Tiểu luận Hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam sau 1990

Để ngành Da -giày Việt Nam có thể chuyển từ phương thức gia công truyền thống sang phương thức mua đứt bán đoạn, nhằm tăng tính chủ động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chủ động về nguyên phụ liệu chúng ta phải thúc đẩy nghiên cứu khoa học - công nghệ và thị trường. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần mạnh dạn chi phí để chủ động thâm nhập thị trường thông qua các hội chợ triển lãm quốc tế ở trong nước và nước ngoài, tham gia tích cực vào hệ thống thương mại điện tử để tiếp cận khách hàng. Về phía Chính phủ, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, các đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài, Hiệp hội Da - giày Việt Nam, Tổng Công ty Da - giày Việt Nam cần có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc mở rộng và tiếp cận thị trường, vì nhiều việc tự doanh nghiệp không thể giải quyết được.

pdf33 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2194 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam sau 1990, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đổi mới công nghệ hạn chế. Đại bộ phận doanh nghiệp phụ trách một hoặc vài sản phẩm theo chu trình khép kín từ khâu đầu đến sản phẩm cuối cùng. Bên cạnh những nguyên nhân gây ra tình trạng khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu nói chung, doanh nghiệp da giày Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn do một số nguyên nhân khác. Chủ yếu là do việc các nhà quản lý chưa thích ứng kịp với những đòi hỏi khắc nghiệt của cơ chế thị trường mới được vận hành trong nền kinh tế đất nước. Mặt khác, một số thị trường truyền thống thuộc các nước xã hội chủ nghĩa cũ không còn được duy trì do biến động chính trị về phía doanh nghiệp là sự thiếu vốn trầm trọng, đội ngũ công nhân tay nghề kém… 3. Đánh giá thực trạng của ngành da giày và hoạt động xuất khẩu. Công nghiệp da giầy là ngành sản xuất gắn liền với nhu cầu mặc và thời trang: Ngành công nghiệp da giày Việt Nam có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế, là ngành thu hút nhiều lao động, cung cấp nhiều sản phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đây cũng là ngành có khả năng khai thác nguồn nguyên liệu trong nước, có lợi thế và tiềm năng xuất khẩu lớn thu nhiều ngoại tệ cho đất nước. Công nghiệp da giày là ngành có công nghệ đơn giản so với các ngành công nghiệp khác, cần có vốn đầu tư nhưng có hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, chính sách mở cửa của Nhà nước những năm qua, trong nền kinh tế nói chung và trong ngành da giầy nói riêng đang tồn tại và phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng hoạt động đan xen, vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Từ một ngành kinh tế kỹ thuật khiêm tốn, non trẻ trong nền kinh tế quốc dân mới trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật độc lập từ năm 1987 ngành da giầy ngày nay đã trở thành một ngành có sức phát triển mạnh kim ngạch xuất khẩu lớn cùng ngành dệt may đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Tuy nhiên ngành sản xuất da giầy còn lệ thuộc nhiều vào các đối tác nước ngoài do chủ yếu làm gia công, hiệu quả kinh tế còn thấp (chỉ trừ mặt hàng giày vải là tương đối chủ động trong sản xuất. Trong thời gian tới để trở thành một quốc gia mạnh về sản xuất da và xuất khẩu giày dép chúng ta phải cần xúc tiến mở rộng thị trường hơn nữa, có biện pháp xâm nhập thị trường khó tính hoà nhập vào mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn lớn trên thế giới. Đồng thời cần quan tâm nâng cao giá trị xuất khẩu không chỉ ở số lượng mà cả hiệu quả kinh tế bằng cách phát triển sản phẩm độc lập, tiến tới tự chủ trong cung cấp nguyên vật liệu, tự chủ cả về thị trường, khoa học, công nghệ, mẫu, mốt thời trang, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Trước tình hình đó, hưởng ứng đổi mới, hoà nhập và mở cửa nền kinh tế của Đảng và Chính phủ, các doanh nghiệp da giầy Việt Nam đã năng động nắm bắt những thời cơ và vận hội mới, phát huy mọi tiềm lực với những nỗ lực cao nhất để tiếp nhận sự chuyển dịch ngành da giầy thế gioứi thông qua việc hợp tác, gia công, liên doanh liên kết đầu tư 100% vốn nước ngoài với các đối tác nước ngoài mà chủ yếu là Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan. II. hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam sau 1990 1. Thực trạng xuất khẩu Sau khi Liên Xô cũ và Đông Âu tan rã toàn bộ chương trình hợp tác gia công mũ giày với các nước này chấm dứt ngành da giầy Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ tiếp nhận sự chuyển dịch sản xuất các sản phẩm dày dép để xuất khẩu từ các nước nhập khẩu trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông nhằm khai thác lợi thế mà Việt Nam có được trong sản xuất và xuất khẩu giày dép. Đó là : Việt Nam có lực lượng lao động dồi dà, trẻ khoẻ, tiếp thu nhanh, tiền công lao động còn thấp Việt Nam chưa bị các nước nhập khẩu giày dép khống chế bằng hạn ngạch và được chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn, xuất xứ C/O. Để khai thác tiềm năng, lợi thế đó chủ trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến nay, ngành da giày Việt Nam (của tất cả các thành phần kinh tế) đã tập trung khai thác mọi nguồn vốn đầu tư và bằng nhiều hình thức đầu tư các cơ sở sản xuất các loại giày dép chỉ xuất khẩu. Hiện nay năng lực sản xuất của toàn ngành đạt gần 300 triệu đôi giày dép các loại, thu hút lực lượng lao động khoảng 300.000 người, đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng năm 40 - 50%. Riêng năm1998 do tác động bởi cuộc khủng hoảng trong khu vực nên ngành chỉ đạt tốc độ tăng trưởng gần 3,8% so với năm 1997, kim ngacạh xuất khẩu đạt 1 tỷ USD, 1999 kim ngạch xuất khẩu vào khoảng 1300 triệu USD, tăng 30% so với 1998. Tuy có nhiều tiềm năng và lợi thế song ngành giày dép Việt Nam hiện nay (nhất là các doanh nghiệp trong nước) vãan còn nhiều khó khăn và hạn chế về khả năng tài chính, về cung ứng vật tư nguyên phụ liệu, về sang tác và phát triển mẫu mode, về công nghiệp và kỹ thuật, về quản lý để xâm nhập trực tiếp vào thị trường nhập khẩu. Do đó phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng phương thức hợp tác gia công xuất khẩu với các đơn vị đối tác trong khu vực. Mặc dù phương thức này có những hạn chế cho phía các doanh nghiệp Việt Nam song lại là phương thức phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển ngành công nghiệp giày dép của nhiều nước đang phát triển nói chung và của Việt Nam hiện nay nói riêng. Tại cuộc họp báo ngày 10/2/1999, Tổng Công ty Da giày Việt Nam đã tổng kết việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế năm 1998 và thông qua nhiệm vụ, kế hoạch năm 1999, đồng thời đưa ra các biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện kế hoạch đã đề ra. Năm 1998 Tổng Công ty Da giầy Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn của một ngành kinh tế - kỹ thuật non trẻ, các đơn vị lại luôn trong tình trạng thiếu vốn, phương thức sản xuất chủ yếu là gia công cho khách hàng nước ngoài. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở nhiều khu vực trên thế giới đã làm nhu cầu tiêu dùng giảm, các đơn đặt hàng bị cắt giảm và ép giá (từ 5 - 7%) nhất là thị trường Hàn Quốc (từ 20-30%). Đối tác của Công ty da Sài Gòn đã chấm dứt hợp đồng sản xuất nên sản lượng chỉ đạt 80% kế hoạch được giao. Trong khi đó, các đơn vị sản xuất da thuộc vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Nguồn nguyên liệu không ổn định, chất lượng thấp, thiết bị lạc hậu nên sản phẩm da thuộc chất lượng thấp, giá thành cao, chưa lọt vào kênh tiêu thụ. Vì rất nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan tác động nên các chỉ tiêu kinh tế đề ra chưa thực hiện được như mong muốn. Tuy giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn 671 tỷ đồng (bằng 92% kế hoạch 1998 và bằng kế hoạch 1997) ; tổng doanh thu đạt hơn 1.128 tỷ đồng (bằng 102,5% kế hoạch1998) ; giá trị xuất khẩu toàn Tổng Công ty thực hiện đườc 188 triệu USD đạt 97,1% kế hoạch năm và bằng 97,7% so với thực hiện năm 1997 nhưng Tổng Công ty vẫn nộp ngân sách Nhà nước vượt mức kế hoạch 5% đạt 12,3 tỷ đồng. Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một xu thế tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Việt Nam hiện đã là thành viên của ASEAN, APEC, đang xin đàm phán gia nhập WTO và đã ký kết hiệp định Việt Mỹ. Qúa trình hội nhập quốc tế yêu cầu chúng ta cần chủ động và tích cực chuẩn bị để đầu tư có hiệu quả, ổn định, bảo đảm phát triển của ngành da giày. Ngoài việc nghiên cứu phát triển sản phẩm của mình và lựa chọn thị trường, các nhà xuất khẩu còn phải quyết định các biện pháp để xâm nhập thị trường. Từ năm 1989 đến nay sản lượng giày thế giới liên tục biến động. Khu vực sản xuất giày dép lớn nhất là Châu á (chiếm 2/3 tổng sản lượng thế giới) tiếp theo là Châu Âu và Châu Mỹ ; Mỹ, EU, Nhật là ba thị trường nhập khẩu giày dép chủ yếu trên thế giới đặc biệt là Mỹ. Có một điều cần chú ý rằng đây đều là các nước đòi hỏi tiêu chuẩn ba chất lượng hàng hoá rất cao. Ngoài ra yếu tố môi trường và yếu tố thời trang cũng hết sức quan trọng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đánh giá về khả năng xuất khẩu giày dép của Việt Nam, báo cáo của Bộ thương mại cho biết ngành da giày đã bổ sung hoàn chỉnh và trang bị đồng bộ gần 200 dây chuyền sản xuất giày, trên 1900 máy may chuyên dùng sản xuất túi, cặp da, sửa chữa gần 200.000m2 và xây dựng mới trên 240.000m2 nhà xưởng với tổng số vốn đầu tư trên 3000 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 1997, cả nước đã thiết lập được một mạng lưới sản xuất giày dép, chủ yếu để xuất khẩu với năng lực sản xuất 260 triệu đôi/năm trong đó giày thể thao chiếm 50%. 1.1. Thị trường EU. Hiện nay EU là thị trường nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm giày dép của Việt Nam, chiếm xấp xỉ 80% kim ngạch bỏ vốn đầu tư nhưng có hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, chính sách mở cửa của Nhà nước những năm qua, trong nền kinh tế nói chung và trong ngành da giày nói riêng đang tồn tại và phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng hoạt động đan xen, vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Từ một ngành kinh tế kỹ thuật khiêm tốn, non trẻ trong nền kinh tế quốc dân - mới trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật độc lập từ năm 1987 ngành da giày ngày nay đã trở thành một ngành có sức phát triển mạnh kim ngạch xuất khẩu lớn cùng ngành dệt may đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Tuy nhiên ngành sản xuất da giày còn lệ thuộc nhiều vào các đối tác nước ngoài do chủ yếu làm gia công, hiệu quả kinh tế còn thấp (chỉ trừ mặt hàng giày vải là tương đối chủ động trong sản xuất). Trong thời gian tới để trở thành một quốc gia mạnh về sản xuất da và xuất khẩu giày dép chúng ta phải cần xúc tiến mở rộng thị trường hơn nữa, có biện pháp xâm nhập thị trường khó tính hòa nhập vào mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn lớn trên thế giới. Đồng thời cần quan tâm nâng cao giá trị xuất khẩu không chỉ ở số lượng mà cả hiệu quả kinh tế bằng cách phát triển sản phẩm độc lập, tiến tới tự chủ trong cung cấp nguyên vật liệu, tự chủ cả về thị trường, khoa học, công nghệ, mẫu, mốt thời trang, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Trước tình hình đó, hưởng ứng đổi mới, hòa nhập và mở cửa nền kinh tế của Đảng và Chính phủ, các doanh nghiệp da giày Việt Nam đã năng động nắm bắt những thời cơ và vận hội mới, phát huy mọi tiềm lựcvới những nỗ lực cao nhất để tiếp nhận sự chuyển dịch ngành da giày thế giới thông qua việc hợp tác, gia công, liên doanh liên kết đầu tư 100% vốn nước ngoài với các đối tác nước ngoài mà chúng ta cần củng cố và phát triển thị trường này, khai thác tối đa các ưu đãi mà thị trường này còn giành cho Việt Nam (chưa bị quản lý bằng hạn ngạch, được hưởng ưu đãi thuế quan, bằn 70% mức thuế bình thường nếu bảo đảm tiêu chuẩn xuất xứ C/O). Tăng cường các mối quan hệ kinh doanh trực tiếp với các nhà nhập khẩu EU, một vấn đề đang được EU quan tâm. EU chiếm gần 70% thị phần, trị giá xuất khẩu giày sang EU năm 1996 tăng gấp 30 lần so với năm 1992 ; từ 1996 đến 1997 tăng bình quân 4 đến 50% mỗi năm. Việt Nam là một trong năm nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU do giá rẻ, chất lượng và mẫu mốt chấp nhận được 9 tháng xuất khẩu (năm 1999) đạt 1.014 triệu USD, tăng 34% so với cùng kỳ năm 1998, bình quân xuất khẩu đạt 113 triệu USD tháng tăng 30 triệu USD/tháng. Cơ cấu thị trường 9 tháng đầu năm 1999 so với năm 1998 thì Châu Âu là khoảng 730 triệu USD, chiếm 72% tăng 8% trong đó EU : 700 triệu USD, chiếm 69,6% tăng 8%. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Đức với tỷ trọng 18%. Vương quốc Anh 17%, Bỉ 10%, Pháp 9%, Hà Lan 8,6%, Italia 6%, Đài Loan 3,8%. 1.2. Thị trường Mỹ. Cơ cấu thị trường 9 tháng đầu năm 1999 so với 1998 Châu Mỹ : 101 triệu USD, chiếm 10% giảm 3,6%. Trên thị trường Mỹ năm 1997 chúng ta mới đạt 70,2 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu sang Nhật cũng tăng nhanh, năm 1997 đạt 79 triệu USD. Mỹ là nước có nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu giày dép lớn nhất thế giới. Hàng năm nhập khẩu khoảng 1,4 tỷ đôi giày dép các loại trị giá khoảng 14 -15tỷ USD. Hiện nay Việt Nam mới xuất khẩu giày dép sang Mỹ đạt kim ngạch xuất khẩu năm 1998 trên 110 triệu USD (chiếm trên 10% kim ngạch xuất khẩu toàn ngành). Với việc ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ và đã bắt đầu có hiệu lực trong năm tới (từ 12/2001 trở đi) kim ngạch xuất khẩu da giày trên thị trường Mỹ sẽ tăng rất mạnh, không hề thua kém vào thị trường EU thậm chí còn có thể cao hơn. 1.3. Thị trường Châu á và một số thị trường khác. Về cơ cấu thị trường 9 tháng đầu năm 1999 so với 1998, Châu á : 111 triệu USD, chiếm 11% giảm 6%, thị trường khác : 72 triệu USD, chiếm 7%, xấp xỉ 1998, Đài Loan : 3,8%, Hàn Quốc 3,2% và Tây Ban Nha 2,4%. Nhật là thị trường có nhu cầu nhập khẩu hàng năm khoảng 350 triệu đôi giày dép từ nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu sang Nhật cũng tăng nhanh, năm1997 đạt 79 triệu USD, năm 1999 chiếm khoảng 7- 8% tổng kim ngạch. Dự đoán kim ngạch xuất khẩu sẽ tiếp tục tăng. Ngoài ra các khu vực thị trường thế giới khác như Trung Quốc, Bắc Âu, úc, Liên Xô cũ… và cả thị trường nội địa với trên 80 triệu dân trong những năm tới cũng sẽ là các thị trường đáng quan tâm và có thể phát triển. Sản phẩm da giày nước ta hướng tới thị trường ngoài nước trên cơ sở sử dụng lợi thế so sánh. Hoàn Quốc, Đài Loan sẽ tiếp tục xuống ngôi và danh sách 10 nước xuất khẩu giày hàng đầu sẽ có sự xáo trộn thứ tự, thay thế lẫn nhau, các nước Đông Nam á sẽ chiếm ngôi vị cao trong bảng, riêng Trung Quốc (bao gồm cả Hong Kông) vẫn giữ ngôi xuất khẩu (trên 2 tỷ đôi/năm); ý sẽ nhường về số lượng cho Inđônêxia hoặc Thái Lan nhưng vẫn giữ vị trí về giá trị và thị trường giày da đắt tiền. Trong tình hình đó ta cần phấn đấu tường bước giành thị phần thế giới, với ưu thế chất lượng giá rẻ. Trước hết là sự chọn lựa các sản phẩm phù hợp với xu thế phát triển thị trường, ưu tiên các sản phẩm có tiềm lực nguyên liệu nội địa hoặc có khả năng sử dụng các nguyên liệu thô nhập khẩu để chế biến. Cần lưu ý thêm, giày cũng như đồ da thuộc, ngay cả trong từng khu vực trên thế giới đều chưa và sẽ không bao giờ là một thị trường thống nhất. Bởi có rất nhiều bản sắc văn hoá khác nhau, khí hậu khác biệt từng vùng, mức sống khác nhau. Giày có hai thời vụ bán hàng là đông, hè. Nhưng mỗi năm đồ da có đến năm cao điểm bán hàng cho từng loại sản phẩm. Cần nắm vững tư tưởng chủ đạo là tuy hướng vào xuất khẩu nhưng cần coi trọng thị trường trong nước với hơn 77 triệu dân gồm nhiều lứa tuổi sống ở nhiều khu vùng khác nhau, có mức sống khác nhau, không để cho hàng ngoại lấn át. Cần sử dụng các giải pháp khoa học công nghệ để làm sản phẩm nội địa có sức cạnh tranh trực tiếp với hàng Trung Quốc, đứng vững được tại thị trường trong nước. Coi trọng thị trường nội địa còn có ý nghĩa đủ sức tự cứu khi các rủi ro, bấp bênh có thể có của thị trường tiêu thụ hướng ngoại. Để xâm nhập thị trường các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược Marketing hỗn hợp và tổ chức các bộ phận Marketing. 1.4. Vài nét về hoạt động gia công da giày ở Việt Nam 10 năm kể từ khi thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu khủng hoảng, đến nay ngành da giày đã có những bước tiến phi thường. Tuy nhiên đó mới chỉ là sự khẳng định và tiềm lực và khát vọng vươn dậy của ngành kinh tế kỹ thuật này. Xu hướng “hội nhập” đang đặt ngành da giầy lên “sàn đấu”sống còn của thị trường quốc tế bình đẳng và khắc nghiệt. Thế nhưng da giầy Việt Nam đang khoác tấm áo rội lên mình những sản phẩm của ngoại quốc, đổi lại chỉ nhận được những đóng tiền “gia công” rất nhỏ bé. Những năm gần đây ngành da giầy luôn có mức tăng trưởng từ 12 - 14% trong cơ cấu sản xuất giày dép xuất khẩu 4 tháng đầu năm 1999 thì 70% là gia công cho nước ngoài, trong nước chí chiếm 30%, về mặt hàng giày dép liên doanh với nước ngoài, trong nước chỉ chiếm 30%, về mặt hàng giày dép liên doanh với nước ngoài có ưu thế hơn nhiều nhất là loại giày cao cấp với 55% tỷ trọngcòn các doanh nghiệp trong nước là 45%, kim ngạch xuất khẩu, năm 2000 đạt 1,468 tỷ USD, tương ứng với 450 triệu sản phẩm các loại…Những con số đó đã vượt qua các nước cùng khu vực như Thái Lan, Malaysia, sugapore và cho thấy ngành kinh tế kỹ thuật này đã giữ một vị trí quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, sức mạnh về sự đóng góp thực tế của ngành da giầy chỉ bằng một phần rất nhỏ con số trên. Nguyên do thứ nhất là phần lớn lợi nhuận, ngoại tệ xuất khẩu không rơi vào túi nhà nước, doanh nghiệp hay người lao động Việt Nam vì hiện 98% sản phẩm của ngành được xuất khẩu nhưng thực ra ta chỉ đóng góp duy nhất phần gia công. Gọi là xuất khẩu nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết nhận nguyên liệu, mẫu mã của đối tác nước ngoài để sản xuất, khi ra sản phẩm lại giao cho họ. Giá bán bao nhiêu, bán cho ai thì không được biết. Có nghĩa là người Việt Nam chỉ được hưởng tiền công lao động. Nếu tính giá trị sản phẩm da giày khi xuất khỏi cửa khẩu Việt Nam trong năm qua là gần 1,5 tỷ USD thì sẽ tiến người Việt Nam được hưởng chỉ xấp xỉ 400 triệu USD (1/4 giá trị). Hiện nay cả nước có hơn 100 doanh nghiệp xuất khẩu da giày, chiếm tới 90% lao động, sản lượng toàn ngành thì đều chỉ làm gia công. Điều đó dẫn đến lao độngt rong ngành da giày tuy rất động (400.000 người) vất vả (phải tăng ca từ 300- 600h/năm) nhưng lương thấp (680.000đồng/ người/ tháng). Mặt khác các khoản thu của Việt Nam tiền công, thuế và loại phí luôn bị tính vào mức giá thành sản phẩm thấp hơn thực tế 30%. Chứng minh điều này ông Trưởng ban kế hoạch đầu tư Tổng Công ty da giày cho biết khách hàng tiêu thụ sản phẩm da giày Việt Nam (Châu Âu) luôn bày tỏ mong muốn được trực tiếp mua hàng của nhà sản xuất (doanh nghiệp Việt Nam). Vì như vậy họ sẽ bớt được 20% số tiền mua mỗi sản phẩm. Ngược lại,nhà sản xuất cũng được tăng giá bán thêm 10%…Điều này cho thấy, sản phẩm da giày xuất khẩu của tư đều bán thấp hơn giá thực tế tới 30% dù tất cả các tiêu chuẩn khác đều tương đương. Nguyên do thứ hai : Trong ngành da giày, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đặc biệt doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thâu tóm cơ bản kim ngạch xuất khẩu lơị nhuận, nhân công, thị trường và máy móc thiết bị. Hiệp hội da giày Việt Nam thống : Cả nước có khoảng 200 doanh nghiệp da giày (gồm quốc doanh trung ương, quốc doanh địa phương, tư nhân, liên doanh, 100% nước ngoài…) thì kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 41,3%, khối liên doanh chiếm 5,6%, khối tư nhân chiếm 26,73%, 26,3% còn lại thuộc các doanh nghiệp quốc doanh. Những chỉ số khác như : Lợi nhuận, nhân công, thị phần, sản lượng cũng tỷ lệ thuận. Đã vậy tình trạng đầu tư “chui của nước ngoài đang lũng đoạn ngành da giày.Cụ thể từ năm 1999 đến nay luôn xuất hiện một số tư nhâ Việt Nam đứng lên thành lập doanh nghiệp tư nhân nhưng vốn thiết bị nguyên liệu, mẫu mã sản phẩm, đơn hàng lại do người nước ngoài đưa vào. Họ thuê đất lập nhà xưởng và thuê nhân công sản xuất. Sau đó mang sản phẩm về nước hoặc bán thẳng cho khách hàng, làm như vậy họ lợi dụng được giá nhân công rẻ, ưu đãi của EU cho hàng sản xuất tại Việt Nam để phục vụ lợi ích riêng. Mặt khác họ cũng tránh được các khoản đóng góp cho Nhà nước theo luật đầu tư nước ngoài. Nguy hiểm hơn các doanh nghiệp này có dây chuyền hiện đại, nhà xưởng, quy mô lớn, trả lương cao để thu hút cán bộ công nhân viên Việt Nam có trình độ tay nghề cao…và khi khách hàng nước ngoài vào tìm đối tác để đặt hàng thì họ lại chọn các doanh nghiệp tư nhân “giả bia”. Từ đó thị phần và đơn hàng của doanh nghiệp vốn trong nước dần bị thu hẹp. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở Đồng Nai, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. Ví dụ ở Hải Phòng có Công ty TNHH Đỉnh Vàng lớn nhất thành phối với 10 dây chuyền sản xuất giày thể thao, giày nữ và 2 xí nghiệp sản xuất để cho 12 triệu đôi sản phẩm/ năm. Bà Nguyễn Thị Kim Thúy làm giám đốc nhưng do một người Thái Lan bỏ vốn và thâu tóm : Công ty TNHH Thành Hưng cho 3 triệu sản phẩm/năm do Bà Đoàn Thị Thu Hà làm Giám đốc nhưng vốn và quyền nằm trong tay người ngoại quốc. Như vậy ngành da giày chỉ dựa vào Tổng Công ty da giày làm nòng cốt. Tổng Công ty này có 17 doanh nghiệp, năng lực sản xuất 39 triệu đôi giày dép/năm bằng 1/10 toàn ngành, kim ngạch xuất khẩu, lao động cũng tỷ lệ thuận. Nhưng thiết bị, vốn cố định và lưu động tỷ lệ đó còn thấp hơn nhiều. Các nhà nghiên cứu cho biết gốc rễ của tình trạng không làm chủ được sản xuất và thị trường của ngành da giày chỉ là khả năng cung cấp nguyên liệu (yếu tố đầu tiên và gần như quyết định) của ta quá yếu. Theo tính toán của hiệp hội da giày Việt Nam, với sản lượng sản xuất như hiện nay thì mỗi năm cả nước cần khoảng 130 triệu square feet (gọi tắt là bia) da thành phẩm, cùng một lượng lớn giả da, vải, vải tráng PU, PU, keo tổng hợp…nhưng đều phải nhập ngoại từ 80 - 90% nhu cầu. Đây không phải là sự khống chế của nước ngoài khi ta gia công cho họ (vì họ cũng muốn mua tại Việt Nam để đỡ tốn kém) mà chỉ vì ta không sản xuất được những sản phẩm đó. Ông Phan Đình Độ chủ tịch hiệp hội da giày Việt Nam cho biết sản lượng da thuộc thành phẩm của năm 2000 của ngành đạt 32 triệu bia. Những các chuyên gia nhận xét đây là da chất lượng thấp. Họ phân tích : Để sản xuất được sản phẩm da thuộc có chất lượng cao phải có quy hoạch tổng thể từ chăn nuôi gia súc được chăn nuôi hỗn hợp, chủ yếu để lấy thịt sức kéo và sữa, không có loại dành riêng cho lấy da. Khâu giết mổ lại hoàn toàn bằng thủ công không có công nghệ lột da). Vì vậy mà vừa lãng phí da vừa tốn kém cho làm sạch môi trường và quan trọng nhất là da bị thủng, rách không đủ tiêu chuẩn làm sản phẩm xuất khẩu. Giải quyết vấn đề da thuộc đòi hỏi hai yếu tố. Thứ nhất : Quy hoạch về chăn nuôi giết mổ ở ta chưa làm được và chỉ nuôi gia súc lấy thịt sữa và sức kéo. Ngành thuộc da không thể mua (hay nuôi) một con bò chỉ để lấy một bộ da. Sự hợp tác giữa chăn nuôi và thuộc da mới nằm trong tương lai. Thứ hia, thuộc da đòi hỏi vốn đầu tư, vốn lưu động lớn, chu kỳ sản xuất dài. Hiện chiến lược của tổng Công ty da giày mới bàn đến hợp nhất, nâng cấp hai cơ sở thuộc da, hiện có để tăng công suất lên 10 triệu bia vào năm 2005 (gần bằng 1/10 nhu cầu toàn ngành năm 2000) đã hết 30 tỷ đồng và cần 5 tỷ nữa cho nhà máy xử lý nước thải. Vấn đề trên tổng Công ty da giày chưa tự giải quyết được các doanh nghiệp có vốn lớn (vốn nước ngoài) thì không đầu tư và lâu thu hồi. Ngoài ra các nguyên phụ liệu : giả da, vải, nhựa bạt, keo…cũng tương tự như tình trạng thiếu da thuộc. Phải có sự kết hợp các ngành may mặc, hoá chất mới có thể giải quyết được…Đặc thù của ngành da giày là phải có sản phẩm hoàn chỉnh đem giới thiệu trên thị trường, nếu được lựa chọn bước 2 mới được kiểm tra về công nghệ, rằng lực sản xuất, môi trường thì mới được ký hợp đồng. Vì thế ta không thể nhập một lượng nguyên phụ liệu để sản xuất một đôi giày đem giới thiệu và cũng không thể nhập một lượng lớn nguyên phụ liệu khi không biết sản phẩm có được lựa chọn hay không. Điều này kéo theo trình độ thiết kế mẫu mã, khai thác thị trường mẫu mã dẫm chân tại chỗ vì luôn phụ thuộc vào mẫu mã và thị trường của nước thuê mình gia công. Cái gốc đã thiếu ngành da giày còn vấp phải hàng loạt những khó khăn khách quan như : Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trốn nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (60% cho công nhân nhưng các doanh nghiệp quốc doanh lại phải thực hiện đầy đủ, gây lực cạnh tranh không cân đối. Thuế nhập khẩu đối với dụng cụ, phụ tùng sản xuất da giày đánh giá cao. Đặc thù của ngành là chạy theo thời vụ và hợp đồng nên luật lao động hiện hành quy định về tăng ca, giãn ca gây trở ngại cho sản xuất kinh doanh. Bởi vậy Gia công là bước tất yếu đối với ngành da giày của tất cả các quốc gia khi muốn biết từ lạc hậu, non trẻ lên hiện đại, quy mô. Điều này cũng đã xảy ra ở Trung Quốc – một quốc gia hiện đang rất mạnh về da giày. 2. Đánh giá hoạt động xuất khẩu 2.1. Những thành tựu đạt được Bắt đầu từ năm 1993, ngành da giày đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di chuyển sản xuất và cùng với đó là sự di chuyển của đơn hàng, từ những vùng có truyền thống về sản xuất da giày như Đài Loan, Hàn Quốc sang nước ta. Nếu như thời kỳ 1990 –1992 mới chỉ có 4 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực da giày thì sang đầu năm 1998 cả nước có 32 doanh nghiệp với tổng vốn đầu tư đã thực hiện là 124 triệu USD, năng lực sản xuất đạt 87 triệu đôi giày dép/năm và 34 triệu sản phẩm da/năm. Cho tới nay toàn ngành giày dép có khoảng 130 nhà máy và cơ sở sản xuất với 250 dây chuyền đồng bộ, công suất thiết kế đạt 265 triệu đôi/năm. Về cơ cấu sản phẩm, giày thể thao đạt 130 triệu đôi (49%), giày vải đạt 48 triệu đôi, giày nữ đạt 38 triệu đôi (14%), dép đạt 48 triệu đôi (18%) và giày da đạt 4 triệu đôi (1,5%) (Năm 1999). Quá trình đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh ngành da giầy đã thu hút và đào tạo được một đội ngũ lao động đông đảo, tính đến 31/12/1998 đã có hơn 200.000 lao động làm việc, đông gấp 12 lần, có tay nghề tốt hơn, học vấn cao hơn, phong cách làm việc hiện đại hơn so với trước 1992. Trình độ quản lý kỹ thuật sản xuất, quản trị kinh doanh, khả năng tiếp thị…của đội ngũ cán bộ quản lý đã được nâng lên rõ rệt. Về giá xuất khẩu, do chi phí sản xuất và chi phí lưu thông thấp nên giá hàng giày dép xuất khẩu của Việt Nam tương đối thấp, có thể cạnh tranh được với các nước khác. Số lượng các sản phẩm giày dép chất lượng cao được sản xuất và xuất khẩu tăng lên đã góp phần nâng cao đơn giá xuất khẩu bình quân từng chủng loại tăng cao hơn. Về kim ngạch xuất khẩu, hàng giày dép là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất : Năm 1997 là 965,5 triệu USD, tăng 82,2% năm 1998 : 1.031,8 triệu USD, tăng 6,9%, năm 1999 : 1391,6 triệu USD tăng 34,9%, đứng thứ 3 sau Dầu khí và Dệt may, đã thu hút hơn 300.000 lao động trong đó 80% là nữ. Trong năm 1999, thị trường xuất khẩu chủ yếu là EU đạt 932,4 triệu USD, chiếm 67% trong đó Anh : 194,5 triệu USD, chiếm 14%, Đức : 192,3 triệu USD chiếm 13,8%, Bỉ : 146,5 triệu USD, chiếm 10,5%, Pháp : 132,7 triệu USD chiếm 9,5% và Hà Lan : 125,6 triệu USD, chiếm 9%. Ngoài ra còn có Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Đài Loan cũng là những thị trường nhập khảu nhiều giày dép Việt Nam. Về so sánh khả năng cạnh tranh với hàng ngoại, khả năng cạnh tranh của hàng giày dép Việt Nam đạt vào loại trung bình, xấp xỉ sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Inđônêxia, philippin, nhưng thấp hơn hàng Trung Quốc. Thông thường giá bán hàng Trung Quốc nhập khẩu thấp hơn từ 20 – 50% hàng Việt Nam cùng loại. Năm 2000 là năm chuyển giao thế kỷ với bao biến động trong nền kinh tế thế giới. Thời cơ với ngành da giày Việt Nam hết sức thuận lợi đó là thị trường Mỹ rộng lớn, đầy hứa hẹn. Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đã được ký kết tháng 7/2000, được Quốc hội hai nước thông qua và có hiệu lực từ tháng 12/2001. Tiếp đó là việc Việt Nam đang đàm phán để trở thành thành viên tổ chức thương mại Quốc tế (WTO) trong thời gian tới. Điều đó, đồng nghĩa với việc xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá nước ta xuất khâủ vào Mỹ và các nước trong tổ chức Thương mại Quốc tế. Đó là thời cơ lớn đối với ngành da giầy Việt Nam, một ngành đang có ưu thế xuất khẩu, có đội ngũ lao động đông đảo, cần cù, chịu khó, tiếp thu nhanh, có đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật có kinh nghiệm sau khoảng 10 năm hợp tác gia công với nước ngoài. 2.2. Những tồn tại thách thức và nguyên nhân Bên cạnh những thành tựu đạt được ngành da giày Việt Nam còn có những tồn tại và yếu kém đó là : - Đang bị lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu, hoá chất, phụ tùng máy móc từ nước ngoài và nhất là từ chính các đối tác đặt sản xuất hoặc mua sản phẩm của tư. Yếu kém này làm hạn chế rất nhiều về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến thế cạnh tranh của các sản phẩm. - Tình trạng quá yếu kém về tài lực, vốn đầu tư đều phải tự vay trung hạn với lãi suất cao, nếu trên 70% các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện gia công sản phẩm cho nước ngoài. Phương thức này đang tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài vào khai thác thị trường lao động rẻ (chưa đến 0,3 USD cho 1 giờ công lao động giầy, thấp nhất so với các nước trong khu vực). - Trình độ quản lý kỹ thuật công nghệ thiết kế và phát triển mẫu mốt quản lý và vận hành sản xuất kinh doanh của cán bộ Việt Nam còn yếu kém do mới hình thành ngành kinh tế kỹ thuật, chưa có trường lớp đào tạo. Phần lớn cán bộ Việt Nam chưa thể tự mình chủ động độc lập điều hành sản xuất và kỹ thuật một cách khoa học, đồng bộ, đúng tiến độ và có chất lượng. - Do lượng hàng tồn kho lớn và sự mất giá của đồng EURO, nên sức mua của thị trường truyền thống của chúng ta (EU) đang giảm mạnh vào năm 2000. Đặc biệt là đối với giày vải và giày thể thao, lượng đơn hàng năm 2000 chỉ đạt từ 50 – 70% so với 1999. Thêm vào đó là sự cạnh tranh khốc liệt với Trung Quốc, một đất nước có thế mạnh giống Việt Nam nhưng lớn hơn và mạnh hơn ta nhiều lần. Mới đây Trung Quốc lại có lợi thế thương mại hơn ta do hiệp định Thương mại Trung Mỹ đã có hiệu lực về Trung Quốc đã gia nhập WTO. Bên cạnh đó giá giày dép Trung Quốc luôn thấp hơn ta từ 10 – 30% do chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Trung Quốc tốt hơn, năng suất lao động ở Trung Quốc cao hơn đặc biệt là Trung Quốc đã đầu tư và sản xuất được hầu hết các nguyên phụ kiện cho giày dép nên có điều kiện hạ giá thành sản phẩm và hoàn toàn chủ động trong sản xuất và đa dạng về mẫu mốt. Có lẽ đây là thách thức lớn nhất đối với ngành da giầy Việt Nam. - Thị trường Mỹ và một số nước mở rộng đối với ngành Da giầy Việt Nam với những ưu đãi về thuế quan và phi thuế qaun, nhưng cũng có những đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh công nghiệp, môi trường luật pháp mà không phải doanh nghiệp nào, sản phẩm nào cũng có thể vào được một cách dễ dàng. Trong khi đó ngành da giầy Việt Nam còn quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chủ yếu vẫn làm theo phương thức gia công, trình độ thiết bị công nghệ chỉ ở mức trung bình, số máy móc thiết bị cũ thế hệ 2,3 còn đang phổ biến. Trình độ nghiên cứu công nghệ, thiết kế mẫu mốt thời trang còn yếu. Nguyên vật liệu và phụ tùng phải nhập ngoại nhiều. Hiện nay (năm 2001) một số doanh nghiệp sản xuất giày dép xuất khẩu đang gặp phải trở ngại lớn đó là sự giảm sút về đơn hàng do khách hàng chuyển đơn hàng từ các đơn vị thành viên của Tổng Công ty sang các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Việc xúc tiến thương mại diễn ra còn chậm, kém hiệu quả. Tính đến hết quý I/2001 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 125 tỷ đồng, bằng 75% so với cùng kỳ năm 2000, doanh thu đạt 182 tỷ đồng bằng 20% kế hoạch năm. Mặt khác, do sản lượng sản phẩm sản xuất và xuất khẩu giảm sút và nguyên nhân chủ yếu làm giá trị xuất khẩu trong quý 1 năm 2001 của Tổng Công ty giảm chỉ đạt 31 triệu USD bằng 21% kế hoạch và bằng 70% so với cùng kỳ năm 2000. Ngoài ra còn có nguyên nhân khác là các doanh nghiệp tăng sản xuất các mặt hàng phục vụ thị trường nội địa, giảm sản lượng gia công tăng sản lượng tự sản xuất và xuất khẩu điều đó cũng góp phần làm cho giá trị xuất khẩu tính theo giá FOB giảm. Chương III Triển vọng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam I. Triển vọng xuất khẩu của ngành da giầy Theo đánh giá và dự đoán của các chuyên gia thì trong những năm tới, các nước Châu á, Viễn Đông sẽ chiếm tới 75% sản lượng giày dép toàn thế giới (khoảng trên 10 tỷ đồng), trong đó Việt Nam cũng sẽ là một trong các nước có tiềm năng để phát triển ngành hàng này. Các nước và các khu vực có mức tiêu thụ và nhập khẩu giày dép lớn trên thế giới mà Việt Nam có lợi thể đã xâm nhập vào EU, Mỹ, Nhật Bản. Căn cứ vào tiềm năng và lợi thể của Việt Nam trong các năm tới có thể đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 20 -25% về kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc Trung Quốc gia nhập WTO, được tháo bỏ các rào cản thương mại sẽ làm những thế mạnh của ta bị đe doạ và mờ nhạt. Tuy nhiên ban đầu Trung Quốc vẫn bị khống chế bởi hạn ngạch và một số điều khoản chống phá giá của WTO nên ta cũng không gặp biến động ngay, song thời gian để đối phó cũng không còn nhiều. Cần phải nói thêm rằng ngành da giầy của Việt Nam có rất nhiều điểm thuận lợi, nguồn lao động dồi dào. Nhân công tại Việt Nam, Inđônêxia vẫn rẻ hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Tham gia vào sản xuất da giầy có nhiều loại hình doanh nghiệp như tư nhân, Nhà nước, liên doanh và đây là cơ hội để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý và cạnh tranh nhau cùng tiến lên. Hơn nữa, những cánh cửa mở ra cho Việt Nam như AFTA, WTO…cũng sẽ là điều kiện thuận lợi để công nghiệp da giày nói riêng và ngành công nghiệp nói chung cuả Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Dự đoán trong 10 năm nữa sản lượng giày dép, cặp túi các loại của ta khoảng 720 triệu chiếc, kim ngạch xuất khẩu là 4,7 tỷ USD sản xuất gia công được thay bằng sản xuất khép kín, 80 triệu bia da, 250 triệu yard giả da và các loại vải 550000 tấn đế giày, 10000 tấn keo tổng hợp… là nguyên phụ liệu sản xuất trong nước. Việt Nam sẽ có các Trung tâm thương mại, trung tâm nghiên cứu thiết kế mẫu mốt ngang tầm khu vực. Sản phẩm có mặt ở tất cả các thị trường lớn. Tuy nhiên, ngành da giày Việt Nam chỉ có thể tìm được con đường vạn dặm khi tất cả các doanh nghiệp đều nỗ lực hết mình cùng sự hỗ trợ kịp thời của nhà nước. II. Giải pháp và kiến nghị thúc đẩy xuất khẩu da giầy. 1. Một số giải pháp 1.1. Đối với Nhà nước Năm 2001, ngành da giầy Việt Nam tiếp tục đương đầu với những khó khăn biến động của thị trường giầy thế giới, những khó khăn nảy sinh do sức ép từ phía nội tại các doanh nghiệp trong nước, do đó tình hình sản xuất kinh doanh của ngành nói chung và của Tổng Công ty Da giày Việt Nam nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau : - Khoảng cách chênh lệch quá xa hiện nay giữa các doanh nghiệp trong nước so với nước ngoài trên các mặt : Vốn, công nghệ, trình độ quản trị, Marketing đang là một khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước. Nhà nước cần có các chính sách nhằm bảo hộ sản xuất trong nước để sớm đưa nền công nghiệp da giày nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, đảm bảo tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh thị trường. - Nhà nước cần quản lý chặt chẽ sản phẩm da giày nhập tiểu ngạch, quà biếu ngăn chặn nhập lậu, xử phạt nặng các vi phạm. - Điều chỉnh các chính sách thuế đặc thù nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất. Xem xét, miễn hoặc giảm thuế đối với một số nguyên liệu sản xuất trong nước cung cấp cho ngành làm hàng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. - Cần có các sắc thuế nhập khẩu hợp lý cho từng loại nguyên vật liệu, công cụ lao động để hỗ trợ sản xuất trong nước để hạn chế các đối tác nước ngoài lợi dụng kinh doanh kiếm lơì, nhưng cũng tránh vô tình gián tiếp “đánh thuế” vào phía gia công của doanh nghiệp Việt Nam như hiện nay. - Không đánh thuế vào nguyên liệu, vật liệu, bao bì có chính sách thuế hợp lý công bằng. - Có chính sách miễn giảm thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển . Căn cứ năng lực của từng doanh nghiệp có thể giúp đỡ về hướng đầu tư nghiên cứu, hỗ trợ về kỹ thuật. - Nhà nước có chính sách khuyến khích sản xuất trong nước, như cho vay ngoại tệ với lãi suất ưu đãi để nhập máy móc thiết bị, cải tạo mở rộng nhà xưởng. - Hỗ trợ tài chính cho sản xuất hàng xuất khẩu. Trợ giá sản xuất một số mặt hàng xuất khẩu, nhằm tạo thị trường và giải quyết khó khăn lúc đầu cho doanh nghiệp. - Tổ chức lại hoạt động phân phối khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo quyền lợi nhà sản xuất và người tiêu dùng. - Thành lập các tổ chức tư vấn về lĩnh vực đầu tư, về lựa chọn và chuyển giao công nghệ…cung cấp thông tin thị trường giúp các doanh nghiệp đầu tư phát triển có hiệu quả, hoà nhập với thị trường da giày thế giới. Ngành công nghiệp da giàu là ngành công nghiệp có triển vọng phát triển mạnh đem về cho đất nước một số ngoại tệ lớn, đồng thời tạo ra công ăn việc làm cho rất nhiều lao động, Nhà nước cần có các chính sách nhằm kích thích sự phát triển và ổn định của ngành da giày, cụ thể là : - Có định hướng phát triển ngành tập trung và các sản phẩm da giầy xuất khẩu. - Có chính sách hỗ trợ và bảo hộ sản xuất trong nước. - Chính sách ưu đãi trong việc vay vốn từ các nguồn tín dụng hoặc bảo vệ vay vốn từ các nguồn tài chính nước ngoài. - Kiểm soát việc đầu tư công nghệ tránh việc nhập các công nghệ quá cũ, quá lạc hậu gây tác hại đến môi trường. - Lập qũy bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp đóng góp tối thiểu 10% lợi nhuận đối với lĩnh vực thuộc và sản xuất da do là ngành gây ô nhiễm nặng đến môi trường. - Quy hoạch bố trí các nhà máy thuộc da hay các cơ sở thuộc da mới sẽ cách các vùng đô thị đông dân cư và phải có công nghệ xử lý chất thải thích hợp không gây ô nhiễm. - Chính sách thuế lợi tức ưu đãi để khuyến khích không chỉ các doanh nghiệp nước ngoài mà cả trong nước tham gia phát triển ngành. - Chính sách thuế xuất nhập khẩu uyển chuyển trong từng thời kỳ cụ thể là trong khi nguồn nguyên liệu da trong nước chưa cung cấp đủ cho các nhà máy thuộc da hoạt động hết công suất phải miễn thuế nhập da tươi, da muối. Như vậy, ngành da giày chỉ có thể thực hiện thành công mục tiêu chiến lược hướng về xuất khẩu trong sự nỗ lực thống nhất hữu cơ liên ngành, đồng thời nhờ vào chính sách bảo hộ đúng đắn của Nhà nước cũng như các giải pháp ổn định và phát triển hợp lý của ngành. Rõ ràng vai trò tạo môi trường điều kiện của Chính phủ bằng quản lý vĩ mô, bằng pháp luật, bằng đòn bẩy kinh tế, bằng các chính sách ưu đãi… là rất quan trọng. 1.2. Đối vói doanh nghiệp. Sang thế kỷ 21 để ngành Da giày Việt Nam không ngừng phát triển và trụ vững trong điều kiện nền kinh tế thế giới đầy biến động với xu hướng toàn cầu hoá, để ngành Da giày Việt Nam có thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trở thành ngạch xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế quốc dân ngành Da - giày Việt Nam còn có những giải pháp tích cực, táo bạo và kiên quyết sau : - Trước hết, từng doanh nghiệp phải tự nỗ lực vươn lên hoàn thiện mình, để doanh nghiệp mình hội đủ các điều kiện xuất khẩu sang các thị trường mới như Mỹ và các nước trong WTO… Mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ (trước hết ở những khâu then chốt) nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là lĩnh vực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo mốt, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 9001 và ISO 9002. - Ngành Da - giày Việt Nam mà nòng cốt là Tổng Công ty Giày Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện chiến lược xây dựng, phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành đặc biệt là cho phần mũ giày. Khi chủ động được nguyên phụ liệu sẽ tiết kiệm được lượng ngoại tệ nhập khẩu đáng kể cho đất nưóc và giá thành sản phẩm sẽ hạ nhằm tăng sức cạnh tranh cho toàn ngành. Không những thế, khi chủ động sản xuất được nguyên, phụ liệu, các doanh nghiệp mới chủ động thiết kế nhiều mẫu mốt phong phú đa dạng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường và có thể linh động chuyển từ phương thức gia công sang phương thức mua đứt bán đoạn. Đây là bài học mà Trung Quốc đã áp dụng rất thành công trong những năm qua. Để làm được việc này đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, vì vậy phải có sự hỗ trợ tích cực từ Chính phủ, đồng thời ngành phải có phương thức huy động mọi nguồn vốn từ trong nước và nước ngoài. Để tăng cường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài, giải quyết các yêu cầu đầu tư cho các doanh nghiệp trong giai đoạn tới, vấn đề đặt ra là ngành phải thực hiện một số giải pháp sau : + Thu hút đầu tư chế tác giày xuất khẩu. So với một số nước trong khu vực, Việt Nam có lợi thế là giá nhân công rẻ, thời gian giao hàng tương đối đảm bảo do vậy mà các doanh nghiệp giày Việt Nam có đủ điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài trong việc nhận chuyển giao công nghệ. Việc nhận chuyển giao những công nghệ ít phức tạp sẽ rẻ hơn, chi phí bảo dưỡng ít hơn, sử dụng được nguồn nhân lực phổ cập hơn. Mặt khác luôn cần nâng cao năng suất, chất lượng, tiết kiệm chi phí tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. + Thu hút đầu tư sản xuất đế giày + Thu hút đầu tư cho riêng sản xuất giày da + Nhận chuyển giao các công nghệ hiện đại Giải pháp này gồm hai hướng chính là ứng dụng CAD cho công tác tạo mẫu sản phẩm và quản lý cơ sở dữ liệu. + Thúc đẩy nghiên cứu triển khai R & D ở cơ sở. Các giải pháp vi mô của các doanh nghiệp giày Việt Nam ở trên sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh và phát huy tác dụng thu hút đầu tư nước ngoài cho các doanh nghiệp, bổ trợ cho nhau tạo ra sức mạnh cho từng doanh nghiệp, cho toàn ngành kinh tế kỹ thuật Da - giày nhằm thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, góp phần vào sự nghiệp CNH - HĐH. - Để ngành Da -giày Việt Nam có thể chuyển từ phương thức gia công truyền thống sang phương thức mua đứt bán đoạn, nhằm tăng tính chủ động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chủ động về nguyên phụ liệu chúng ta phải thúc đẩy nghiên cứu khoa học - công nghệ và thị trường. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần mạnh dạn chi phí để chủ động thâm nhập thị trường thông qua các hội chợ triển lãm quốc tế ở trong nước và nước ngoài, tham gia tích cực vào hệ thống thương mại điện tử để tiếp cận khách hàng. Về phía Chính phủ, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, các đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài, Hiệp hội Da - giày Việt Nam, Tổng Công ty Da - giày Việt Nam cần có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc mở rộng và tiếp cận thị trường, vì nhiều việc tự doanh nghiệp không thể giải quyết được. Ngành cần mạnh dạn đầu tư xây dựng các trung tâm nghiên cứu, thiết kế, chế tạo mẫu mốt, chế tạo form và đế giày. Đây là việc làm khó khăn và tốn kém nhưng phải làm được thì chúng ta mới làm chủ được khoa học công nghệ mới chủ động được trong sản xuất và mới đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Để làm được việc này, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ một phần kinh phí. Bộ Công nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng Công ty Da giày Việt Nam cần phối hợp tổ chức các khoá đào tạo kỹ sư chuyên ngành Da giày tại một số trường đại học nhằm cung cấp đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật cho ngành. Ngoài ra, cũng cần phải tổ chức một số trường chuyên đào tạo công nhân kỹ thuật cho ngành để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng ở các doanh nghiệp. - Về tổ chức quản lý ngành, nên đa dạng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để phát huy sức mạnh tổng hợp và huy động được mọi nguồn vốn. Nhưng rất cần phải xây dựng một hiệp hội ngành nghề đủ mạnh để thống nhất và bảo vệ lợi ích của toàn ngành. Hoạt động của Hiệp hội phải thực sự mang lại quyền lợi cho các hội viên thì mới thu hút được đông đảo các doanh nghiệp tham gia. Để tận dụng được thời cơ , vượt qua được các thách thức trong thời gian tới, ngành Da - giày Việt Nam cần phải nỗ lực, cố gắng rất nhiều, phải có chiến lược phát triển mang tính đột phá mạnh mẽ như ngành Dệt may. Các doanh nghiệp phải có những biện pháp tích cực, khẩn trương để chuẩn bị các điều kiện thâm nhập vào thị trường Mỹ và một số thị trường mới khác, bằng không thời cơ sẽ qua đi và các thách thức thì vẫn còn đó. 2. Một số kiến nghị. a) Trên cơ sở quy hoạch phát triển ngành Da giày đến năm 2010 sẽ được Bộ công nghiệp và Chính phủ phê duyệt, đề nghị Nhà nước chỉ đạo các địa phương thực hiện đầu tư phát triển ngành Da giày theo đúng hướng và theo quy hoạch vùng, tạo điều kiện để ngành thực hiện các mục tiêu phát triển, tránh đầu tư tự phát, kém hiệu quả. b) Đề nghị Chính phủ hoàn thiện cơ chế tổ chức Tổng Công ty và có giải phát hỗ trợ cùng với sự nỗ lực của Tổng Công ty để đảm bảo vai trò chủ đạo trong toàn ngành Da - giày Việt Nam. c) Đối với ngành Da giày, thời hạn vay vốn đầu tư trong kế hoạch cần từ 7-10 năm. Chỉ với thời gian như vậy, các doanh nghiệp mới có điều kiện hoàn trả vốn vay mà không phải chiếm dụng từ nguồn khác. Do vậy đề nghị Nhà nước điều chỉnh chính sách cho phù hợp. d) Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một số chính sách và giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp của ngành gặp khó khăn đặc biệt về vốn như cho phép các doanh nghiệp được chuyển vốn vay từ trung hạn sang dài hạn cho vay đảo nợ ở một số doanh nghiệp, cấp bổ sung vốn lưu động… Trong thời gian tới, đề nghị Nhà nước tiếp tục xem xét, đánh giá lại tài sản cố định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Nhà nước thực sự hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường như mọi thành phần kinh tế khác thì mới có thể xác định một cách chính xác hiệu quả của các doanh nghiệp này. Đặc biệt, đề nghị Nhà nước tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp ngành thuộc da để vượt qua giai đoạn căng thẳng về vốn hiện nay, có điều kiện tiếp tục tồn tại và phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. f) Để bảo hộ sản xuất trong nước đề nghị Nhà nước có biện pháp kiên quyết và có hiệu quả ngăn chặn hàng nhập lậu từ Trung Quốc, đồng thời có biện pháp hỗ trợ ngành Da giày trong việc tìm kiếm thị trường mới. Kết luận Tóm lại triển vọng phát triển của ngành Da giày trong những năm tới là to lớn. Bên cạnh đó, chúng ta còn không ít những khó khăn cần giải quyết để đưa ngành Da - giày trở thành một ngành công nghiệp vững mạnh đủ khả năng hội nhập và cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường thế giới và khu vực trong những năm tới. Tài liệu tham khảo 1. Báo Công nghiệp - 17/1999 2. Báo Công nghiệp - 8/1999 ; 5/1999 3. Tạp chí công nghiệp Việt Nam 10/2001 4. Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 23/2000 ; 3/2001 ; 5/2001 5. Phát triển kinh tế 6. Doanh nghiệp 7. Kinh tế và dự báo số 5/2000 8. Ngoại thương 5-11/11/1999 9. Thương mại số 1 năm 2000 10. Thương mại 15/2001 11. Ngoại thương 28/10 - 4/11/1999 12. Công nghiệp xuân 2001 13. Tạp chí kinh tế và phát triển Mục lục Lời nói đầu ..............................................................................................................1 Chương I.................................................................................................................3 Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu ..............................................................3 I. Khái niệm và vai trò xuất khẩu trong nền kinh tế ......................................3 1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu. .............................................................3 2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế. ......................................................3 II. Quy trình xuất khẩu. ..................................................................................5 III. vài nét về đặc điểm và vai trò của ngành da giày trên thị trường thế giới và thị trường Việt Nam. ...................................................................................6 Chương II ...............................................................................................................8 Tình hình kinh doanh xuất khẩu da giày của Việt Nam ...................................9 I. Thực trạng và xuất khẩu da giày Việt Nam trước 1990 và các nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu. .......................................................9 1. Thực trạng xuất khẩu da giày Việt Nam ......................................................9 1.1. Thực trạng xuất khẩu da giày Việt Nam trên thị trường Đông Âu và Liên Xô cũ. ..................................................................................................9 1.2. Thực trạng ngành da giày xuất khẩu. .....................................................9 2. Các nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu. ................................ 10 3. Đánh giá thực trạng của ngành da giày và hoạt động xuất khẩu. ................ 11 II. hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam sau 1990 ................................... 12 1. Thực trạng xuất khẩu ................................................................................ 13 1.1. Thị trường EU. .................................................................................... 15 1.2. Thị trường Mỹ..................................................................................... 16 1.3. Thị trường Châu á và một số thị trường khác. ..................................... 16 1.4. Vài nét về hoạt động gia công da giày ở Việt Nam .............................. 17 2. Đánh giá hoạt động xuất khẩu ................................................................... 21 2.1. Những thành tựu đạt được ................................................................... 21 2.2. Những tồn tại thách thức và nguyên nhân............................................ 22 Chương III............................................................................................................ 24 Triển vọng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam .... 24 I. Triển vọng xuất khẩu của ngành da giầy .................................................. 24 II. Giải pháp và kiến nghị thúc đẩy xuất khẩu da giầy. ............................... 25 1. Một số giải pháp ....................................................................................... 25 1.1. Đối với Nhà nước................................................................................ 25 1.2. Đối vói doanh nghiệp. ......................................................................... 27 2. Một số kiến nghị. ...................................................................................... 30 Kết luận ................................................................................................................. 31 Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 31

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf61371_8668.pdf
Luận văn liên quan