PHẦN MỞ ĐẦU Tổ chức phi chính phủ là một lực lượng quan trọng trong lĩnh vực cứu trợ nhân đạo và phát triển xã hội. Trong quá trình phát triển xã hội, bên cạnh những nỗ lực của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ đã góp một phần vào quá trình nhằm cải thiện cuộc sống của những người nghèo, những người bị thiệt thòi trong xã hội, các nạn nhân bị thiên tai và chiến tranh giúp tự phát triển một cách bền vững.
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá, thường xuyên bị thiên tai đe doạ, cuộc sống của nhân dân, nhất là ở vùng miền núi, ven biển miền Trung, còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã không ngừng nỗ lực đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng xã hội. Trong đó, xóa đói giảm nghèo là chiến lược của chính phủ nhằm xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế VIỆT NAM. TCPCPNN cùng với những hoạt động thiết yếu của mình là một trong số những loại hình tổ chức có vai trò quan trọng không nhỏ đối với sự nghiệp xóa đói giảm nghèo của nước ta.
I- MỤC ĐÍCH
- Tìm hiểu hệ thống văn bản pháp luật quy định về quản lý TCPCPNN, bổ sung kiến thức pháp luật cho bản thân.
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo của TCPCPNN tại Việt Nam gồm những kết quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại cũng như nguyên nhân của chúng. Từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường sự quản lý của nhà nước.
- Nâng cao các kĩ năng trong công tác nghiên cứu khoa học, củng cố và bổ sung thêm nhiều những kiến thức cần thiết của môn học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
II- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu chung: Phương pháp biện chứng duy vật, biện chứng lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống tư tưởng chính trị của Đảng làm nòng cốt cho việc nghiên cứu.
- Ngoài ra, bài tiểu luận còn sử dụng các phương pháp khác mang tính chuyên môn như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
I- MỤC ĐÍCH 2
II- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
PHẦN NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TC PCPNN HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM 5
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TC PCPNN HOẠT ĐỘNG TẠI VIỆT NAM 5
1- Sơ lược về tổ chức phi chính phủ nước ngoài 5
2- Quá trình hoạt động của TC PCPNN tại Việt Nam 5
II- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TC PCPNN HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM 7
III- NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ TC PCPNN 9
1- Các văn bản qui phạm pháp luật qui định 10
2- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với TC PCPNN tại Việt Nam 11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TC PCPNN TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM 13
I- HIỆN TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM 13
II- HIỆN TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA CÁC TC PCPNN TẠI VIỆT NAM 15
1- Kết quả đạt được 15
2- Những hạn chế, tồn tại 19
III- NGUYÊN NHÂN 20
1- Nguyên nhân khách quan 20
2- Nguyên nhân chủ quan 21
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA TC PCPNN TẠI VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 22
I- CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 24
II- CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA CÁC TC PCPNN TẠI VIỆT NAM 26
PHẦN KẾT LUẬN 26
29 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9476 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
BÀI TIỂU LUẬN
Môn: QLNN về tổ chức Phi chính phủ
Đề tài: Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Thu – Lớp KH7D
Phan Thị Yến – Lớp KH7D
Hà Nội, tháng 12/2009
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
MỤC ĐÍCH 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
PHẦN NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TC PCPNN HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM 5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TC PCPNN HOẠT ĐỘNG TẠI VIỆT NAM 5
Sơ lược về tổ chức phi chính phủ nước ngoài 5
Quá trình hoạt động của TC PCPNN tại Việt Nam 5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TC PCPNN HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM 7
NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ TC PCPNN 9
Các văn bản qui phạm pháp luật qui định 10
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với TC PCPNN tại Việt Nam 11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TC PCPNN TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM 13
HIỆN TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM 13
HIỆN TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA CÁC TC PCPNN TẠI VIỆT NAM 15
Kết quả đạt được 15
Những hạn chế, tồn tại 19
NGUYÊN NHÂN 20
Nguyên nhân khách quan 20
Nguyên nhân chủ quan 21
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA TC PCPNN TẠI VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 22
CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 24
CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA CÁC TC PCPNN TẠI VIỆT NAM 26
PHẦN KẾT LUẬN 26
PHẦN MỞ ĐẦU
Tổ chức phi chính phủ là một lực lượng quan trọng trong lĩnh vực cứu trợ nhân đạo và phát triển xã hội. Trong quá trình phát triển xã hội, bên cạnh những nỗ lực của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ đã góp một phần vào quá trình nhằm cải thiện cuộc sống của những người nghèo, những người bị thiệt thòi trong xã hội, các nạn nhân bị thiên tai và chiến tranh giúp tự phát triển một cách bền vững.
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá, thường xuyên bị thiên tai đe doạ, cuộc sống của nhân dân, nhất là ở vùng miền núi, ven biển miền Trung, còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã không ngừng nỗ lực đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để đạt được mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng xã hội. Trong đó, xóa đói giảm nghèo là chiến lược của chính phủ nhằm xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế VIỆT NAM. TCPCPNN cùng với những hoạt động thiết yếu của mình là một trong số những loại hình tổ chức có vai trò quan trọng không nhỏ đối với sự nghiệp xóa đói giảm nghèo của nước ta
MỤC ĐÍCH
- Tìm hiểu hệ thống văn bản pháp luật quy định về quản lý TCPCPNN, bổ sung kiến thức pháp luật cho bản thân.
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo của TCPCPNN tại Việt Nam gồm những kết quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại cũng như nguyên nhân của chúng. Từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường sự quản lý của nhà nước.
- Nâng cao các kĩ năng trong công tác nghiên cứu khoa học, củng cố và bổ sung thêm nhiều những kiến thức cần thiết của môn học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu chung: Phương pháp biện chứng duy vật, biện chứng lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống tư tưởng chính trị của Đảng làm nòng cốt cho việc nghiên cứu.
- Ngoài ra, bài tiểu luận còn sử dụng các phương pháp khác mang tính chuyên môn như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học…
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TCPCPNN TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TC PCPNN TẠI VIỆT NAM
1. Khái quát về tổ chức phi chính phủ
+ Theo luật pháp một số nước, các tổ chức TCPCP bao gồm các chủ thể có tư cách pháp nhân, là những tổ chức không thuộc chính phủ như các Viện, các tổ chức tư nhân hay công cộng hoặc các Quỹ. Các tổ chức phi chính phủ - đó là những tổ chức phi lợi nhuận, được lập ra hợp pháp và có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước đó và theo phap luật của nước cho đặt trụ sở chính. nước đó và theo pháp + Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, các TCPCP là bất kỳ tổ chức quốc tế nào được lập ra không phải do một thoả thuận liên chính phủ quốc tế, nhưng TCPCP đó có thể bao gồm các tổ chức có thành viên do chính phủ cử ra, với điều kiện thành viên đó không được can thiệp vào quyền tự do bày tỏ ý kiến của tổ chức đó.
Tóm lại, đó là những tổ chứ được thành lập ở các quốc gia khác tham gia vào hoạt động cứu trợ và phát triển tại nước ta, trên cơ sở tự nguyện và không vì mục đích lợi nhuận.
2. Quá trình hoạt động của TCPCPNN tại Việt Nam:
Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã vào Việt Nam từ nhiều thập kỷ qua. Việc mở rộng quan hệ với các TCPCPNN là một mảng trong quan hệ ngoại giao nhân dân, nó gắn liền với đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và tình hình phát triển qua từng giai đoạn của đất nước Việt Nam:
Trước tháng 5/1975, nhiều TCPCPNN đã hoạt động tại Việt Nam, nhưng chủ yếu ở miền Nam, chỉ có rất ít tổ chức viện trợ cho miền Bắc. Ở miền Nam Việt Nam , từ năm 1954 các TCPCPNN bắt đầu hoạt động và tăng nhanh, đến cuối năm 1974 đã có khoảng trên 60 TCPCPNN hoạt động tại miền Nam. Các tổ chức này chủ yếu hoạt động trong vùng Mỹ - ngụy chiếm đóng với mục đích chính là cứu trợ những người di cư từ Bắc vào Nam và sau đó là những nạn nhân của cuộc chiến tranh của Mỹ. Các TCPCPNN đã rút khỏi miền Nam sau ngày 30/4.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Việt Nam thống nhất đất nước, hoạt động của các TCPCPNN tăng nhanh. Mặc dù vậy các hoạt động này bị ảnh hưởng của những biến động chính trị trong khu vực và Việt Nam nên có lúc suy giảm đáng kể. Tuy nhiên cho đến nay cùng với sự ổn định của nền chính trị, sự mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và trên thế giới trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã thu hút nhiều tổ chức phi chính phủ nước ngoài đến với Việt Nam cùng với giá trị viện trợ ngày càng tăng. Điều đó được thể hiện qua các số liệu như năm 2008: có khoảng 630 tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam với giá trị giải ngân là 230 triệu USD/năm, đến thống kê chỉ mới 6 tháng đầu năm 2009 thì đã tăng lên 650 tổ chức phi chính phủ nước ngoài với giá trị giải ngân là: 100 triệu USD
Tình hình về hoạt động viện trợ của các TCPCPNN:
Viện trợ của các TCPCPNN thường rất đa dạng và không ổn định. Phương thức hoạt động cơ bản của các TCPCPNN là trực tiếp làm dự án và trực tiếp quan hệ với địa phương cơ sở. Giai đoạn 1989 đến nay là thời kỳ đa số các TCPCPNN tiến hành các dự án mang tính phát triển bền vững. Cho đến nay có trên 80% giá trị viện trợ tập trung cho các dự án này.
Hiện nay chưa thể phân định một cách chính xác tỷ lệ viện trợ phi chính phủ theo từng ngành, nhưng có thể phân loại giá trị viện trợ theo 6 lĩnh vực chính : Y tế, giáo dục, phát triển kinh tế, xã hội, môi trường và viện trợ khẩn cấp.
Để tiếp tục chủ động tranh thủ, quản lý tốt hoạt động và nâng cao hiệu quả sử dụng viện trợ phi chính phủ, Chính phủ ta đã tổ chức hai Hội nghị quốc tế lớn tại Hà Nội, đó là Hội nghị Tổng kết 10 năm (1991-2001) công tác phi chính phủ nước ngoài (tháng 2/2002) và Hội nghị quốc tế về sự hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (tháng 11/2003). Kết quả của hai hội nghị trên đã và đang đóng góp vào những nỗ lực của Nhà nước ta nhằm tạo môi trường ngày càng thuận lợi hơn về cơ chế và pháp lý cho các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam trong hiện tại và tương lai
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TC PCPNN TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM
Tổ chức phi chính phủ (hay còn gọi là NGOS) ngày càng đóng vai trò đáng kể trong đời sống kinh tế-xã hội, giáo dục, y tế, môi trường, nhân đạo ... tại nhiều nước trên thế giới,trong đó có việt nam. Các NGOs đang tham gia sâu vào nhiều lĩnh vực như xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ phụ nữ, cứu trợ trẻ em, kế hoạch hoá gia đình, chữ thập đỏ và bảo vệ môi trường. Trong đó, các nguồn vốn này được ưu tiên nhiều hơn cho các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số và nơi bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh.
Nguồn viện trợ nhân đạo và phát triển này không chỉ góp phần tích cực vào việc xây dựng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với các nước trên thế giới, mà còn đóng góp thiết thực vào xóa đói - giảm nghèo, nâng cao đời sống và năng lực của người dân tại các vùng dự án, trong đó phải kể đến các dự án sau:
+ Các dự án liên quan đến các vấn đề xã hội: giúp đỡ cộng đồng, những người có hoàn cảnh khó khăn (như: tàn tật, nạn nhân của chiến tranh, thiên tai) và các đại dịch như HIV/AIDS, ma túy và các tệ nạn xã hội như mại dâm, trộm cắp…
+ Các dự án liên quan đế y tế: giúp trang thiết bị y tế, thuốc men, xây dựng trạm xá, các khoa của bệnh viện, cử các đoàn khám chữa bệnh cho người nghèo, học sinh nhằm nâng cao ý thức phòng chống bệnh nhất là các bệnh liên quan đến mắt… + Các dự án về giáo dục: giúp xây dựng trường sở, trang thiết bị dậy học, hỗ trợ học bổng, trợ cấp thêm một số điều kiện vất chất để cải thiện cuộc sống của học sinh nghèo đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng xa và nổi lên cả là cử giáo viên tình nguyện dạy tiếng Anh, Pháp quả.
+ Các lĩnh vực liên quan để phát triển kinh tế, cải thiện cuộc sống cho người nghèo ở nông thôn và thành thị, trong đó có các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở thủy lợi, trạm bơm, giống cây trồng, vật nuôi… Nổi bật lên hiện nay là các dự án tín dụng giúp đỡ người nghèo ở nông thôn và thành thị biết làm kinh tế nhỏ và vừa để có thể tồn tại trong một nền kinh tế thị trường.
+ Các dự án liên quan đến môi trường môi sinh. Các dự án về môi trường góp phần bảo vệ môi trường trong sạch cho người dân. Đặc biệt đối với những vùng dân tộc thiểu số do nhận thức còn hạn chế nên vấn đề bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe cho bản thân chưa cao nên dẫn đến nhiều căn bệnh như sốt xuất huyết, bệnh dịch....lcxlkjZlkxchCXIOZHCzchzxoihcxziOXHczIOHChizX + Các dự án phòng chống thiên tai và viện trợ khẩn cấp mang tính bền vững tạo nên nhiều mô hình có giá trị như nhà, trường học và trạm xá sống chung với bão, lũ lụt tại các tỉnh miền trung và đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những vùng có điều kiện còn khó khăn, phải gánh chịu nhiều hậu quả của thiên tai lũ lụt. Các dự án trên thường được lồng ghép với nhau như các dự án phát triển nông thôn tổng hợp và phát triển cộng đồng tổng hợp. Càng ngày các dự án nâng cao năng lực và làm chính sách càng được các TCPCPNN quan tâm nhiều hơn. + Dự án chuyên ngành mang tính công đồng ở đơn vị huyện hay cụm xã, đặc biệt những xã nghèo như chống suy dinh dưỡng, cung cấp trang thiết bị y tế cho bệnh viện, các phòng khám đa khoa và các trạm xá xã; đào tạo cán bộ y tế cấp cơ sở, chú trọng tới vấn đề y tế cộng đồng.. Bên cạnh dự án y tế cộng đồng, các dự án chuyên ngành khác như VAC, trồng dâu nuôi tằm, nuôi trồng và đánh bắt hải sản, vốn quay vòng giúp giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập cho những hộ gia đình, đặc biệt những gia đình có hoàn cảnh khó khăn điều này có ý nghĩa rất quan trọng.
+ Các dự án cho vay vốn quay vòng. Thông qua một đối tác cụ thể như hội phụ nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên.. để tổ chức tập huấn về cách sử dụng và quản lý vốn do các TCPCPNN cho vay, tạo đIều kiện cho người nghèo tăng thu nhập. Nguyên tắc chung là các TCPCPNN không thu hồi lại vốn mà chuyển nó thành vốn của đối tác Việt Nam dể tiếp tục chuyển cho các đối tượng khác vay sau chu kỳ vay vốn hoặc dùng vốn đó để thực hiện một dự án khác trong địa phương. Dự án loại này đang được nhiều TCPCPNN thực hiện vì với một số vốn không lớn mà có thể giúp được nhiều người nghèo.
+ Quyên góp vật chất: Thường là trang thiết bị y tế, thuốc chữa bệnh, đồ chơi cho trẻ em nghèo... giúp các bệnh viện, những địa phương bị thiên tai và những vùng còn gặp nhiều khó khăn thiếu thốn về cơ sở vật chất. Mục tiêu chung là khắc phục tình trạng quá thiếu thốn dụng cụ y tế, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm cho những vùng nghèo hoặc bị thiên tai tàn phá năng nề. Dạng viện trợ này chủ yếu do một số TCPCP Mỹ, Đức, Pháp, Canada...
III. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ TCPCPNN
1. Các văn bản pháp luật quy định
Thực hiện chủ trương và chính sách của Nhà nước ta về mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá, để tạo điều kiện cho các hoạt động của các TCPCPNN nước ngoài tại Việt Nam được tiến hành có hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực và phù hợp với luật pháp và tập quán Việt Nam, kể từ năm 1996, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật liên quan:
+ Quyết định số 340/TTg ngày 24/05/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế về hoạt động của các tổ chức PCPNN tại Việt NamThông tư số 22/1999/TT-BTC ngày 26/02/1999 của Bộ Tài chính về quản lý viện trợ không hoàn lại.
+ Thông tư số 02/2000/TT-BTC ngày 05/01/2000 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn hoàn thuế Giá trị gia tăng (GTGT) đối với hàng hoá, dịch vụ do các tổ chức trong nước mua hàng bằng tiền viện trợ nhân đạo của nước ngoài.jsfiofjdaofdi + Quyết định số 59/2001/QĐ-TTg ngày 24/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban Công tác về các tổ chức PCPNN. askfljafdsljdlksfoia + Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ PCPNN.kjhdfalsfhdadfojiasd + Thông tư số 04/2001/TT-BKH ngày 05/06/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thục hiện Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài.
+ Thông tư số 70/2001/TT-BTC ngày 24/08/2001 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính nhà nước đối với nguồn viện trợ không hoàn lại.
+ Chỉ thị số 11/2002/CT-TTg ngày 17/04/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh công tác quản lý, sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài.
+ Quyết định số 286/2006/QĐ-TTg ngày 27/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành “Chương trình quốc gia xúc tiến vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài giai đoạn 2006-2010”
2. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về TCPCPNN
Để tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động được hiệu quả và tuân thủ pháp luật Nhà nước ta đã tiến hành xác lập tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước như sau:
- Quốc hội: Ban hành các văn bản pháp luật quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý tổ chức phi chính phủ quy định công tác về mặt quản lý nhà nước nhằm... tạo ra hành lang pháp lý cho các tổ chức phi chính phủ.
- Chính phủ có nhiệm vụ quản lý về TCPCPNN như sau:
+ Ban hành các văn bản hướng dẫn và quy định chi tiết những văn bản pháp luật Quốc hội ban hành
+ Ban hành các văn bản quy định những chính sách ưu đãi và tạo những điều kiện hỗ trợ đảm bảo cho sự hoạt động của các tổ chức phi chính phủ
+ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về mọi nguồn viện trợ của các tổ chức chính phủ nước ngoài; điều phối, giám sát để đảm bảo nguồn viện trợ đúng mục đích và có hiệu quả
+ Chỉ đạo các cơ quan chức năng của Chính phủ và các cấp cấp ngành thực hiện tốt nhiệm vụ quảm lý Nhà nước theo thẩm quyền chính phủ phân công phân cấp.
- Ủy ban Công tác các TCPCP: Là cơ quan được Chính phủ giao quản lý về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài có nhiệm vụ:
+ Đề xuất những chủ trương, chính sách liên quan đến các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; phối hợp các cơ quan liên quan để hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
+ Quản lý việc xét, cấp, sửa đổi và thu hồi Giấy phép hoạt động, Giấy phép lập văn phòng dự án, Giấy phép lập văn phòng đại diện của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam theo Quy chế hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 340/TTg ngày 24 tháng 5 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam.
- Thực hiện các nhiệm vụ công tác khác về tổ chức phi chính phủ nước ngoài do Thủ tướng Chính phủ giao.
Ngoài ra còn có các cơ quan, bộ ban ngành được Nhà nước giao nhiệm vụ như: Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam ( cơ quan thường trực của ủy ban về công tác tổ chức phi chính phủ nước ngoài), Ban điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM), Ban Giám đốc (PACCOM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao và các tổ chức đoàn thể được Nhà nước ủy quyền. Và hệ thống hành chính là Ủy ban nhân dân các cấp với những nhiệm vụ và quyền hạn mà Chính phủ giao cho
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TCPCPNN TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM
I .HIỆN TRẠNG CHUNG VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM.
Nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ, như giáo dục, văn hóa, thuốc men, không chỉ thiếu tiền mặt, thiếu những điều kiện tốt hơn cho cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường hiệu quả, trong đó có các thị trường đất đai, vốn và lao động cũng như các thể chế nhà nước.
Năm 1989, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong sản xuất nông nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữ vị trí thứ 2 về xuất khẩu gạo trên thế giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã vững vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo).
Đầu thập niên 90, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số liệu trẻ em suy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991, vấn đề xoá đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển khai thành phong trào xóa đói giảm nghèo.
Ngày nay, vấn đề đói nghèo đã được nhà nước ta quan tâm đúng mức hơn.Trong đó có các chương trình phát triển kinh tế các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi( hay còn gọi là chương trình 135), đây là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Ngoài ra hàng năm chúng ta tổ chức các chương trình nối vòng tay lớn. Đây là một chương trình có ý nghĩa lớn do Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tổ chức, năm 2009 của Uỷ ban MTTQ các cấp trong việc xây dựng nhà đại đoàn kết cho người nghèo; các tập thể, cá nhân ở Việt Nam và nước ngoài tham gia đóng góp, ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo”. Đi đầu trong việc đóng góp là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam 500 tỷ đồng, TP. Hồ Chí Minh 300 tỷ đồng, Hậu Giang 150 tỷ đồng, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam 150 tỷ đồng, Cần Thơ 106 tỷ đồng, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam 103 tỷ đồng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam 100 tỷ đồng, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam 80 tỷ đồng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam 67 tỷ đồng, Trung ương Đoàn TNCSHCM - Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam 53 tỷ đồng, 8 tổ chức phi chính phủ nước ngoài 66,7 triệu USD, Dự án Tầm nhìn Thế giới 15 triệu USD, Tổ chức Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế 4,2 triệu USD, Đại sứ quán và doanh nghiệp Hàn Quốc 2,1 triệu USD, Đại sứ quán Lào 0,5 triệu USD...
Mặc dù các cấp các nghành nỗ lực thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo tuy nhiên đói nghèo ở nước ta vẫn đang còn cao.
+ Nhiều hộ gia đình vẫn đang khó khăn, chưa có nhà ở.
+ Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số trẻ em suy dinh dưỡng và bệnh tật vẫn còn nhiều.
+ Trẻ em ở những vùng miền núi,vùng dân tộc thiểu số chưa có điều kiện để đến trường đi học.
+ Sức khỏe cho các bà mẹ và trẻ sơ sinh chưa được chăm sóc đầy đủ, tình trạng tử vong ở trẻ sơ sinh vẫn còn cao, đặc biệt là trẻ em ở các dân tộc thiểu số.
Vấn đề đói nghèo là vấn đề lớn đòi hỏi sự quan tâm của các cấp, các nghành, của nhà nước và sự quan tâm của người dân. Trong đó TCPCPNN đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều trong công cuộc xóa đói.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCPCPNN TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI VIỆT NAM
1. Kết quả đạt được
Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam rất sớm. Sau 1975, phần lớn số NGOs nước ngoài đã chấm dứt hoạt động ở miền Nam Việt Nam. Sau đó các NGOs đã dần dần trở lại Việt Nam. Đến năm 1978 đã có 70 NGOs đặt quan hệ với Việt Nam, giá trị viện trợ khoảng 30 triệu đô la Mỹ/năm, chủ yếu viện trợ nhân đạo (lương thực, thuốc men...), giúp ta khắc phục hậu quả chiến tranh. Đặc biệt, kể từ năm 1986, nhờ chính sách Đổi mới của Nhà nước ta và chủ trương về hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức NGOs quốc gia và quốc tế, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân các nước, các tổ chức NGO nước ngoài có quan hệ với ta tăng lên và giá trị viện trợ tăng dần. Từ 70 đến 100 tổ chức NGOs với tổng giá trị viện trợ khoảng 20-30 triệu đô la Mỹ/ năm trong giai đoạn 1986-1992. Trong hơn 10 năm qua (1994-2006), số lượng các tổ chức có quan hệ với Việt Nam đã tăng gấp 3 lần, từ 210 tổ chức vào năm 1994 lên khoảng 650 tổ chức vào năm 2006. Trong số đó, có trên 500 tổ chức có hoạt động thường xuyên, có dự án và đối tác Việt Nam. Giá trị viện trợ năm 1993 là 40 triệu đô la Mỹ, đến năm 2002 là 85 triệu đô la Mỹ, năm 2004 là 140 triệu USD, năm 2005 là 175 triệu USD, năm 2006 là 217 triệu USD. Chương trình viện trợ của các NGOs được triển khai ở 61 tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt tập trung vào những vùng còn nghèo, vùng sâu, vùng xa và ngày càng tập trung hơn vào các lĩnh vực phù hợp với các ưu tiên và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta, đặc biệt là xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Sự trợ giúp của NGOs nước ngoài không chỉ là viện trợ vật chất mà bao gồm cả chuyển giao kinh nghiệm, công nghệ, nâng cao dân trí, chăm sóc y tế, phổ cập giáo dục..., và thông qua viện trợ, quan hệ của nước ta đối với các NGOs nước ngoài làm cho nhân dân thế giới hiểu biết hơn về Việt Nam, góp phần tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và nhân dân các nước trên thế giới.
Ví dụ :
Hà Giang là một tỉnh miền núi, biên giới, nhiều khó khăn; tuy nhiên, trong những năm qua đã nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều kết quả về phát triển KT – XH, trong đó có sự đóng góp tích cực của các tổ chức Phi Chính phủ nước ngoài. Tính đến hết tháng 10.2009, trên địa bàn Hà Giang có 18 tổ chức Quốc tế, tổ chức Phi Chính phủ nước ngoài, Quỹ Quốc tế thuộc các Đại sứ quán đang có các chương trình, dự án hoạt động viện trợ nhân đạo như: Plan International, OxFamquebec, Action Aid, FFI, Minor, Caritas Thụy Sĩ… Hoạt động của các tổ chức chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực phát triển cộng đồng, nông nghiệp, y tế, giáo dục, môi trường, phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Nhìn chung, các chương trình dự án đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần tích cực vào việc phát triển KT-XH, xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh; nâng cao năng lực, nhận thức cho người dân.Từ năm 2000 – 2009, các tổ chức Phi Chính phủ nước ngoài, thông qua các dự án, chương trình đã hỗ trợ gần 4 triệu USD cho tỉnh, góp phần tích cực trong phát triển KT-XH, xóa đói, giảm nghèo. Đây là sự cố gắng lớn của các tổ chức Phi Chính phủ nước ngoài, của chính quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể.
Trong những năm qua, số lượng các TCPCPNN hoạt động trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo không ngừng tăng lên, trong đó phải kể đến các hoạt động của các tổ chức sau:
Trong năm 2009, để ủng hộ chương trình nối vòng tay lớn TCPCPNN đã có 11 tổ chức tham gia ủng hộ.
- Atlantic Philanthropies với 25 triệu USD cho các dự án y tế;
- Tổ chức Tầm nhìn thế giới 12 triệu USD cho các dự án phát triển vùng,
- Tổ chức Nhà ở nhân đạo quốc tế 2,5 triệu USD cho chương trình xây dựng nhà Đại đoàn kết
- Quỹ Trẻ em Australia 3,5 triệu USD cho các dự án phát triển tổng hợp với trọng tâm xóa đói giảm nghèo,
- Tổ chức OXFAM Hồng Công 1,8 triệu USD cho các dự án xóa đói giảm nghèo và phát triển,
- Tổ chức Nhóm tư vấn bom mìn Anh 3 triệu USD cho các dự án rà phá bom mìn và tái định cư,
- Tổ chức Hành động viện trợ quốc tế 3 triệu USD cho các dự án giảm nghèo và phát triển,
- Quỹ Đông Tây hội ngộ 20 triệu USD cho các dự án giảm nghèo, hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em.
Cũng trong vấn đề phẫu thuật tim bẩm sinh, từ năm 2002 - 2008, tổ chức Sunny Korea - Hàn Quốc đã phẫu thuật tim cho 104 trẻ em Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn. Tổ chức này đã xây dựng và sửa chữa nhiều bệnh viện, nhà ở, trường học, phục hồi chức năng, xây dựng các công trình thể thao Taekwondo và thực hiện các hoạt động từ thiện xã hội khác…
- Tổ chức ORBIS quốc tế 2 triệu USD cho các dự án mổ đục thủy tinh thể và chăm sóc mắt toàn diện, đặc biệt ưu tiên cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
- Tổ chức CARE quốc tế 3 triệu USD cho các dự án xóa đói giảm nghèo.
- Quỹ Ford 9 triệu USD cho các dự án thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Theo Ban điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM), danh sách các đơn vị tài trợ vẫn đang tiếp tục được tổng hợp và công bố. Năm 2008, ước tính các tổ chức phi chính phủ quốc tế đã thực hiện 223 triệu USD giá trị giải ngân tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, các TCPCPNN còn hoạt động trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo và đạt được những thành tựu đáng kể, các chương trình dự án đã góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân đặc biệt là những vùng điều kiện còn khó khăn. Sau đây là những biểu hiện cụ thể:
+ Các TCPCPNN đã xây dựng quỹ vì người nghèo: Đây là quỹ có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp đỡ người nghèo trang trải một phần nào đó cho đời sống của họ, thực hiện xây nhà tình thương tình nghĩa cho những hộ gia đình khó khăn.
+ Thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho những trẻ em, bà mẹ mang thai, người già và những hộ gia đình có hoàn cảnh nghèo khó như : mổ hàm ếch, chữa bệnh tim, chữa mù lòa...
+ Xây dựng các trường học, bệnh viện, cung cấp thiết bị khoa học công nghệ tại những vùng điều kiện còn thấp để cho những trẻ em vùng miền núi, vùng dân tộc ít người đều được có cơ hội đến trường, cơ hội được chăm sóc như bao trẻ em khác.
+ Hội Chữ thập đỏ quốc tế đã phối hợp với các cơ sở y tế của Việt Nam nhằm đưa ra các biện pháp hữu hiệu để phòng dịch và hạn chế tình trạng lây lan bệnh, trong đó giúp cho những vùng khả năng hiểu biết và phòng bệnh kém rất nhiều như các vùng miền núi.
+ Các tổ chức phi chính phủ đã hỗ trợ ngành nông nghiệp, đồng thời nêu lên những lĩnh vực cần được ưu tiên hỗ trợ như khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, dự báo về xu hướng thị trường nông sản, phòng chống và kiểm soát dịch bệnh gia súc, cây trồng, hỗ trợ các huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo cao trên 50%; bảo vệ môi trường, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Như vậy, từ khi tiến hành mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của nước ngoài trong đó có các TCPCPNN để phát triển đất nước mình. Chúng ta đã nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ phía các tổ chức này về cả nguồn vốn và nguồn nhân lực, đặc biệt là những người nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa có khả năng được tiếp cận với những điều kiện tốt nhất.
2. Những vấn đề còn tồn tại
- Công tác về sử dụng và quản lý nguồn viện trợ này lại tồn tại rất nhiều bất cập, không hợp lý:
+ Ở một số địa phương do chưa thống nhất được đầu mối quản lí hoạt động của các TCPCPNN nên có trường hợp không sử dụng hiệu quả nguồn viện trợ gây thất thoát tiền và hàng viện trợ, hay viện trợ không đúng đối tượng, hoặc không tăng cường được việc vận động TCPCPNN giúp đỡ.
Một số TCPCPNN không thực hiện theo đúng quy định về việc quản lí sử dụng viện trợ phi chính phủ, đã sử dụng phần lớn ngân sách cho cán bộ, chuyên gia của họ và chi phí hành chính, nên đã gây không ít thất thoát, khó khăn cho việc quản lí nhà nước về tài chính của dự án. Thường nhất, phần chi cho quản lý phí (còn gọi là chi phí hành chính) có thể chiếm đến 40 - 50%, thậm chí đến 60 - 70% trong tổng giá trị tài trợ (phần chi phí này thường được sử dụng cho phía đối tác nước ngoài như đi lại, ăn ở, hội thảo, khảo sát nhưng khi hạch toán lại không hợp lý).
- Các khoản viện trợ là phi dự án nên không có nguồn kinh phí phục vụ cho công tác quản lý, tổ chức nên hầu hết các đơn vị tiếp nhận phải sử dụng kinh phí cơ quan cũng gây nhiều khó khăn, làm giảm hiệu quả hoạt động của TCPCPNN trong hoạt động xóa đói giảm nghèo.
- Các dự án đầu tư của TCPCPNN đầu tư vào nước ta vẫn còn tập trung nhiều ở các thành phố lớn, trong khi đó ở các vùng, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khó khăn thì kinh phí đầu tư và hộ trợ còn hạn chế.
- Hoạt động của một số TCPCPNN còn bị hạn chế do chịu ảnh hưởng của những vấn đề về chính trị tiêu biểu là các TCPCPNN người Mỹ gốc Việt (Vietnamese American non - governmental organizations, gọi tắt là VANGO), với sự tham gia của các nhân tài trẻ có tâm huyết mỗi ngày một nhiều hơn nhưng lại bị hạn chế về tài chính, hành chính và đặc biệt là những trở ngại tâm lý và chính trị vẫn còn đang tồn tại giữa cộng đồng hải ngoại và chính quyền trong nước.
- Hầu hết các tổ chức nước ngoài có văn phòng dự án hay văn phòng đại diện ở Việt Nam và chỉ quan hệ trực tíếp với địa phương nên nhiều khi gặp phải những khó khăn về giấy phép và quan thuế đối với các loại hàng cần dùng cho dự án.
III. NGUYÊN NHÂN
1. Nguyên nhân khách quan
- Do ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên mức độ giải ngân nguồn vốn theo cam kết của phần lớn các chương trình, dự án có phần giảm xuống hoặc tiến độ triển khai chậm so kế hoạch đề ra.
- Ở nước ta, có nhiều địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa, địa hình rộng, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí chưa cao gây rất nhiều khó khăn cho các TCPCPNN hoạt động, triển khai các dự án để giúp đỡ người nghèo
2. Nguyên nhân chủ quan
- Đội ngũ cán bộ, nhân viên của các TCPCPNN hoạt động trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với người dân. Ví dụ như sự bất đồng ngôn ngữ, bất đồng về văn hóa, phong tục tập quán hoặc là tâm lý e ngại của người dân… Một số cán bộ, nhân viên của các TCPCPNN chưa thực sự hiểu rõ về tình hình thực tế của địa phương. Việc tuyển chọn cán bộ, nhân viên của các TCPCPNN chưa thực sự kỹ càng nên vẫn còn hiện tượng một số cán bộ nhân viên của các TCPCPNN làm việc không hiệu quả.
- Hệ thống văn bản pháp luật quy định liên quan đến các TCPCPNN còn chưa nhiều, chưa thống nhất và chưa tạo được những hành lang pháp lý vững vàng. Chúng ta mới chỉ có các nghị định, quyết định… chứ chưa có luật về các TCPCPNN.
Từ một hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều vấn đề chưa hợp lý dẫn đến hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, gây ra những trở ngại nhất định. Các TCPCPNN rất ngại khi phải mất quá nhiều thời gian cho hàng rào thủ tục hành chính mà thay vào đó họ muốn được tiếp cận với người dân, hoàn thành công việc một cách hiệu quả nhất.
- Nước ta chưa có một hệ thống tổ chức quản lý đồng bộ, hiệu quả đối với hoạt động của các TCPCPNN dẫn đến sự lúng túng trong việc quản lý và đánh giá hiệu quả hoạt động của các TCPCPNN đó. Cơ sở hạ tầng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng điều hành các hoạt động nhằm hỗ trợ, phục vụ cho các TCPCPNN từ phía nước ta còn yếu, điều này đã gây ra những khó khăn không nhỏ cho các TCPCPNN thực hiện hoạt động xóa đói giảm nghèo tại nước ta.
- Chúng ta chưa có nhiều những chương trình, kế hoạch, những hoạt động nhằm thu hút sự quan tâm hỗ trợ của các TCPCPNN lớn. Ví dụ, đối với tổ chức NGO, công tác vận động viện trợ chủ yếu thông qua các mối quan hệ cá nhân hoặc giới thiệu từ các đơn vị tài trợ truyền thống, chưa tổ chức được các hội nghị hoặc đoàn vận động NGO, để thu hút nhiều dự án mới, có giá trị tài trợ lớn.
- Trình độ tiếp cận và sử dụng trang thiết bị máy móc hiện đại của chúng ta còn yếu kém, chưa tiếp cận và sử dụng hệ thống máy móc trang thiết bị hiện đại mà các TCPCPNN đem tặng một cách hiệu quả, dẫn đến những lãng phí nhất định.
- Nhiều các tổ chức lợi dụng, trá hình các TCPCPNN nhằm thực hiện những âm mưu chính trị trái ngược với mục tiêu của các TCPCPNN dẫn đến những sự hiểu nhầm của người dân, cản trở hoạt động của các TCPCPNN.
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA TCPCPNN TẠI VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. NHỮNG GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cho hoạt động của các TCPCPNN tại Việt Nam
+ Các văn bản này phải qui định rõ ràng các điều kiện, thủ tục, lĩnh vực hoạt động mà các TCPCPNN được phép hoạt động, hướng hoạt động của các TCPCPNN vào mục tiêu chung của nhà nước trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo.Tránh tình trạng nhiều hệ thống văn bản luật ban hành nhưng lại không có sự trùng khớp gây khó khăn cho các TCPCPNN.
+ Hệ thống pháp luật về TCPCPNN phải phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế, để không đưa đến những khó khăn đối với các tổ chức mang tính quốc tế. Từ đó, đơn giản hóa các thủ tục hồ sơ, rút ngắn thời gian trong việc cấp phép hoạt động cho các TCPCPNN.
- Kiện toàn hệ thống bộ máy quản lý các TCPCPNN
+ Thành lập tại mỗi địa phương một ủy ban công tác với các TCPCPNN nước ngoài. Uỷ ban đó phải bao gồm những người có đầy đủ năng lực quản lý cũng như năng lực về chuyên môn nghiệp vụ.
+ Xây dựng cơ chế trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng đối với các cấp chính quyền ở trung ương và địa phương trong việc cho phép, phối hợp và kiểm tra các hoạt động của các TCPCPNN.
- Nâng cao năng lực, ý thức và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức như: Mở các lớp đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ để nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt là ở cấp cơ sở về quản lý TCPCPNN.Tích cực đào tạo đội ngũ công chức trẻ, kĩ thuật viên có trình độ cao nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý.
- Ban hành một số chính sách phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả quản lí như chính sách xã hội, chính sách kinh tế, và một số chính sách nhằm phối hợp hoạt động để TCPCPNN hoạt động tại nước ta được thuận lợi.
- Mở rộng quyền tự quản, tự chủ cho các TCPCPNN nước ngoài, khắc phục dần tình trạng Nhà nước can thiệp quá sâu vào công tác quản lý cũng như hoạt động của các TCPCPNN.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các TCPCPNN trong các lĩnh vực.
Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động là công tác trọng yếu đề kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hoạt động trá hình dưới lốt các hoạt động tình nguyện, nhân đạo để chống phá chính quyền, chống lại khối đại đoàn kết dân tộc
+ Kiểm tra hồ sơ xin cấp phép hoạt động của các TCPCPNN.
+ Tìm hiểu kĩ hoạt động của các tổ chức này từ mục tiêu đến hình thức hoạt động.
+ Tại mỗi địa phương có TCPCPNN tới, thành lập các ban thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện những sai phạm và xử lý.
+ Đình chỉ hoạt động của các TCPCPNN khi phát hiện những hành vi phạm pháp hoặc tước giấy phép hoạt động của các tổ chức này.
- Tổng kết, đánh giá hoạt động của các TCPCPNN nước ngoài trên mọi lĩnh vực nói chung theo quý, nửa năm, một năm hoặc trong một giai đoạn thực hiện chương trình, dự án.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP TỪ PHÍA CÁC TCPCPNN
- Huy động mọi khả năng để giúp đỡ những vùng có điều kiện khó khăn, cần thiết có thể yêu cầu sự giúp đỡ của địa phương và chính quyền địa phương để hiểu rõ hơn về điều kiện cũng như phong tục tập quán của địa phương để thuận tiện trong hoạt động từ thiện, giúp đỡ người dân nơi đó.
- Huy động tất cả các nguồn lực dành cho dự án vào những hoạt động chính, tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành công của dự án, chương trình chứ không phải dành cho bộ máy hành chính, quản lý những dự án, chương trình đó.
- Các TCPCPNN tìm hiểu đúng đối tượng mà chương trình, dự án đó hướng tới. Tìm hiểu nguyện vọng của họ để có thể đạt được hiệu quả cao nhất khi đưa dự án, chương trình đó vào thực hiện.
- Khi đã lên thành chương trình, dự án thì các tổ chức nhanh chóng đưa chúng vào thực hiện trong thực tế.
- Tiến hành các dự án đối với những đối tượng thực sự cần sự giúp đỡ. Có một cơ chế quản lý nguồn vốn chuyên biệt, giàu kinh nghiệm chuyên môn.
- Chủ động phối hợp với các ban ngành tại các địa phương mà chương trình, dự án đó được thực hiện để nguồn vốn được đảm bảo được sử dụng một cách có hiệu quả, ví dụ như hội phụ nữ, các trạm y tế xã, các bệnh viện huyện…
PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy có thể thấy rằng trong những năm qua hoạt động của các TCPCPNN đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong việc giải quyết các vấn đề xã hội: thất nghiệp, đói nghèo, xây dựng những cơ sở hạ tầng cho những vùng điều kiện còn khó khăn... Bên cạnh các cơ sở bảo trợ xã hội của nhà nước rất nhiều các tổ chức, cá nhân đã bằng nhiều hình thức quyên góp, huy động nguồn lực để thực hiện nhiều dự án, chương trình xóa đói giảm nghèo với giá trị hàng triệu USD. Có thể nói, đây là đóng góp rất to lớn của các TCPCPNN tại Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu quá trình hoạt động của TCPCPNN trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo để chúng ta thấy được tầm quan trọng của hoạt động xóa đói giảm nghèo, thấy được sự đóng góp to lớn của các TCPCP trong lĩnh vực trên và từ đó đưa ra những biện pháp thiết yếu nhằm tăng cường sự quản lý nhà nước với loại hình tổ chức này đồng thời phát huy vai trò của nó trong sự phát triển đất nước.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TC PCP(NGOs: nationnal government orgarnizations ): Tổ chức phi chính phủ
TC PCPNN: Tổ chức phi chính phủ nước ngoài
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Quản lý nhà nước về Tổ chức phi Chính phủ, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2007.
2. Chỉ thị số 11/2002/CT-TTg ngày 17/04/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh công tác quản lý, sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài.
3. Quyết định số 286/2006/QĐ-TTg ngày 27/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành “Chương trình quốc gia xúc tiến vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài giai đoạn 2006-2010”
4. Quyết định số 59/2001/QĐ-TTg ngày 24/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban Công tác về các tổ chức PCPNN. 5. Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ PCPNN 6. Quyết định số 340/TTg ngày 24/05/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế về hoạt động của các tổ chức PCPNN tại Việt NamThông tư số 22/1999/TT-BTC ngày 26/02/1999 của Bộ Tài chính về quản lý viện trợ không hoàn lại.
7. Thông tư số 02/2000/TT-BTC ngày 05/01/2000 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn hoàn thuế Giá trị gia tăng (GTGT) đối với hàng hoá, dịch vụ do các tổ chức trong nước mua hàng bằng tiền viện trợ nhân đạo của nước ngoài. 8. Thông tư số 04/2001/TT-BKH ngày 05/06/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thục hiện Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài.
9. Thông tư số 70/2001/TT-BTC ngày 24/08/2001 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính nhà nước đối với nguồn viện trợ không hoàn lại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.doc