Đèn huỳnh quang là dạng đèn phóng điện trong môi trường khí. Sự phóng điện trong môi trường khí không giống như trong dây dẫn, vì để có được sự phóng điện trong ống đòi hỏi phải có một hiệu điện thế hay điện áp ban đầu đủ lớn giữa hai điện cực để tạo ra hồ quang điện kích thích sự phát sáng. Do vậy, bóng đèn cần phải mồi phóng điện nhờ hai bộ phận là chấn lưu hay còn gọi là tăng phô và tắc te (starter).
- Chấn lưu: Chấn lưu được mắc nối tiếp với hai đầu điện cực, có tác dụng điều chỉnh và ổn định tần số của dòng điện. Nó là một cuộn dây cảm kháng có tác dụng duy trì độ tự cảm tức là điện áp rơi trên nó để điện áp trên bóng luôn khoảng từ 80 -140V.
- Tắc te: Tắc te được mắc song song với hai đầu điện cực. Bản chất của nó là một tụ điện dùng rơle nhiệt lưỡng kim, bên trong chứa khí neon. Khi có dòng điện đi qua, hai cực của nó tích điện đến một mức nào đó thì phóng điện. Nó có tác dụng khởi động đèn ban đầu.
39 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7940 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hồ quang điện và ứng dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
“hồ quang điện và ứng dụng”
GVHD: TS. Huỳnh Trọng Dương
SVTH: Huỳnh Thị Viễn
A PHẦN MỞ ĐẦU
I Lý do chọn đề tài:
Vật lý học là ngành khoa học nghiên cứu về các quy luật vận động của tự nhiên, từ tầm vi mô (các hạt cấu tạo nên vật chất) cho đến tầm vĩ mô (các hành tinh, thiên hà và vũ trụ). Đối tượng nghiên cứu chính của vật lý hiện nay bao gồm vật chất, năng lượng, không gian và thời gian. Ngoài ra Vật lý còn được xem là ngành khoa học cơ bản bởi vì các định luật vật lý chi phối hầu như tất cả các ngành khoa học tự nhiên khác. Điều này có nghĩa là những ngành khoa học tự nhiên như sinh học, hóa học, địa lý học... chỉ nghiên cứu từng phần cụ thể của tự nhiên và đều phải tuân thủ các định luật vật lý. Những thông tin mà vật lý học thu thập và hệ thống, được rút ra từ quan sát, thực nghiệm hoặc từ những suy luận lý thuyết và được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Tri thức vật lý có các quy luật phát triển nội tại của nó, nhưng nó luôn luôn hoặc là dựa vào sự đòi hỏi của thực tiễn nhằm giải quyết một nhu cầu nào đó hoặc là cuối cùng cũng đưa vào thực tiễn để thỏa mãn nhu cầu đó. Chính vì thế mà vật lý học luôn gắn bó với công nghệ đời sống
Vật lý là nghành mà ứng dụng của nó là để tạo ra các vật dụng phục vụ cho đời sống. một mặc phát hiện, chứng minh các định luật, các hiện tượng trong tự nhiên, một mặc phát triển để tạo ra các vật dụng, công cụ tiên tiến cho xã hội. Có thể nói ứng dụng của vật lý có phần lớn trong cuộc sống của con người.Một trong những ứng dụng quan trọng của vật lý trong đời sống và trong công nghiệp là hồ quang điện và ứng dụng trong hàn kim loại, luyện thép, chế tạo bóng đèn, trong y học.
Để hiểu hơn về hiện tượng phóng điện hồ quang và những ứng dụng của hồ quang điện trong cuộc sống. Đó cũng là lý do mà em đã chọn dề tài: “ hồ quang điện và ứng dụng”
II Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu về hiện tượng phóng điện hồ quang và những ứng dụng của hiện tượng này trong đời sống và trong công nghiệp.
III Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về hồ quang điện.
Nêu và phân tích những ứng dụng của hồ quang điện.
IV Đối tượng nghiên cứu:
Sự phóng điện hồ quang
Ứng dụng của hồ quang điện trong cuộc sống.
V Phạm vi nghiên cứu:
Hồ quang điện và ứng dụng của nó trong cuộc sống
VI Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: đọc tài liệu.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp trò chuyện và hỏi ý kiến thầy hướng dẫn.
B NỘI DUNG
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HỒ QUANG ĐIỆN
1.1 Sự phóng điện hồ quang, bản chất vật lý của hồ quang điện.
1.1.1 Sự phóng điện hồ quang.
Nếu sau khi có sự phóng điện hình tia , ta giảm dần điện trở của mạch, thì cường độ dòng điện tăng lên. Khi điện trở nhỏ đến một mức nào đó, thì sự phóng điện sẽ chuyển từ không liên tục sang liên tục. Khi đó ta có một dạng khác của phóng điện trong chất khí gọi là hồ quang điện.
Sự phóng điện hình tia chuyển sang giai đoạn phóng điện hồ quang khi dòng điện tăng đột ngột (có thể đến hang trăm ampe) còn hiệu điện thế ở khoảng không gian phóng điện giảm xuống còn mấy chục vôn. Điều đó chứng tỏ trong sự phóng điện có phát sinh những quá trình mới, tạo cho chất khí trong khoảng phóng điện có độ dẫn điện rất lớn.
Hồ quang điện thực sự có ích khi được sử dụng trong các lĩnh vực như hàn điện, luyện thép,...những lúc này hồ quang cần được duy trì cháy ổn định.
Nhưng trong các thiết bị̣ điện như cầu chì, cầu dao, máy cắt,...hồ quang lại có hại cần phải nhanh chóng được loại trừ. Khi thiết bị̣ điện đóng, cắt (đặc biệt là khi cắt) hồ quang phát sinh giữa các cặp tiếp điểm của thiết bị̣ điện khiến mạch điện không được ngắt dứt khoát. Hồ quang cháy lâu sau khi thiết bị̣ điện đã đóng cắt sẽ làm hư hại các tiếp điểm và bản thân thiết bị̣ điện. Trong trường hợp này để đảm bảo độ làm việc tin cậy của thiết bị̣ điện yêu cầu phải tiến hành dập tắt hồ quang càng nhanh càng tốt.
1.1.2 Bản chất của hồ quang điện.
Bản chất hồ quang điện là hiện tượng phóng xạ với mật độ dòng điện rất lớn ( từ 104 đến 105) Acm , có nhiệt độ rất cao ( khoảng từ 5000℃ -6000℃) ,và điện áp rơi trên cực âm bé ( chỉ khoảng 10V – 20V) và thường kèm theo hiện tượng phát sáng. Sự phân bố của điện áp và cường độ điện truờng dọc theo chiều dài hồ quang được biểu diễn như hình 1.1
Dọc theo chiều dài hồ quang điện chia làm hai vùng là:
- Vùng xung quanh cực âm (cách cực âm khoảng 10-4 -10-5 cm) vùng này có điện áp nhỏ nhưng khoảng cách rất bé nên cường độ điện trường rất lớn ( khoảng 105 -106 Vcm)
- Vùng thân là vùng có chiều dài gần hết hồ quang, vùng này có cường độ điện trường chỉ khoảng (10 – 15) Vcm
- Vùng còn lại là vùng quanh cột dương có cường độ điện trường lớn hơn vùng thân nhưng yếu tố sảy ra ở đây theo lý thuyết hiện đại thì ít ảnh hưởng đến quá trình phát sinh và dập tắt hồ quang nên không được đề cập đến.
1.1.3 Điều kiện tạo ra hồ quang điện.
- Làm hai điện cực nóng đỏ đến mức có thể phát nhiệt electron
-Tạo ra một điện trường đủ mạnh giữa hai điện cực để ion hóa không khí để tạo ra tia lửa điện.ường độ điện trường
1.2 Lịch sử phát triển hồ quang điện.
Có thể tạo ra hồ quang điện với hiệu điện thế thấp mà không cần giai đoạn phóng điện hình tia. Muốn vậy ta cho hai điện cực tiếp xúc với nhau và khi chổ tiếp xúc nóng lên( do hiệu ứng Joule-Lentz) ta tách hai điện cực ra xa nhau một chút, khi đó ta sẽ được hồ quang điện. Năm 1802 Petrov bằng cách này với hai thanh than và một bộ bin mạnh lần đầu tiên đã phát hiện ra hồ quang điện ,( thí nghiệm 1). Giữa hai thanh than có một cột khí sáng chói, các đầu than nóng đỏ và phát ra ánh sáng chói lòa.
Hồ quang hoạt động càng lâu thì thanh thanh than cực âm (catôt) càng nhọn dần và miệng thanh than làm cực dương (anôt) càng lõm vào, tạo thành một cái hố gọi là miệng hồ quang
Hiệu điện thế giữa hai cực khoảng 50 V
Hồ quang điện gây ion hóa chất khí, ion dương đập vào làm cực âm phát xạ nhiệt e-, e- đập vào nên cực dương bị nóng đỏ ( t = 3500o C) và mòn dần.
1.3 Quá trình phát sinh hồ quang điện.
Hồ quang điện phát sinh là do môi trường giữa các điện cực (hoặc giữa các cặp tiếp điểm) bị ion hóa (xuất hiện các hạt dẫn điện). Ion hóa có thể xảy ra bằng các con đường khác nhau dưới tác dụng của ánh sáng, nhiệt độ, điện trường mạnh,.... Trong thực tế quá trình phát sinh hồ quang điện có những dạng ion hóa sau:
- Quá trình phát xạ điện tư ̉ nhiệt;
- Quá trình tự phát xạ điện tư.̉
- Quá trình ion hóa do va chạm.
- Quá trình ion hóa do nhiệt .
1.3.1 Quá trình phát xạ điện tử nhiệt
Điện cực và tiếp điểm chế tạo từ kim loại, mà trong cấu trúc kim loại luôn tồn tại các điện tử tự do chuyển động về mọi hướng trong quỹ đạo của cấu trúc hạt nhân nguyên tử. Khi tiếp điểm bắt đầu mở ra lực nén vào tiếp điểm giảm dần khiến điện trở tiếp xúc tăng lên chỗ tiếp xúc dòng điện bị thắt lại mật độ dòng tăng rất lớn làm nóng các điện cực (nhất là ở cực âm nhiều e). Bị đốt nóng, động năng của các điện tử tăng nhanh đến khi công nhận được lớn hơn công thoát liên kết hạt nhân thì điện tử sẽ thoát ra khỏi bề mặt cực âm trở thành điện tử tự do. Quá trình này được gọi là phát xạ điện tử nhiệt.
1.3.2 Quá trình tự phát xạ điện tử
Khi tiếp điểm hay điện cực vừa mở ra lúc đầu khoảng cách còn rất bé dưới tác dụng của điện áp nguồn ngoài thì cường độ điện trường rất lớn, nhất là vùng cực âm có khoảng cách nhỏ có thể tới hàng triệu V/ cm. Với cường độ điện trường lớn ở cực âm một số điện tử có liên kết yếu với hạt nhân trong cấu trúc sẽ bị kéo bật ra khỏi bề mặt ca tốt trở thành các điện tử tự do, hiện tượng này gọi là tự phát xạ điện tử. Khi có điện tử tự phát xạ và phát xạ điện tử nhiệt năng lượng được giải phóng rất lớn làm nhiệt độ khu vực hồ quang tăng cao và phát sáng, đặc biệt khi cắt mạch ở điện áp cao và có dòng tải lớn thì hồ quang cháy và phát sáng rất mãnh liệt.
1.3.3 Quá trình Ion hóa do va chạm
Sau khi tiếp điểm mở ra, dưới tác dụng của nhiệt độ cao hoặc của điện trường lớn (mà thông thường là cả hai) thì các điện tử tự do sẽ phát sinh chuyển động từ cực dương sang cực âm. Do điện trường rất lớn nên các điện tử chuyển động với tốc độ rất cao. Trên đường đi các điện tử này bắn phá các nguyên tử và phân tử khí sẽ làm bật ra các điện tử và các ion dương. Các phần tử mang điện này lại tiếp tục tham gia chuyển động và bắn phá tiếp làm xuất hiện các phần tử mang điện khác. Do vậy mà số lượng các phần tử mang điện tăng lên không ngừng, làm mật độ điện tích trong khoảng không gian giữa các tiếp điểm rất lớn, đó là quá trình ion hóa do va chạm.
1.3.4 Quá trình Ion hóa do nhiệt
Do có các quá trình phát xạ điện tử và ion hóa do va chạm, một lượng lớn năng lượng được giải phóng làm nhiệt độ vùng hồ quang tăng cao và thường kèm theo hiện tượng phát sáng. Nhiệt độ khí càng tăng thì tốc độ chuyển động của các phần tử khí càng tăng và số lần va chạm do đó cũng càng tăng lên. Khi tham gia chuyển động cũng có một số phần tử gặp nhau sẽ kết hợp lại phân li thành các nguyên tử. Các nguyên tử khuếch tán vào môi trường xung quanh, gặp nhiệt độ thấp sẽ kết hợp lại thành phân tử, hiện tượng này gọi là hiện tượng phân li (phản ứng phân li thu nhiệt làm giảm nhiệt độ của hồ quang, tạo điều kiện cho khử ion). Còn lượng các ion hóa tăng lên do va chạm khi nhiệt độ tăng thì gọi đó là lượng ion hóa do nhiệt. Nhiệt độ để có hiện tượng ion hóa do nhiệt cao hơn nhiều so với nhiệt độ có hiện tượng phân li. Ví dụ không khí có nhiệt độ phân li khoảng 40000K còn nhiệt độ ion hóa khoảng 80000K.
Tóm lại, hồ quang điện phát sinh là do tác dụng của nhiệt độ cao và cường độ điện trường lớn sinh ra hiện tượng phát xạ điện tử nhiệt và tự phát xạ điện tử và tiếp theo là quá trình ion hóa do va chạm và ion hóa do nhiệt. Khi cường độ điện trường càng tăng (khi tăng điện áp nguồn), nhiệt độ càng cao và mật độ dòng càng lớn thì hồ quang cháy càng mãnh liệt. Quá trình có thoát năng lượng hạt nhân nên thường kèm theo hiện tượng phát sáng chói lòa. Nếu tăng áp lực lên môi trường hồ quang thì sẽ giảm được tốc độ chuyển động của các phần tử và do vậy hiện tượng ion hóa sẽ giảm.
1.4 Quá trình dập tắt hồ quang điện
Hồ quang điện sẽ bị dập tắt khi môi trường giữa các điện cực không còn dẫn điện hay nói cách khác hồ quang điện sẽ tắt khi có quá trình phản ion hóa xảy ra mạnh hơn quá trình ion hóa. Ngoài quá trình phân li đã nói trên, song song với quá trình ion hóa còn có các quá trình phản ion gồm hai hiện tượng sau:
Hiện tượng tái hợp
Trong quá trình chuyển động các hạt mang điện là ion dương và điện tử gặp được các hạt tích điện khác dấu là điện tử hoặc ion dương để trở thành các hạt trung hòa (hoặc ít dương hơn). Trong lí thuyết đã chứng minh tốc độ tái hợp tỉ lệ nghịch với bình phương đường kính hồ quang, và nếu cho hồ quang tiếp xúc với điện môi hiện tượng tái hợp sẽ tăng lên. Nhiệt độ hồ quang càng thấp tốc độ tái hợp càng tăng.
Hiện tượng khuếch tán
Hiện tượng các hạt tích điện di chuyển từ vùng có mật độ điện tích cao(vùng hồ quang) ra vùng xung quanh có mật độ điện tích thấp là hiện tượng khuếch tán. Các điện tử và ion dương khuếch tán dọc theo thân hồ quang, điện tử khuếch tán nhanh hơn ion dương. Quá trình khuếch tán đặc trưng bằng tốc độ khuếch tán. Sự khuếch tán càng nhanh hồ quang càng nhanh bị tắt. Để tăng quá trình khuếch tán người ta thường tìm cách kéo dài ngọn lửa hồ quang.
1.5 Hồ quang điện một chiều
1.5.1 Khái niệm chung
Xét quá trình xuất hiện hồ quang giữa hai điện cực trong mạch một chiều như hình 1.2
Hình 1.2
L
U0
+
_
R
rhq
i
Mạch điện có điện áp nguồn là U0 , điện trở mạch là R, điện cảm mạch là L và rhq đặc trưng cho điện trở hồ quang, với điện áp trên hồ quang là Uhq.
Phương trình cân bằng điện áp trong mạch khi ở tiếp điểm và hồ quang bắt đầu cháy như sau:
U0 = i.R + Uhq + L (1.1)
Khi hồ quang cháy ổn định thì cường độ điện trường không đổi i = I và có = 0
Phương trình cân bằng áp sẽ là:
Uhq = U0 - UR = U0 - I.R (1.2)
Các thành phần điện áp trong phương trình (1.1) được thể hiện trên hình 1.3:
Hình 1.3
IB
IA
Ldi/dt<0
B
UR
Uhq
Ldi/dt >0
1
0
2
3
A
U(v)
I(A)
Ldi/dt<0
U0
Với: đường 1-là điện áp nguồn; đường 2- là điện áp rơi trên điện trở R và đường 3- là đặc tính u(i) của hồ quang.
Theo đồ thị các đường đặc tính 2 và 3 giao nhau ở hai điểm A và B. Tại A và B phương trình (1.2) được thỏa mãn, các điểm A, B được gọi là hai điểm cháy của hồ quang .
-Xét tại B: Hồ quang đang cháy nếu vì một lí do nào đó làm dòng điện i tăng lớn hơn IB thì theo đồ thị ta nhận thấy sức điện động tự cảm trên L là L didt 0 sẽ làm i tăng trở lại giá trị IB, do vậy điểm B được gọi là điểm hồ quang cháy ổn định.
- Xét tại điểm A, khi hồ quang đang cháy ổn định với I = IA nếu vì một lí do nào đó i giảm nhỏ hơn IA thì L didt 0 nên dòng tiếp tục tăng đến IB và hồ quang cháy ổn định tại điểm B, vậy điểm A gọi là điểm hồ quang cháy không ổn định.
1.5.2. Điều kiện để dập tắt hồ quang điện một chiều
Để dập tắt hồ quang điện một chiều cần loại bỏ được điểm hồ quang điện cháy ổn định (điểm B) . Trên đặc tính ta nhận thấy sẽ không có điểm cháy ổn định khi đường đặc tính 3(điện áp trên hồ quang) cao hơn đường đặc tính 2 (là đặc tính điện áp rơi trên điện trở R), như hình 1.4 (tức là hồ quang sẽ tắt khi Uhq> Uo- UR). Để nâng cao đường đặc tính 3 thường thực hiện hai biện pháp là tăng độ dài hồ quang(tăng l) và giảm nhiệt độ vùng hồ quang xuống, đặc tính như hình 1.5a và 1.5 b
Hình 1.4
a Đặc tính khi kéo dài hồ quang
b Đặc tính khi giảm nhiệt độ hồ quang.
Hình 5.5 Đặc tính khi kéo dài và giảm nhiệt độ̣ hồ quang
1.5.3 phương pháp dập tắt hồ quang điện một chiều:
Dựa trên cơ sở phân tích như đã nêu trên có thể kết luận rằng, việc đập hồ quang điện một chiều cần thực hiện một trong hai điều kiện sau:
-Tăng cường đồ điện trường E trong hồ quang, tăng chiều đà hồ quang hoặc tăng tổn hao điện áp trên các cực anot và catot bằng cách tăng chiều dài bản cực hoặc bằng cách chia nhỏ hồ quang thành các hồ quang ngắn.
- Tăng điện trở hoặc giảm điện trở của mạch : Yêu cầu cơ bản đoói với cơ cấu dập hồ quang điện một chiều là nhanh chóng dập hồ quang nhưng đồng thời tránh được điện áp trong thiết bị khi cắt mạch. Hiện tượng quá điện áp thường suất hiện do trong cấu trúc mạch có thành phần điện cảm và điện dung. Khi cắt nhanh hồ quang, toàn bộ năng lượng tích lũy của điện cảm sẽ được cân bằng với năng lượng của điện dung, nghĩa là:
L I22 = CUmax22 suy ra Umax=LLC (1.3)
Hình 1.6 So sánh đặc tính V-A của hồ quang điện một chiều.
c)
b)
i
U(V)
2
1
l
DUM2
DUM
DUM1
a)
Trên hình 1.6 a giới thiệu đường đặc tính vôn ampe của cơ cấu dập hồ quang trong dầu (đường 1) và buồng dập hồ quang gồm các khe hở nhỏ (đường 2)
Khi hồ quang phát sinh trong dầu với dòng điện lớn, vai trò làm nguội và trung hòa ion của dầu bị hạn chế do xung quanh hồ quang có các bột khí với độ dẫn nhiệt thấp bao bọc. khi dòng giảm thấp dầu bao quanh có nhiều khả năng được tiếp xúc với hồ quang nên hiệu quả làm nguội tốt hơn làm tăng điện áp trên nó.
Dựa trên những phân tích ở trên người ta không dùng dầu biến áp để dập tắt hồ quang điện một chiều,mặt dù đối với dòng xoay chiều trong mạng điện cao áp được sử dụng rộng rãi. Đối với hồ quang dập tắt trong buồng gồm các khe hở, khi dòng lớn hồ quang biị biến dạng nên khả năng làm nguội tốt hơn do đó điện áp trên hồ quang cũng tăng đáng kể. hình 1.6 b. Khi dòng giảm xuống thấp tiết diện hồ quang giảm.hình 1.6 c , khả năng làm nguội giảm dẫn đến làm giảm cường độ điện trường và điện áp trên hồ quang.
1.5.4 Quá điện áp trong mạch điện một chiều
Khi cắt mạch điện một chiều thường xảy ra quá điện áp, khi ở mạch có điện cảm lớn nếu tốc độ cắt càng nhanh thì quá điện áp càng lớn.
Nếu tại thời điểm cắt có I= 0 thì : U0 = L didt + Uhq.
Uhq-U0= - L di dt= ΔU .
∆U là trị số quá điện áp xoay chiều. Trong mạch một chiều làm việc với công suất lớn lại có nhiều vòng dây khi dập hồ quang điện quá điện áp sẽ xảy ra rất lớn có thể gây đánh thủng cách điện và hư hỏng thiết bị. Để hạn chế hiện tượng quá điện áp người ta thường dùng thêm một mạch điện phụ mắc song song với phụ tải. Mạch này có thể là điện trở, điện trở và tụ nối tiếp hoặc một chỉnh lưu mắc ngược như hình 1.7 sau:
Hình 1.7
1.6 Hồ quang điện xoay chiều
1.61 Khái niệm chung
Đặc điểm của mạch xoay chiều là trong một chu kì biến thiên dòng điện có hai lần qua trị số i= 0. Khi có hồ quang thì tại thời điểm khi i= 0 quá trình phản ion hóa xảy ra mạnh hơn quá trình ion hóa. Khi i= 0 hồ quang không dẫn điện và đây là thời điểm tốt để dập tắt hồ quang điện xoay chiều.
Khi hồ quang điện xoay chiều đang cháy ta đưa dòng điện và điện áp của hồ quang vào dao động kí ta sẽ được dạng sóng của dòng điện và điện áp hồ quang như hình 1.8
Dòng điện có dạng sóng gần giống sóng hình sin còn điện áp thì trong một nửa chu kì có hai đỉnh nhọn tương ứng với hai giá trị điện áp cháy ( Uch) và điện áp tắt (Ut) của hồ quang điện. Từ dạng sóng thu được trên màn hình dao động kí ta xây dựng được đặc tính Vôn -Am pe (V-A) của hồ quang điện xoay chiều như hình 1.8
Ta nhận thấy ở thời điểm dòng điện qua trị số 0 nếu điện áp nguồn nhỏ hơn trị số điện áp cháy (Uch) thì hồ quang sẽ tắt. Do vậy quá trình dập hồ quang điện xoay chiều phụ thuộc rất nhiều vào tính chất của phụ tải.
U(V)
wt
Uch
Ut
it
U
Uch
Ut
I
Hình 1.8 Đặc tính của hồ quang điện xoay chiều
a)
b)
Ta nhận thấy trong mạch có phụ tải điện trở thuần dễ dập hồ quang hơn trong mạch có tải điện cảm, bởi ở mạch thuần trở khi dòng điện qua trị số không (thời gian i=0 thực tế kéo dài khoảng 0,1 μs thì điện áp nguồn cũng bằng không (trùng pha), còn ở mạch thuần cảm khi dòng bằng không thì điện áp nguồn đang có giá trị cực đại (điện áp vượt trước dòng điện một góc 900).
1.6.2. Dập tắt hồ quang điện xoay chiều
Hồ quang điện xoay chiều khi dòng điện qua trị số 0 thì không được cung cấp năng lượng. Môi trường hồ quang mất dần tính dẫn điện và trở thành cách điện. Nếu độ cách điện này đủ lớn và điện áp nguồn không đủ duy trì phóng điện lại thì hồ quang sẽ tắt hẳn. Để đánh giá mức độ cách điện của điện môi vùng hồ quang là lớn hay bé người ta dùng khái niệm điện áp chọc thủng. Điện áp chọc thủng ( Uch.t ) càng lớn thì mức độ cách điện của điện môi càng cao.
Quá trình dập tắt hồ quang điện xoay chiều không những tùy thuộc vào tương quan giữa độ lớn của điện áp chọc thủng với độ lớn của điện áp hồ quang mà còn phụ thuộc tương quan giữa tốc độ tăng của chúng. Nếu tốc độ tăng điện áp chọc thủng lớn hơn tốc độ phục hồi điện áp nguồn (hình 1.9 ):
1
2
150-250 V
I(A)
U(V)
Hình 1.9
0
đường 1 và đường 2 không giao nhau ở điểm nào) thì hồ quang sẽ tắt hoàn toàn. Trong các thiết bị điện khi tiếp điểm mở ra khoảng cách tăng dần làm cách điện điện môi tăng dần (đường 1), nửa chu kì sau càng dốc hơn nửa chu kì trước. Ngược lại, tốc độ phục hồi điện áp mà nhanh hơn tốc độ tăng của điện áp chọc thủng ( làm đường 1 và đường 2 giao nhau) thì hồ quang sẽ cháy lại.
Tóm lại : để dập tắt hồ quang điện xoay chiều hoàn toàn thì ta phải làm sao để độ tăng điện áp chọc thủng (đường 1) vượt cao hơn đỉnh của đường biểu diễn điện áp phục hồi hồ quang (đường 2). Khi điện áp nguồn là 1000V thì trong lúc dòng điện qua trị số 0 sau khoảng 0,1 μs mức độ cách điện khu vực này đạt đến giá trị xuyên thủng tức thời khoảng 150 đến 250V.
1.7. Biện pháp và trang bị dập hồ quang trong các thiết bị điện
1.7.1. Các biện pháp và trang bị để dập hồ quang trong thiết bị điện cần phải đảm bảo yêu cầu:
-Trong thời gian ngắn phải dập tắt được hồ quang, hạn chế phạm vi cháy hồ quang là nhỏ nhất.
-Tốc độ đóng mở tiếp điểm phải lớn.
-Năng lượng hồ quang sinh ra phải bé, điện trở hồ quang phải tăng nhanh.
-Tránh hiện tượng quá điện áp khi dập hồ quang.
1.7.2. Các nguyên tắc cơ bản để dập hồ quang điện
-Kéo dài ngọn lửa hồ quang.
-Dùng năng lượng hồ quang sinh ra để tự dập.
-Dùng năng lượng nguồn ngoài để dập.
-Chia hồ quang thành nhiều phần ngắn để dập.
-Mắc thêm điện trở song song để dập.
1.7.3. Trong thiết bị điện hạ áp thường dùng các biện pháp và trang bị sau
- Kéo dài hồ quang điện bằng cơ khí
Đây là biện pháp đơn giản thường dùng ở cầu dao công suất nhỏ hoặc ở rơle. Kéo dài hồ quang làm cho đường kính hồ quang giảm, điện trở hồ quang sẽ tăng dẫn đến tăng quá trình phản ion để dập hồ quang. Tuy nhiên biện pháp này chỉ thường được dùng ở mạng hạ áp có điện áp nhỏ hơn hoặc bằng 220V và dòng điện tới 150 A. Đây là biện pháp đơn giản thường dùng ở cầu dao công suất nhỏ hoặc rơle.
- Dùng cuộn dây thổi từ kết hợp buồng dập hồ quang
Người ta dùng một cuộn dây mắc nối tiếp với tiếp điểm chính tạo ra một từ trường tác dụng lên hồ quang để sinh ra một lực điện từ kéo dài hồ quang. Thông thường biện pháp này kết hợp với trang bị thêm buồng dập bằng amiăng. Lực điện từ của cuộn thổi từ sẽ thổi hồ quang vào tiếp giáp amiăng làm tăng quá trình phản ion.
- Dùng buồng dập hồ quang có khe hở quanh co
Buồng được dùng bằng amiăng có hai nửa lồi lõm và ghép lại hợp thành những khe hở quanh co (khi đường kính hồ quang lớn hơn bề rộng khe thì gọi là khe hẹp).
Khi cắt tiếp điểm lực điện động sinh ra sẽ đẩy hồ quang vào khe quanh co sẽ làm kéo dài và giảm nhiệt độ hồ quang.
- Phân chia hồ quang ra làm nhiều đoạn ngắn
Trong buồng hồ quang ở phía trên người ta người ta đặt thêm nhiều tấm thép non. Khi hồ quang xuất hiện, do lực điện động hồ quang bị đẩy vào giữa các tấm thép và bị chia ra làm nhiều đoạn ngắn. Loại này thường được dùng ở lưới một chiều dưới 220 V và xoay chiều dưới 500 V.
- Tăng tốc độ chuyển động của tiếp điểm động
Người ta bố trí các lá dao động, có một lá chính và một lá phụ (thường là ở cầu dao) hai lá này nối với nhau bằng một lò xo, lá dao phụ cắt nhanh do lò xo đàn hồi(lò xo sẽ làm tăng tốc độ cắt dao phụ) khi kéo dao chính ra trước .
Cầu dao
1-Tiếp điểm động (thân dao).
2-Tiếp điểm tĩnh (má dao) .
3-Lưỡi dao phụ
4-Lò xo .
5-Tay cầm bằng vật liệu cách điện.
6- Đế cách điện.
- Kết cấu tiếp điểm kiểu bắc cầu
Một điểm cắt được chia ra làm hai tiếp điểm song song nhau, khi cắt mạch hồ quang được phân chia làm hai đoạn và đồng thời do lực điện động ngọn lửa hồ quang sẽ bị kéo dài ra làm tăng hiệu quả dập.
1.7.4 Các biện pháp và trang bị dập hồ quang ở thiết bị điện trung và cao áp
- Dập hồ quang trong dầu biến áp kết hợp phân chia hồ quang
Ở các máy cắt trung áp các tiếp điểm cắt được ngâm trong dầu biến áp, khi cắt hồ quang xuất hiện sẽ đốt cháy dầu sinh ra hỗn hợp khí (chủ yếu là H) làm tăng áp suất vùng hồ quang, đồng thời giảm nhiệt độ hồ quang. Các máy cắt điện áp cao mỗi pha thường được phân ra làm nhiều chỗ ngắt.
- Dập hồ quang bằng khí nén
Dùng khí nén trong bình có sẵn hoặc hệ thống ống dẫn khí nén để khi hồ quang xuất hiện (tiếp điểm khi mở) sẽ làm mở van của bình khí nén, khí nén sẽ thổi dọc hoặc ngang thân hồ quang làm giảm nhiệt độ và kéo dài hồ quang.
MC có bình cắt (buồng dập HQ) nằm trong bình chứa khí nén
- Dập hồ quang bằng cách dùng vật liệu tự sinh khí
Thường dùng trong cầu chì trung áp, khi hồ quang xuất hiện sẽ đốt cháy một phần vật liệu sinh khí(như thủy tinh hữu cơ,...) sinh ra hỗn hợp khí làm tăng áp suất vùng hồ quang.
- Dập hồ quang trong chân không
Người ta đặt tiếp điểm cắt trong môi trường áp suất chỉ khoảng 10-6 đến 10-8 N/ cm2.
Ở môi trường này thì độ bền điện cao hơn rất nhiều độ bền điện của không khí nên hồ quang nhanh chóng bị dập tắt.
Ưu: của MC chân không là kích thước nhỏ gọn, không gây ra cháy nổ, tuổi thọ cao khi cắt dòng định mức ( đến 10000 lần ), gần như không cần bảo dưỡng định kỳ. Loại máy này dùng chủ yếu ở lưới trung áp với dòng điện định mức đến 3000A, dòng cắt đến 50 kA, chủ yếu được lắp đặt trong nhà.
MC chân không được chế tạo để đóng cắt trong mạng 6, 10 , 15 , 22 và 35 KV với công suất cắt không lớn (đến 1000 - 2000 MVA).
- Dập hồ quang trong khí áp suất cao
Khí được nén ở áp suất tới khoảng 200 N/cm2 hoặc cao hơn sẽ tăng độ bền điện gấp nhiều lần không khí. Trong các máy cắt điện áp cao và siêu cao áp hiện nay thường sử dụng khí SF6 được nén trong các bình khí nén để dập hồ quang. Hồ quang dập trong môi trường SF6 rất đảm bảo(bởi vì ngay cả ở điều kiện áp suất thường hồ quang cũng đã tắt nhanh trong môi trường khí SF6).
a)
Hình 1.10 Các biện pháp dập hồ quang điện thường dùng.
a) chia hồ quang thành nhiều đoạn nhỏ.
b) Dập hồ quang trong khe dập buồng hẹp.
c) Di chuyển hồ quang trong từ trường.
d) Dập hồ quang trong dầu.
b)
F
d)
H
S
F
c)
+
CHƯƠNG II ỨNG DỤNG CỦA HỒ QUANG ĐIỆN.
2.1 Hàn điện: Hàn Hồ Quang Tay/ Hàn Que
2.1.1 Định nghĩa Hàn Hồ Quang Tay
Hàn hồ quang tay ( hay còn gọi là hàn que ) là quá trình hàn điện nóng chảy sử dụng điện cực dưới dạng que hàn (thường có vỏ bọc) và không sử dụng khí bảo vệ ,trong đó tất cả các thao tác (gây hồ quang ,dịch chuyển que hàn ,thay que hàn ,vv..) đều do người thợ hàn thực hiện bằng tay.
Các tên gọi:
SMAW (Shielded metal arc welding)
MMA (Mannual metal arc)
Flux shielded arc welding
Stick welding
2.1.2 Đặc điểm Hàn Hồ Quang Tay:
Hàn được ở mọi tư thế trong không gian.
Dùng được cả dòng một chiều(DC) và xoay chiều(AC).
Năng suất thấp do cường độ hàn bị hạn chế.
Hình dạng ,kích thước và thành phần hóa học mối hàn không đồng đều do tốc độ hàn bị dao động ,làm cho phần kim loại cơ bản tham gia vào mối hàn thay đổi.
Chiều rộng vùng ảnh hưởng nhiệt tương đối lớn do tốc độ hàn nhỏ.
Bắn tóe kim loại lớn và phải đánh xỉ.
Điều kiện làm việc của thợ hàn mang tính độc hại(do tiếp xúc bức xạ,hơi,khí độc).
Dễ tạo khuyết tật nên chất lượng mối hàn không cao.
2.1.3 Phạm vi ứng dụng Hàn Hồ Quang Tay:
Do tính linh hoạt ,sự đơn giản của thiết bị và quy trình hoạt động của hàn hồ quang tay,nên nó là phương pháp hàn phổ biến nhất trên thế giới.
Thích hợp cho hàn các chiều dày nhỏ và trung bình ở mọi tư thế trong không
gian.
Chiếm ưu thế so với phương pháp hàn khác trong công nghiệp sữa chữa và phục hồi.
Sử dụng rộng rãi trong xây dựng kết cấu thép và chế tạo công nghiệp.
Thường hàn thép các bon ,thép hợp kim cao và thấp,thép không gỉ,gang xám và gang dẻo.Ít phổ biến cho hàn kim loại màu :Niken,Đồng ,nhôm và hợp kim của chúng.
2.1.3 Lịch sử phát triển:
Năm 1881 Auguste De Meritens là người thực hiện thành công ý tưởng dùng hồ quang điện cực các bon nối các tấm chì với nhau.
Năm 1887 Nikolai Bernados được cấp bằng sáng chế của Anh quốc cho phương pháp sử dụng hồ quang của điện cực các bon để hàn các chi tiết bằng công nghệ hàn tay.
Năm 1889,độc lập với nhau,N. G Slavianov(người Nga) và Chairles coffin(người Mỹ) đều được cấp bằng sáng chế cho phương pháp hồ quang tay có sử dụng điện cực kim loại,thay vì điện cực các bon .
Năm 1907 Oscar kjellberg(người Thụy Điển) được cấp bằng sáng chế cho hàn hồ quang tay bằng que hàn có vỏ bọc mà chúng hay dùng ngày nay.
2.2 Lò hồ quang
2.2.1 khái niệm
Lò hồ quang là loại lò mà nhiệt nung chảy kim loại được tạo ra do sự phóng điện giữa hai điện cực. kích cỡ của một chiếc lò hồ quang từ năng suất một vài tấn dùng trong nấu gan cho đến 400 tấn dùng co luyện thép (gần giống với lò mà các nhà nghiên cứu dùng trong phòng thí nghiệm với kích cỡ vài gam). Nhiệt độ bên trong lò hồ quang có thể lên tới 2000 độ C.
2.2.2 Lịch sử ra đời của lò hồ quang:
Chiếc lò hồ quang đầu tiên được phát triển bởi một người Pháp. Sau đó được xây dựng theo quy mô công nghiệp hang loạt ở mỹ vào năm 1907. Vào lúc đó thép lò hồ quang vẫn là một tên loại đặc biệt dùng làm dụng cụ cơ khí và lò xo. Lò hồ quang cũng dùng để sản xuất đất đèn xì. Vào thế kỉ 19 có một vài người đi tiên phong xây dựng lò hồ quang để nấu thép. Humphry Davy dẫn ra mô hình thực nghiệm, sau đó công nghệ hàn được Pepys tìm ra năm 1815. Pinchon thử xây lò nhiệt điện vào năm 1853, và vào những năm 1878-1879 William Siêmns sáng chế ra phần điện của lò hồ quang, giữa hai lò hồ quang và nhiệt điện có sự khác biệt.
2.2.3 Về kết cấu:
Một lò hồ quang luyện thép được bao bọc lớp tường xây dựng bằng vật liệu chịu lửa và phần lớn kích thước giành cho bộ phận làm mát bằng nước. nắp lò có dạng như một cái nắp trên có gắn các điện cực bằng than mà có thể nhấc lên hạ xuống được. với loại AC thường sử dụng 3 điện cực bằng than. Điện cực phần lớn có dạng tiết diện tròn thường chúng có dạng từng đoạn một, giữa các đoạn được gắn kết với nhau bằng vật liệu bọc điện cực, khi hoạt động các điện cực bị mòn dần đi và ta phải thay thế dần chúng trong quá trình hoạt động. Hồ quang giữa vật liệu mang điện và điện cực sẽ sinh ra nhiệt làm nóng chảy thép.
Trong quá trình hoạt động các điện cực sẽ được tự động nâng lên và hạ xuống bởi bộ phận định vị, thông qua các cơ cấu nâng sử dụng điện hay xilanh thủy lực. ngoài ra còn có hệ thống kiểm soát dòng điện vào lò và duy trì nó ở mức gần như không đổi trong suốt quá trình nấu chảy kim loại và kể cả dòng chạy qua khối lượng đang nấu trong lò. Bộ phận nắm giữ các điện cực được làm mát bởi các ống đồng bên trong có nước, hiện nay người ta thay bằng vật liệu mà vừa chịu được nhiệt độ cao vừa đảm bảo dẫn được điện vào trong lò mệnh đang là “hot arm” để tăng hiệu quả hơn. Hệ thống ống nước làm mát được đặt cùng với hệ thống điện từ máy biến áp đặt kề ngay cạnh lò. Để bảo vệ máy biến áp khỏi nhiệt do lò phát ra người ta lắp đặt nó ở trong một hộp kín.
Vật liệu chịu lửa không được dùng để xây nắp lò mà nắp lò và một số bộ phận khác được làm mát bằng nước. đáy lò có hình giống như một cái bát, dưới được xây dựng bằng gạch chịu lửa và vật liệu chịu lửa dạng hạt. Lò được xây trên nền phẳng, trong quá trình hoạt động thép lỏng có thể được rót ra từ lò thông qua cơ cấu vận chuyển. Bộ phận dùng để rót thép lỏng gọi là cửa rót hay ‘tapping’ trước kia một số kiểu lò cũ sữ dụng gầu rót cũ bằng gạch chịu nhiệt và khi rót phải nghiêng lò còn bây cửa rót được thiết kế ở đáy giúp cho việc thực hiện phản ứng hoàn nguyên Nitơ và tháo xỉ được dễ dàng hơn. Một số kiểu lò mới hiện nay sử dụng hai vỏ mỗi vỏ một điện cực, lớp thứ nhất có nhiệm vụ nung nóng ban đầu phôi liệu thứ hai có nhiệm vụ nung chảy phần liệu đã chảy lỏng ở trên rơi xuống. kiểu lò DC có cấu tạo tương tư như lò AC nhưng ứng với mỗi lớp lại có một bồ điện cực riêng.
Một lò hồ quang kích cỡ trung bình sử dụng máy biến áp với công suất khoảng 60000000 VA( tức 60MVA) với điện áp thứ cấp khoảng 800V và dòng điện vào khoảng trên 44000 A. ở những mẫu lò hiện đại ngày nay có năng suất khoảng 55 tấn thép lỏng trong khoảng 77 phút đi từ liệu sắt ở trạng thái nguội. Mỗi một mẽ như thế người ta gọi là mẻ liệu.
Để sản xuất một lượng thép như thế người ta phải tiêu tốn khoảng 400KW điện trong một giờ cho một tấn thép. Như thế có nghĩa là luyện thép bằng lò luyện hồ quang chỉ đem lại hiệu quả kinh tế ở những nơi có nguồn cung cấp điện dồi dào với một luói điện tốt.
2.2.4 Vận hành lò hồ quang:
Trước tiên là phải phối liệu thép vụn được phân theo kích cỡ cách tự động và được xếp vào trong lò, ngoài ra các cục thép to được cho vào để đóng vai trò trong quá trình hoàn nguyên trực tiếp người ta còn cho thêm vào thép thỏi để cân bằng thành phần hóa học trong thép. Các cục thép to được xếp vào hàng giữa ngay dưới các điện cực phía trên là các mảnh thépvụn, phải đảm bảo độ kín khít để hồ qang phóng điện đều đặn và liên tục. Sau khi xếp xong liệu cần được sáy sơ bộ để đảm bảo hiệu quả nấu chảy.
2.2.5 Các phản ứng xảy ra trong lò hồ quang
sau khi xếp kim loại và đưa điện cực xuống gần kim loại đóng mạch điện tạo ngọn lửa hồ quang làm cho kim loại nóng chảy, thì một phần sắt bị ôxy hóa vì tiếp xúc với ôxy trong lò. Sau khi kim loại chảy để tăng lượng sắt hai oxit trong kim loại ta thêm các chất ôxy hóa vào lò như quặng sắt hay vẫy sắt:
Fe2O3+Fe→FeO
Ôxít sắt hai FeO hòa tan vào kim loại và ôxi hóa các tạp Si, Mn, C,P. Còn cho thêm vôi CaO để khử P ra khỏi kim loại. tiếp theo ta khử S và Ôxi bằng vôi và than cốc nghiền nhỏ. S tách ra khỏi thép và lẫn vào xĩ theo phản ứng:
FeS +CaO +C→ Fe + CaS +CO
ở nhiệt độ cao than cốc tác dụng với vôi:
CaO + 3C→ CaC2 + CO
CaC2 là chất khử ôxi mạnh nó hoàn nguyên sắt từ FeO chứa trong kim loại và trong xĩ:
3 FeO + CaC2→ 3Fe +CaO + 2CO
Mangan cũng hoàn nguyên từ ôxít mangan
3MnO + CaC2 →3 Mn +CaO + CO
Khí CO bay ra sẽ khử ôxi trong lò. Khi đó ta thêm những nguyên tố hợp kim cần thiết
Sản phẩm của lò
Sản phẩm được sử dụng rộng rãi để luyện các loại thép,hợp kim thép gió, thép dụng cụ và các loại thép chất lượng cao.
2.3 Đèn chiếu sáng:
2.3.1 Đèn huỳnh quang
a) Hoạt động của đèn huỳnh quang
Kỹ sư người Mỹ Peter Cooper Hewitt
Từ khi được kỹ sư người Mỹ Peter Cooper Hewitt sáng chế vào năm 1902 và được phổ biến từ 1939 đến nay, đèn huỳnh quang được cải tiến để sử dụng rộng rãi từ gia đình cho đến các cửa hàng, văn phòng, đường phố… với vô số kiểu dáng, màu sắc, kích thước, công suất tùy theo công dụng của chúng.
b) Sự phát sáng của đèn huỳnh quang
Đèn huỳnh quang có cấu tạo gồm hai bộ phận chính đó là ống tuýp đèn và hai điện cực ở hai đầu. Cơ chế phát sáng của đèn huỳnh quang khá phức tạp điễn ra bên trong ống thủy tinh hình trụ bịt kín. Ống được hút chân không, bên trong có một chút thủy ngân và được bơm đầy khí trơ, thường là khí argon hay neon. Mặt bên trong ống được tráng một lớp lớp huỳnh quang tức là bột phốt pho. Ống có hai điện cực ở hai đầu, được nối với mạch điện xoay chiều.
Khi ta bật công tắc đèn sẽ xảy ra hiện tượng hồ quang điện tức là sự phóng điện trong khí trơ để kích thích tạo ra ánh sáng. Hiện tượng này như sau: Khi dòng điện đi vào và gây ra một hiệu điện thế lớn giữa các điện cực thì các dây tóc trên các đầu điện cực nóng lên, phát xạ ra các hạt electron di chuyển trong ống với vận tốc cao từ đầu này đến đầu kia. Trên đường vận động, chúng va chạm vào các phân tử khí trơ làm phóng ra nhiều các hạt ion hơn.
Các loại đèn huỳnh quang nhiều màu sắc, kiểu dáng
Quá trình này tỏa nhiệt sẽ làm thủy ngân trong ống hóa hơi. Khi các electron và ion di chuyển trong ống, chúng sẽ va chạm vào các nguyên tử khí thủy ngân. Những va chạm này sẽ làm các nguyên tử thủy ngân phát xạ ra các photon ánh sáng cực tím tức là các tia tử ngoại mà mắt thường không thấy được. Do đó, loại ánh sáng này cần phải được chuyển đổi thành ánh sáng nhìn thấy để thắp sáng bóng đèn và đây chính là nhiệm vụ của lớp huỳnh quang trong ống.
Khi những tia cực tím này va chạm vào mặt trong bóng đèn, nó sẽ làm cho các nguyên tử phốt pho giải phóng ra các hạt photon dạng tia hồng ngoại với ánh sáng trắng mắt thường có thể thấy được mà không sinh ra nhiệt lượng lớn. Các nhà sản xuất có thể thay đổi màu sắc của ánh sáng bằng cách sử dụng các hợp chất huỳnh quang khác nhau.
Trong các loại bóng đèn sợi đốt, chúng cũng phát ra một ít tia tử ngoại nhưng không được chuyển đổi sang tia hồng ngoại như cơ chế của đèn huỳnh quang. Đồng thời các đèn sợi đốt cũng tỏa nhiệt nhiều hơn bởi các sợi tóc nóng sáng do đó làm lãng phí năng lượng. Chính vì vậy, một bóng đèn huỳnh quang có hiệu suất phát sáng hiệu quả hơn một bóng đèn sợi đốt thông thường từ 4-6 lần với tuổi thọ khoảng 8.000 giờ.
c) Hoạt động của đèn huỳnh quang
Đèn huỳnh quang là dạng đèn phóng điện trong môi trường khí. Sự phóng điện trong môi trường khí không giống như trong dây dẫn, vì để có được sự phóng điện trong ống đòi hỏi phải có một hiệu điện thế hay điện áp ban đầu đủ lớn giữa hai điện cực để tạo ra hồ quang điện kích thích sự phát sáng. Do vậy, bóng đèn cần phải mồi phóng điện nhờ hai bộ phận là chấn lưu hay còn gọi là tăng phô và tắc te (starter).
- Chấn lưu: Chấn lưu được mắc nối tiếp với hai đầu điện cực, có tác dụng điều chỉnh và ổn định tần số của dòng điện. Nó là một cuộn dây cảm kháng có tác dụng duy trì độ tự cảm tức là điện áp rơi trên nó để điện áp trên bóng luôn khoảng từ 80 -140V.
- Tắc te: Tắc te được mắc song song với hai đầu điện cực. Bản chất của nó là một tụ điện dùng rơle nhiệt lưỡng kim, bên trong chứa khí neon. Khi có dòng điện đi qua, hai cực của nó tích điện đến một mức nào đó thì phóng điện. Nó có tác dụng khởi động đèn ban đầu.
Khi bật công tắc, lúc này điện áp giữa hai đầu cực là 220V chưa đủ lớn để phóng điện. Khi đó, vì tắc te mắc song song với bóng đèn nên nó cũng có điện áp là 220V và đóng vai trò như con mồi sẽ phóng điện khiến hai mạch của nó nóng lên chạm vào nhau khép kín mạch điện
. Tuy nhiên, sau một lúc nó sẽ bị nguội đi và co lại gây hở mạch đột ngột. Khi đó cuộn chấn lưu sẽ bị mất điện áp và sẽ sinh ra một suất điện động chống lại sự mất của dòng điện ban đầu. Lúc này trên hai điện cực của đèn có điện áp bằng tổng điện áp trên chấn lưu cộng với điện áp đầu vào là 220V gây ra một tổng điện áp khoảng 350V đến 400V giữa hai điện cực bóng đèn (tùy vào đèn bị lão hóa, đen đầu nhiều hay ít). Khi đó, nó sẽ tạo thành một nguồn điện cao nung nóng dây tóc bóng đèn, hiện tượng hồ quang điện như đã giải thích ở trên sẽ xảy ra và đèn phát sáng. Nếu đèn chưa cháy thì tắc te sẽ phải khởi động vài lần gây nên hiện tượng “chớp tắt” mà chúng ta thường thấy.
Đồng thời, khi đèn đã sáng lên, chấn lưu lại có nhiệm vụ giảm điện áp lên bóng đèn, duy trì ở mức 80 - 140V tùy theo từng loại đèn. Tắc te lúc này không còn tác dụng vì điện áp đặt lên hai đầu tắc te nhỏ hơn điện áp hoạt động của nó và đèn sáng liên tục.
Sử dụng chấn lưu điện từ có ưu điểm là rẻ tiền, dễ lắp ráp sửa chữa, tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là khởi động chậm, hay khó khởi động khi giảm áp lưới điện. Do vậy, người ta có thể thay thế bằng loại chấn lưu điện tử không cần tắc te có thể khởi động ngay lập tức do đó tiết kiệm hơn nhưng cũng đắt hơn.
Ngày nay, với chủ trương tiết kiệm điện và sử dụng năng lượng hiệu quả của Nhà nước thì việc sử dụng các loại đèn huỳnh quang, compact huỳnh quang không những gọn nhẹ lại tiết kiệm chi phí với hiệu suất cao hơn bóng đèn sợi đốt nhiều lần.
C KẾT LUẬN
Tóm lại nghiên cứu hồ quang điện đóng vai trò quang trọng trong đời sống, đặc biệt là trong thời đại công nghiệp hiện nay.nó đã và đang là đầu mối dẫn kỹ thuật tới những phát minh khoa học cho những công nghệ tiên tiến ngày nay. Những nổ lực nghiên cứu trong quá khứ về hiện tượng này đã để lại nhiều dấu ấn đáng ghi nhận thậm chí đã vươn tới những ứng dụng vào thực tế, mang lại những thắng lợi trên nhiều phương diện cho con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 giáo trình điện và từ của lưu Thế Vinh NXB ĐH quốc gia TP HỒ CHÍ MINH- 2008
2 Điện Học - Vũ Thanh Khiết.NXB ĐH quốc gia HN
3 Điện và Từ - Tôn Tích Ái
4 TaiLieu.VN: Tài Liệu Hồ Quang điện - Thư Viện eBook, Tài Liệu ...
5 Google - Hình ảnh cho hồ quang điện.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- huynh_thi_vien_2245.docx