trường này tăng nhẹ so với năm ngoái. Tuy nhiên, xuất khẩu những tháng
cuối năm giảm mạnh nên tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn năm ngoái, tổng xuất khẩu cả
năm chỉ tăng 10%. Dự kiến thị trường đơn lẻ này tiếp tục là thị trường lớn của thuỷ
sản Việt Nam song mức tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường này sẽ chững lại vào
năm 2009 do kinh tế khó khăn làm giảm nhu cầu tiêu thụ.
Tiếp nối tình trạng tăng trưởng âm từ cuối năm 2006 và sự sụt giảm trong
năm 2007 do những rào cản kỹ thuật và vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Năm
2008, Nhật Bản vươn lên hàng thứ 2 (vượt Mỹ) về nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam
với khối lượng 134,9 nghìn tấn và giá trị 828,2 triệu USD, tăng 13,2% về khối
lượng và 11% về giá trị so với năm 2007.
Nằm tại trọng tâm của cuộc khủng hoảng kinh tế, sự sụt giảm xuất khẩu
sang thị trường Mỹ đã đưa nước này từ vị trí thứ 2 xuống thứ 3 (sau EU và Nhật
Bản). Năm 2008, Mỹ tụt xuống hàng thứ 2 (sau Nhật Bản) về nhập khẩu tôm đông
lạnh của Việt Nam, giảm nhập khẩu hàng khô và các loại cá khác. Tỷ trọng của thị
trường Mỹ giảm từ 20,4% xuống 16,5% trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt
Nam do nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu của nước này giảm. Sự suy thoái của nền
kinh tế Mỹ và giá cả thủy sản tăng sẽ ảnh hưởng đến triển vọng tiêu thụ thủy sản
của nước này trong năm 2009.
Về những thị trường mới của thuỷ sản xuất khẩu Việt nam trong năm 2008
Không thể so sánh với EU, Nhật Bản, Mỹ… về giá trị nhập khẩu thuỷ sản, nhưng
năm 2008, Nga và Ucraina đã thực sự trở thành những “hiện tượng”. Tăng 82,9%
về giá trị, Nga trỗi dậy từ vị trí số 7 lên vị trí số 5, xét về mặt khối lượng, Nga đứng
thứ 3 về nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam (sau EU và Nhật Bản).
Có thể nói, năm 2008, Nga là “lực hút” lớn cho nhiều doanh nghiệp xuất
khẩu cá tra, basa Việt Nam, là thị trường đơn lẻ đứng đầu về nhập khẩu cá tra, basa
của Việt Nam tăng 142,5% về khối lượng và tăng 109% về giá trị so với năm 2007.
Đây quả thực là một mức tăng trưởng xuất khẩu khá ấn tượng, song sang đến quí
I/2009 xuất khẩu sang Nga khó đạt được mức tăng trưởng nếu không nói là tăng
trưởng âm do Cục Kiểm dịch động, thực vật Liên bang Nga (VPSS) đã ban hành
lệnh cấm đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam kể từ ngày 20/12/2008.
Ngoài ra, đây cũng là thị trường nhập khẩu chính thủy sản khô của Việt Nam (đứng
thứ 4 sau ASEAN, Hàn Quốc & Trung Quốc).
Chỉ đứng thứ 7 trong Top các thị trường nhập khẩu của Việt Nam, nhưng
Ucraina thực sự trở thành “hiện tượng” của năm 2008 với mức tăng trưởng cao nhất
trong các thị trường tăng 202,6% về khối lượng, 221,1% về giá trị. Với mức tăng
trưởng này, Ucraina đã thế chân Đài Loan trong Top các thị trường nhập khẩu(NK)
chính của Việt Nam. Năm 2008, Ucraina tăng khối lượng NK cá tra từ Việt Nam
gấp 2,5 lần so với năm trước, đứng thứ 2 (sau Nga) trong các thị trường đơn lẻ NK
cá tra, tăng 249% về GT so với năm 2007. Riêng hàng thủy sản khô, Ucraina tăng
120,7% về giá trị (GT) so với năm ngoái.
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu: Trong tất cả các mặt hàng xuất khẩu từ trước
đến nay, tôm đông lạnh luôn chiếm tỷ trọng cao( khoảng trên 50% kim ngạch xuất
khẩu thuỷ hải sản Việt Nam).cá tra với khoảng 26% tổng giá trị xuất khẩu, mực và
bạch tuộc đông lạnh chiếm khoảng 8% tổng giá trị xuất khẩu, còn lại là các loại
khác.
Số lượng thị trường xuất khẩu thủy sản trong quý 1 năm nay tụt giảm mạnh
và phần lớn các thị trường lớn, truyền thống lâu nay đều bị giảm kim ngạch, trong
khi các thị trường nhỏ lại ngoi lên. Đây là điểm đáng chú ý của xuất khẩu thủy sản
trong 3 tháng đầu năm 2009.Trong quý 1/2009, thuỷ sản Việt Nam xuất sang 122
thị trường, giảm 37 thị trường so với năm ngoái. Tính từ đầu năm 2009 tới ngày 15-
3, xuất khẩu thủy sản được 166.695 tấn với kim ngạch 579 triệu đô la Mỹ, giảm hơn
8% cả về khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm ngoái mà nguyên nhân là do các
thị trường tiêu thụ thủy sản chính giảm vì khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu
và trong nước thì khó khăn về nguồn nguyên liệu . EU hiện vẫn là thị trường xuất
khẩu thủy sản lớn nhất và trong quý 1 này, thị trường này chiếm 26% tổng kim
ngạch,tuy nhiên do khủng hoảng tài chính, nhu cầu tiêu thụ giảm nên xuất khẩu
thuỷ sản sang EU giảm 15% so với cùng kì năm ngoái xuống còn 150,6 triệu USD.
Nhật bản vẫn là thị trường mua thủy sản lớn thứ hai nhưng 3 tháng qua vẫn giảm
hơn 9%, nhưng đây lại là thị trường xuất khẩu tôm đông lạnh chiếm 1/3 xuất khẩu
tôm của Việt Nam. Thị trường Mỹ tiếp tục giảm từ chỗ chiếm 16,5% kim ngạch
xuất thủy sản của Việt Nam, quý 1 này giảm xuống chỉ còn 15% do nhu cầu tiêu thụ
thủy sản của quốc gia này tụt giảm nhanh hơn các thị trường khác. Thế nhưng điều
đặc biệt là xuất khẩu cá tra sang Mỹ trong 3 tháng qua tăng đột ngột đến131%, đạt
18 triệu đô la Mỹ, trở thành thị trường mua cá tra lớn thứ hai sau EU của Việt Nam.
Những thị trường được xem là “nhỏ” lâu nay như Trung Quốc, Úc lại tăng mạnh.
Xuất khẩu tôm sang Trung Quốc trong quý 1 tăng mạnh với 140% lên 12,7 triệu đô
la Mỹ, còn tính chung cả ngành thủy sản thì xuất sang nước này tăng 38%. Úc cũng
tương tự khi tăng mua thủy sản của Việt Nam lên 20% trong quý 1, trong đó riêng
mua tôm đông lạnh tăng tới 73%.
Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), từ đầu
năm đến nay, các doanh nghiệp chế biến tôm đông lạnh mất đi 61 thị trường xuất
khẩu. Cuối năm 2008, tôm đông lạnh Việt Nam vẫn được tiêu thụ tại 90 nước và
vùng lãnh thổ, nhưng con số này hiện chỉ còn 29. Việc tìm kiếm thêm thị trường đối
với các sản phẩm tôm đông lạnh của Việt Nam rất khó khăn do không thể cạnh
tranh nổi với tôm xuất khẩu của Thái Lan, Ấn Độ và Indonesia. Không riêng gì mặt
hàng tôm mà các mặt hàng thủy sản khác như cá tra, cá ba sa cũng đang bị thu hẹp
thị trường, khan hiếm nguyên liệu sản xuất…
Ngoài các khó khăn kể trên, một vấn đề quan trọng nữa cần phải nhắc đến là vấn
đề về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm được quy định với các
doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt nam khi muốn giữ thị trường truyền thống và
tìm kiếm thị trường mới.Theo số liệu thống kê thì trong 5 tháng cuối năm 2006
Nhật Bản đã kiểm tra và phát hiện thuỷ sản của 12 doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu vào Nhật có dư lượng kháng sinh vượt mức cho phép, sau đó Nhật đã yêu cầu
sẽ kiểm tra ngay tại cửa hải quan 100% lô hang thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu
vào nước này
Theo các chuyên gia thuỷ sản, EU có hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn
vệ sinh thực phẩm vào loại nghiêm ngặt nhất thế giới. Hàng thuỷ sản của các nước
đang phát triển đưa vào EU phải tuân thủ theo các quy định sau.
- Quy định về vệ sinh: các nước muốn đưa hàng thuỷ sản vào EU phải nằm
trong danh sách các nước được xuất khẩu vào EU. Từng lô hàng phải kèm theo giấy
chứng nhận đáp ứng các yêu cầu của EU do cơ quan chức năng của nước xuất khẩu
cấp.
- Quy định về chất lượng và an toàn thực phẩm: theo các quy chế
91/492/EEC và 91/493/EEC, các sản phẩm phải đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể về vệ
sinh gồm độ tươi, độ sạch, mức nhiễm vi sinh tối đa (bao gồm các vi sinh vật gây
bệnh và các vi sinh vật chỉ thị), dự lượng hoá chất (kim loại nặng, kháng sinh và
thuốc trừ sâu), chất độc, độc tố sinh học biển và ký sinh trùng.
- Quy định về giám sát: Quyết định 94/356/EEC yêu cầu nhà sản xuất có
hàng thuỷ sản xuất khẩu sang EU phải tổ chức giám sát hoạt động sản xuất và chế
biến của mình phù hợp với HACCP. Tiêu chuẩn HACCP là điều kiện quan trọng
của doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào EU.
Tên
nước
1990 1995 2000 2003 2004
EU-
25
5.649.497 6.090.814 6.262.869
EU-
15
3.474.905 4.709.596 5.320.027 5.659.320 5.818.816
Bảng 6 khối lượng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam (tấn) qua các năm
Nếu hàng nhập khẩu thuỷ sản bị một nước thành viên EU phát hiện có vấn đề
về chất lượng lập tức sẽ bị đưa lên Hệ thống cảnh báo nhanh về thực phẩm
(RASFF) cho tất cả các nước thành viên biết. Việc cấm và hạn chế nhập khẩu thuỷ
sản vào EU đã được thực hiện không ít lần như trường hợp cấm nhập khẩu cá của
Ấn Độ, Bangladesh và Madagascar năm 1997, bắt buộc kiểm tra toàn bộ hàng thuỷ
sản Trung Quốc năm 2001. …
Chương III) Phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển xuất khẩu thuỷ
hải sản.
3.1) Giải pháp về nuôi trồng thuỷ hải sản
Trong những năm tới cần thúc đẩy nuôi trồng thuỷ hải sản nhằm phục vụ cho
xuất khẩu do nguồn thuỷ sản ven bờ đã dần cạn kiệt trong khi công nghệ đánh bắt
không cho phép ngư dân có thể ra xa bờ. Việc nuôi trồng đến nay đã đạt kết quả tốt.
Sáu tháng đầu năm 2005, người dân ven biển tỉnh Phú Yên đầu tư 13.500 lồng và
tỉnh Khánh Hòa đầu tư 21.000 lồng nuôi tôm hùm. Năm 2004, nhiều gia đình nuôi
tôm hùm thu lãi từ 30 - 80 triệu đồng. Riêng thôn Phú Dương xã Xuân Thịnh,
huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên là một làng giáp biển trước đây có tới 70-75% số hộ
nhận cứu trợ của Nhà nước. Ðến nay nhờ có nuôi tôm hùm trên biển cả thôn không
còn hộ nghèo và có tới 20% số hộ thu về tiền tỷ. Những năm gần đây, hình thức
nuôi lồng bè đang có bước phát triển ở một số tỉnh như: Quảng Ninh, Thừa Thiên-
Huế, Khánh Hòa, Phú Yên, Bà Rịa-Vũng Tàu với các đối tượng tôm hùm, cá song,
cá cam, cá giò, v.v. Những địa phương phát triển mạnh là Quảng Ninh, Khánh Hòa
và một số tỉnh khác.
Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện cho
các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo. Nhà nước phân
cấp cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao, cho thuê đất và mặt
nước biển cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu sử dụng mặt nước biển, đất
trên đảo để nuôi trồng hải sản tạo điều kiện để nhà đầu tư tự quản lý đất mặt nước,
yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Nhà nước đã đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho quy
hoạch nuôi hải sản trên biển hải đảo; cho nhập khẩu giống gốc một số loài đặc sản
sạch bệnh có giá trị kinh tế cao, quý hiếm và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo đòi
hỏi công nghệ sản xuất cao và nuôi thương phẩm hải sản trên biển và hải đảo; đào
tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác khuyến
ngư nuôi hải sản; hỗ trợ các dự án xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết yếu của các
vùng nuôi hải sản biển.
Hộ nông dân nghèo được vay vốn từ Ngân hàng chính sách. Các tổ chức
tín dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có
đủ điều kiện vay vốn nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo. Các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có nhiều biện pháp hỗ trợ lãi suất vốn vay, ưu tiên bố trí
nguồn vốn cho vay của Quỹ quốc gia về việc làm cho các dự án nuôi trồng hải sản
khả thi.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại cộng đồng, trong đó đặc biệt chú trọng đến cộng đồng những người sản
xuất và cung ứng nguyên liệu; duy trì tốc độ phát triển của ngành thủy sản hiện nay
trên cơ sở tăng cường các yếu tố đảm bảo phát triển bền vững như: tái tạo nguồn
lợi, an toàn cho ngư dân, từng bước điều chỉnh cơ cấu nghề cá, giảm khai thác ven
bờ, phát triển đánh bắt xa bờ
Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa người nuôi trồng với các doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu về tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản của ngư dân.Sự quy định
cần thiết phải ràng buộc trên hợp đồng, có như vậy mới có thể gắn kết lợi ích của
các bên và thúc đẩy sản xuất.Các cơ quan quản lý thuỷ sản cần chủ động đối phó
với khả năng rớt giá nguyên liệu có thể xảy ra do mùa vụ rơi vào thời điểm khó
khăn về thị trường.Ngoài ra cần có các giải pháp để đối phó với khả năng dư thừa
nguyên liệu khi vào mùa vụ.
Phát triển hoạt động sản xuất giống thủy sản nhằm khai thác lợi thế của
miền Trung là vùng sản xuất giống thủy sản chủ yếu của Việt Nam.Xây dựng trung
tâm giống hải sản Nha Trang thuộc Trung tâm nghiên cứu thủy sản III với chức
năng chọn tạo giống, lưu trữ nuôi dưỡng giống gốc, chuyển giao giống mới, công
nghệ mới về giống, thả giống vào thiên nhiên để tái tạo nguồn lợi thủy sản. Hình
thành 5 trại giống hải sản cấp 1 (lợ, mặn) ở miền Trung hoạt động như xí nghiệp
công ích về giống thủy sản. Khuyến khích xây dựng các trại tôm giống kmini do tư
nhân bỏ vốn (khoảng 300 trại, công suất 1 - 5 triệu P15/trại). Xây dựng mới các cơ
sở sản xuất giống điệp, ốc hương, trai ngọc, bào ngư... ở Khánh Hòa. Xây dựng 1
đến 2 khu công nghiệp sản xuất giống để quản lý và nâng cao chất lượng giống ở
các tỉnh từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa.
Việc phát triển nuôi trồng hải sản trên biển và hải đảo giúp các tổ chức,
người dân có cơ hội đầu tư phát triển, góp phần điều chỉnh nghề khai thác ven bờ
bằng phương tiện thủ công sang nuôi trồng thủy sản biển (nhất là người dân ở các
xã nghèo vùng bãi ngang ven biển, hải đảo), bảo vệ phát triển được nguồn lợi thủy
sản. Nuôi trồng thủy sản biển còn giúp người dân có điều kiện tăng thu nhập, xóa
đói, giảm nghèo, thay đổi cơ cấu kinh tế; góp phần bảo vệ an ninh vùng biển và hải
đảo. Ngành thủy sản dự kiến đến năm 2010 nuôi cá biển ở nước ta ước đạt khoảng
200.000 tấn, nuôi nhuyễn thể đạt 380.000 tấn, rong biển đạt 50.000 tấn khô đuổi kịp
và vượt các nước tiên tiến trong khu vực và vùng lãnh thổ về trình độ nuôi hải sản
trên biển. Ðây là ngành quan trọng trong phát triển kinh tế thủy sản của nước ta.
Việc nuôi trồng thuỷ hải sản phải được quy hoạch, được sự hướng dẫn về kĩ thuật,
công nghệ của các cơ quan chuyên môn, nhằm đảm bảo về mặt vệ sinh, chất
lượng,giá trị, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
3.2)Giải pháp về khai thác và chế biến thuỷ hải sản nước ta
Hoàn thiện và tăng cường năng lực hệ thống tổ chức, thanh tra, kiểm nghiệm
vệ sinh an toàn thực phẩm từ trung ương đến địa phương. Đẩy mạnh xã hội hoá các
hoạt động bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, huy động sự tham gia của
tất cả cộng đồng. Nâng cao năng lực kiểm nghiệm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và
tăng cường hợp tác quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm;
Việc khai thác phải trên cơ sở khoa học, tránh việc khai thác bừa bãi, gây ảnh
hưởng đến nguồn lợi thuỷ hải sản trong tương lai và làm ảnh hưởng xấu đên môi
trường.Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ ngư dân về vốn, công nghệ nhằm nâng
cao hiệu quả khai thác và chế biến. Chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp đánh bắt hợp lý,
giảm các nghề đánh bắt cá con ven bờ; Mở rộng khai thác hải sản xa bờ: hình thành
các đội tàu đánh cá biển khơi; Phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hậu cần trên
biển và trên bờ, bao gồm đầu tư cải tạo nâng cấp các cảng cá hiện đại và xây dựng
các tập đoàn đánh cá xa bờ gắn với dịch vụ hậu cần, bao tiêu sản phẩm, bảo quản
cấp đông thủy sản trên biển.
Việc chế biến thành phẩm phải dựa trên quy trình công nghệ tiên tiến hiện đại,
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, hạn chế tối thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn các dư
lượng kháng sinh hay chất bảo quản hoá học trong sản phẩm. Tiếp tục đầu tư chiều
sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị, cơ giới hoá và tự động hoá dây chuyền chế biến.
Thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành chế biến để tiếp cận nền công nghiệp chế biến
hiện đại của thế giới. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển và đổi mới sản
phẩm tại các doanh nghiệp. Mở rộng chủng loại và khối lượng các mặt hàng thuỷ
sản chế biến có giá trị gia tăng, hàng phối chế, hàng ăn liền, đạt tỷ trọng 60 - 65%
sản phẩm giá trị gia tăng trong cơ cấu giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Nhanh chóng
chuyển dịch cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa và nâng cao
giá trị sản phẩm.
Về chủng loại: phát triển mạnh xuất khẩu các mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao
như tôm, nhuyễn thể chân đầu, cá biển và các loại thủy đặc sản.....
Về dạng chế biến: giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm đông lạnh sơ chế;tăng tỷ trọng
xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng (mực sashimi, tôm sú Nobashi, mực
sushi, tôm PTO luộc, tẩm bột...); tăng tỷ trọng hàng thủy sản tươi sống như tôm
hùm, cá mú, cá ngừ đại dương ;thủy sản như hộp cá ngừ, hộp tôm; tăng cường xuất
khẩu sản phẩm đóng gói nhỏ bán lẻ ở siêu thị như tôm đông, mực philê, mực
sashimi, tôm sú luộc.
Cần có tiêu chuẩn và hệ thống kiểm định chất lượng ngay tại cơ sở sản xuất.
Tiếp tục nâng cấp điều kiện sản xuất, áp dụng hệ thống quản lý đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm theo HACCP, GMP, SSOP, đảm bảo 100% doanh nghiệp chế biến
xuất khẩu đạt tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm; Hỗ trợ doanh nghiệp
chế biến tăng cường năng lực kiểm soát và phát hiện dư lượng kháng sinh, hoá chất
trong nguyên liệu, áp dụng các hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm; Từng bước
hình thành thương hiệu cho thuỷ sản Việt Nam để tránh phải phụ thuộc vào thương
hiệu nước ngoài
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng nghiêm trọng đến hang hoá
xuất khẩu, các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức cần chủ động có những biện pháp đối
phó với khó khăn như cắt giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng
sản phẩm dịch vụ, giữ vững ổn định thị trường…
3.3)Giải pháp về thị trường xuất khẩu, tiêu thụ thuỷ hải sản Việt Nam
Việt Nam là một trong 10 nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới,các thị
trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt nam là Mỹ, EU, Nhật và Hàn Quốc
chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng đây cũng là những thị trường khó tính
bởi hệ thống kiểm soát về chất lượng hết sức chặt chẽ. Do vậy muốn duy trì xuất
khẩu bền vững sang các thị trường này doanh nghiệp cần chấp hành nghiêm chỉnh
các yêu cầu về vệ sinh, chất lượng và phải luôn chú ý đến các quy định, hệ thống
luật pháp khi xuất khẩu hàng hoá sang các thị trường này.
Tập trung xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển thị trường, nhất là
các thị trường trọng điểm, gắn với việc xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia
cho các nhóm sản phẩm chủ lực: tôm, cá tra, cá ba sa, cá ngừ;
Từng bước tiến hành xây dựng mạng lưới phân phối sản phẩm thủy sản Việt
Nam tại nước ngoài để chủ động điều phối hàng hoá tại các thị trường lớn. Xây
dựng mối quan hệ liên kết, hợp tác kinh doanh với nhà phân phối lớn, các hệ thống
siêu thị và tổ chức dịch vụ thực phẩm lớn ở các thị trường;
Đổi mới phương thức công tác phát triển thị trường theo hướng chuyên nghiệp
hoá, đa dạng hóa và mở rộng các hình thức xúc tiến thương mại.Kết hợp giữa việc
giữ vững thị trường truyền thống với tìm kiếm, phát triển thị trường mới, thị trường
tiềm năng.Nâng cao sức cạnh tranh của hang thuỷ sản xuất khẩu trên thị trường
quốc tế.
Nâng cao trình độ hiểu biết về luật pháp quốc tế của đội ngũ cán bộ làm công
tác thương mại và của các doanh nghiệp để hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động đối
phó và đấu tranh với những tranh chấp, rào cản thương mại do chính sách bảo hộ
của các nước nhập khẩu.
Nắm bắt, cập nhật thường xuyên thông tin về thị trường tiêu thụ, nhu cầu, mặt
hàng, giá cả để kịp thời ứng phó với những thay đổi.
Trước tình hình khủng hoảng tài chính, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, doanh
nghiệp cần chủ động có những biện pháp đối mặt và khắc phục khó khăn đặc biệt về
chi phí, đa dạng hoá chủng loại mặt hàng, tìm kiếm chỗ đứng trên thị trường mới…
3.4) Giải pháp của các bộ ban ngành nhà nước về xuất khẩu thuỷ hải sản
Tăng cường các hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ quản lý,
cán bộ nghiên cứu và cán bộ về marketing, giỏi về nghiệp vụ và am hiểu về luật lệ
và các chính sách kinh tế, thương mại của các nước và quốc tế để tăng cường và bổ
sung đội ngũ các nhà doanh nghiệp kinh doanh thuỷ sản giỏi trên thương trường
quốc tế. Đồng thời chú ý đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật, hướng dẫn nghề nghiệp,
đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của ngành.
Nhà nước có chính sách khuyến khích và huy động các thành phần kinh tế
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, nhằm tập trung vốn đầu tư xây dựng hình
thành các trung tâm nghề cá lớn, trong đó có các trung tâm chế biến thuỷ sản ở các
tỉnh trọng điểm; đầu tư hệ thống chợ thuỷ sản tại các vùng và địa phương trọng
điểm nghề cá, các chợ biên giới Việt - Trung, hiện đại hóa hệ thống thông tin nghề
cá;
Ngân sách nhà nước hàng năm hỗ trợ kinh phí để thực hiện: các công việc liên
quan đến kiểm soát an toàn vệ sinh thuỷ sản vì mục tiêu sức khoẻ của ngườì tiêu
dùng; các hoạt động xúc tiến thương mại chung cho sản phẩm thuỷ sản Việt Nam
(xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ, quảng bá thương hiệu chung cho các sản
phẩm thuỷ sản chủ lực, đào tạo về marketting); hỗ trợ hình thành và hoạt động của
các tổ chức xúc tiến đầu mối tại các thị trường trọng điểm; thực hiện các chiến dịch
truyền thông và quảng bá sản phẩm thuỷ sản Việt Nam và các hoạt động khác về
xúc tiến thương mại phục vụ cho lợi ích chung của ngành;
Trước tình hình giá cả các mặt hang đóng vai trò là chi phí cho các hoạt động
nuôi trồng, khai thác chế biến tăng cao, Nhà nước cần có chính sách nhằm kiểm
soát, hỗ trợ người dân, tổ chức,doanh nghiệp để họ duy trì và phát triển sản xuất
Đầu tư, nâng cấp, mở rộng mạng lưới thông tin về giá cả, nguyên vật liệu,
thức ăn cho việc nuôi trồng, thông tin về mặt hang, thị trường, các tiêu chuẩn, quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm, về luật pháp để có thể đưa ra những dự báo
chính xác trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về các thị trường xuất khẩu của Việt
Nam để các doanh nghiệp trong nước nắm bắt kịp thời.
Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá hình ảnh về sản phẩm, doanh nghiệp, vùng miền,
nhằm xây dựng chiến lược về thương hiệu cho thuỷ sản Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
Xây dựng mô hình tập đoàn thuỷ hải sản tươi sống và qua chế biến xuyên quốc
gia giống như mô hình các tập đoàn ăn uống xuyên quốc gia đang phát triển trên thế
giới.
Mở rộng quan hệ hợp tác, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nuôi trồng, khai
thác, chế biến xuất khẩu thuỷ sản, chia sẻ kinh nghiệm về giống, kỹ thuật, khoa học
công nghệ trong lĩnh vực này.
Tăng cường điều tra nguồn lợi ở các vùng xa bờ và với các loại cá di cư nhằm
nắm vững trữ lượng cho phép khai thác, điều kiện môi trường, mùa vụ khai thác của
các ngư trường.., trên cơ sở đó quy định hạn mức cường lực khai thác cho mỗi địa
phương, xác định rõ chủng loại, cơ cấu đội tàu và công nghệ khai thác thích hợp
cho nghề khơi để tránh hiện tượng đầu tư, khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản;
Tiến hành đánh bắt thủy sản theo mùa vụ, đại điểm, loại ngư cụ được quy định cụ
thể của từng địa phương; Nghiêm cấm sử dụng các hình thức khai thác có tính hủy
diệt như xung điện, đánh mìn, hóa chất độc... Hỗ trợ xây dựng các khu bảo tồn biển,
các bãi rạn nhân tạo, lắp đặt các thiết bị dụ cá, tạo các vùng cư trú có tính chiến
lược cho các loài giống thủy sản, thả giống một số giống loài ra vùng biển; Cơ cấu
lại lực lượng khai thác ven bờ một cách hợp lý, đồng thời chuyển dần sang canh tác
trên vùng biển ven bờ: vừa khai thác, vừa nuôi. Xây dựng các quy hoạch chi tiết về
các khu vực nuôi trồng thủy sản sinh thái của miền Trung, ban hành và thực hiện
các tiêu chuẩn về vùng nuôi an toàn, quy trình nuôi sạch nhằm đảm bảo môi trường
nuôi thủy sản bền vững, hạn chế dịch bệnh và sản xuất có hiệu quả.
C) Kết luận
Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội
nước ta cả trước mắt và lâu dài.Do vậy Nhà nước nói chung và người dân, các tổ
chức, các doanh nghiệp nói riêng cần nhận thức sâu sắc vấn đề này để có những chủ
trương, chính sach, biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Để làm tốt điều
này cần có sự nỗ lực không chỉ của Nhà nước mà cần sự phối hợp, tập trung nguồn
lực của tất cả các tầng lớp dân cư, người lao động, các tổ chức, các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh trong bình diện xã hội.
Kể từ khi hội nhập kinh tế quốc tế, ra nhập WTO đến nay bên cạnh những
thuận lợi, nền kinh tế nước ta đã đang và sẽ trải qua những khó khăn không nhỏ như
về cạnh tranh ngày càng gay gắt, thị trường, vốn, công nghệ…nếu không có sự tỉnh
táo, lựa chọn những bước đi hợp lý, chiến lược thì sẽ không thể tồn tại ngay cả
trong thị trường nội địa.Xuất khẩu là một trong những hướng đi đúng đắn cần được
tăng cường và mở rộng hơn nữa.Xuất khẩu làm tăng tính năng động của nền kinh tế,
nâng cao tính cạnh tranh, đổi mới về tri thức, công nghệ, tăng vốn giúp sản xuất
trong nước phát triển.
Xuất khẩu thuỷ hải sản là một trong những hoạt đông chủ lực, chiến lược của
nền kinh tế.Xuất khẩu thuỷ hải sản chiếm tỷ trọng cao trong GDP hang năm, lợi ích
tạo ra cho nền kinh tế là không nhỏ.Do vậy trước mắt và trong thời gian tới Nhà
nước cần có chính sach, biện pháp tăng cường thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất
khẩu thuỷ hải sản, giúp cho mặt hàng này không những làm chủ thị trường trong
nước mà còn đủ sức cạnh tranh về số lượng, chất lượng với các quốc gia khác. Để
làm được việc này Nhà nước cần kết hợp linh hoạt, đồng thời các giải pháp kể trên
nhằm làm cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu thuỷ hải sản phát triển ổn định, bền
vững xứng đang là ngành xuất khẩu mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111260_6397.pdf