Cần khẳng định rằng, trong bức tranh chung của quan hệ Việt - Mỹ từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay đã có những nết chấm phá sinh động mới về mặt chính trị, xã hội. Nhất là trước đây Việt Nam và Mỹ đã từng là kẻ thù của nhau, 2 nước đã có 1 thời ở hai bên chiến tuyến của một cuộc chiến tranh, giờ đây đã đồng ý khép lại quá khứ, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau, mở trang sử mới hợp tác cùng phát triển.
Tuy nhiên, thời gian qua mới chỉ là quá trình bước đầu hàn gắn vết thương chiến tranh, vượt qua những hận thù do quá khứ để lại, vừa là quá trình đặt nền móng cho mối quan hệ hợp tác lâu bền trong tương lai.
Rồi đây, nhiều cơ hội mới sẽ được mở ra và thách thức mới cũng sẽ xuất hiện, 2 nước cần có nhiều hoạt động tích cực hơn nữa nhằm thúc đẩy tiến trình bình thường hoá quan hệ đầy đủ.
Và điều cuối cùng có thể khẳng định qua quá trình nghiên cứu quan hệ ngoại giao giữa 2 nước dù là tích cực hay tiêu cực, là thù địch hay hợp tác, đều có những nhân tố chủ yếu của thời đại, chính sách đối ngoại của mỗi nước quy định, đều bị chi phối bởi lợi ích quốc gia. Đây cũng là điều quan trọng cho mỗi nước khi hoạch định chính sách đối ngoại, nghiên cứu và đánh giá các mối quan hệ quốc tế.
48 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 5021 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hai mươi năm quan hệ ngoại giao Việt – Mĩ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong 23 năm (1948-1971), trong khi chỉ tăng 10 lần trong 100 năm trước đó (1850-1948). Thương mại thế giới tăng nhanh hơn sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến những năm 70, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới là 5,9%, nhưng tốc độ phát triển của thương mại thế giới từ 1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng lên.
Ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là những nước có nền kinh tế phát triển nhất. 24 nước công nghiệp phát triển của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm 14,5% dân số thế giới, nhưng sản xuất ra 71,4% tổng sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất khẩu thế giới. Ngoại thương chiếm từ 40-60% tổng sản phẩm của các nước Tây Âu.
Cuộc cách mạng về liên lạc viễn thông với những máy tính, vệ tinh viễn thông, sợi quang học và việc vận chuyển cực nhanh của điện tử đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đã hình thành một hệ thống liên lạc toàn cầu. Tốc độ thông tin toàn cầu được tăng lên hàng triệu lần. Không có hệ thống này thì không thể ra đời những công ty xuyên quốc gia và không thể có cuộc cách mạng về tài chính trên thế giới.
2.1.4. Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ do quá trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới.
Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập nhau càng thúc đẩy nền kinh tế thế giới trở thành toàn cầu hóa
Ngày nay hầu như ở khắp các lục địa, khu vực đều có các tổ chức liên minh kinh tế với những quy mô lớn, nhỏ khác nhau. ở châu Âu, lớn nhất là Thị trường chung châu Âu hình thành từ 1975. Tháng 12/1992 Hiệp định Mastricht thành lập Liên minh châu Âu (EU), thành lập liên minh kinh tế và quyết định thống nhất về tiền tệ và phát hành đồng tiền chung EURO vào tháng 1/1999. 24 nước công nghiệp phát triển thành lập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD vào tháng 12/1960 và nay bao gồm 29 nước. ở châu Mỹ, năm 1994 thành lập Thị trường tự do thương mại Bắc Mỹ (Mỹ, Canađa, Mêhicô) và đang mở rộng cả châu Mỹ thành một thị trường tự do. Trước đó, năm 1975 các nước Mỹ La tinh thành lập Tổ chức hệ thống kinh tế Mỹ La tinh (SELA) với 26 nước thành viên nhằm phối hợp các kế hoạch phát triển, tạo điều kiện cho những quá trình liên kết và trao đổi thông tin giữa các nước. ở Đông Nam Á, tổ chức ASEAN được thành lập năm 1967, đã trở thành ASEAN - 10 và hình thành một khu vực thương mại tự do (ASEAN-AFTA) trong vòng 15 năm. Năm 1985, bảy nước ở Nam Á và Ấn Độ, Pakixtan, Băngla Đét, Nêpan, Sri Lanca, Butan và Cộng hòa Manđivơ thành lập Hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) với mục tiêu là góp phần phát triển kinh tế và văn hóa, tiến bộ xã hội ở Nam Á thông qua sự hợp tác nhiều bên
Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác và hội nhập vào nền kinh tế thế giới có khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo là rất lớn dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các nước. Những nước nghèo và kém phát triển sẽ bị cạnh tranh trong tình trạng bất bình đẳng bởi các nước giàu có vốn, khoa học kỹ thuật cao sẽ luôn đặt ra những điều kiện khắt khe khi hợp tác kinh tế mà với khả năng của mình các nước nghèo chưa thể đáp ứng được. Do vậy vấn đề đặt ra là các nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta phải làm thế nào để vượt qua những thách thức mà lại tận dụng được các mặt lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu mới của khoa học công nghệ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công.
Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh đã khiến toàn thế giới coi trọng, đó là sự phát triển năng động của nền kinh tế khu vực này với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Điều đó không phải là vấn đề mới mà nó đã có ngay từ những năm khi chiến tranh lạnh ở đỉnh cao nhất. Bắt đầu là "sự thần kỳ" của Nhật Bản vào cuối thập niên 60 và sự xuất hiện của 4 con rồng Châu Á vào cuối thập niên 70, sau đó là Thái Lan, Malaysia,...
Năm 1989, ở châu Á - Thái Bình Dương cũng đã hình thành khu vực hợp tác kinh tế APEC gồm 21 nước (thuộc Đông Bắc Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Thái Bình Dương và ASEAN). Tháng 3/1996 Hội nghị cấp cao châu Âu và châu Á (ASEM) gồm 25 nước ở châu Âu và châu Á cộng thêm Uỷ viên Ban châu Âu (EU) lần đầu tiên nhóm họp nhằm liên kết kinh tế hai khu vực lớn trên thế giới .
Điều mới cần nói ở đây là sau chiến tranh lạnh, kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương vẫn giữ được đà phát triển ngoạn mục đó không chỉ với các nước đi theo nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà cả đối với những nước trước đây vốn có nền kinh tế tập trung bao cấp và nay chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá vai trò của Châu Á - Thái Bình Dương và giúp cho các nước có cơ sở khách quan trong việc hoạch định chiến lược phát triển của mình trong những thập kỷ tới.
2.2. LỢI ÍCH CỦA HAI BÊN KHI THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO
Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước tiến dài khác xa so với trước nhờ một phần sự tác động của đặc điểm, xu thế của thế giới, một phần cũng là do lợi ích chiến lược của mỗi nước cùng với sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ kết hợp với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa của Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước được khai thông.
2.2.1. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Với một siêu cường như Mỹ muốn nắm giữ vai trò "Người lãnh đạo thế giới" thì cần phải có sự điều chỉnh chiến lược và sách lược của mình cho phù hợp với tình hình thế giới.
Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, người có tham vọng để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay cho chiến lược "ngăn chặn" của thời kỳ chiến tranh lạnh, đó là chiến lược "mở rộng dân chủ" của Bill Clintơn. Ngày 27/19/1993 trong diễn đàn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc nói rõ: "Trong chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe doạ đối với sự sống còn của các thể chế tự do,... giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó".
Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như thế nào là còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ cho rằng đây là khu vực sẽ đem lại lợi ích cho nước Mỹ và Mỹ đã đặt khu vực này vào vị trí ưu tiên ngang hàng với Châu Âu. Bởi lẽ, Châu Á Thái Bình Dương là một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động của thế giới. "Trong thập kỷ này, hơn 60% của sự phát triển kinh tế thế giới là từ Châu Á, khu vực chiếm hơn 1/2 dân số thế giới". Với tổng số 13.400 tỷ USD, Châu Á - Thái Bình Dương chiếm 54% GDP của thế giới, và do vậy, khu vực này có vị trí ngày càng quan trọng đối với các nước lớn trong đó có Mỹ. Đặc biệt đây cũng là khu vực bao gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ phải quan tâm và kiêng nể như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc.
Với Nga, trước đây là đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh, hai nước từng tranh giành vị trí, ảnh hưởng với nhau. Giờ đây, khi Liên Xô mất đi thì vị thế của Nga thay vào đó không còn nguyên vẹn như xưa nhưng tiềm lực về quân sự của Nga vẫn là điều mà Mỹ đáng quan tâm.
Với Trung Quốc, là một nước có dân số đông nhất thế giới, là thị trường tiêu thụ hàng hoá đầy tiềm năng. Thêm vào đó, Trung Quốc lại đang hiện đại hoá quân đội, phổ biến vũ khí hạt nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là điều mà Mỹ lo ngại và Mỹ đã điều chỉnh lại chính sách đối với Trung Quốc. Từ chỗ xem Trung Quốc là "là con bài" là "đồng minh thực tế" trong việc ngăn chặn và kìm chế Liên Xô sang thành một đối thủ. Đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ về hoạch định một chính sách mới đối với Trung Quốc trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh này. Nhưng thực tế thì Mỹ đã thi hành chiến lược kép đối với Trung Quốc. Tức là vừa dính líu vừa kìm chế, Trung Quốc luôn bị coi là vật cản trong bước đường tiến đến chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ về việc Trung Quốc hợp nhất với Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một Đại Trung Hoa, điều đó sẽ thách thức đối với vai trò vị thế của Mỹ ở khu vực. Do vậy, Mỹ cố gắng củng cố vị trí của mình ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bất cứ cường quốc nào nổi lên thách thức vai trò vị trí ảnh hưởng ấy, thực hiện "diễn biến hoà bình" với các nước XHCN còn lại.
Đối với các nước Đông Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng thẳng, chia rẽ các quốc gia sang lôi kéo, thu hút tăng cường ảnh hưởng của Mỹ với các quốc gia ở khu vực này.
Qua phân tích chính sách của Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta thấy mục tiêu của Mỹ khi quan hệ với Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu chung trong chiến lược toàn cầu hay chính sách với Đông Nam Á của siêu cường này. Một trong những mục tiêu Mỹ hướng tới khi quyết định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là muốn thu hút, lôi kéo Việt Nam lại gần Mỹ và tách Việt Nam ra khỏi các đối tác truyền thống. Tuy nhiên, để đi đến bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, trong Quốc hội Mỹ còn có nhiều tranh luận gay gắt và nó đã chi phối phần lớn chính sách của Mỹ trong suốt 20 năm qua.
Việc Mỹ thiết lập quan hệ với Việt Nam còn để làm nguôi ngoai nỗi đau của người dân Mỹ và trong tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam Tổng thống Bill Clintơn đã nói "Bước đi này sẽ giúp đất nước chúng ta tiến lên phía trước về một vấn đề chia rẽ người Mỹ với nhau quá lâu rồi. Chúng ta hãy hướng về tương lai, chúng ta có quá nhiều việc phải làm ở phía trước. Đây là lúc tạo cho chúng ta cơ hội để hàn gắn các vết thương của chúng ta. Những vết thương này đã không chịu lành quá lâu rồi. Giờ đây chúng ta có thể tiến tới một cơ sở chung, bất kể những gì đã chia rẽ chúng ta trước đây, chúng ta hãy xếp vào quá khứ, hãy để giây phút này, theo từ của kinh thánh là một thời điểm để kiến tạo".
Mỹ mong muốn sự hợp tác với Việt Nam để giải quyết vấn đề POW-MIA, vấn đề về tù binh chiến tranh và quân nhân Mỹ mất tích. Đây là điều kiện Mỹ đặt hàng đầu để quan hệ với Việt Nam cũng là để giải quyết "Hội chứng Việt Nam" trong lòng dân Mỹ. Thêm vào đó, những người quan tâm đến Việt Nam đánh giá Việt Nam có vai trò quan trọng ở Đông Dương và Đông Nam Á vì nếu xét về diện tích là nhỏ nhưng vị trí lại rất quan trọng. Việt Nam nằm án ngữ con đường biển huyết mạch từ Bắc Á xuống Đông Nam Á và Ấn Độ Dương. Việt Nam còn có cảng Cam Ranh là căn cứ quân sự chiến lược trong khu vực. Việt Nam tuy diện tích nhỏ nhưng có tiềm năng lớn, dân số đông, có trình độ dân trí cao, tài nguyên thiên nhiên phong phú, hứa hẹn nhiều khả năng hợp tác và đầu tư. Cộng thêm chiến lược "mở rộng dân chủ" nhằm làm thay đổi chế độ - chính trị xã hội của Việt Nam, Mỹ cho rằng, việc xoá bỏ cấm vận giúp Việt Nam phát triển kinh tế là nhằm đưa Việt Nam vào vòng ảnh hưởng chi phối của Mỹ, xoá bỏ thù hận của người dân Việt Nam đối với Mỹ từ đó thực hiện dễ dàng diễn biến hoà bình ở Việt Nam.
2.2.2. Lợi ích của Việt Nam khi quan hệ với Mỹ
Năm 1991, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra đường lối: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Sự điều chỉnh chính sách và đường lối đối ngoại đã đem lại cho Việt Nam những thành tựu to lớn về kinh tế và mở rộng quan hệ với nhiều nước, thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc phát triển quan hệ với các nước lớn đã được đưa ra trong đường lối chiến lược phát triển của Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ là nhân tố quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình, từng bước có sự điều chỉnh chiến lược để làm thay đổi thái độ, lập trường của Mỹ với Việt Nam. Với phương châm: "Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai". Việt Nam đã làm hết sức mình để khép lại quá khứ của cuộc chiến tranh tàn khốc để cùng Mỹ hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn trong quan hệ.
Bằng sự cố gắng của mình, Việt Nam đã tích cực giải quyết vấn đề POW-MIA về những quân nhân Mỹ bị mất tích và chết trong chiến tranh Việt Nam và thành công trong việc tìm ra giải pháp cho vấn đề Campuchia mà kết quả là Hiệp định Paris về vấn đề Campuchia ra đời ngày 23/10/1991 đã gỡ bỏ dần những áp đặt được đưa ra trong lộ trình bốn giai đoạn của Mỹ. Những cố gắng của Việt Nam cùng sự ủng hộ của Mỹ đã làm xoay chuyển được cục diện quan hệ Việt Nam và Mỹ theo chiều hướng tốt đẹp. Vì chính Mỹ cũng hiểu rằng: nếu tiếp tục đối đầu sẽ không có lợi mà Việt Nam và Mỹ phải tìm cách cải thiện quan hệ thì các quan hệ khác mới được thúc đẩy và đem lại lợi ích cho cả 2 nước. Về phía Việt Nam, mục tiêu chiến lược của Việt Nam đề ra trong quan hệ với Mỹ là đạt được những vấn đề sau:
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam có điều kiện hối thúc Mỹ giúp đỡ để giải quyết những hậu quả chiến tranh do Mỹ để lại. Bên cạnh đó, Việt Nam và Mỹ sẽ cùng hợp tác để giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn đọng trong công tác POW/MIA.
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam sẽ củng cố và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc cải thiện quan hệ với các nước khác và khai thông quan hệ với các tổ chức, thể chế tài chính, kinh tế thương mại khu vực cũng như toàn cầu, giúp Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.
Bình thường hoá quan hệ với Mỹ sẽ tạo điều kiện cho ta khả năng tận dụng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của Mỹ, các doanh nghiệp của Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm ở một nước phát triển cao như Mỹ, tạo môi trường thuận lợi cho việc hợp tác, đầu tư, trao đổi kinh tế, thương mại. Điều này hỗ trợ trực tiếp cho Việt Nam thoát khỏi nguy cơ tụt hậu và giúp Việt Nam thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Cuối cùng, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa 2 nước sẽ mở đường cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế đặc miễn dành cho một nước đang phát triển (GSP). Theo đó Việt Nam sẽ được phép xuất khẩu sang Mỹ với chế độ thuế quan rất thấp, hoặc không phải chịu thuế. Điều này sẽ giúp cho việc phát triển kinh tế của Việt Nam được thuận lợi.
2.3. QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ
Sự chấm dứt chiến tranh Lạnh đã tạo ra khuôn khổ mới cho quan hệ quốc tế song phương và đa phương, trong đó có quan hệ Việt – Mỹ. Từ nhu cầu bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, tháng 4 năm 1991, phía Mỹ đưa ra Bản lộ trình (Roadmap) bốn giai đoạn để hai bên thực hiện. Nội dung của bản lộ trình này gắn liền với việc giải quyết “vấn đề Campuchia” và POW/MIA (prisoner of war/missing in action) cũng như từng bước Mỹ nới lỏng việc bao vây cấm vận Việt Nam. Tuy nhiên, đã đến lúc chính sách cấm vận Việt Nam của Mỹ trở nên lỗi thời bởi sức ép của quốc tế cũng như của giới kinh doanh trong nước muốn làm ăn với Việt Nam; đặc biệt, khi Nhật Bản – một đồng minh thân cận của Mỹ đã đơn phương nối lại viện trợ cho Việt Nam từ đầu năm 1992 sau mười bốn năm gián đoạn bởi “vấn đề Campuchia”.
Tháng 1/1993, từ khi bước vào Nhà trắng, tổng thống Mỹ Bill Clinton đã thúc đẩy nhanh hơn tiến trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ông lần lượt tuyên bố (vào tháng 7/1993) rằng, Mỹ không còn phản đối việc các nước trong cộng đồng quốc tế hỗ trợ Việt Nam trả nợ IMF (Qũy Tiền tệ Quốc tế) các khoản nợ quá hạn; Mỹ sẽ nới lỏng thêm lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam ( tháng 9/1993), chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và đồng ý mở cơ quan liên lạc giữa hai nước (tháng 2/1994). Những động thái trên đây của chính phủ Mỹ, kết cục phải dẫn đến việc xây dựng quan hệ bình thường, hợp tác giữa hai nước sau chiến tranh.
Ngày 11/7/1995 tổng thống Bill Clinton đã tuyên bố Mỹ chính thức bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, và nâng cấp Văn phòng Liên lạc thành tòa đại sứ đặt tại Hà Nội. Việt Nam đặt tòa đại sứ ở washington, một tòa tổng lãnh sự quán tại San Francisco (tiểu bang Califomia) một tại Houston (tiểu bang Texas) và một tại thành phố New York (tiểu bang bang New York). Hoa kì có một tòa tổng lãnh sự tại Thành phố Hồ Chí Minh và dự kiến mở thêm một tòa tổng lãnh sự ở Đà Nẵng.
Phía Việt Nam cho rằng, quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Mĩ là một quyết định quan trọng “phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á cũng như trên thế giới”. Quyết định này cũng phản ánh nguyện vọng của đông đảo người dân Mỹ muốn quên đi “hội chứng chiến tranh Việt Nam”, chấm dứt những bất đồng chia rẽ trong xã hội Mỹ.
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ. Ngoại giao Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở nên sâu và đa dạng hơn. Hai nước đã thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực. Họ ký kết Hiệp định Thương mại song phương vào tháng 7 năm 2002, bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Tháng 11, 2007, Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế Quan hệ thương mại Bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.
Không chỉ trong lĩnh vực chính trị-ngoại giao, kinh tế-thương mại, hợp tác song phương này được mở rộng cả trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ
2.4. NHỮNG NỖI BẬT SAU KHI BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ
2.4.1. Về chính trị - ngoại giao:
Kể từ khi bình thường hoá đến nay, 2 nước đã tăng cường trao đổi các đoàn quan chức chính phủ, các nghị sĩ quốc hội, tận dụng cơ hội để tiếp xúc với nhau ở các diễn đàn, tổ chức khu vực cũng như quốc tế. Bước đi tiếp theo của quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao là chuyến viếng thăm Việt Nam của ngoại trưởng Mỹ W. Christopher từ ngày 5-7/8/1995; cho thấy người Mỹ đã nghĩ về Việt Nam với tư cách là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến tranh. Sứ mệnh quan trọng của ông W. Christopher trong chuyến công du này là chủ trì lễ khai trương tòa đại sứ Mỹ tại Hà nội và bàn bạc với phía Việt Nam vấn đề POW/MIA.
Trong thời gian nhiệm kỳ hai (1997 – 2001) của tổng thống B.Clinton, quan hệ chính trị – ngoại giao đôi bên tiếp tục được cải thiện.
Ngày 10/4/1997 toàn thể Thượng nghị viện Mỹ đã nhất trí phê chuẩn việc cử ông Peterson làm đại sứ tại Việt Nam
Về phía Việt Nam, đã cử ông Lê Văng Bàng làm đại sứ tại Hoa Kỳ.
Ngày 9/5/97 ông Lê Văn Bàng tới Oasinhton trong khi cùng ngày ông Peterson cũng đến Hà Nội. Ngày 14/5/97 tại Nhà trắng ông Lê Văn Bàng đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trình thư uỷ nhiệm lên Tổng thống Bill Clinton. Cùng ngày tại Phủ Chủ tịch ông Douglas Peterson, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hoa Kỳ, trình thư uỷ nhiệm lên Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Bình. Có thể nói, đây là kết quả quan trọng và cao nhất về mặt ngoại giao. Về cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao của 2 bên đã thiết lập với việc khai trương đi vào hoạt động và việc mở lãnh sự quán của Việt Nam tại Sanphrangxitco, lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP. Hồ Chí Minh cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao hai bên đã được thiết lập.
Đại sứ là kênh chính để hai bên trao đổi thông tin về nhau giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quan hệ song phương, để các bên thâm nhập, trực tiếp tìm hiểu nhau. Nhờ có đại sứ quán, lãnh sự quán mà việc đi lại, trao đổi các đoàn ở cấp Chính phủ cũng như phi Chính phủ của 2 nước có nhiều thuận lợi và có cơ hội tăng cường. Điều này giúp cho ngoại giao nhân dân được mở rộng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp của 2 nước tìm hiểu, thâm nhập vào thị trường, đầu tư kinh doanh buôn bán.
Tháng 7/1996, một phái đoàn quan chức cấp cao của Chính phủ Mỹ do cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Athony Lake dẫn đầu tới Việt Nam. Trong đoàn có các nhân vật quan trọng của Chính phủ Mỹ như trợ lý ngoại trưởng chuyên trách khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, phó bí thư báo chí Nhà trắng Đ.Giônxen,... Một trong những sứ mệnh chủ chốt của đoàn tới Việt Nam lần này là phía Hoa Kỳ cùng Việt Nam kiểm điểm, đánh giá tình hình phát triển quan hệ 2 nước một năm sau khi bình thường hoá.
Tháng 6/1997 sau chuyến thăm của ông A.Lake, tân ngoại trưởng Hoa Kỳ bà Albright đã đến thăm Việt Nam. Chuyến viếng thăm của bà nhằm khảo sát và đánh giá quan hệ 2 nước sau 2 năm bình thường hoá. Đặc biệt, nhiệm vụ trọng tâm của bà Albright trong chuyến viếng thăm này là nhằm hối thúc 2 phía tăng cường phát triển kinh tế thương mại. phía Mỹ đã khẳng định quyết tâm “Vượt qua khác biệt trong quá khứ, cùng nhau tiến về phía trước, hướng đến tương lai”, “thực thi các nỗ lực để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương”. Đáp lại, tháng 10/1998, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã sang thăm Mỹ. Ông phát biểu rằng, Mỹ là cường quốc có nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ và vốn; rằng Việt Nam rất coi trọng việc xây dựng quan hệ hợp tác lâu dài, nhiều mặt với Mỹ.
Chuyến thăm Việt Nam được xem là “lịch sử” của tổng thống Mỹ B.Clinton tháng 11/2000 đã đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ Việt Mỹ, theo chiều sâu.và ông được tháp tùng bởi một đoàn các nhà doanh nghiệp lớn. Đoàn doanh nghiệp này đã đạt được mục đích của mình và một loạt các công ty liên doanh đã được thành lập, trong đó có lễ ký kết bản ghi nhớ giữa hãng Boeing và Hàng không Việt Nam về việc mua 3 máy bay Boeing 777 - 200ER thoả thuận liên doanh sản xuất cáp quang được ký kết giữa Corining International và Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam,... Tổng thống Bill Clinton đã tặng thêm một khoản tín dụng 200 triệu USD cho những công ty muốn vào kinh doanh ở Việt Nam.
Ngày 19/6/2005, Thủ tướng Phan Văn Khải là lãnh đạo chính phủ Việt Nam đầu tiên thăm Mỹ sau khi hòa bình lập lại. Thủ tướng đã thảo luận với Tổng thống George Bush về sự ủng hộ của Mỹ với nỗ lực tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam.
Giữa tháng 11/2006, Tổng thống George Bush thăm chính thức Việt Nam khi tham dự cuộc họp APEC tổ chức ở Hà Nội.
Đến tháng 6/2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trở thành người đứng đầu nhà nước đầu tiên của Việt Nam sang Mỹ sau giai đoạn chiến tranh.
Ngày 25/6/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đoàn đại biểu Việt Nam đã đến Nhà Trắng để hội đàm với Tổng thống George Bush
Kể từ năm 2013, chính phủ hai nước đã nhanh chóng tăng cường nhịp độ các chuyến thăm cấp cao; dự kiến có thêm nhiều chuyến thăm trong năm nay. Đối thoại của chúng ta đã trở nên phong phú hơn và thẳng thắn hơn, và trong vài năm qua Việt Nam và Hoa Kỳ đã làm việc với nhau hiệu quả hơn tại các diễn đàn khu vực.
Chuyến thăm Mỹ cuối tháng 7/2013 của Chủ tịch Trương Tấn Sang đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ song phương. Sau cuộc hội đàm tại Nhà Trắng ngày 25/7/2013, Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama đã xác lập Quan hệ Đối tác Toàn diện giữa Việt Nam và Mỹ.
Từ ngày 6/7/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính thức thăm Mỹ. Đây là lần đầu tiên một Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến Mỹ.
Trong buổi hội đàm ngày 7/7 với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Obama khẳng định, Mỹ rất coi trọng quan hệ với Việt Nam và vai trò của Việt Nam ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời gọi Việt Nam là "đối tác xây dựng" trên nhiều lĩnh vực, bao gồm biến đổi khí hậu và gìn giữ hòa bình toàn cầu.
Đáp lời Tổng thống Obama, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết: "Từ hai nước cựu thù, chúng ta đã chuyển thành những người bạn, đối tác, và đối tác toàn diện. Quá khứ không thể thay đổi nhưng tương lai thuộc về trách nhiệm của chúng ta", theo thông tấn xã Việt Nam.
Khi phát biểu tại Bộ Ngoại giao Mỹ, Tổng Bí thư nhấn mạnh tinh thần "gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai" và thái độ đối thoại “chân thành, thẳng thắn” làm nên sự khác biệt trong quan hệ Việt - Mỹ so với quan hệ với các nước khác.
Tổng Bí thư cũng dẫn câu nói của Tổng thống Theodore Roosevelt, "Có lòng tin là đã đi được nửa đường", để bày tỏ lạc quan về tương lai Việt - Mỹ trong một bài nói chuyện ở trung tâm CSIS.
Tổng Bí thư và Tổng thống Barack Obama đã đưa ra Tuyên bố Tầm nhìn Chung sau cuộc hội đàm ngày 7/7. Ông Obama cũng nhận lời mời của Tổng Bí thư về chuyến thăm Việt Nam trong tương lai gần.
Những chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa hai nước kể trên và những kết quả đạt được là những tín hiệu khả quan về quan hệ Việt - Mỹ.
2.4.2. Kinh tế và Thương mại
2.4.2.1. Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn (1995 – 2000)
Hai nước bắt đầu có quan hệ thương mại từ năm 1992 tuy nhiên mới chỉ ở mức độ rất khiêm tốn, thương mại hai chiều chỉ đạt khoảng 4,5 triệu USD. Mốc tính chính thức bắt đầu từ năm 1994, một năm sau khi lệnh cấm vận được gỡ bỏ. Các năm tiếp theo thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tăng đều và rất mạnh theo cả hai chiều xuất và nhập khẩu, đa dạng dần về nhóm hàng và gia tăng về giá trị mỗi nhóm.
Theo số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, tổng kim ngạch mậu dịch Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1994 đã tăng lên gần 224 triệu USD so với 6,2 triệu năm 1993 (tăng hơn 30 lần). Con số này năm 1995 đã lên đến 451,326 triệu USD (gấp hơn hai lần năm trước) và đạt trên 1 tỷ USD trong năm 1996 và năm 1996 tăng lên hơn 1039,5 triệu USD chiếm khoảng 1% trong tổng số hơn 100 tỷ USD kim ngạch buôn bán hai chiều giữa ASEAN và Mỹ. Trong đó giá trị xuất khẩu của Việt Nam tương ứng qua từng năm là (1994) 50,6 triệu USD, (1995) 198,9 triệu USD, (1996) 819,2 triệu USD; và nhập khẩu lần lượt là (1994) 173,4 triệu USD, (1995) 252,9 triệu USD, (1996) 720,3 triệu USD. Như vậy chỉ qua hai năm, tổng kim ngạch buôn bán Việt Nam - Hoa Kỳ đã tăng lên hơn 4 lần, vượt xa giá trị trao đổi thương mại của Việt Nam với các bạn hàng truyền thống tại Đông Âu và Liên Xô cũ. Đây là điều chưa từng có trong quan hệ giữa hai nước khi mà các cản trở chưa được giải toả.
Tuy vậy, những kết quả giao thương giữa hai nước trong năm này lại chững lại đạt con số hết sức khiêm tốn, đạt 705,8 triệu USD, bằng 2/3 so với năm 1996. Hai năm tiếp theo, có lẽ do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nên tuy quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ vẫn gia tăng nhưng chưa vượt qua được con số 1 tỷ USD của năm 1996, năm 1998 đạt 748 triệu USD và năm 1999 đạt 838,39 triệu USD, năm 2000 đạt 1.084,2 triệu USD.
Tiếp theo những tiến bộ đạt được trong năm 1999, như việc hai nước kí thoả thuận sơ bộ về Hiệp định Thương mại và việc Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố ngừng áp dụng Tu chính án Jackso Vanik đối với Việt Nam, đã khích lệ các nhà kinh doanh yên tâm và vững tin vào triển vọng bình thường hoá quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ. Hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước ngay từ đầu năm 2000 đã diễn ra hết sức sôi động. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ ngay trong quý I năm 2000 đã tăng 240,41% so với Quý I/1999 trong khi nhập khẩu tăng 132,39%, đạt 228,64 triệu USD. Sau khi ký hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (7 – 2000), kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước lần đầu tiên vượt mức 1 tỷ USD của năm 1996. Đây thực sự là kết quả đáng khích lệ cho năm Việt Nam – Mỹ chính thức ký Hiệp định Thương mại. Và lẽ tất nhiên đây cũng là kết quả của hàng loạt biện pháp kích thích xuất khẩu trong chính sách thương mại hướng ngoại của Việt Nam.
Bảng 7: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hoa Kỳ
(Đơn vị: Triệu USD)
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Xuất
khẩu
90,6
198,9
319,2
362,7
519,55
601,9
827,4
Nhập
khẩu
173,4
252,9
720,3
464
453,62
503,94
732,4
Tổng
264
451,8
1039,5
826,7
973,17
1105,9
1559,8
Nguồn: Bộ Thương mại Việt Nam
Tóm lại, sau 5 năm bình thường hoá, quan hệ thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ đã có bước phát triển hết sức nhanh chóng. Năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước đã tăng gấp đôi so với năm 1995 và năm 2000 tăng gấp 2,5 lần so với năm 1995.
Xét về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong thời kỳ 1994-1999 chủ yếu thuộc nhóm nông, lâm, thủy hải sản. Trong đó cà phê chiếm phần lớn với kim ngạch đạt 108 triệu USD năm 1997. Đặc điểm nổi bật của nhóm hàng này là có sự chênh lệch không đáng kể giữa mức thuế tối huệ quốc (MFN) và phi tối huệ quốc (non-MFN) và cầu về các loại hàng này rất đa dạng. Hàng công nghiệp nhẹ bắt đầu xâm nhập và tăng trưởng nhanh nhưng vẫn chỉ mang tính chất giới thiệu sản phẩm. Từ 1996, xuất khẩu những mặt hàng giày dép, nguyên liệu khoáng sản tăng nhanh. Nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Hoa Kỳ chính là các mặt hàng máy móc, thiết bị và phân bón. Điều này phù hợp với nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam cũng như đặc điểm cơ cấu xuất khẩu của Hoa Kỳ.
Nhìn chung năm 2000, thương mại giữa hai nước tăng trưởng ổn định trong hoàn cảnh nền kinh tế toàn cầu đang diễn biến rất phức tạp. Xét về tổng kim ngạch song phương, Việt Nam hiện đang đứng thứ 70/227 nước có quan hệ buôn bán với Hoa Kỳ, trên nhiều nước như Bulgaria, Ukraina, Slovenia mặc dù hàng Việt Nam đang phải chịu thuế suất nhập khẩu cao hơn so với các nước này (nếu tính về kim ngạch xuất khẩu thì Việt Nam đứng cao hơn, tức là khoảng thứ 65/227 nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ). Tuy nhiên, so với ngay các nước trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Phillippines thì xuất khẩu của ta còn thua kém nhiều. Có nhiều lý do giải thích cho sự việc này, nhưng lý do nổi bật nhất vẫn là thuế suất nhập khẩu quá cao mà hàng hóa xuất khẩu của ta cho đến nay vẫn phải chịu khi nhập vào Hoa Kỳ. Hơn nữa, hệ thống thương mại tại Hoa Kỳ khá mới và phức tạp đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam nên đã làm cho quá trình thâm nhập thị trường này trở nên không dễ dàng với đa số doanh nghiệp Việt Nam.
Năm 2000, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng mạnh lên tới 827,4 triệu USD so với 601,9 triệu USD, đạt mức tăng trưởng 37,63%. Đây là một trong những mức tăng cao trên thế giới (trung bình xuất khẩu thế giới vào Hoa Kỳ tăng 19,73% trong 11 tháng đầu năm 2000; toàn khu vực ASEAN xuất sang Hoa Kỳ tăng 13,56%). Mặc dù mức tăng trưởng này đạt được trên cơ sở kim ngạch chưa cao nhưng đây là một tín hiệu tốt, thể hiện những phản ứng tích cực từ phía các doanh nghiệp Việt Nam đối với các diễn biến trong quan hệ thương mại hai nước. Trong khi đó cũng cần lưu ý rằng xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam cũng tăng khá mạnh trong cùng kỳ năm 2000 (tăng 16,15% so với cùng kỳ năm 1999).
Nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng trong quan hệ thương mại giữa hai nước chủ yếu là do tính bổ sung cao giữa hai nền kinh tế.
Việt Nam là nước đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, nhu cầu về công nghệ và trang thiết bị hiện đại là hết sức lớn mà Hoa Kỳ lại chính là nguồn cung cấp thiết bị khoa học - công nghệ và máy móc hiện đại hàng đầu thế giới. Mặt khác gia tăng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng thương mại giữa hai nước.
Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới với nhu cầu về các loại hàng hoá từ cao cấp đến bình dân, từ sản phẩm công nghiệp kĩ thuật cao đến hàng nông sản, trong khi đó, hàng nông - thuỷ sản chiếm đến 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây chính là điều mà NICs, Thái Lan, Malaisia và Trung Quốc đã tận dụng được trong tiến trình thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá của họ.
2.4.2.2. Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2000 đến nay
Ngày 13/7/2000, hai nước ký kết Hiệp định thương mại song phương (BTA), chính thức mở ra chương mới trong lĩnh vực hợp tác kinh tế giữa 2 quốc gia.
Năm 2002, ngay sau khi BTA có hiệu lực, thương mại hai chiều đã tăng đột biến lên 2,89 tỷ USD, bằng 1,85 lần.
Đến nay, thương mại hai chiều đã bùng nổ lên hơn 35 tỷ USD vào cuối 2014. Hoa Kỳ đã trở thành đối tác thương mại, nhà đầu tư hàng đầu của Việt Nam
Nhờ BTA, Việt Nam đã tăng xuất khẩu sang Hoa Kỳ lên 36 lần, từ 800 triệu USD vào năm 2000 lên gần 29 tỷ USD năm 2014. Sự tăng tốc đó đã giúp cho Việt Nam vượt qua Thái Lan, Malaysia, Indonesia để trở thành nước xuất khẩu hàng hóa lớn nhất sang Hoa Kỳ trong ASEAN.
Hàng hóa của Việt Nam chiếm tỷ trọng cao nhất, 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn khu vực này.
Ngoài xuất nhập khẩu, Việt Nam là đang là địa điểm đầu tư lý tưởng của các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/3, Hoa Kỳ có 735 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 11,06 tỷ USD, xếp thứ 7 trong tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh có dự án đầu tư của Việt Nam.
Tính riêng trong quý 1/2015, Hoa Kỳ có 8 dự án FDI được cấp Giấy chứng nhận đầu tư mới và 2 lượt dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm đạt gần 70 triệu USD.
Các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đầu tư vào 17/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân với quy mô bình quân vốn đầu tư cho một dự án là 15 triệu USD, cao hơn so với quy mô trung bình của một dự án FDI vào Việt Nam hiện nay là 14.3 triệu USD. tình hình đầu tư của Việt Nam sang Hoa Kỳ, tính đến hết tháng 8/2014, Việt Nam đã có 124 dự án đầu tư, với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng vốnlà 426,74 triệu USD.
Hoa Kỳ hiện đứng thứ 9 trong số 63 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư của Việt Nam. Ngoài xuất khẩu, đầu tư tăng trưởng mạnh mẽ, lượng khách từ Hoa Kỳ đến Việt Nam ngày càng tăng. Trong năm 2014, lượng khách từ Hoa Kỳ đạt gần 443.800 lượt người, đứng thứ 4 trong số các nước đến Việt Nam nhiều nhất (sáu tháng 2015 đạt 255,9 nghìn lượt người).
2.4.3. Quốc phòng và An ninh
Việc ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có vai trò đặc biệt quan trọng, làm giảm đáng kể khoảng cách đôi bên và làm gia tăng niềm tin chính trị giữa Washington và Hà Nội. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ra đời đã tạo nên cú hích để đôi bên tiếp tục ký kết nhiều hiệp định quan trọng khác; như Hiệp định hợp tác về khoa học và công nghệ (có hiệu lực từ ngày 26/3/2001), Hiệp định dệt-may (có hiệu lực từ 1/5/2003), Hiệp định hàng không (có hiệu lực từ 14/1/2004); Hiệp định khung hợp tác về kinh tế và kỹ thuật, Bản ghi nhớ hợp tác về nông nghiệp (ký tháng 6/2005). Tiến xa hơn, tháng 5/2006 hai nước đã ký Thoả thuận chính thức kết thúc đàm phán song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ kinh tế thương mại đôi bên.
Sau chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Bill Clinton, hai nước tiếp tục trao đổi nhiều chuyến thăm viếng cấp cao khác, đặc biệt là các cuộc trao đổi của các tướng lĩnh quân sự.
Có lẽ, ý tưởng hợp tác quân sự Việt – Mỹ xuất hiện ngay từ chuyến viếng thăm (tháng 7/1996) của tiến sỹ Althony Lake – cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Bill Clinton. Trong các cuộc tiếp xúc và hội đàm với phía Việt Nam, ông đã nói rõ quan điểm của phía Mỹ là “Hoa Kỳ muốn thấy một Việt Nam mạnh và ổn định, ngày càng hội nhập với các thể chế khu vực và quốc tế, đồng thời Hoa Kỳ muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam về những lợi ích chiến lược lâu dài”. Ông cũng nhắc đến vấn đề hợp tác quân sự khởi đầu ở cấp tùy viên giữa hai bên. Trong năm 1997, đô đốc J. Prueber – tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã đến thăm Việt Nam; sau đó một phái đoàn các sỹ quan cao cấp Cục đối ngoại Bộ quốc phòng Việt Nam cũng sang thăm Mỹ.Cũng nên nhớ rằng, trong những năm đầu sau bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, giới quân sự hai bên thường chia sẻ mối quan tâm giống nhau về tình hình an ninh khu vực, mong muốn thúc đẩy các hợp tác quân sự song phương; trong khi nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam lại cho rằng quan hệ Việt – Mỹ không nên chú trọng về quân sự , mà chủ yếu dựa trên các quan hệ kinh tế – thương mại; vấn đề hợp tác quân sự chỉ có thể ở tương lai. Nhưng sự chuyển biến của tình hình quốc tế, khu vực lúc bấy giờ đã như chất xúc tác giúp cho các hoạt động hợp tác quân sự Việt – Mỹ tăng tốc. Tháng 3/2000, bộ trưởng quốc phòng Mỹ Cohen thăm Việt Nam. Đáp lại, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Phạm Văn Trà đã thăm Mỹ vào tháng 11 năm đó.
Tháng 6/2005, thủ tướng Phan Văn Khải đã có chuyến thăm chính thức tại Washington. Trong chuyến viếng thăm này, hai bên đã ký kết một số hiệp định hợp tác trong lĩnh vực quân sự và tình báo; sau đó phía Mỹ cũng tiến tới ký kết với Việt Nam một hiệp định về giáo dục và huấn luyện quân sự quốc tế (IMET). Tháng 6/2006, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, D. Rumsfeld thăm Việt Nam, phía Mỹ bắt đầu cho phép một số công ty Mỹ cung cấp thiết bị quân sự hạn chế cho Việt Nam; tuy vậy, lệnh cấm bán vũ khí sát thương vẫn được duy trì cho đến khi tổng thống George Bush tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm bán các trang thiết bị quân sự không sát thương cho Việt Nam vào năm 2007.
Trong năm 2008, sau chuyến đi Mỹ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã tiến hành cuộc đối thoại song phương đầu tiên về chính trị – an ninh – quốc phòng (PSDD) cấp thứ trưởng tại Hà nội.
Khoản tài trợ Chương trình giáo dục, huấn luyện quân sự quốc tế (IMET) của Mỹ cho Việt Nam từ năm 2005-2012.
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Số tiền(nghìnUSD)
50
49
274
181
191
400
476
611
Nguồn: Security Cooperation Agency, U.S Department of Defense, “Foreign Military Sales, Foreign Military Construction Sales and Other Security Cooperation Historical Facts: As of September 30, 2012”
Năm 2010, cuộc đối thoại về chính sách quốc phòng Việt – Mỹ (Defense Policy Dialogue – DPD) cấp thứ trưởng hàng năm, đầu tiên được tổ chức tại Washington. Năm sau (2011), hai bên đã đã ký tại DPD lần thứ hai một Bản ghi nhớ tăng cường hợp tác quốc phòng song phương, trong đó xác lập 5 khu vực hợp tác cụ thể: (1) đối thoại thường xuyên ở cấp cao, (2) vấn đề an ninh hàng hải, (3) vấn đề tìm kiếm cứu hộ, (4) vấn đề hỗ trợ nhân đạo và ứng cứu thiên tai,vấn đề gìn giữ hòa bình; hai bên cũng thống nhất cứ 3 năm một lần trao đổi các chuyến viếng thăm của hai Bộ trưởng quốc phòng. Con đường hợp tác an ninh – quốc phòng đôi bên cơ bản đã được khơi thông.
Năm 2012, Leon Panetta trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đầu tiên thăm Cam Ranh từ sau Chiến tranh Việt Nam. Cùng năm, Việt Nam cử Quan sát viên tới dự Tập trận Hải quân lớn nhất thế giới mang tên Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC 2012) do Mỹ khởi xướng.
Đầu tháng 10/2014, Mỹ đã tuyên bố dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Tháng 3 vừa qua, phía Mỹ công bố trao 6 tàu tuần tra cao tốc, giúp đỡ Việt Nam vận hành, bảo trì và xây dựng xưởng sửa chữa nhằm tối ưu hóa khả năng hoạt động của các thiết bị này.
Trong những năm gần đây, chiến hạm Mỹ, liên tục cập cảng Việt Nam. Đầu tháng 4, tàu khu trục có tên lửa dẫn đường USS Fitzgerald (DDG 62) và tàu tác chiến ven biển USS Fort Worth của Mỹ đã cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng trong khuôn khổ giao lưu hải quân thường niên lần thứ 6 giữa Mỹ và Việt Nam
Tập trung vào việc hiện đại hóa năng lực phòng thủ, Việt Nam tất nhiên sẽ dựa vào các đối tác truyền thống. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng có nhiều để đề xuất, và chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện tầm nhìn dài hạn trong việc xây dựng mối quan hệ quốc phòng. Trong quá trình chúng ta tìm hiểu để làm việc cùng nhau, Việt Nam sẽ thấy Hoa Kỳ là một đối tác có thể trông cậy được để củng cố và tăng cường an ninh khu vực và luật pháp quốc tế. Điều này sẽ không xảy ra một sớm một chiều, và Hoa Kỳ phải kiên nhẫn và có một tầm nhìn dài hạn về hợp tác an ninh. Tiến triển trong các chuỗi hoạt động khác có khả năng sẽ tạo thuận lợi cho tiến triển trong lĩnh vực an ninh – là lĩnh vực bị tụt lại phía sau do những nghi ngờ bắt nguồn từ lịch sử phức tạp của chúng ta.
2.4.4.Văn hóa – xã hội
2.4.4.1 Giáo dục
Theo báo cáo của Viện Giáo dục Quốc tế (IIE), 16.579 sinh viên Việt Nam học tập tại Mỹ trong năm học 2013 - 2014, (tăng 3% so với năm 2012), đưa Việt Nam trở thành nước đứng đầu Đông Nam Á và xếp thứ 8 về số lượng du học sinh tại quốc gia này.
Ở chiều ngược lại, 878 sinh viên Mỹ học tập tại Việt Nam trong năm 2011-2012, tương đương với các năm trước.
Nổi bật trong hợp tác giáo dục Việt - Mỹ là Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (FETP). Theo Tuyên bố Tầm nhìn Chung giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Barack Obama ngày 7/7, FETP sẽ chuyển đổi thành một tổ chức hoàn chỉnh có tên là trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV) với số vốn đầu tư ban đầu là 20 triệu USD.
2.4.4.2. Y tế
Chúng tôi đang làm việc cùng các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam để chống lại nạn buôn bán động vật hoang dã, và đã hợp tác với chính quyền địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ (NGO) để xây dựng một liên minh bảo tồn Vịnh Hạ Long, một di sản thế giới UNESCO đang bị đe dọa bởi nhiều nguồn ô nhiễm. Làm việc cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư của Việt Nam và Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc, Hoa Kỳ sẽ hợp tác với Việt Nam khi Việt Nam triển khai Chiến lược Tăng trưởng Xanh và đưa đất nước vào con đường phát triển với lượng phát thải thấp hơn. Sáng kiến Hạ vùng Mekong mang đến cho chúng ta cơ hội làm sâu sắc hơn sự hợp tác trong các vấn đề về nước.
Trong lĩnh vực y tế, Hoa Kỳ đã đầu tư gần 700 triệu đôla thông qua Kế hoạch Cứu trợ AIDS Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR). Việt Nam cũng trở thành một quốc gia trọng tâm trong Chương trình nghị sự của Tổng thống Hoa Kỳ về An ninh Y tế Toàn cầu, và Các Trung tâm Kiểm soát và Dự phòng Bệnh dịch (CDC) tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Việt Nam để giúp ngăn chặn sự lây lan của Ebola. Sau khi kiểm soát thành công dịch SARS và cúm gia cầm, Việt Nam đang chuẩn bị cho dịch bệnh tiếp theo. Bộ trưởng Y tế và tôi đã khánh thành Văn phòng Đáp ứng Khẩn cấp phòng chống dịch bệnh, nơi kết nối Hà Nội với bốn khu vực khác và sẽ hoạt động như một Phòng trực chiến để trao đổi thông tin về các trường hợp bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm. Trong tương lai, Hoa Kỳ và Việt Nam có thể hợp tác chống lại bệnh lao và sốt rét kháng thuốc. Hoa Kỳ đã bắt đầu trợ giúp người khuyết tật – về y tế,trong một thời gian dài trước khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao và hiện vẫn tiếp tục, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của Quốc hội Hoa Kỳ, đem lại những cơ hội to lớn để hợp tác.
2.4.4.3. Du lịch và Thể thao
85% người Việt Nam dưới tuổi 35 coi Hoa Kỳ là đối tác thân cận nhất của nước mình. Thông qua tiếp xúc trực tiếp, các phương tiện truyền thông truyền thống, mạng xã hội, và các trung tâm văn hóa của chúng tôi, Phái đoàn Hoa Kỳ kết nối với hàng chục nghìn thanh niên Việt Nam mỗi ngày. Chúng tôi luôn thể hiện sự tôn trọng chân thành đối với con người, lịch sử, giá trị và văn hóa của Việt Nam. Chúng tôi đã thiết lập quan hệ đối tác giữa các tổ chức văn hoá của Hoa Kỳ và Việt Nam như Trung tâm Kennedy và Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, và tiếp tục tài trợ nhiều chương trình giao lưu hai chiều giúp xây dựng mối quan hệ giữa nhân dân hai nước. Chúng tôi tái khởi động một chương trình cho phép nhận con nuôi từ Việt Nam, bắt đầu với các trẻ em từ 5 tuổi trở lên, anh chị em ruột, và trẻ em có nhu cầu đặc biệt. Một cộng đồng Việt kiều ngày càng có ảnh hưởng sẽ đóng một vai trò quan trọng hơn bao giờ hết trong việc tăng cường mối liên kết giữa hai nước.
Chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam cần phải tận dụng các chuyến viếng thăm cấp cao và các sự kiện kỷ niệm 20 năm để thực hiện các hoạt động hợp tác, đạt được tiến bộ trong các vấn đề còn tồn đọng và đưa ra những ý tưởng mới. Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý rằng, trong 40 năm qua, quan hệ giữa người dân Mỹ và người dân Việt Nam đã tiến triển nhanh hơn so với sự tương tác giữa hai chính phủ. Khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức giáo dục, các cơ quan tư vấn chính sách, và các quỹ đã và tiếp tục đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng quan hệ đối tác Hoa Kỳ-Việt Nam. Nơi nào có quan hệ đối tác phi chính phủ lành mạnh và năng động thì nơi đó các mối quan hệ khác cũng sẽ vững mạnh nhất.
Trong bối cảnh chúng ta mong muốn thúc đẩy Quan hệ Đối tác Toàn diện, tầm nhìn của chúng ta là rõ ràng. Quan hệ đối tác của chúng ta sẽ đạt được tiềm năng tối đa nếu chúng ta làm việc cùng nhau trong các vấn đề chúng ta cùng nhất trí, đồng thời thẳng thắn và cởi mở trong các lĩnh vực chúng ta còn có sự khác biệt, như trong lĩnh vực có tính then chốt là nhân quyền, và sẵn sàng mở rộng sang các lĩnh vực hợp tác mới.
2.4.5. Khoa học – Công nghệ
Trong 15 năm qua, Uỷ ban Hỗn hợp Hoa Kỳ-Việt Nam về Hợp tác Khoa học và Công nghệ đã điều phối và thúc đẩy hợp tác, phần nhiều liên quan đến các tổ chức học thuật. Một thành tựu đỉnh cao là việc hoàn tất Hiệp định 123 về năng lượng hạt nhân dân sự. Hiệp định này mở đường cho hợp tác hạt nhân dân sự chặt chẽ hơn trong những thập kỷ tới đồng thời củng cố những cam kết của chúng ta về không phổ biến vũ khí hạt nhân. Cùng lúc, chúng ta vui mừng ghi nhận số lượng ngày càng tăng các hoạt động hợp tác khoa học do Chương trình Quan hệ Đối tác nhằm Thúc đẩy Tham gia Nghiên cứu (PEER) hỗ trợ.
Quan hệ đối tác của chúng ta về thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu cũng đang trở nên sâu sắc hơn. USAID đang triển khai một chương trình quan trọng về Rừng và Đồng bằng nhằm giúp Việt Nam thích ứng với vấn đề nước biển dâng và áp dụng các phương thức sử dụng đất đai bền vững hơn. Hoa Kỳ đã đề nghị hỗ trợ Việt Nam phát triển kế hoạch Đóng góp Do Quốc gia Tự Quyết định (INDC) cho cuộc chiến toàn cầu chống biến đổi khí hậu. Mới đây, Việt Nam đề xuất hợp tác với Hoa Kỳ trong vấn đề an ninh lương thực và dinh dưỡng, đặc biệt ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Chúng ta cần cùng nhau tìm hiểu những tác động sâu xa về an ninh lương thực do khả năng dễ bị tổn thương của Việt Nam đối với biến đổi khí hậu, và ý nghĩa của điều đó đối với khu vực và hơn thế nữa. Hợp tác không gian song phương, là lĩnh vực giúp tăng cường viễn thông, các công việc về khí hậu, giám sát mặt biển, và dự báo thiên tai, cũng đang là một lĩnh vực có nhiều cơ hội hấp dẫn để hợp tác nhiều hơn nữa.
Tháng 3 năm 2015, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Tp.HCM ký kết tài trợ không hoàn lại cho công ty TNHH Xây dựng - thương mại - du lịch Công Lý một khoản viện trợ lên đến gần 1 tỷ USD, để thực hiện chương trình nghiên cứu khả thi phát triển nhà máy điện gió Bạc có công suất 300MW.
Cũng trong khuôn khổ của chương trình hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ cho Việt Nam với thời gian kéo dài 15 năm, Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ (USAID) sẽ triển khai 75 dự án về các lĩnh vực như hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế và đặc biệt là năng lượng sạch.
2.5. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG TƯƠNG LAI
Về ngoại giao, cơ cấu, bộ máy nhân sự của các đại sứ quán sẽ tiếp tục được bổ xung và hoàn thiện.
Hai nước sẽ tiếp tục sử dụng ngoại giao để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, văn hoá giáo dục.
Hai nước sẽ tăng cường trao đổi các đoàn quan chức ngoại giao ở mọi cấp độ cũng như mở rộng ngoại giao phí Chính phủ, ngoại giao nhân dân.
Về kinh tế: AmCham dự đoán, tính đến năm 2020, giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ sẽ đạt xấp xỉ 57 tỷ USD, bỏ xa các nước còn lại trong khu vực.
Trong khi đó, Việt Nam và Mỹ là 2 trong số 12 nước thành viên Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Với việc Việt Nam tham gia TPP, và với việc Việt Nam tiếp tục tiến theo hướng minh bạch công khai cao hơn và tôn trọng pháp quyền, Hoa Kỳ có thể trở thành nhà đầu tư số 1 của Việt Nam, như vị trí xếp hạng đầu tư Hoa Kỳ hiện nay trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á nói chung.Khi hiệp định này được thông qua, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius cho rằng, GDP của Việt Nam có thể tăng tới 30% nhờ TPP.
Nhờ cam kết của Cục Hàng không Việt Nam, chúng ta đang có tiến bộ để Việt Nam tiến tới đạt được Mức 1 (CAT 1), một điều kiện cần thiết cho các chuyến bay trực tiếp giữa hai nước chúng ta. Chương trình Quản trị Nhà nước nhằm Tăng trưởng Toàn diện (GIG) của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) giúp Việt Nam thúc đẩy một chương trình cải cách kinh tế sẽ có lợi cho mối quan hệ, cũng như các nhà đầu tư, thương mại khu vực và nhân dân Việt Nam. Hiện có nhiều cơ hội lớn cho việc mở rộng thương mại và đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam, vào ngành hàng không phát triển nhanh chóng của đất nước, cũng như trong lĩnh vực năng lượng sạch. Một cản trở đáng ngại đối với sự gia tăng quan hệ kinh tế này sẽ là những hạn chế về thị thực Việt Nam. Trong khi Trung Quốc hiện cấp thị thực xuất nhập cảnh nhiều lần 10 năm, thì Việt Nam lại đi theo hướng ngược lại và hạn chế du khách với mức thị thực 3 tháng và chỉ được nhập cảnh một lần.
KẾT LUẬN
Cần khẳng định rằng, trong bức tranh chung của quan hệ Việt - Mỹ từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay đã có những nết chấm phá sinh động mới về mặt chính trị, xã hội. Nhất là trước đây Việt Nam và Mỹ đã từng là kẻ thù của nhau, 2 nước đã có 1 thời ở hai bên chiến tuyến của một cuộc chiến tranh, giờ đây đã đồng ý khép lại quá khứ, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau, mở trang sử mới hợp tác cùng phát triển.
Tuy nhiên, thời gian qua mới chỉ là quá trình bước đầu hàn gắn vết thương chiến tranh, vượt qua những hận thù do quá khứ để lại, vừa là quá trình đặt nền móng cho mối quan hệ hợp tác lâu bền trong tương lai.
Rồi đây, nhiều cơ hội mới sẽ được mở ra và thách thức mới cũng sẽ xuất hiện, 2 nước cần có nhiều hoạt động tích cực hơn nữa nhằm thúc đẩy tiến trình bình thường hoá quan hệ đầy đủ.
Và điều cuối cùng có thể khẳng định qua quá trình nghiên cứu quan hệ ngoại giao giữa 2 nước dù là tích cực hay tiêu cực, là thù địch hay hợp tác, đều có những nhân tố chủ yếu của thời đại, chính sách đối ngoại của mỗi nước quy định, đều bị chi phối bởi lợi ích quốc gia. Đây cũng là điều quan trọng cho mỗi nước khi hoạch định chính sách đối ngoại, nghiên cứu và đánh giá các mối quan hệ quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20_nam_quan_he_ngoai_giao_viet_my_2_7901.docx