(1) Việt Nam trong giai đoạn vừa qua không có định hướng tăng cung tiền để tăng
GDP và việc làm mà mục tiêu chính của giai đoạn vừa qua chủ yếu là để đảm bảo thanh
khoản cho các NHTM. Do vậy không thể gọi là dính bẫy được vì thiếu yếu tố đầu tiên.
(2) Nền kinh tế các nước Phương Tây phụ thuộc chủ yếu vào tiêu dùng đặc biệt là
tiêu dùng tư nhân do năng lực sản xuất dư thừa. Người dân các nước Phương Tây chủ yếu
tiêu dùng bằng tín dụng (Tiêu dùng trước trả nợ sau), do vậy khi nền kinh tế suy thoái,
nguy cơ thất nghiệp tăng cao thì người dân tại các nước này có xu hướng phòng thủ chứ
không tăng tiêu dùng. Trong khi đó, vấn đề của Việt Nam phải đối mặt là các khoản đầu tư
công không hiệu quả, việc chi tiêu quá mức vào các hàng hóa xa xỉ, hàng lâu bền được trả
góp và điều này đã đẩy lạm phát tăng cao trong khi lãi s uất danh nghĩa lại không tăng
tương ứng khiến lãi s uất thực là số âm. Lãi suất thực âm làm cho các tài sản tài chính, tài
sản thực trở nên kém hấp dẫn khiến các nhà đầu tư chuyển s ang nắm giữ các tài sản như
vàng, bất động sản, ngoại tệ mạnh.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2928 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giảm phát và bẫy thanh khoản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ễn giảm thuế cho người nghèo, cho người nghèo vay mua nhà trả góp với lãi suất
ưu đãi, bồi hoàn thuế thu nhập cá nhân, giảm giá hàng tiêu dùng…. ở các nước đang phát
triển, các giải pháp kích cầu tiêu dùng cũng rất đa dạng và thiết thực đối với mọi tầng lớp
dân cư trong xã hội. Trợ giá dân cư mua hàng hóa gia dụng, giảm giá hàng hóa, dịch vụ,
du lịch, vui chơi, giải trí, mở rộng hệ thống bán lẻ hàng hóa
Về nhóm kích cầu sản xuất
Tập trung mọi nguồn lực tài chính đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế phát triển sản xuất, mở rộng dịch vụ theo hướng tăng sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước và xuất khẩu
Hỗ trợ lãi suất vốn vay trong chương trình kích cầu nên ưu tiên cho những doanh
nghiệp vừa và nhỏ để có thể tạo thêm nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động đang thất
nghiệp hoặc lao động dư thừa ở khu vực nông thôn vốn đang thiếu việc làm nghiêm trọng
do tác động trực tiếp của suy thoái k inh tế toàn cầu.
Tập trung cao độ cho những ngành và lĩnh vực yếu thế nhưng còn nhiều tiềm năng
phát triển toàn diện, tăng trưởng cao, hấp thụ vốn nhanh
Để biến triển vọng thành hiện thực, một trong những giải pháp quan trọng là tăng
cường đầu tư vốn, khoa học - công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản thông
qua gói kích cầu của Chính phủ
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 7
II. BẪY THANH KHOẢN:
1. Khái niệm bẫy thanh khoản:
Bẫy thanh khoản (Liquidity trap) là hiện tượng khi thực hiện chính sách tiền tệ nới
lỏng làm giảm lãi suất nhằm kích thích kinh tế nhưng khi lãi suất giảm liên tục đến rất thấp
hoặc xấp xỉ bằng 0 lại khiến mọi người quyết định giữ tài sản của mình dưới dạng tiền
mặt nhiều hơn và chính sách tiền tệ trở nên bất lực – theo kinh tế học Keynes.
Trong một thời gian dài, các nền kinh tế vĩ mô đã được quản lý bằng cách thay đổi
lãi suất. Vì vậy, bẫy thanh khoản là một cú sốc cho các nhà hoạch định chính sách, vì họ
được trải nghiệm một tình huống mà công cụ chính sách của họ không còn phát huy tác
dụng.
2. Các nguyên nhân dẫn đến bẫy thanh khoản:
Mong đợi giảm phát: Nếu xảy ra giảm phát hoặc mọi người mong đợi rằng thời
gian tới sẽ xảy ra giảm phát (giá cả sẽ giảm đi). Lúc đó, dù có giữ tiền mặt thì trên thực tế
số tiền đó của người đó vẫn tăng lên về giá trị trong tương lai tới
Ưu tiên cho tiết kiệm: Bẫy thanh khoản xảy ra trong thời kỳ suy thoái và triển
vọng về kinh tế ảm đạm. Người tiêu dùng, doanh nghiệp và các ngân hàng đang rất bi quan
về tương lai, vì vậy họ xem xét việc tăng những khoản tiết kiệm để phòng ngừa rủi ro và
rất khó khăn để buộc họ chi tiêu. Sự gia tăng trong tiết kiệm này đồng nghĩa với tiêu dùng
sẽ giảm sút. Ngoài ra, trong thời gian suy thoái, các ngân hàng càng ngần ngại vay vì sợ
rủi ro đến từ các doanh nghiệp khách hàng phá sản, mất khả năng thanh toán. Thêm
nữa, cắt giảm lãi suất cơ bản xuống 0% không thể biến thành lãi suất cho vay của ngân
hàng thương mại thấp hơn, vì vậy các ngân hàng không muốn cho vay.
Khủng hoảng tín dụng (Credit crunch): Các ngân hàng bị mất một khoản tiền
đáng kể do mua nợ dưới chuẩn và vỡ nợ. Vì vậy, họ tìm nguồn để cải thiện bảng cân đối kế
toán của họ. Họ không sẵn lòng cho vay nên ngay cả nếu như các công ty và người tiêu
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 8
dùng muốn tận dụng lãi suất thấp để vay, các ngân hàng sẽ không cho họ vay tiền. Ngân
hàng không muốn chia sẻ lợi ích thu được từ việc NHNN hạ lãi suất chính sách, trần
lãi suất huy động cho khách hàng vay tiền
Sự không sẵn lòng nắm giữ trái phiếu: Nếu lãi suất thấp một cách bất thường,
người ta sẽ kỳ vọng lãi suất sẽ tăng trở lại. Khi đó, giá của trái phiếu sẽ sụt giảm đi (do
giá trái phiếu tỷ lệ nghịch với lãi suất của trái phiếu). Vì thế, nhà đầu tư/ngân hàng
muốn nắm giữ tiền mặt (cho những mục đích đầu tư khác) hơn là nắm giữ trái phiếu
3. Vì sao chính sách tiền tệ không hiệu quả?
Khi nền kinh tế ổn định, lãi suất danh nghĩa bình thường, không quá thấp thì chi
phí cơ hội cho việc nắm giữ tiền là đáng kế. Khi đó, mọi người chỉ nắm giữ số tiền cần
thiết cho nhu cầu giao dịch còn lại đầu tư vào tài sản tài chính để sinh lợi.
Khi nền kinh tế xảy ra giảm phát, theo mô hình IS-LM chính sách tiền tệ mở rộng
có tác dụng giảm lãi suất, kích thích tiêu dung đầu tư, tăng sản lượng. Tuy nhiên, khi xảy
ra giảm phát lãi suất danh nghĩa đã rất thấp (xấp xỉ bằng 0) nên không thể giảm được nữa;
khi đó, chi phí của việc giữ tiền bằng 0 nên NHTW cung tiền tăng bao nhiêu thì mọi
người muốn nắm giữ bấy nhiêu. Do đó, không kích thích được chi tiêu và đầu tư. Chính
sách tiền tệ trở nên không có tác dụng
Khi xảy ra giảm phát thì gánh nặng nợ tăng lên, dù nghĩa vụ trả nợ với lãi suất i
thấp nhưng phải trả vốn gốc với giá trị thực tăng lên, làm gia tăng tính dễ đổ vỡ của hệ
thống tài chính - phá sản, vỡ nợ. Khả năng trả nợ của người đi vay ngày càng xấu; trước
kia doanh nghiệp vay nợ để đầu tư cho sản xuất nhằm tối đa hóa lợi nhuận thì khi xảy ra
giảm phát, tổng cầu giảm, giá giảm, các doanh nghiệp chỉ sản xuất ở mức tối thiểu hóa lỗ,
việc vay nợ không nhằm đầu tư vào sản xuất mà chủ yếu dùng để trả các khoản nợ trước
đó. Khi đó, cả tiêu dùng và đầu tư đều giảm, tổng cầu giảm, nền kinh tế càng lún sâu vào
suy thoái vì vậy việc NHTW tăng cung tiền để kích cầu hoàn toàn không có hiệu quả.
4. Biện pháp để thoát khỏi bẫy thanh khoản:
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 9
Bẫy thanh khoản dẫn đến suy thoái giảm phát và trục trặc hệ thống tài chính vì vậy:
Theo Paul Krugman: tạo ra lạm phát kì vọng sẽ giúp nền kinh tế thoát khỏi bẫy
thanh khoản
Theo các nhà kinh tế tiền tệ: thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng: tăng cung tiền,
bơm thanh khoản vào nền kinh tế hoặc thông qua nghiệp vụ thị trường mở, tăng cường
mua các tài sản tài chính như trái phiếu dài hạn
Theo quan điểm Keynes: thực hiện chính sách tài khóa mở rộng nhằm kích vào
tổng cầu. Chính sách tài khóa lú c thường vốn không phát huy được hiệu lực đầy đủ do
hiện tượng lấn át (crowding out) thì lúc này lại phát huy đầy đủ hiệu lực do hiện tượng
lấn át không còn (vì lãi suất thấp).
III. QUAN HỆ GIỮA GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN:
1. Bẫy thanh khoản dẫn đến giảm phát:
Khi nền kinh tế suy thoái, ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ
bằng việc giảm lãi suất để kích thích tiêu dùng và kích thích đầu tư tư nhân dẫn tới tăng
tổng cầu, thoát khỏi suy thoái.
Tuy nhiên, nếu việc giảm lãi suất là liên tục và xuống thấp quá mức thì, theo
thuyết ưa chuộng tính thanh khoản (lãi suất chính là cái giá để người ta hy sinh sự ưa
chuộng tính thanh khoản của tiền mặt), mọi người sẽ giữ tiền mặt chứ không gửi vào ngân
hàng hay đầu tư vào các tài sản tài chính. Hậu quả là đầu tư tư nhân khó có thể được thúc
đẩy vì ngân hàng không huy động được tiền gửi thì cũng không thể cho xí nghiệp vay
và chứng khoán không bán được thì xí nghiệp cũng không huy động được vốn.
Chính sách tiền tệ trở nên bất lực trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân và do đó là
bất lực trong kích thích tổng cầu.
Tổng cầu tiếp tục giảm dẫn đến giảm phát. Gảm phát kéo dài kết hợp với lãi
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 10
suất quá thấp sẽ dẫn đến:
Vòng xoắn sản lượng đình đốn và suy thoái.
Kỳ vọng giảm phát tạo ra lãi suất thực gia tăng ảnh hưởng đầu tư và hố
cách suy thoái mở rộng.
Theo phương trình Fisher i= r + e
Với i là lãi suất danh nghĩa
r là lãi suất thực
e là tỉ lệ lạm phát kì vọng
2. Giảm phát dẫn đến bẫy thanh khoản:
Suy thoái do giảm phát khác với suy thoái thông thường ở chỗ suy thoái giảm
phát có % P 0.
Giảm phát hầu hết trong các trường hợp là tác động của sụt giảm tổng cầu làm cho
nền kinh tế suy thoái và gia tăng thất nghiệp. Giảm phát làm i tiến đến gần hay bằng
zero – bẫy thanh khoản và tạo trục trặc cho nền kinh tế và chính sách.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 11
CHƯƠNG 2
KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ NƯỚC
I. NHẬT BẢN – MỘT THẬP NIÊN BỊ ĐÁNH MẤT:
Thời kì trì trệ kinh tế kéo dài của Nhật Bản suốt thập kỷ 1990 hay thường được gọi
với tên “Thập kỉ mất mát”. Sau khi bong bóng tài sản vỡ vào những năm 1990-1991, tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản thấp hẳn đi. Bình quân hàng năm trong suốt thập niên
1990, tổng sản phẩm quốc nội thực tế của Nhật Bản lẫn tổng sản phẩm quốc dân bình
quân đầu người chỉ tăng 0,5%, thấp hơn so với hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến
khác. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng nhanh qua từng năm.
Thiểu phát và giảm phát trong thập niên mất mát
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 12
1. Ảnh hưởng của giảm phát đến nền kinh tế Nhật Bản:
Nền kinh tế suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP giảm mạnh so với thời kì trước.
Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm của Nhật Bản trong thập niên
mất mát so với các thời kỳ trước.
Năng suất lao động giảm: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của GDP trên
đầu người của Nhật Bản giảm xuống mức thấp trong những năm 1990 có thể là do mức
tăng của năng suất tổng nhân tố (TFP) giảm Sở dĩ mức tăng của TFP ở Nhật Bản thời kỳ
1991-2000 lại giảm mạnh là do chính sách hỗ trợ cácdoanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu
quả. Việc này khiến cho các nhà sản xuất thiếu hiệu quả lại sản xuất được một phần sản
lượng nhiều thêm. Chính sách này còn hạn chếđầu tư tăng năng suất. Từ khi Nhật Bản thực
hiện Các biện pháptạm thời ổn định các ngành đặc biệt khó khăn vào năm 1988, ngay năm
đó mức tăng TF chỉ ở mức vô cùng thấp 0,64%. Ba năm trước đó, mức tăng TF là
2,5%/năm, thế mà sáu năm sau đó, mức tăng chỉ còn là 2,18%/năm. Năng suấtlao động
giảm còn có thể do phân bổnguồn lực giữa các ngành thiếu hợp lý - nghĩa là các ngành có
tiềm năng tăng trưởng mạnh lại không được đầu tư đúng mức. Còn nguyên nhân khiến có
sự không hợp lý trong phân bổ nguồn lực giữa các ngành là thị trường yếu tố sản xuất kém
linh hoạt.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 13
Nợ đọng: Nợ đọng (bao gồm nợ khó đòi và nợ xấu) đã làm phương hại nền kinh tế
Nhật Bản theo hướng làm cho việc phân phối nguồn lực bị bóp méo. Thêm vào đó, nợ
đọng tự nó mang những nhân tố khiến cho tình trạng nợ kéo dài. Nợ đọng làm cho chức
năng phân bổ nguồn lực bị bóp méo qua nhiều con đường. Cho vay thêm khiến cho
nguồn tài chính bị điều chỉnh về khu vực không có hiệu suất, góp phần giữ lao động tại
khu vực này, trong khi đó những khu vực có hiệu suất và những ngành nghề mới không
được phân bổ đầy đủ nguồn lực tài chính và lao động nên gặp khó khăn trong phát triển
hoạt động của mình. Tóm lại, nợ đọng vừa dẫn đến đầu tư quá mức ở các xí nghiệp hoạt
động kém hiệu quả, vừa dẫn đến đầu tư không đủ ở các xí nghiệp có khả năng mở rộng
sản xuất. Hai hiện tượng này che lấp lẫn nhau khiến cho tác hại của nợ đọng khó nhận ra
được. Và đây là một nguyên nhân nữa khiến nợ đọng lại đẻ ra nợ động.
Đầu tư tư nhân giảm: Nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng cầu giảm có thể là
nguyên nhân kinh tế suy giảm.Còn nguyên nhân khiến nhu cầu đầu tư tư nhân giảm là
tình trạng đói tín dụng. Nợ xấu khiến cho các ngân hàng ngần ngại cho vay; và điều này
ảnh hưởng đến đầu tư. Các xí nghiệp nhỏ, nhất là trong ngành chế tạo, phải đối mặt với
tình trạng này nhiều hơn.
2. Nguyên nhân:
Bẫy thanh Khoản: Nhà kinh tế học Hoa Kỳ đoạt giải Nobel năm 2008 là Paul
Krugman cho rằng chính bẫy thanh khoản đã làm cho nền kinh tế Nhật Bản trì trệ kéo
dài.B y thanh khoản xảy ra khi năng lực sản xuất tương lai thấp hơn năng lực sản xuất hiện
tại. Già hóa dân số và sinh ít khiến cho nhóm dân số trong độ tuổi lao động ở Nhật Bản
giảm trung bình hàng năm 0,7% trong vòng 30 năm tới và giảm 1% trong vòng 25 năm sau
đó. Khi lực lượng lao động giảm nhanh hơn dân số, thì năng lực sản xuất bình quân đầu
người của tương lai được dự tính là sẽ giảm đi so với hiện nay. Mặt khác, vấn đề kinh tế dai
dẳng của Nhật Bản là do người tiêu dùng muốn tiết kiệm nhiều hơn doanh nghiệp muốn
đầu tư. Dự tính về lực lượng lao động trong tương lai giảm sẽ làm giảm lợi tức kỳ vọng
của đầu tư. Ngoài ra, vấn đề nợ xấu của khu vực ngân hàng khiến cho họ khắt kh hơn trong
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 14
phê duyệt các khoản cho vay, nên sẽ có tác động tiêu cực đến đầu tư của xí nghiệp
Kích cầu kém: Trong thập kỷ 1990, trước thực tế nền kinh tế trì trệ triền miên, một
số biện pháp kích cầu đã được thực hiện nhằm vực dậy nền kinh tế Nhật Bản. Nhưng, nền
kinh tế vẫn tiếp tục trì trệ.Nhiều nghiên cứu đã cho thấy chính sách kích cầu của Nhật Bản
có phát huy tác dụng, nhưng mức độ hiệu quả lại thấp.
Nguyên nhân khiến hiệu suất của chính sách kích cầu thấp có thể là:
Chi tiêu công cộng của Chính phủ đã hướng hết vào các công trình công
cộng vô bổ.
Chính sách tài chính của Nhật Bản không được thiết kế với mục tiêu tối đa
hóa tác động vĩ mô của nó. Đáng lẽ, các gói kích cầu phải chủ yếu dành cho
chi tiêu vào mạng lưới an sinh xã hội và giảm thuế tiêu dùng, chứ không
nên dựa vào chi cho câc công trình công cộng và giảm thuế chung chung như
chính phủ Nhật Bản đã thực hiện.
Phần chi tiêu công cộng do các chính quyền địa phương triển khai không đủ
mức đề ra do các chính quyền này đã dùng một phần gói kích cầu để bù đắp
thâm hụt ngân sách địa phương. Các công trình công cộng địa phương đã
không có tác dụng nâng cao năng suất của vốn đầu tư tư nhân.
Giá trị các gói kích cầu nhỏ, không đủ vực dậy nền kinh tế.
Chính Sách Tiền Tệ Thiếu Hợp Lý: Ngân hàng Nhật Bản bị phê phán là đã chậm trễ
trong việc nới lỏng chính sách tiền tệ (giảm lãi suất).Đến khi quyết định giảm lãi suất, thì
lại giảm không đủ mức; thậm chí còn vội vàng nâng lãi suất ngày khi nền kinh tế có dấu
hiệu phục hồi vào cuối năm 1993.
Đến mùa hè và thu năm 1995, lãi suất ngắn hạn từ mức trên 2% xuống còn 0,4~0,5%.
Khi kinh tế Nhật Bản lại rơi vào suy thoái từ đầu năm 1997, Ngân hàng Nhật Bản đã
không còn khả năng giảm lãi suất.Từ năm 1998, nền kinh tế chính thức rơi vào trạng thái
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 15
giảm phát. Khu vực tư nhân bắt đầu hình thành dự tính rằng xu hướng giảm phát sẽ tiếp
tục (tức là dự tính lạm phát mang dấu âm).Hai điều này d n đến lãi suất thực tế tăng lên, vì
lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi dự tính lạm phát.Đầu tư và tiêu dung tư nhân
bắt đầu giảm càng làm cho khoảng cách giữa tổng cầu và tổng cung càng tăng.Giảm phát
càng nghiêm trọng hơn, và đây chính là "bẫy giảm phát" mà Nhật Bản mắc phải. Giảm
phát làm cho gánh nặng nợ của xí nghiệp lớn thêm vì nợ quá hạn gia tăng, làm cho lợi
nhuận của xí nghiệp giảm vì lãi suất thực tế và tiền công thực tế trở nên cao hơn. Do đó, xí
nghiệp trở nên dè dặt trong đầu tư thiết bị khiến cho nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng
cầu giảm theo.
3. Ứng Phó Của Nhật Bản:
Ban đầu, Ngân hàng Trung ương Nhật ứng phó với khủng hoảng bằng cách đưa ra
một số chính sách tiền tệ thông thường đó là cắt giảm lãi suất tái chiết khấu. Ngoại trừ một
lần ngắt quãng vào năm 1994, Ngân hàng Trung ương Nhật đều đặn hạ lãi suất trong
khoảng giữa năm 1991 đến giữa năm 1995. Lãi suất đã được hạ đến 8 lần trong khoảng
thời gian trên. Ngân hàng Trung ương Nhật sauđó chuyển mục tiêu sang lãi suất cơ bản,
mức lãi suất mục tiêu là 0,5%.
Năm 1997, việc một số tổ chức tài chính lớn sụp đổ cho thấy rõ hơn về quy mô
khủng hoảng và cho thấy cần đưa ra thêm nhiều biện pháp để làm giảm căng thẳng điều
kiện tín dụng. Môi trường kinh tế vĩ mô đi xuống nhanh chóng, điều kiện tín dụng thắt
chặt. Tuy nhiên Ngân hàng Trung ương không còn có thể tiếp tục nới lỏng.
Để tiếp tục hỗ trợ thanh khoản và đóng vai trò thay thế cho thị trường liên ngân
hàng đang gặp khó khăn, Ngân hàng Trung ương Nhật mở rộng biên độ và sự linh hoạt của
các công cụ tiền tệ: tăng bảo đảm trái phiếu doanh nghiệp, thương phiếu đảm bảo bằng tài
sản và một số loại hình chứng khoán đảm bảo bằng tài sản khác, cung cấp thanh khoản
trong dài hạn.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 16
II. ĐẠI KHỦNG HOẢNG MỸ (1930 – 1933):
Đại khủng hoảng là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 đến hết
các năm 1930 và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường chứng
khoán Phố Wall vào 29 tháng 10 năm 1929 (còn được biết đến như Thứ Ba Đen tối). Nó
bắt đầu ở Hoa Kỳ và nhanh chóng lan rộng ra toàn Châu Âu và mọi nơi trên thế giới, phá
hủy cả các nước phát triển. Thương mại quốc tế suy sụp rõ rệt, từ thu nhập cá nhân, thuế,
lợi tức đều bị ảnh hưởng và suy thoái.
1. Nguyên nhân:
Ảnh hưởng của việc đầu cơ ồ ạt: Thập niên 1920 là thập niên tăng trưởng tại
mỹ.Từ năm 1921 đến 1929, sản lượng công nghiệp tăng khoảng 40%( 50% tùy theo
nguồn), nghành nông nghiệp bắt đầu đi vào hiện đại hóa, người nông dân vay mượn để đầu
tư săn xuất, đưa sản lượng nông nghiệp đến tình trạng sản xuất thừa. Thập niên 1920 đưa
nước Mỹ đến xã hội tiêu thụ, Ngân hàng phát triển tín dụng, cho phép người dân mua sắm
hàng hóa tiêu dung lâu bền, x hơi, nhà ở. Đây cũng là thời kỳ thị trường chứng khoán phát
triển mạnh . Đầu tư chứng khoán không phải là không có cơ sở, nó gắn liền với viễn tưởng
phồn thịnh do nền kinh tế thực mang lại. Tuy nhiên, nhà đầu tư nhanh chóng trở thành nhà
đầu cơ: những cổ đông l c này không quan tâm đếncổ tức được chi trả bao nhiêu và chỉ
quan tâm vào giá bán cổ phiếu được bao nhiêu.
Và đầu cơ đẩy lên cao trào là vào năm 1929.Chỉ trong năm 1929, đã có một lượng
cổ phần kỷ lục là 1,124,800,410 được giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu năm 1928 đến
tháng 9 năm 1929, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng từ 191 điểm lên 38139 điểm.
Không một nhà đầu tư nào có thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Nguy hiểm hơn, với sự
tăng ổn định của giá cổ phiếu, người ta bắt đầu vay để mua chứng khoán. Chẳng hạn nhà
đầu tưA có thể có 10 USD và vay 75 USD từ người môi giới của mình. Nếu anh ta bán cổ
phiếu khi giá là 420$ ở thời điểm một năm sau, anh ta đã biến từ 10 USD đầu tư ban đầu
thành 341.25 USD (420 trừ 75 và 5% lãi suất trả cho người môi giới).Tức là lợi suất lên
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 17
đến 3400%. Con số này càng thúc đẩy"cơn điên" cổ phiếu. Cho đến giữa năm 1929, tổng
lượng cho vay đang lưu hành của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba tháng sau
con số này là 8,5 tỷ USD. Lãi suất thanh toán cho các khoản vay này cũng tăng nhanh
không kém, đạt mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nổ đầu cơ này hoàn toàn chỉ dựa trên
những niềm tin vô căn cứ, và nó trái ngược với sự sụp đổ khủng khiếp vài tháng sau đó
cũng chính ở cơ sở, sụp đổ bắt nguồn từ sự sợ hãi. Hầu hết nước Mỹ không thể quên cái
ngày THỨ BA ĐEN TỐI, ngày 29 tháng 10 năm 1929 mở đầu một thập niên của tình
trạng thất nghiệp tràn lan, nghèo túng và vật lộn chống lạm phát .
Vào tháng 4/1929, lãi suất bắt đầu tăng dần, khiến lợi nhuận từ đầu cơ chứng khoán
yếu đi, và kéo th o đó, nhũng người đi vay để đầu cơ mất dần khả năng trả nợ.Khi lợi
nhuận từ việc đầu cơ vào cổ phiếu không còn, các nhà đầu cơ lần lượt báo tháo cổ phiếu
làm giá cổ phiếu giảm mạnh trên thị trường. Hiện tượng ồ ạt bán cổ phiếu hàng loạt diễn ra
từ ngày 18 đến 23/10/1929. Đến ngày 24/10 thì thị trường chứng khoán ở New York tuột
dốc tự do, gây ra hoảng loạn.
Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã đẩy Mỹ vào suy thoái. Tiêu dùng và đầu
tư bị ảnh hưởng trực tiếp. Người dân bắt đầu lo lắng về thu nhập, họ tiêu dung ít hơn trước.
Các ngân hàng đua nhau phá sản nguyên nhân do người vay vốn đầu cơ không còn khả
năng trả nợ, cổ phiếu đầu cơ không còn giá trị, còn những người gửi tiền lo lắng và rủ
nhau ồ ạt rút tiền gửi ra khỏi ngân hàng.
Chỉ vài tháng sau, khủng hoảng chứng khoán biến thành khủng hoảng ngân hàng.
Điều này khiến các công ty không thể tiếp cận nguồn vốn vay để đầu tư, khiến cho hoạt
động kinh doanh sản suất bị đình trệ.
Chính sách tiền tệ thiếu hợp lý: Thêm vào đó chính sách tiền tệ và chi tiêu đã làm
cho sự việc thêm nghiêm trọng.Chính quyền mỹ l c đó chỉ quan tâm đến cân bằng ngân
sách hơn việc chấp nhận thâm hụt ngân sách để duy trì việc làm và sản lượng.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 18
Duy trì tỉ giá cố định: Mặt khác, muốn duy trì bản vị vàng – một dạng của chính
sách tỷ giá cố định, FED đã không thực hiện chính sách nới lỏng chính sách tiền tệ cần
thiết.Chính sách nay đã góp phần gây ra giảm phát, mức giá chung trong giai đoạn 1929-
1933 giảm và dẫn đến tình trạng giảm phát nợ. Mức giá tiêu dung giảm đồng nghĩa với giá
trị thực của nợ tăng. Các món nợ quá hạn và nợ xấu tăng lên khiến các ngân hàng phải bán
tài sản của họ. Điều này càng làm cho tình hình tài chính ở các ngân hàng càng trở nên tồi
tệ.Tình trạng giảm phát nợ một mật đẩy các ngân hàng yếu ớt nhanh chóng sụp đổ, làm
giảm lượng tín dụng, thu hẹp đầu tư và tiêu dung, một mặt vì không có lợi cho người đi
vay nên cũng không kích thích vay để đầu tư.
Tất cả tạo nên một ảnh hưởng dây chuyền mạnh mẽ làm tổng cầu sụt giảm nặng nề.
Khủng hoảng ngân hàng đưa nước mỹ đến khủng hoảng kinh tế năm 1931 và đi vào đại
suy thoái: sản lượng công nghiệp giảm 50%, tỷ lệ thất nghiệp lên đến 25% trong giai đoạn
1930 – 1932.
2. Ảnh hưởng của đại khung hoảng đến nền kinh tế Mỹ:
Mỹ Anh Pháp Đức
Sản xuất công nghiệp -46 -23 -24 -41
Giá Bán Buôn -32 -33 -34 -29
Mua bán ngoại thương -70 -60 -54 -61
Tỷ lệ thất nghiệp 607 129 214 232
Thay đổi chỉ số kinh tế 1929 – 1932 (đơn vị %)
Giữa năm 1930, tỷ lệ lãi suất đã giảm xuống mức thấp. Tháng 5 năm 1930, doanh
số bán hàng ô tô đã giảm dưới mức năm 1928 . Giá cả nói chung bắt đầu giảm,mặc dùmức
lương vẫn ổn định vào năm 1930, nhưng sau đómột xoắn ốc giảm phát bắt đầu vào năm
1931 .Điều kiện được tồi tệ hơn trong khu vực nông nghiệp, giá cả hàng hóa giảm, và trong
khai thác mỏ và khai thác gỗ trong khu vực, nơi tỷ lệ thất nghiệp cao và có ít việc làm
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 19
khác. Sự suy giảm trongnền kinh tế Mỹ là yếu tố kéo xuống hầu hết các nước khác lúc đầu,
sau đó điểm yếu nội bộ hay sức mạnh ở mỗi nước điều kiện tồi tệ hơn hoặc tốt hơn .Đến
cuối năm 1930, một sự suy giảm ổn định trong nền kinh tế thế giới đã thiết lập.
Sản Xuất Nông Nghiệp: sản xuất công nghiệp của thếgiới trung bình giảm 38%,
riêng Mĩ giảm 46%, Đức chịu tốc độ âm 47%, riêng ở Mĩ đã có 13 vạn công ty bị phá sản.
Sản Xuất Công Nghiệp Mỹ (1928 – 1939)
Tài chính: hàng ngàn ngân hàng đóng cửa, riêng ở Mỹ có 5000 ngân hàng phá sản
chiếm 40% số ngân hàng thế giới.
Tình trạng thất nghiệp: Hàng chục triệu công nhân bị thất nghiệp. Ở Mỹ, năm
1929 có 3% thất nghiệp trong tổng số người lao động, đến năm 1933 đã lên tới 25%. Hàng
triệu nông dân bị phá sản, đời sống của những người lao động hết sức cùng cực.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 20
Tỉ lệ thất nghiệp Mỹ 1910 –1960 ( Đơn vị %)
3. Giải pháp của Mỹ:
Để cứu vãn tình hình, chính phủ các nước tư bản thi hành một số chính sách như
đánh thuế nhập cảng nặng để hạn chế hàng hoá nước ngoài vào, lấy tiền trong ngân quỹ
nhà nước trợ cấp cho các nhà tư bản. Ở Mỹ, ban đầu, các nhà hoạch định chính sách cố
gắng khôi phục lòng tin cho thị trường bằng các bài phát biểu trấn an người dân, tổng
thống Roosevelt làm yên lòng người Mỹ rằng kinh tế nước này vẫn tiến triển tốt.
Mọi thứ chỉ thay đổi sau khi tổng thống Franklin D Roosevelt lên làm tổng thống
năm 1932, chính phủ can thiệp vào để khởi động lại chương trình trợ cấp thất nghiệp cho
người dân, ổn định thị trường bằng cách hạn chế sản xuất, khuyến khích phát triển chương
trình an sinh xã hội. Tuy nhiên, chính quyền của ông Roosevelt không có nhiều thành công
trông hồi phục tăng trưởng kinh tế và lòng tin người tiêu dùng vẫn ở mức thấp. Cuộc Đại
Khủng Hoảng kéo dài bất chấp một loạt các biện pháp mới nhằm giảm nhẹ thiệt hại cho
người dân, cụ thể là cung cấp thêm việc làm mới, h trợ hay bảo vệ các khoản thế chấp. Mãi
đến đầu Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi chính phủ Mỹ áp dụng lý thuyết kinh tế học
Keynes với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng tiền lương (để tăng tổng cầu) và
vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, nền kinh tế mới hồi phục. Sản lượng
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 21
sản xuất tăng gấp đôi trong chiến tranh, tình trạng thất nghiệp biến mất khi phụ nữ và
người da đen được kêu gọi tham gia vào lực lượng lao động thay cho hàng triệu người đã
tham gia vào quân ngũ. Vào lúc đỉnh cao, chính phủ Mỹ đã vay nợ một nửa tiền cần thiết
để có tiền chi trả cho chiến tranh.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 22
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN Ở VIỆT NAM
I. GIẢM PHÁT:
1. Giai đoạn giảm phát (từ 1999 đến 2002):
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Chỉ tiêu
10
10
7
7.8
10
6
5
5
Thựchiện
12.7
4.5
3.6
9.0
0.1
-0.6
0.8
4
Đây là giai đoạn xu hướng lạm phát đổi chiều thành giảm phát.
Nếu như tỷ lệ lạm phát năm 1998 còn khá cao 9% thì sang các năm sau, con số
giảm dần xuống con 0.1% vào năm 1999, -0.6% năm 2000; 0.8 năm 2001. Năm 2002, nền
kinh tế có dấu hiệu phục hồi, chỉ số giá chung cho 10 tháng đầu năm tăng 3.4% so với
tháng 12/2001, tính đến cuối năm lạm phát ở mức 4% . Diễn biến lạm phát trong từng năm
đều có đặc điểm riêng mà chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu sau đây.
Từ tháng 3 đến 12/1999, tức là trong 8 tháng liên tục, chỉ số giá cả giảm. Tính riêng
từng mặt hàng, có ảnh hưởng quan trọng đến chỉ số giá cả ở VN thì giá lương thực sụt
giảm trong cả năm: chỉ số giá lương thực giảm 7.8% so với 12/1009, thậm chỉ giảm tới
10.5% ở thời điểm tháng 12/1999. Sự giảm sút giả lương thực là do được mùa lúa (sản
lượng lương thực quy thóc đạt mức cao chưa từng có ở nước ta: 33.8 triệu tấn) và giá gạo
xuất khẩu giảm 17.8% (so với 1998) dưới tác động của xu hướng đi xuống của giá gạo trên
thị trường thế giới.
Sang 2000, chỉ số giá liên tục giảm và tình trạng này kéo dài trong nhiều tháng ở
quý 2 và 3, một số tháng CPI có nhích lên nhưng không đáng kể. So với tháng 12/1999, chỉ
số giá giảm suốt từ tháng 3 cho đến tháng 12 và bình quân cả năm đã giảm 0.6%. Rõ rang
thiểu phát đã xảy ra với tốc độ 0.6% vào 2000. Giá hàng lương thực thực phẩm vẫn tiếp tục
giảm. Trong cả năm này, giá lương thực giảm 9.5% giá thực phẩm giảm 2.3% so với năm
1999. Tuy các hàng hóa khác đều có giá tăng từ 1% đến 3% nhưng do trọng số của nhóm
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 23
lương thực thực phẩm trong rổ hàng hóa để tính CPI lớn (gần 50%) nên chỉ số giá chung cả
năm bị kéo xuống thấp.
Đến 2001, giá cả khá ổn định. Chỉ số trượt giá tháng 12/2001 so với cùng kỳ năm
2000 là 100.8% hay tỷ lệ lạm phát của năm đó là 0.8%. Nền kinh tế đã trải qua 5 tháng chỉ
số giá tăng, 3 tháng chỉ số giá đứng và 4 tháng rơi vào thiểu phát. Tuy nhiên, biên độ dao
động của chỉ số giá qua các tháng rất nhỏ, chưa đến 0.5%/tháng (trừ tháng 12/2001, mức
giá chung tăng 1%). Trong năm 2001, giá hàng lương thực giảm mạnh, ở thời điểm tháng
6, 7/2001 chỉ bằng 94% so với tháng 12/2000. Với nhóm hàng thực phẩm, mặt bằng giá thị
trường qua các tháng đều ở mức xấp xỉ 100% so với tháng 12/2000. Đến cuối năm, nhất là
từ tháng 10, chỉ số giá của tất cả các nhóm hàng đều có xu hướng gia tăng mạnh mẽ. Vào
tháng 10/2001, chỉ số giá vàng tăng cao hơn tháng 12/2000 là 6%. Giá lương thực đặc biệt
tăng mạnh vào tháng 12, so với cùng kỳ tăng 6%.
Xu hướng giá cả trong 10 tháng đầu năm 2002 cho thấy thị trường nước ta không
còn tình trạng cung vượt cầu, giá cả liên tục giảm như vài ba năm vừa qua. Ngay từ những
tháng đầu năm, giá hàng lương thực, thực phẩm (đặc biệt là giá thực phẩm tươi sống) tăng
mạnh. Tốc độ trượt giá lương thực, thực phẩm qua 10 năm là 5.4%, riêng giá thực phẩm
(nhất là thịt lợn) tăng 8.6%. Giá cả các nhóm hàng khác không phải là lương thực thưc
phẩm tăng không đáng kể. Diễn biến tích cực của giá lương thực thực phẩm đã kéo theo
chỉ số giá tiêu dùng của 10 tháng đầu năm 2002 lên 103.4% hay tỷ lệ lạm phát là 3.4%.
Như vậy, trong gần 4 năm (1998-2002) , giá cả nói chung có chiều hướng giảm. Với
từng nhóm hàng có thể là hàng lương thực thực phẩm thường xuống giá mạnh còn các
hàng hóa khác lại tăng giá
1.1. Tác động đến nền kinh tế
a) Tác động đến sản lượng và hiệu quả đầu tư
Chỉ số giá tiêu dùng thấp phản ánh sức mua kém của xã hội. Điều này ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hàng hóa ế thừa, không tiêu thụ
được, sản xuất cầm chừng ở nhiều doanh nghiệp đã khiến cho 66% doanh nghiệp quốc
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 24
doanh bị lỗ, trong đó có tới 16% thua lỗ triền miên (tính đến giữa năm 2000). Tốc độ
tăng trưởng trung bình của giai đoạn 1999-2001 thấp hơn so với các giai đoạn trước
khoảng 2%.
Giai đoạn
Tăng trưởng GDP bình quân hàng năm
Ba năm đầu cải cách (1989 - 1991)
6,1%
10 năm đầu cải cách (1989 - 1998)
7,7%
Từ bắt đầu cải cách đến nay
7,1%
10 năm vừa qua (1992 - 2001)
7,5%
Ba năm vừa qua (1999 - 2001)
5,4%
B3. Tăng trưởng bình quân ở Việt Nam theo giai đoạn
Những biểu hiện cụ thể hơn của tình trạng suy giảm tốc độ tăng trưởng là hiệu
quả sử dụng vốn giảm và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Hệ số ICOR tăng nhanh: năm 1995
là 1,44 thì đến năm 2000 lên tới 3,48 và đến năm 2001 là 3,82. Điều này cũng có nghĩa là
để tăng được một đồng GDP phải bỏ ra nhiều vốn đầu tư hơn.
b) Tác động đến việc làm
Xét về tỷ lệ thất nghiệp năm 1999, tại Hà Nội, số người thất nghiệp so với tổng
dân số trong độ tuổi lao động là 10,3%, ở thành phố Hồ Chí Minh là 7,04%. Tính
chung cho khu vực thành thị thì tỷ lệ thất nghiệp trong hai năm 1999 và 2000 ở mức cao
hơn hẳn so với giai đoạn trước đó; với các con số tương ứng là 7,4% và 8,4%. Nếu xét
trên toàn quốc, số người trong độ tuổi lao động thất nghiệp là 1,45 triệu người. Điều này
một phần là do sự gia nhập lực lượng lao động của số người đến tuổi lao động (mỗi năm
chiếm 2,9% dân số), một phần xuất phát từ tình trạng làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả
nhiều doanh nghiệp trong điều kiện mức giá chung giảm, không kích thích sản xuất.
c) Tác động đến thị trườn g ngoạ i hối
Sự tăng giảm thất thường của tỷ lệ lạm phát trong những năm qua thể hiện sự thiếu
ổn định của giá trị đồng tiền và do đó người ta không tin tưởng vào giá trị đồng nội tệ,
dẫn đến hiện tượng đô-la hoá. Mức độ đô la hoá ở nước ta giai đoạn này là trên 30%, tỷ
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 25
lệ tiết kiệm ngoại tệ lên đến 40% tổng tiền gửi tại các ngân hàng; ngoài ra còn một
lượng USD khó xác định được trong dân chú ng và các tổ chức được dùng làm phương
tiện cất trữ. Hiện tượng này làm giảm tác dụng của các chính sách lãi suất, chính sách điều
hành tỷ giá hối đoái.
1.2. Nguyên nhân
Giá nông sản giảm giá mạnh
Giá lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long vào giữa năm 1998 là 2170 đồng/kg, năm
1999 là 1759 đồng/kg, đến năm 2000 chỉ còn 1300 đồng/kg. Giá các nông sản khác như
cà-phê, hạt điều.... cũng diễn biến tương tự. Giá 1 kg cà- phê niên vụ 1998 - 1999 là
22.700 đồng, sang niên vụ 1999 - 2000 và 2000 - 2001, giá tương ứng chỉ còn 9000 đồng
và 5000 - 8000 đồng.
Tỷ trọng hàng nông sản, đặc biệt là lương thực trong cơ cấu hàng hoá tính chỉ số
giá hàng tiêu dùng là lớn nên khi giá nông sản giảm mạnh thì chỉ số CPI cũng giảm đáng
kể.
Những bất cập về đầu tư
Cơ cấu đầu tư thời gian này đã không đe m lại hiệu quả cao. Trong chủ trương,
đường lối phát triển kinh tế, nông nghiệp được coi là mặt trận hàng đầu song khi thực
hiện, khu vực này chưa thực sự được ưu tiên đú ng mức. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đăng ký vào ngành nông nghiệp từ năm 1998 đến năm 1999 chỉ chiếm 3,6% tổng
vốn FDI, trong khi chỉ tiêu này đối với công nghiệp là 9,5%. Nếu như công nghiệp tăng
được xấp xỉ 2,7 lần thì nông nghiệp chỉ tăng khoảng 1,4 lần so với giai đoạn 1990-1998.
Hơn nữa, sau cơn bão tài chính - tiền tệ Châu Á (1997 -1998), nguồn vốn FDI đăng ký vào
nước ta giảm từ năm 1997 đến năm 1999, năm 2000 - 2001 tuy có tăng nhưng vẫ n thấp
hơn năm 1997 (năm 1997 là 2.768 triệu USD, năm 2000 là 1.900 triệu USD, sơ bộ năm
2001 là 2.100 triệu USD; ước tính 8 tháng đầu năm 2002 chỉ ở mức 1.450 triệu USD).
Về cơ chế, ch ín h s ách cũng như t rong quá t rìn h thực h iện đầu tư, v iệc
cấp vốn chưa thỏa đáng cơ chế th ị t rường nên vốn dễ b ị thất thoát lớn ; đô i
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 26
kh i cấp vốn mà kh ông xem xét h iệu quả của dự án đầu tư, quan hệ cung cầu
cũng như kh ả năng cung ứng nguyên liệu cho dự án .
Các nguyên nhân khác
Có thể kể ra nhiều lý do khác nữa dẫn đến tình trạng giảm phát vừa qua, như hiệu
ứng lan tỏa của suy thoái và giảm phát ở khu vực và thế giới, ảnh hưởng của sự phá giá
tiền tệ ở nhiều nước lân cân, mức thu nhập thấp của dân cư nông thôn.
2. Giai đoạn hiện tại (2011-3/2013):
Chỉ số CPI cả nước qua các tháng từ năm 2010- 2013
T 1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
2010 1,36% 1,96% 0,75% 0,14% 0,27% 0,22% 0,06% 0,23% 1,31% 1,05% 1,86% 1,98%
2011 1,74% 2,09% 2,17% 3,32% 2,21% 1,09% 1,17% 0,93% 0,82% 0,36% 0,39% 0,53%
2012 1,00% 1,37% 0,16% 0,05% 0,18% -0,26% -0,29% 0,63% 2,20% 0,85% 0,47% 0,27%
2013 1,25% 1,32% -0,19%
Trong giai đoạn từ 2003 đến nay lạm phát ở Việt Nam liên tục tăng và có nhiều biến
động. Việt Nam phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao nhưng không vì thế mà gạt bỏ nỗi
lo về giảm phát. Ta có thể xem xét cụ thể thực trạng qua các năm 2010-2013 như sau:
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 27
NĂM 2011:
Khởi đầu năm 2011, kinh tế vĩ mô trong nước phải đương đầu với những bất ổn lạm
phát, tỷ giá… vốn đã khởi phát từ giai đoạn trước đó.Nến kinh tế Việt Nam đang trải qua
thời kỳ khó khăn do các chính sách thắt chặt, lãi suất cho vay ra nền kinh tế ở mức 20-
22%; các ngân hàng không thiếu thanh khoản nhưng chưa sẵn sàng cho vay ra nền kinh tế
do chi phí vốn cao trong khi các doanh nghiệp lành mạnh không thể có lãi với chi phí lãi
vay quá cao; khoảng 30% doanh nghiệp đã bị phá sản; chính sách tài khóa không hẳn là
thắt chặt và do vậy chính sách tiền tệ sẽ vẫn được dùng là công cụ chính để điều tiết kinh
tế.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước các tháng đầu năm tăng liên tục lần lượt là
1.74%, 2.09%, 2.17%, 3.32% khá cao so với kỳ vọng. Lạm phát tiếp tục là thách thức đáng
kể nếu không có những biện pháp hữu hiệu để kiềm chế.
Cả CSTT và chính sách tài khóa đều được yêu cầu sử dụng triệt để các công cụ
chính sách nhằm ưu tiên kiềm chế lạm phát theo Nghị quyết 11/NQ-CP/2011 tháng 2/2011
với mục tiêu trung gian gồm dư nợ tín dụng tăng trưởng dưới 16%, M2 tăng dưới 20%.
NHNN đã triển khai các chính sách cụ thể nhằm đạt mục tiêu này, gồm:
-0.50%
0.00%
0.50%
1.00%
1.50%
2.00%
2.50%
3.00%
3.50%
4.00%
0 2 4 6 8 10 12 14
Tháng
CPI cả nước qua các tháng
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 28
(i) Yêu cầu các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với
mục tiêu tăng trưởng tín dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn
phát triển sản xuất kinh doanh, giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh
vực phi sản xuất trong tổng dư nợ xuống mức 22% đến 30/06/2011 và
16% đến 31/12/2011.
(ii) Lãi suất chiết khấu tăng từ 7%/năm lên 12->13%/năm, lãi suất tái cấp vốn
và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 10-
>11->12->13->14->15->16%/năm.
(iii) Nghiệp vụ thị trường mở thực hiện nghiệp vụ hút tiền ròng trong phần lớn
thời gian của năm 2011
(iv) Tuân thủ nghiêm ngặt giới hạn tín dụng trong toàn hệ thống ngân hàng với
các chế tài xử phạt nghiêm khắc của nội bộ từng ngân hàng.
(v) Xây dựng và triển khai chiến lược cấu trúc lại hệ thống ngân hàng từng
bước nhằm nâng cao tính hiệu quả, giảm mức độ rủi ro và cải thiện sức
mạnh cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Chủ trương này cũng nhằm giải
quyết tận gốc căn nguyên của tình trạng mặt bằng lãi suất cao (về phía
ngân hàng)
(vi) Triển khai đồng bộ các giải pháp đối với thị trường ngoại tệ, thị trường
vàng nhằm mục tiêu giảm sự di chuyển vốn lòng vòng giữa tài sản được
coi như tiền (money likes) - một trong các yếu tố gây áp lực lên lãi suất
nội tệ, triệt tiêu tác động của CSTT. Kết quả là mức tăng M2 và tín dụng
của cả năm 2011 đạt dưới 10% và trên 12%, thấp hơn nhiều so với mức
tăng trung bình của các năm trước. Ðây là mức thắt chặt thấp hơn đáng kể
so với mức tăng định hướng đã nêu trong Nghị quyết 11 nhằm hướng tới
giảm tổng cầu.
Tuy vậy, sự quyết liệt trong giảm tổng cầu từ phía CSTT đã không đạt được kết quả
mong muốn. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng đạt 5,89% thì tỷ lệ lạm phát vẫn tiếp tục
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 29
tăng tới mức kỷ lục gần 19% (mức tăng cao so với mục tiêu đã được điều chỉnh là
15% cho năm 2011). Các giải pháp cắt giảm chi tiêu công được đưa ra khá quyết liệt:
Không kéo dài thời gian giải ngân, không ứng trước kế hoạch năm 2012 vốn ngân sách và
trái phiếu chính phủ, giảm 32% vốn trái phiếu chính phủ, giảm 10% tín dụng đầu tư của nhà
nước. Yêu cầu cắt giảm đầu tư công theo tinh thần Nghị quyết 11 được coi là giải pháp
quyết liệt và cần thiết để kiềm chế lạm phát.
Đến quý 3/2011, lạm phát giảm tốc, chỉ số giá có giảm nhưng lạm phát vẫn ở mức
cao (chốt năm 2011 lạm phát 18.13%), thời điểm này vẫn chưa có vấn đề gì phải quá lo
ngại về vấn đề giảm phát.
NĂM 2012
Diễn biến CPI TP.HCM qua các tháng năm 2012
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 30
Diễn biến CPI Hà Nội qua các tháng năm 2012
Qua các biểu đồ trên ta thấy, CPI tháng 7/2012 ở Hà Nội tiếp tục giảm 0,29% so với
6/2012. So với cùng kỳ, chỉ số này chỉ còn tăng 4,64% - một con số rất thấp. Tính theo
tháng, năm 2012 CPI Hà Nội đã giảm 3 lần và tháng 7 có mức giảm mạnh nhất.
Trong khi đó, ở TP. Hồ Chí Minh, CPI tháng 7 tiếp tục giảm 0,57% so với tháng
6/2012 (tháng 6/2012 giảm 0,43%). So với tháng 7/2011 chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,3%. So
với tháng 12/2011, chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,47%.
Ngoài hai thành phố lớn còn nhiều tỉnh thành khác cũng giảm như: Đồng Nai (-
0,25%), Đà Nẵng (-0,21%), Long An (-0,06%). Theo đó, Sau 40 tháng liên tục tăng ở
ngưỡng dương, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 6 đã bắt đầu giảm phát với mức
âm 0,26% và là mức tăng thấp nhất so với các tháng 6 kể từ năm 2003 trở lại đây, đến
tháng 7/2012 giảm 0.29% đây là tháng thứ 2 có sự giảm liên tục trong năm 2012.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 31
Đây là biểu hiện ban đầu của giảm phát, là cơ sở để dự báo tình trạng nền kinh tế.
Tuy nhiên chỉ có thể khẳng định nền kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát khi chỉ số CPI
giảm liên tục trong nhiều tháng, thông thường là 3 tháng.
Nguyên nhân:
Một là do 3 nhóm hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn nhất gồm dịch vụ ăn uống (chiếm
gần 40%); nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (chiếm trên 10%); giao thông
(gần 9%) đều có mức giảm rõ rệt, giá xăng dầu được điều chỉnh giảm 4 lần liên tiếp với
tổng mức giảm giá là 2.600 đồng/lít so với thời điểm cuối tháng 4 đã kéo nhóm giao thông
giảm tới 1,64%; nhóm nhà ở - điện nước - chất đốt và vật liệu xây dựng giảm tới 1,21%;
nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,23%; nhóm văn hóa - giải trí - du lịch cũng giảm
tới 0,27%;
Hai là do chính sách thặt chặt trước đó (2010-2011)
Bên cạnh đó, do ngân sách eo hẹp, do thu nhập của người lao động giảm, thất
nghiệp gia tăng...
CPI giảm sẽ tạo một dư địa chính sách để Chính phủ có điều kiện để giảm lãi suất
huy động và cho vay, đẩy mạnh bơm tiền vào nền kinh tế đồng thời, có điều kiện áp dụng
các chính sách và các giải pháp cơ bản khác như: đẩy mạnh xây dựng cơ bản, giải ngân
ODA và có điều kiện để làm giảm bớt sự đình trệ của thị trường bất động sản và các thị
trường khác. Thực tế là đã chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát sang thúc đẩy phục
hồi kinh tế, sử dụng CSTT cho năm 2012. Tiêu biểu là thông qua ba lần cắt giảm lãi suất
300 điểm liên tiếp, đưa mức trần lãi suất xuống 11% từ 25/5/2012, liên tiếp hạ lãi suất chỉ
đạo, áp trần lãi suất 15%/năm rồi giảm xuống 14%/năm cho 4 khu vực ưu tiên, cơ cấu lại
nợ, giảm và hoãn thuế, gia hạn nộp thuế cũng được sử dụng. Theo đó, những người vững
tin thì cho rằng, CPI giảm là dấu hiệu tốt.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, một số nhà đầu tư lo ngại việc bơm tiền ào ạt ra lúc
này sẽ khiến lạm phát có thể quay trở lại. Hơn thế, những nỗ lực cơ cấu lại kinh tế suốt 2
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 32
năm qua có thể sẽ trở thành hư vô. Theo họ, việc điều hành cách chính sách kinh tế cần
mượt mà hơn, tránh lúc thắt chặt quá rồi lại bung ra nhanh quá. Và để làm được điều này
thì các dự báo chính xác của các cơ quan chức năng cần thiết hơn bao giờ hết.
NĂM 2013:
Cụ thể, tại Thủ đô Hà Nội, CPI 3/2013 giảm 0,21% so với tháng 2/2013 và tăng
5,7% so cùng kỳ. Theo lý giải của Cục Thống kê Hà Nội, điều này là hợp với quy luật khi
cứ thời điểm sau Tết Nguyên đán hàng năm, giá lương thực thực phẩm ổn định, dần quay
lại mức giá như thời điểm trước Tết, khiến cho chỉ số giá nhóm thực phẩm giảm (giảm
1,36% so tháng trước). Đây cũng là nhóm hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn nhất trong rổ tính
giá.
Quí I năm nay, giá gạo trên thị trường khá ổn định kể cả thời điểm trước, trong và
sau Tết. Nguyên nhân, do nguồn cung dồi dào và có sự chỉ đạo của thành phố về bình ổn
giá. Giá các loại thịt gia cầm như vịt, ngan giảm nhẹ, giá gia cẩm khác như gà ta, gà công
nghiệp giảm mạnh. Giá các loại rau tại Hà Nội giảm mạnh do thời tiết thuận lợi, rau sinh
trưởng tốt, nên nguồn cung dồi dào. Tháng này nhóm ăn uống ngoài gia đình đã ổn định
hơn do lương thực và thực phẩm giữ giá.
Các nhóm khác có chỉ số tăng nhưng mức tăng không đáng kể. Một số mặt hàng
như quần áo, giầy dép giá đã ổn định hơn do đang trong giai đoạn chuyển mùa. Các mặt
hàng khác như bát đĩa, xà phòng và một số đồ dùng gia đình thiết yếu khác tăng nhẹ.
Một nguyên nhân đáng kể khác là từ 1/3, giá gas trong nước đồng loạt giảm.
Ngoài rổ tính giá, chỉ số giá vàng tháng này giảm 1,38% và chỉ số giá USD tăng
0,42% so với tháng trước.
Như vậy, với mức tăng CPI tháng 1 là 0,95%, tháng 2 là 1,3% và tháng 3 giảm
0,21%, sau 3 tháng, CPI của Hà Nội đã tăng 2,04% so đầu năm, đưa mức tăng bình quân
quý I năm 2013 so cùng kỳ là 6,03%.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 33
Tại TPHCM, CPI tháng 3 giảm 0,29% so với tháng trước. Trong 11 nhóm hàng có
6 nhóm hàng có mức giá giảm là nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (-0,62%); nhóm hàng
lương thực, thực phẩm (-0,6%); nhóm đồ uống và thuốc lá (- 0,35%); nhóm giao thông (-
0,34%); nhóm văn hóa - giải trí - du lịch (-0,47%).
Chỉ có 2 nhóm có mức giá tăng là nhóm nhà ở, điện nước và chất đốt (tăng 0,38%)
và nhóm thiết bị đồ dùng gia đình (tăng 0,07%).
Giá hàng lương thực giảm do hiện nay lượng hàng cung cho xuất khẩu bị hạn chế,
lúa hàng hóa còn tồn động trong dân cần phải tiêu thụ nhiều lớn. Giá hàng thực phẩm giảm
do mức tiêu thụ trên thị trường đã trở về mức trung bình trong năm, nhưng nhìn chung vẫn
còn ở mức cao so với đầu năm và cùng kỳ năm trước.
So với tháng 3/2012, chỉ số CPI vẫn tăng 2,85% nhưng là tháng có mức tăng so với
cùng kỳ thấp nhất tính từ năm 2003 đến nay. Còn nếu so với tháng 12 năm ngoái thì chỉ số
giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng 1,15%.
Không nằm trong rổ tính giá, giá vàng giảm 2,94% so với tháng trước, giảm 1,1 %
so với tháng 3/2012. Chỉ số giá USD tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 1,65% so với
tháng 3/2012.
Với diễn biến giá tại hai trung tâm kinh tế lớn nhất nước trong trạng thái giảm phát,
CPI cả nước tháng 1 tăng 1.25%, tháng 2 tăng 1.32%, tháng 3 giảm 0.19%. Đây là điều
kiện để giảm lãi suất huy động và cũng là cơ sở để hạ lãi suất cho vay.
II. BẪY THANH KHOẢN:
Trong thời gian qua đã có một số ý kiến lo ngại về việc Việt Nam có bị bẫy thanh
khoản. Vì để giải quyết tình trạng mất thanh khoản của hệ thống trong giai đoạn cuối 2011,
NHNN đã bơm lượng tiền khổng lồ vào hệ thống. Tuy nhiên, tín dụng vẫn trong tình trạng
đóng băng, lãi suất cho vay không hạ ngay cả khi lãi suất liên ngân hàng, lãi suất huy động
và lãi suất chính sách giảm mạnh. NHNN đã phải dùng các biện pháp hành chính để ép các
NHTM giảm lãi suất cho vay, nhưng tình hình vẫn chưa có những biến chuyển rõ rệt.
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 34
Khác với thời gian trước đây, tín dụng tăng trưởng thấp do thanh khoản của hệ
thống ngân hàng gặp khó khăn và mặt bằng lãi suất cao. Hiện, thanh khoản của hệ thống
rất dồi dào. Thậm chí nhiều NHTM còn thừa vốn khả dụng nên đẩy mạnh mua vào trái
phiếu Chính phủ và tín phiếu NHNN, đẩy lãi suất trái phiếu Chính phủ và tín phiếu NHNN
giảm mạnh. Mặt bằng lãi suất cũng giảm mạnh sau nhiều giải pháp của NHNN. Thời gian
qua, các NHTM cũng liên tục giảm lãi suất cho vay, song tín dụng vẫn không thể tăng
trưởng. Thậm chí ngay cả những gói tín dụng với lãi suất rất ưu đãi, mà các NHTM triển
khai thời gian qua cũng chưa giải ngân được hết. Đơn cử như Eximbank, trước khi NHNN
áp trần lãi suất cho vay 15%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên, ngân hàng này đã có một gói
tín dụng 1.500 tỷ đồng dành cho doanh nghiệp thu mua lương thực, với lãi suất ưu đãi
14%/năm, nhưng cho đến giờ chỉ mới giải ngân được 600 tỷ đồng; các gói vay khác có lãi
suất dao động từ 13,5-15%/năm cũng đã được triển khai nhưng doanh nghiệp vẫn không
mặn mà.
Tuy nhiên vấn đề của Việt Nam chủ yếu lại nằm ở khu vực sản xuất, với đặc trưng
là khu vực doanh nghiệp nhà nước và đầu tư công kém hiệu quả, không tạo ra được hàng
hoá có mức giá cạnh tranh.
Chi tiêu của người dân trong thời gian vừa qua giảm chủ yếu là do lãi suất cao,
khiến người dân có xu hướng gửi tiết kiệm nhiều hơn. Tuy nhiên, khi lãi suất huy động có
xu hướng giảm thì tốc độ tiêu dùng đã tăng trở lại.
Tiêu dùng của Việt Nam đang trở lại xu hướng tăng cho thấy tiềm năng tiêu dùng
của Việt Nam rất lớn. Việt Nam có một thị trường tín dụng "đen" rộng lớn và tỷ lệ sử dụng
tiền mặt cao, khoảng 12 – 13% so với tổng huy động. Ngoài ra, nguồn vàng và USD ngoài
hệ thống luôn là một ẩn số. Vì thế, nếu như bị kích thích, tiêu dùng có thể bật tăng mạnh
bất cứ lúc nào.
Khi lãi suất tiết kiệm hạ nhanh, sức hút với việc sinh lời từ tiết kiệm không còn, một
phần tiền tiết kiệm sẽ nhiều khả năng dành cho các cơ hội chi tiêu khác.
Đặc biệt, các NHTM Việt Nam do khó khăn trong việc đẩy mạnh cho vay vào lĩnh
vực sản xuất đang tìm giải pháp ở phía người tiêu dùng, thậm chí còn khuếch đại sức mua
mạnh hơn. Có thể thấy rất nhiều các sản phẩm cho vay tiêu dùng đang được thiết kế để thu
GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN 2013
NHÓM 13 – LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Page 35
hút khách hàng. ACB đang triển khai chương trình “Gắn bó dài lâu” dành cho khách hàng
cá nhân sử dụng các bó sản phẩm tín dụng “Hỗ trợ an cư trọn gói” hoặc “Hỗ trợ kinh doanh
trọn gói”. Eximbank đẩy mạnh hoạt động thẻ tín dụng Master card ngập tràn ưu đãi. Hay
VP với sản phẩm thấu chi tiêu dùng…
Như vậy có thể thấy rõ sự khác biệt của Việt Nam như sau:
(1) Việt Nam trong giai đoạn vừa qua không có định hướng tăng cung tiền để tăng
GDP và việc làm mà mục tiêu chính của giai đoạn vừa qua chủ yếu là để đảm bảo thanh
khoản cho các NHTM. Do vậy không thể gọi là dính bẫy được vì thiếu yếu tố đầu tiên.
(2) Nền kinh tế các nước Phương Tây phụ thuộc chủ yếu vào tiêu dùng đặc biệt là
tiêu dùng tư nhân do năng lực sản xuất dư thừa. Người dân các nước Phương Tây chủ yếu
tiêu dùng bằng tín dụng (Tiêu dùng trước trả nợ sau), do vậy khi nền kinh tế suy thoái,
nguy cơ thất nghiệp tăng cao thì người dân tại các nước này có xu hướng phòng thủ chứ
không tăng tiêu dùng. Trong khi đó, vấn đề của Việt Nam phải đối mặt là các khoản đầu tư
công không hiệu quả, việc chi tiêu quá mức vào các hàng hóa xa xỉ, hàng lâu bền được trả
góp và điều này đã đẩy lạm phát tăng cao trong khi lãi suất danh nghĩa lại không tăng
tương ứng khiến lãi suất thực là số âm. Lãi suất thực âm làm cho các tài sản tài chính, tài
sản thực trở nên kém hấp dẫn khiến các nhà đầu tư chuyển sang nắm giữ các tài sản như
vàng, bất động sản, ngoại tệ mạnh. Với việc thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ thặt chặt
trong hơn 1 năm qua vừa qua đã giúp lạm phát quay trở lại mức 1 con số và lãi suất thực đã
dương trở lại. Việc lạm phát giảm là do sự cắt giảm tổng cầu: (i) Lãi suất danh nghĩa cao
đã cắt giảm đầu tư công kém hiệu quả. (ii) Cắt giảm chi tiêu hàng hóa xa xỉ. (iii) Cắt giảm
hoạt động đầu cơ vào các lĩnh vực bất động sản, vàng, ngoại tệ… Vì vậy, việc tăng trưởng
giảm trong ngắn hạn do mức cầu giảm chứ không phải do tổng cung suy sụp. Như vậy, với
việc lạm phát ổn định ở mặt bằng thấp như thời gian qua và lãi suất giảm xuống thấp hơn
chỉ số ROIC thì lúc đó sức tăng trưởng sẽ bắt đầu hồi phục sẽ phục hồi trở lại khi đầu tư tư
nhân sẽ được mở rộng.
Tóm lại, các biểu hiện của nền kinh tế Việt Nam rõ ràng không phải là một quốc gia
rơi vào tình trạng bẫy thanh khoản.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ktvm_nhom_13_giam_phat_va_bay_thanh_khoan_final_v1_0_3738.pdf