Liên Ban g N ga là một quốc gia có dân số là 144 t riệu n gười (đứng thứ 8 trên T hế Giới) và là
một xã hội đa sắc tộc, là nơi sinh sống c ủa trên 160 nhóm sắc tộc. D ù dân số N ga khá lớn
nhưng mật độ dân số ở Nga khá thấp , do diện tích rộng lớn c ủa nước này . Dân cư p hân bố
không đồng đều, tập trung phần lớn ở phía T ây và thưa dần về p hía Đông và có đến 73% dân
cư sống t ập trung ở t hành thị.
Nga có một hệ thống giáo dục mi ễn phí bảo đảm cho mọi công dân theo Hiến pháp, tỉ lệ
người b iết ch ữ là 99,4%. Việc đặt giáo dục lên hàng đầu như vậy c ũng là sự ưu tiên hàng đầu
cho khoa học và kỹ thuật trong giáo d ục, y tế, toán học, khoa học và khoa học vũ trụ cung
cấp lực lượn g nhân lực chất lượng cao cho cá c lĩnh v ực cong ngh ệ cao, côn g nghệ m ới
Liên Ban g Nga là một quốc gia đôn g dân, có t rình độ d ân trí c ao, có độ i ngũ khoa học kỹ
thuật, kỹ sư lành nghề vì thế mà t iềm năn g du khách từ đất nước này rất lớn, bởi đội n gũ l ao
động ở đất nước này p hần lớn là làm về ngành côn g n ghiệp,ngành khoa học cơ bản nên họ
thường p hải làm việc t rong một môi t rườn g c ăng thẳng nên du cầu được đi du lịch t hư giãn rất
cao. Tuy nhiên đôi tượng du khách này cũng rất khó phục vụ,bở i họ là những người có trình
độ dân t rí cao v à họ đến từ một quốc gia có tài n guy ên t hiên nhiên p hong p hú, đa dạn g, khoa
học kỹ thuật phát triển và họ có một tài sản về văn họ c_n ghệ thuật, các côn g trình kiến trúc vô
cùng to lớn.
44 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5368 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khảo sát tâm lý du lịch nước Nga, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gầm, nhà bảo tàng Nizami tại Bacu và viện điều
dưỡng ở Sochi… đều là những công trình quan trọng của nền kiến trúc Xô Viết.
Đến ngày nay nước Nga đã có thêm rất nhiều những công trìng kiến trúc hiện đại vào
bậc nhất thế giới, và nó cũng khắc thêm cho k iến trúc Nga những sắc màu rực rỡ.
19
Khách sạn Ukraina là một trong bảy tòa nhà chọc trời ở Moscow, khách sạn này được
xây dựng theo chỉ thị của St alin trong những năm 1950 ở M oscow. Được xây dựng
năm 1957, khách sạn có 30 tầng và cao 206 mét bao gồm cả 73 mét tháp chuông này
được tọa lạc ngay bên dòng sông Moscow. Khách sạn to lớn này có hơn 1 ngàn phòng
đầy đủ tiện nghi và các đồ đạc trong phòng rất độc đáo, những bức tranh và những cây
đèn bằng đồng ở đây có từ những năm 1950 từ thời kỳ Stalin. Trên nóc của khách sạn
có phòng quan sát, ở đây ta có thể ngắm phong cảnh của thành phố Moscow rất toàn
diện.
20
Khách sạn Ukraina
Khách sạn này không đồ sộ như trường đại học quốc gia Moscow, nhưng nó có một
phong cách kiến trúc tao nhã và hết sức quyến rũ trong từng chi tiết của công trình.
(DiaOcOnline.vn - Theo Tuvank ientruc).
Gần như toàn bộ lịch sử phát triển của mình, ngành kiến trúc của nước Nga bị chi phối
mạnh mẽ bởi yếu tố tôn giáo. Các nhà thờ được xây dựng hoàn toàn bằng đá với các
bức tường cao trên nền một không gian khoáng đạt (theo lối kiến trúc Hy Lạp). Kiến
trúc mái vòm lần đầu tiên xuất hiện tại Nhà thờ Sancta Sophia ở Novgorod vào thế kỷ
17.
Cùng với sự ra đời của nước Nga thống nhất dưới thời trị vì của Ivan III, lối kiến trúc
châu Âu bắt đầu xuất hiện t ại N ga. Tác phẩm đầu tiên của sự du nhập này là Nhà thờ
Assumption, được hoàn thành vào năm 1479 theo t hiết kế của kiến trúc sư Aritotle
Fioravanti và được xem là nhà thờ lớn nhất ở thủ đô Mát-xcơ-va. Đây cũng là công
trình kiến trúc đầu tiên ở N ga chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Phục hưng Ý. Người
được cho là có công lớn trong việc đem kiến trúc châu Âu đến với nước Nga là N gài
21
Peter- tác giả của bản thiết kế quy hoạch thành phố St. Pet ersburg. Nhà thờ Smolny và
Cung điện Mùa đông cũng là tác phẩm của các học trò của ông.
Trong suốt thế kỷ 19, hội họa tạo dựng hồi sinh ở Nga. Lăng Lênin cũng được xây
dựng vào thời kỳ này theo lối kiến trúc của trường phái này. Những năm cuối cùng của
thế kỷ 20, kiến trúc hiện đại thực sự tìm được chỗ đứng ở Nga, các tòa nhà cao chọc
trời chiếm ưu thế trong tương quan chung của các bức tranh thành phố.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, nước Nga đặc biệt đề cao lối kiến trúc dân gian,
các loại gỗ được dùng nhiều trong xây dựng lăng tẩm, bảo tàng... (nuocnga.net).
5. Lễ hội ở Nga.
Là đất nước có một nền văn hoá lâu đời, nước Nga nổi t iếng với rất nhiều lễ hộ i đặc sắc.
Những lễ hội ấy phản ánh nét sinh hoạt mùa màng của nền nông nghiệp vùng ôn đới, của xứ
sở của bạch dương và tuyết trắng. Và những lễ hội ấy cũng gắn liền với những chiến tích,
những di tích lịch sử, những bãi ch iến trường nổi tiếng của nước Nga.
Khác với những gì người ta thường nghĩ, nguồn gốc của nhiều lễ hội của Nga thường không
liên quan tới các lễ hội của đạo Ky-tô nói chung và Chính thống giáo nói riêng, tôn giáo mà
phần lớn người Nga theo. Lễ hội dân tộc của nước này thường bắt nguồn từ xa xưa, thời kỳ
của chủ nghĩa vô thần. Thiên chúa giáo đã kết thúc chủ nghĩa vô thần bằng những nghi lễ tôn
giáo. Tuy nhiên, nhiều truyền thống vẫn được bảo tồn dưới dạng các dịp vui chơi hay lễ hội,
thậm chí một vài lễ hội còn được đưa vào chính các ngh i lễ và truyền thống của đạo Ky- tô.
Lễ Giáng sinh của Đạo Cơ đốc chính thống
Peter Đại Đế, v ị hoàng đế ưu t ú của nước N ga đã mang lại nhiều đổ i thay trong cuộc sống
cũng như trên tờ lịch của nước Nga. Lễ Giáng sinh là một ví dụ. M ặc dù, Giáng sinh vẫn l à
một trong những ngày lễ chính của người theo đạo Ky-tô ở Nga, Giáng sinh của Nga lại được
tổ chức vào ngày 7/1 theo lịch Nga chứ không phải ngày 25/12 theo lịch Tây .
Lễ Kolyadki
22
Ở N ga, không có bất cứ một lễ hội nào được tổ chức theo nhiều tập tục và ngh i lễ như những
ngày lễ Giáng sinh. Một trong các nghi lễ trong các ngày Giáng sinh đó được gọi là Kolyadki.
Trong buổi lễ này, người ta thường chúc cho nhau hạnh phúc và khỏe mạnh. Trong buổi lễ,
người ta làm ra một bà tuyết với cái mũi bằng cà rốt, mắt bằng quả mận khô và rǎng b ằng hạt
đậu xanh. Đức mẹ Kolyadki (như ông già Noel) với một vài người hộ tống đem theo những
ngôi sao đến dự hội để chúc mừng mọi người và tham gia những trò chơi vui vẻ. Họ hát hò và
nhảy múa trong một vòng trên tuyết xung quanh ánh lửa bập bùng suốt lễ hội.
Lễ Phục Sinh
Cũng như các nước theo Đạo Ky-tô khác, ở N ga cũng có ngày lễ Phục Sinh. Người ta sẽ làm
loại bánh mỳ ngọt đặc biệt, có hình tròn (gọi là bánh Phục Sinh) và được bày bán ở hầu hết
các h iệu bánh mỳ trong dịp lễ. Ngoài ra, người ta còn làm cả bánh Paskha (một loạ i bánh làm
bằng hỗn hợp sữa có đường, nho khô và bơ) và những quả trứng được nhuộm nhiều màu sắc
sặc sỡ. Trứng đỏ được coi là biểu tượng của lễ Phục Sinh. Trứng Phục Sinh có nhiều mục
đích, nó là món quà t ruyền thống để tặng bạn bè và người thân thay lời chúc mừng trong lễ
Phục Sinh. Có một câu thành ngữ nói rằng, nếu bạn rửa mặt bằng nước có cả trứng phục sinh,
bạn sẽ luôn giàu có và xinh đẹp. Lễ Phục Sinh cũng là dịp để mọi người đi thǎm hỏi bà con,
họ hàng.
Lễ hội Red Hill
Ngày chủ nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh được gọi là ngày lễ Red Hill. Ngày này được coi l à
dịp tốt nhất dành cho các đôi uyên ương tổ chức lễ cưới. Trước kia, mọi người thường đón
chào mùa xuân trong lễ hộ i này , như thể để "mời" mùa xuân tới nhà mình vậy. Vào dịp lễ hội,
bạn sẽ bắt gặp ở khắp nơi mọi người hát hò nhảy múa xung quanh những cây cối đang đâm
chồi nảy lộc.
Lễ Ivan Kupalo
Ở các nước theo Đạo Cơ đốc chính thống trên khắp châu Âu, người ta thường tổ chức lễ thánh
John và lễ rửa tội. ở Nga, n gày này gọi là Ivan Kupalo. M ọi thứ trong ngày này đều liên qu an
tới nước. Trước đây , các cô cậu thường xuống sông bơi cho đến tận đêm, sau đó họ đốt lửa và
23
nắm tay nhau nhảy qua đống lửa. Nếu sau khi nhảy qua lửa, họ vẫn nắm tay nhau thì đó sẽ là
dấu hiệu tốt, báo hiệu một lễ cưới chẳng còn bao xa.
Lễ hội Troitsa
Ở N ga, lễ hội d ân gian "Troitsa" được tổ chức rất rầm rộ. Vào n gày lễ hội, nhà cửa đều được
trang hoàng bằng những cành cây xanh tốt. Những bộ quần áo của các cô gái được treo trên
những cây bulô nhỏ và người ta hát hò nhảy múa xung quanh. Những ch iếc vòng làm bằng
cành và hoa bu lô được nhúng xuống nước để bói xem số p hận của mỗi người.
Lễ hội S pas
Tháng 8, tháng cuố i cùng của mùa hè, khi mùa màng đã xong, người Nga thường tổ chức 3
ngày hội khác nhau, trong tiếng Nga gọi là "Spas".
Ngày hội Spas đầu tiên là Honey Spas (lễ hội mật ong) (14/8)
Ngày hội Spas thứ 2 là App le Spas (lễ hội táo) (19/8)
Ngày hội thứ 3 là Nut Spas (lễ hội quả hoạch) (29/8)
Lễ hội Spas mang sương giá đến cho đất đai và cây cỏ. Sau ngày lễ Spas đầu tiên, n gười ta sẽ
thu hoạch mật ong. Ngày thứ 2, thu hoạch táo và ngày thứ 3 là quả hoạch.
Phong tục đón khách của người Nga
Ở những lễ hội lớn, mở đầu lễ hộ i, những cô thiếu nữ xinh tươi nh ất tặng bánh mì và muối
cho những vị khách đáng kính. Sau khi nhận quà của các thiếu nữ, người khách cúi xuống,
hôn lên ổ bánh mì (ổ bánh mì được đựng trên một ch iếc khay có phủ chiếc khăn thêu màu sắc
sặc sỡ).
Tiếp đó, theo nghi lễ cổ truyền, người khách bẻ một miếng bánh, rắc muối lên, n ếm thử và nói
lời cảm tạ. Người dân Nga trân trọng bánh mì và muối v ì lúa mì là nguồn lương thực quý giá
nuôi sống con người và con người không thể sống thiếu muối.
24
Ngày nay, tục lệ đón khách danh dự bằng muối và bánh mì vẫn được duy trì, nhưng khách
thường chỉ nhận tượng trưng ổ bánh mì và lọ muối ở trên đĩa men sứ cổ truyền có p hủ khăn
thêu rồi truyền lại cho người tháp tùng.
Lễ tiễn mùa đông
Một trong những lễ hội khó quên của nước N ga là Lễ tiễn mùa đông. Lễ này bắt nguồn từ nền
nông nghiệp , từ côn g v iệc đồn g áng của những người nông d ân N ga. Mùa đông nước Nga
tuyết rơi phủ kín mặt đất, ruộn g đồng, kh iến cho cây cối không nảy mầm được, nếu kéo dài
mãi dễ sinh nạn đói. Bởi vậy, người nông dân mong mùa đông mau qua, mong mùa xuân mau
đến.
Lễ tiễn mùa đông là một trong những ngày hội dân gian vui vẻ nhất . Mở đầu buổi lễ, những
chú bé ngộ nghĩnh, mặc quần áo dân tộc truy ền thống, màu sắc sặc sỡ cầm đuốc đốt những
hình nộm bằng rơm, đó là h ình ảnh tượng trưng của băng tuyết trong mùa đông lạnh giá.
Trẻ em và người lớn reo hò ầm ĩ, ca hát, nhảy múa xung quanh hình nộm đang bốc lửa. Họ
mừng vui tiễn tượng trưng mùa đông, hân hoan chào đón mùa xuân tươi đẹp , chuẩn bị khí thế
bước vào một mùa gieo trồn g mới.
Lễ t iễn mùa đông thường được tổ chức ở những nơi đông người qua lại, có quảng trường, n gã
tư đường phố, một cánh rừng đầu làng vào những đêm đẹp trời. Tất cả già, t rẻ, nam, nữ đều
tham dự lễ hội. Họ nắm tay nhau nhảy điệu múa vòng tròn. Những động tác giậm chân, không
chỉ là một t iết mục nghệ thuật, mà còn là một cách sưởi ấm nhanh chóng trong giá rét.
Ngày nay, trẻ em và người lớn múa vòng tròn xung quanh cây thông cũng là hình bóng của
Lễ t iễn mùa đông.
Trong ngày Lễ tiễn mùa đông, trên những con đường lớn, những chiếc xe ngựa vừa rung
chuông v à lục lạc, vừa đuổi rượt nhau. Ngựa được đeo dả i nạm bạc r ất đẹp , còn xe trượt được
trang trí bằng thảm. Ba con ngựa được thắng vào một cỗ xe chạy băng băng trên đường.
Bánh xèo Nga
Ngoài những món ăn cổ t ruyền dành cho ngày lễ của người Nga thì bánh xèo là món không
thể thiếu trong Lễ t iễn mùa đông, giống như bánh chưng tron g ngày Tết của Việt Nam.
Đó là những ch iếc bánh mỏng làm bằng bột mì cho lên men có t rộn với trứng gà, bơ, v áng
sữa, và được rán bằng những ch iếc chảo lửa to nóng bỏng. Chiếc bánh xèo hình tròn là tượng
trưng cho mặt trời thần linh mang lại hơi ấm mùa xuân, tràn trề sức sống và hạnh phúc.
25
Hội Ivan Kupala mùa đông
Khác với Lễ Tiễn M ùa Đông được tổ chức chung với nhiều bạn bè và những người sống xung
quanh, hội Ivan Kupala mùa đông thường được tổ chức ngay trong gia đình để tiễn mùa đông,
đón mùa xuân. Đây là hội của những người N ga từ nhiều thế kỷ nay .
Để bắt đầu buổi lễ, n gười ta trải cuộn rơm lên bàn, phủ tấm khăn trải bàn rộn g lên trên, đặt lên
đó một hũ cháo đại mạch trộn mật ong. Đó là món ăn chính theo phong tục. Bát cháo đầu t iên
là dành cho tổ t iên. Khi chủ và khách ăn xong món ăn chính, phần còn lại đem để r a ngoài sân
cho thần băng giá, mọi người hát bài hát bằng âm điệu êm ái, ngọt ngào, cầu xin thần đừng
làm hại hoa màu.
Tiếp đó, các em nhỏ xuất hiện, chúng đeo mặt nạ, đội lốt con dê, con sếu, con gấu... những
con vật gần gũi với người nông dân N ga. Những đứa trẻ cùng nhau hát những lời cầu mong
mùa màng bội thu và nhận những đồng tiền nhỏ từ người lớn.
Hội Ivan Kupala mùa hạ
Hội Ivan Kupala mùa hạ khác với hội mùa đông. T rong ngày hội, các cô gái bói tìm người
yêu bằng cách bện các vòng hoa, thả chúng xuống sông trong đêm Ivan Kupala. Trên các bãi
cỏ trong rừng, những người mạnh bạo nhất nhảy qua đống lửa trong tiếng cười và tiếng hò
hét, khích lệ của người xem.
Trong đêm hội mùa hè ngắn ngủi, nam nữ thanh niên rủ nhau vào rừng, họ tin rằng, t rong
những cánh rừng âm u, điều huyền bí nhất có thể xảy ra.
Nhảy múa mừng hội Ivan Kupala
Hội chăn cừu
Hội chăn cừu là một hội có từ thời xa xưa, hội diễn ra vào mùa xuân. Sau những ngày mùa
đông, tuy ết bắt đầu tan, cây cỏ, thảo nguyên bừng thức. Những con cừu bị nhốt trong chuồng,
ăn cỏ khô suốt mùa đông, giờ đây được đưa lên các thảo nguyên, hít thở khí trời trong lành,
ăn cỏ non. Những người chăn cừu phải tạm biệt gia đình đi theo, chăm sóc, quản lý đàn cừu.
Do vậy, người ta tổ chức ngày hội chăn cừu để tiễn những người chăn cừu lên núi.
Ngày hội mở đầu bằng tiếng kèn hiệu trembita là loại kèn gỗ lớn. Đường làng đầy người lớn,
trẻ con. Người chăn cừu ăn mặc quần áo dân tộc sặc sỡ nhiều màu sắc, đầu đội mũ chóp nhọn
cài những ch iếc lông gà trống, quần trắng hoặc đỏ, ống phồng như quả bóng, áo gi-lê bằng da
26
cừu khâu bằng sợi dây màu, thắt lưng rộng bản, v ai đeo chiếc túi da đi đường xuất hiện trong
tiếng kèn, tiếng đàn vĩ cầm và các nhạc cụ dân tộc hoà thành những âm điệu hài hoà.
Theo sau họ là những chiếc xe ngựa chở đồ trang trí bằng những tấm thảm thêu. M ột số nghệ
nhân địa phương đứng trên thùng xe biểu diễn những tiết mục hài, vui nhộn, hoặc tái hiện
những cảnh tượng sinh động phản ánh sinh hoạt của người chăn cừu như vắt sữa, n ấu pho-mát
từ sữa cừu.
Những người thợ thủ công cũng tham gia diễu hành với những khung cửi, những tấm vải dệt
có hoa v ăn miêu tả đời sống của d ân chăn cừu. Ở một bãi cỏ gần nhất trên sườn núi, người ta
đã chuẩn bị sẵn một đống củi lớn để đốt. Người chăn cừu nhiều tuổi nhất nhóm lửa dùng roi
chăn cừu dài, vung lên vài lần, đập vào đống lửa. Đó là h iệu lệnh cho các nghệ sĩ nhân dân lên
sân khấu bắt đầu buổi biểu diễn.
Người ta nhảy các điệu nhảy dân tộc, điệu nhảy rồng rắn, mời nhau nếm pho-mát cừu thơm,
tươi nhất, uống rượu sữa cừu, ăn bánh ngọt. Sau đêm hội là những ngày làm việc bình thường
của người chăn cừu. (Theo TTXVN, Tổng Cục Du Lịch)
Lễ hội cô dâu
Trong trang phục cô dâu, các cô gái Nga thật đẹp và lộng lẫy khi tham dự lễ diễu hành dành
cho giây phút hạnh phúc nhất trong đời: Lễ hội cô dâu.
Lễ hội này được tổ chức tại M atxcơva. Các cô gái trẻ trong cô dâu mang đủ phong cách sẽ
tham gia diễu hành tại đường phố Matxcơva.
Các cô được chụp ảnh ở rất nhiều địa điểm đẹp như bên dòng sông và cạnh các du thuyền và
trở thành đối tượng chiêm ngưỡng của các khách du lịch. Các cô gái Nga rất háo hức tham gia
lễ hội này và họ còn nghĩ ra rất nhiều trò tinh nghịch t rong lễ hội. Người dân địa phương và
các khách du lịch rất thích thú với các màn diễu hành của lễ hội.
(
Ngày lễ thánh Tatyana – ngày hội của sinh viên Nga
27
Ngày lễ thánh Tatyana
Ngày 25 tháng Giêng, tiết trời băng giá lạ thường cũng không ngăn nổi các thanh niên
trí thức trẻ ở Nga vui chơi đến sáng để k ỷ niệm ngày lễ chính của giới mình – Ngày
Sinh viên Nga.
Lịch sử ngày hội riêng của giới sinh viên Nga khởi nguồn từ năm 1755, khi Nữ hoàng
Elizaveta Petrovna ký Sắc lệnh thành lập ở Matxcơva Trường Đại học tổng hợp đầu
tiên của nước Nga Sa hoàng. Ngày Nữ hoàng ký Sắc lệnh đúng vào ngày lễ thánh
Tatyana. Kể từ đó, thánh Tatyana, vị nữ thần La Mã hồi t hế kỷ thứ 3 theo Công lịch,
đã trở thành nữ thánh bảo trợ cho Trường Đại học Tổng hợp lớn nhất của nước N ga.
Rồi sau đó, ngày 25 tháng Giêng hàng năm đã biến thành ngày lễ của toàn thể giới
sinh viên Nga.
Dịp kỷ niệm lễ Ngày lễ thánh Tatiana năm nay, đã có một chương trình rất phong phú,
được chuẩn bị chu đáo tại ĐHTH quốc gia Matxcova - MGU, trường đại học có uy tín
nhất của Liên bang Nga. Các hoạt động kỷ niệm đã bắt đầu tại nhà thờ Thánh nữ
Tatyana – giáo đường riêng của MGU, với lễ cầu phước do Đại giáo chủ toàn Nga và
Matxcova Alecxi Đệ nhị đích thân chủ lễ. Sau đó, tại Thư viện khoa học cơ bản, toà
nhà kỳ vĩ mà MGU mới khai trương năm ngoái, đã diễn ra cuộc Liên hoan tưng bừng,
nhân dịp Ngày lễ thánh Tatyana và cũng là kỷ niệm sinh nhật lần thứ 251 của trường
này.
Theo truyền thống, viện sĩ hiệu trưởng Viktor Sađovnichi đã cho phép các sinh viên
uống međovukha – thứ đồ uống N ga cổ truyền được làm từ mật ong. Trước ngày lễ,
ông hiệu trưởng MGU đã nói với các phóng viên như sau: “Tôi đã uống t hử
međovukha. Năm nay, međovukha đã có chất lượng rất tốt: vừa ngọt dịu lại vừa mạnh.
Chúng tôi sẽ mời các khách khứa nếm thử món “đặc sản MGU” tại Cung văn hóa của
nhà trường. Riêng tôi sẽ phân phát thứ đồ uống này cho các s inh viên - thần dân của
28
vương quốc khoa học MGU. Và theo phong tục truyền thống, người bê hũ mật ong
tặng cho chúng tôi là ông thị trưởng Matxcova Iuri Lujkov. Sau đó, sẽ bắt đầu Liên
hoan, hàng nghìn nam thanh nữ tú từ khắp thủ đô đến với chúng tôi, và toàn bộ ngôi
nhà chính đồ sộ của trường MGU sẽ được giành để các s inh viên – chủ nhân của ngày
hội này – toàn quyền sử dụng. Đồng thời, tại “Nước Nga”, Phòng hoà nhạc chính của
thủ đô Matxcova, có buổi biểu diễn hoành tráng đặc biệt, kỷ niệm 50 năm thành lập và
họat động của Nhà hát s inh viên MGU”.
Lễ hội đua heo ở Nga
Lễ hội đua heo
Vào thứ bảy ngày 20.03.2004, một lễ hội đua heo vô cùng hào hứng và sôi nổi đã được
tổ chức tại Moscow, thủ đô Liên bang Nga.
Được biết, đây là một lễ hội có truyền thống từ lâu đời, khoảng thế kỷ thứ 17, nhưng
đã b ị mai một dần và không được tổ chức thường xuyên. Vào đầu thế kỷ 20, để làm
sống lại những lễ hội bản sắc dân tộc đang dần bị mai một, các nông dân N ga đã dần
dần khôi phục lễ hội đua heo truyền thống vui nhộn này và ấn định thời gian tổ chức
định kỳ hằng năm.
Theo một thành viên ban tổ chức, lễ hội đua heo này là một để các nông dân Nga có cơ
hội gặp gỡ, giao lưu lẫn nhau và đây cũng là dịp để thư giãn, thoải mái tinh thần sau
những vụ mùa làm việc căng thẳng.
Theo quy định, các "vận động viên" heo t ham gia vào lễ hội đua heo là các chú heo
con. Đối với các chú heo này, đây là cơ hội không chỉ đoạt giải với một xô đầy những
củ cà rốt tươi ngon mà còn là dịp để chúng thoát khỏi những lò giết heo và đoạt niềm
vinh quang "quán quân heo chạy nhanh nhất".
29
Trong suốt cuộc đua, các chú heo con được sự ủng hộ và động viên hết mình và vô tư
của khán giả và các huấn luyện viên.
(nuocnga.net)
6. Những phong tục, trò chơi dân gian Nga.
Nghề thêu truyền thống ở Nga
Thêu thùa là một trong những hình thức phổ biến nhất của nghệ thuật dân tộc. Cây
kim, cuộn chỉ, mảnh vải – đó là tất cả những gì cần thiết để may và thêu trang phục,
làm ra những sản phẩm tinh xảo để trang trí nhà cửa.
Trên trang phục cũng như những vật dụng trong nhà có thêu hình mặt trời, những con
chim, những người phụ nữ - nó như biểu tượng của sức mạnh cuộc sống, hạnh phúc,
sự màu mỡ. Người ta tin rằng chúng sẽ mang tới cho ngôi nhà sự sung túc.
Việc thêu thùa của các dân tộc trên lãnh thổ Nga đặc biệt đa dạng về kỹ thuật cũng
như nghệ thuật thêu, nó mang đặc trưng cuộc sống của mỗi dân tộc.
Đường khâu cổ nhất và được thích nhất trong thêu thùa của Nga là kiểu “đếm mũi”.
Có các kiểu thêu: hình chữ thập, hình 2 chữ thập đơn giản, những họa tiết (nửa chữ
thập), đuôi sam, thêu nổi và các kiểu khác. Cách thêu này được sử dụng rộng rãi để
trang trí rèm che, khăn trải bàn, gối trên đivăng, khăn ăn, panno và quần áo.
Tại làng Mstera thuộc tỉnh Vladimir, người ta thêu nổi bằng chỉ trắng (thêu trắng) hoặc
chỉ màu (thêu màu). Những họa tiết thêu trắng là những bông hoa nhỏ, cỏ và quả dại
tạo nên những bó hoa, dây hoa, những đường vạch và các góc. Những họa tiết lớn hơn
như bông hoa, chiếc lá, con chim hay con cá được thêu kiểu Vladimir với chỉ dày (8 –
12 sợi). Những đường khâu trần được may theo hướng của chiếc lá, cánh hoa hay
đường tròn. M àu cơ bản trong thêu thùa của Nga là màu đỏ, ngoài ra còn có thêm màu
xanh nước biển, xanh lá cây và vàng. Với kiểu thêu của Vladimir có kiểu thêu nổi,
thêu thành mạng chồng lên nhau.
Alexandrov là kỹ thuật xuất hiện vào t hời kỳ sau chiến tranh t ại thành phố Alexandrov
(tỉnh Vladimir). Kỹ thuật này được thực hiện bằng những đường khâu ngắn không có
mặt lót, nó được dùng cho việc thêu những họa tiết với những mô típ hình cây cỏ - đó
là những họa tiết khái quát khi làm những hình mẫu cụ thể như nhánh những bông hoa,
30
quả mâm xôi, thanh lương trà hay phúc bồn tử. Cách phối màu sắc trở thành nguyên
tắc chung. Ví dụ, những quả dại màu đỏ và những chiếc lá màu nâu. Đôi khi, họa tiết
được thêu bằng 1 màu, nhưng mẫu nguyên thủy của nó thì luôn được giữ nguy ên. Có
những họa tiết bao gồm những nhành cây, trên nhành cây là những bông hoa đã hé nở
và những quả dại thì chín mọng.
Những nghệ nhân người Nga đã sáng tạo ra một khối lượng lớn những hoa văn thêu.
Đối với những vùng phía Bắc, màu trắng đặc trưng cho những đường thêu xương cá;
còn với khu vực miền Trung – nó thường thêu cùng những đường thêu màu trong
đường viền bức tranh hay ở những phần nhỏ của hoa văn; ở các tỉnh miền Nam, có
những họa t iết trang trí màu thêu đan xen nhau. Những hoa văn màu cũng như trắng
được thêu theo lưới làm bằng vải t hưa.
Ở bất kể vùng, tỉnh hay miền nào trên đất nước N ga đều có thể bắt gặp những tác
phẩm độc đáo của những nghệ nhân tài hoa.
Búp Bê Matrioshka
Vào những năm 90 của thế kỷ XIX A.Mamontova đã đem v ề từ Nhật Bản hình ảnh một
cụ già hói đầu, tốt bụng – nhà thông thái, bổ sung vào kho tàng đồ chơi cho trẻ con
Matxcơva.
Thứ đồ chơi này khá đặc biệt, nó bao gồm nhiều con búp bê lồng vào nhau. Khi đó,
người thợ tiện gỗ Vasily Zvezdochkin đang làm việc trong xưởng thủ công đã t iện từ
gỗ những t hân hình giống nhau, hình này đặt bên trong hình kia, còn hoạ sĩ Sergey
Malyutin vẽ lên đó các hình vẽ miêu tả con người.
31
Búp bê Matrioshka đầu tiên là hình ảnh một cô gái trong trang phục dân tộc truyền
thống: áo xa – ra – phan, yếm và khăn trùm đầu. Thứ đồ chơi này có khoảng 8 búp bê
trở nên. Hình tượng các búp bê gái được lần lượt thay đổi từ búp bê bé trai để phân
biệt với nhau. Con búp bê trong cùng nhỏ nhất là hình ảnh một đứa trẻ quấn t ã. Tên
gọi Matrena thời đó đã được rất nhiều người biết đến. Cái tên Matrioshka cũng bắt
nguồn từ đó.
Ngày nay, chỉ có những đồ chơi - đồ lưu niệm bằng gỗ được tiện, vẽ bao gồm nhiều
mẫu lớn nhỏ lồng vào nhau mới được gọi là búp bê Matrioshka. Những đồ chơi không
lồng được vào nhau chỉ đơn giản là “đồ chơi tiện”.
Đầu những năm 1900, xưởng mỹ nghệ “Giáo dục trẻ thơ” được mở, nhưng xưởng mỹ
nghệ chuyên sản xuất búp bê M atrioshka lại nằm tại vùng Sergiev Posad, cách Thủ đô
Matxcơva 70 km về phía Bắc. Những con búp bê Matrioshka đầu tiên được bán với
giá khá đắt nhưng vẫn thu hút được rất nhiều người mua và một số lượng lớn đơn đặt
hàng. Việc sản xuất búp bê Matrioshka nhanh chóng được mở ra khắp vùng Sergiev
Posad, xưởng thủ công của các dòng họ Ivanov, Bogoyavlensky lần lượt xuất hiện.
Sau đó, nghệ nhân Vasily Zvezdochkin cũng chuyển tới đây lập nghiệp.
Xung quanh Sergiev Posad là những khu rừng, còn ngay tại vùng này có rất nhiều thợ
tiện gỗ giàu kinh nghiệm. Sản xuất búp bê Matrioshka đã trở nên phổ biến và rộng
khắp tới mức còn có cả các đơn đặt hàng sản xuất từ Paris, Đức, t ại hội chợ Leipzig
nổi tiếng.
32
Đầu thế kỷ XX búp bê Matrioshka được xuất khẩu đại trà ra nước ngoài. Các hình vẽ
trên búp bê Matrioshka cũng đẹp hơn, đa dạng hơn. Những con búp bê chủ yếu miêu
tả hình ảnh các cô gái mặc áo xa – ra – phan, quàng khăn, cầm chiếc giỏ đựng đầy hoa
trên tay.
Những con búp bê với đủ những hình tượng mới xuất hiện, đó là hình ảnh chú bé mục
đồng với cây sáo, ông cụ râu ria bạc trắng t ay cầm cây gậy lớn, chú rể hào hoa với
hàng ria mép và cô dâu trong trang phục váy cưới. T rí tưởng tượng của các hoạ sĩ hết
sức phong phú, không bị hạn chế. Những con búp bê Matrioshka được bố trí theo
nguyên tắc khác nhau để đáp ứng mục đích của mình – làm quà tặng. Như vậy, bên
trong búp bê Matrioshka “Cô dâu, chú rể” có đủ chỗ chứa cả những người họ hàng.
Những con Matrioshka phản ánh chủ đề này thường được hoàn thành đúng vào những
ngày nhất định.
Ngoài hệ đề tài gia đình, búp bê Matrioshka còn được tính toán trên những mức độ
thông thái và trình độ học vấn nhất định. Như nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày s inh
nhà văn N.V.Gogol những con búp bê Matrioshka miêu tả các nhân vật trong các t ác
phẩm của ông đã ra mắt đông đảo công chúng: đó là các nhân vật trong vở hài kịch
“Viên thanh tra” (Khlestakov, cư dân thành phố, quan toà, ông Giám đốc bưu điện
cùng nhiều nhân vật khác).
Năm 1912, nhân dịp kỷ niệm 100 năm trận đánh Borodino, những búp bê mang hình
tượng Kutuzov và Napoleon cũng đã được hoàn tất. Bên trong những con búp bê này
là những hình ảnh nhỏ dần của các chiến hữu, thành viên ban tham mưu của hai vị
tướng tài ba cùng những người tham dự trận chiến lịch sử này. Còn rất nhiều những
búp bê thể h iện các nghi thức cũng như các tác phẩm văn học dân gian.
Chủ đề trong các câu chuyện cổ tích luôn thu hút được sự chú ý đặc biệt của loại búp
bê này. Những hình tượng trong các truyện: “Repka”, “Cá vàng”, “Hoàng tử Ivan”,
“Chim lửa” và nhiều truyện khác đều có búp bê M atrioshka minh hoạ hết sức s inh
động. Búp bê Matrioshka trở nên phong phú không chỉ nhờ các hình vẽ mà cả bởi số
lượng búp bê lồng vào nhau.
Đầu thế kỷ XX, tại Sergiev Posad, những con búp bê Matrioshka có tới 24 con lồng
vào nhau, đến năm 1913 người thợ tiện Nikolai Bulychev đã phá kỷ lục với số lượng
búp bê là 48. Ngay trong năm nay, tại Sergiev Posad, hợp tác xã t iểu thủ công nghiệp
33
chuyên sản xuất đồ chơi đã được t hành lập mang lại số lượng thu nhập đáng kể cho
người dân nơi đây.
Búp bê Matrioshka được truyền bá rộng rãi, đã bắt đầu mở rộng cơ sở sản xuất vượt ra
ngoài biên giới Sergiev Posad - tới vùng Semenovsky thuộc tỉnh Nizhegorod. Búp bê
tại vùng mới này có nét giống, có nét hoàn toàn khác với búp bê tại Sergeev Pasad.
Nếu tại Sergiev Posad, búp bê Matrioshka mũm mĩm và tròn trịa, đầy đặn thì tại các
xưởng thủ công Semenovsky có thân hình cân đối và thon thả hơn, miêu tả h ình ảnh
người thiếu nữ đẹp, hoạt bát.
Đồng thời, hình tượng con lật đật cũng bắt nguồn từ loại búp bê này. Năm 1958, con
lật đật đầu tiên làm từ gỗ - giấy xuất hiện tại Viện nghiên cứu – khoa học tại Sergiev
Posad. Thứ đồ chơi có khả năng phát ra âm thanh đã được s ản xuất theo công nghệ
mới bằng cách ép nóng. Tác giả của công nghệ này là nghệ nhân Ivan Moshkin. Bên
trong là một vật nặng bằng kim loại, vật này giúp cho con lật đật không bị ngã và
nhanh chóng lấy lại trạng thái cân bằng.
Nhắc tới búp bê Matrioshka, chúng ta không thể không nhắc t ới Bảo tàng đồ chơi tại
Sergiev Posad. Bảo tàng này cách bến xe, t ại toà nhà hai tầng cổ kính 7 phút đi bộ. Các
bạn nhỏ và cả những người trưởng thành từ khắp mọi miền Tổ quốc tới đây để được
tận mắt ngắm nhìn những thứ đồ chơi từ cổ tới kim. Cùng với một số lượng lớn các
hiện vật khác, tại đây giới thiệu tới người xem toàn bộ những bộ sưu tập búp bê
Matrioshka hết sức độc đáo. Trong số đó có cả con Matrioshka đầu tiên do đích thân
hoạ sĩ nổi tiếng S.V.Malyutiny vẽ. Tới đây bạn còn có thể làm quen với nhiều trường
phái vẽ khác nhau: serfievo – posadsky, semenovsky, polkhov – maidansky…
Mới đây tại Thủ đô Matxcơva Bảo tàng trưng bày búp bê Matrioshka cũng đã được
mở.
Cây Đàn Balalaika
Đàn balalaika là một nhạc cụ truyền thống của Nga. Nó không chỉ là một nhạc cụ đơn
thuần, mà còn mang trong mình cả tâm hồn Nga và đã trở thành một trong những biểu
tượng của văn hóa Nga.
34
Đàn balalaika xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Có khá nhiều tài liệu và những chứng
cứ về sự xuất hiện của cây đàn. Nhiều người cho rằng, đàn balalaika được nghĩ ra ở
nước N ga cổ, những người khác lại cho rằng nó xuất phát từ một nhạc cụ của người
kirgiz – kaisak – dombra. Còn có một giả thuyết nữa: có khả năng đàn balalaika được
nghĩ ra trong thời gian quân Tatar chiếm đóng, hoặc ở một mức độ nhất định, đó là sự
giao thoa với nền văn hóa của người Tatar. Do vậy khó có thể xác định chính xác năm
cây đàn xuất hiện. Những nhà sử học và những nghiên cứu âm nhạc vẫn đang tranh
luận về vấn đề này. Phần lớn nghiêng về năm 1715, nhưng còn có một con số sớm hơn
được nhắc tới – 1688.
Có lẽ, đàn balalaika được những người nông dân nghĩ ra để làm phong phú cho cuộc
sống bị áp bức của mình. Dần dần đàn balalaika được phổ biến trong những người
nông dân và những anh hề. Những anh hề biểu diễn tại các hội chợ, mua vui cho người
dân, kiếm tiền nuôi sống mình và không hề biết họ đang chơi loại nhạc cụ thần kỳ như
thế nào. Việc mua vui không kéo dài được lâu, vua Aleksei Mikhail của toàn Nga đã ra
lệnh tịch thu tất cả các loại nhạc cụ (đàn domra, đàn balalaika, tù và, đàn gusli và các
nhạc cụ khác) và đem đốt. Còn những người không chịu nộp chiếc đàn thì bị bắt và đi
đày ở T iểu Nga.
Nhưng thời gian trôi qua, nhà vua chết và lệnh cấm dần bị dỡ bỏ. Đàn balalaika một
lần nữa lại xuất hiện trên khắp đất nước nhưng không tồn tại được lâu. Thời gian làm
thay đổi những trò tiêu khiển.
Đến giữa thế kỷ XIX, một số nông dân vẫn chơi loại nhạc cụ ba dây này. Trong một
lần đi dạo ở điền trang, nhà quý tộc trẻ Vasily Vasilevich Andreev đã nghe thấy tiếng
đàn balalaika. Tiếng đàn đặc biệt đã gây ấn tượng mạnh với ông vì ông tự cho mình là
35
người biết nhiều loại nhạc cụ của Nga. Vasily Vasilevich quyết định hoàn thiện chiếc
đàn balalaika.
Để bắt đầu, ông đã dần dần học cách chơi đàn. Sau đó, ông nhận thấy cây đàn mang
trong mình những khả năng rất lớn, ông đã nghĩ đến chuyện hoàn thiện tiếng đàn.
Andreev đến Pet erburg gặp người thợ làm đàn Ivanov, nhưng Ivanov đã từ chối làm
việc này. Andreev suy nghĩ, với t ay lấy cây đàn cũ ông đã mua ở hội chợ với giá 30
kopek và chơi một bài dân ca của Nga. Ivanov đã không thể từ chối trước sự tấn công
mãnh liệt đó và đồng ý thực hiện. Công việc kéo dài và vất vả, nhưng cuối cùng cây
đàn balalaika mới đã được hoàn thành.
Cây đàn balalaika gồm 3 phần chính. Phần thứ nhất là thân đàn gồm có mặt đàn (phần
trước) và phần sau, được tạo nên bằng cách dán 6 – 7 mảnh gỗ lại với nhau. Phần thứ
hai là cần đàn có các phím đàn và cuối cùng là đầu đàn – phần trên cùng của balalaika.
Trên phần đầu đàn là các khóa để lên dây. Ở phần mặt đàn thường có một cái lỗ nhỏ,
trên lỗ nhỏ đó thường có một màng bảo vệ. Nó có tác dụng bảo vệ mặt đàn khỏi những
cú đập trong khi chơi. Ở nhiều đàn balalaika không có cái lỗ nhỏ này, chúng được thay
thế bằng một bức tranh nhỏ vẽ hình hoa hay quả dại.
Nhưng Vasily Andreev còn nghĩ t ới một điều gì đó lớn hơn là hoàn thiện cây đàn
balalaika. Ông muốn trả lại cây đàn cho nhân dân và phổ biến nó. Hiện nay tất cả
những người lính khi phục vụ trong quân đội đều được phát cho một cây đàn balalaika
và khi rời quân ngũ họ mang theo cây đàn.
Như vậy, cây đàn balalaika một lần nữa được phổ biến rộng rãi tại Nga và trở thành
một trong những nhạc cụ phổ biến nhất. Andreev còn nghĩ ra v iệc thành lập một hệ
thống đàn balalaika với các kích cỡ khác nhau theo hình t hức tứ tấu đàn dây. Để làm
được đ iều này ông đã tập hợp các nghệ sĩ Paserbsky và Palimov để cùng t hực hiện.
Dàn nhạc gồm p ikkolo (đàn nhỏ nhất), prima (loại đàn thông thường), alto và bass
(loại đàn lớn hơn). Chúng chính là t hành phần cơ bản của dàn nhạc Velikorussky. Dàn
nhạc đã đi biểu diễn ở nhiều nước trên thế giới để tôn vinh đàn balalaika cũng như văn
hóa Nga. N gày nay, ở một số nước khác như Anh, Mỹ, Đức đã thành lập dàn nhạc
nhạc cụ dân tộc N ga theo hình mẫu của Velikorussky.
Andreev ban đầu tự chơi trong dàn nhạc, sau đó ông đứng ra chỉ huy. Đồng thời ông
đã có những buổi biểu diễn độc tấu – những buổi tối của balalaika. Tất cả những điều
36
này đã thúc đẩy sự phổ biến rộng rãi đàn balalaika t ại N ga và thậm chí là ở nước
ngoài.
Vasily Vasilevich đã đào tạo được một đội ngũ những người cố gắng phổ biến cây đàn
balalaika như Troyanovsky và những người khác. Trong thời kỳ đó, các nhạc s ĩ cũng
đã chú ý tới cây đàn balalaika. Lần đầu tiên cây đàn xuất hiện trong dàn nhạc giao
hưởng.
Ngày nay đàn balalaika mặc dù gặp nhiều thăng trầm nhưng nó vẫn luôn là biểu tượng
cho nền văn hóa truyền thống của N ga trong mắt bạn bè thế giới.
7. Tôn giáo ở Nga.
Tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng và tinh thần của
người Nga hiện đại. Đa số những tín đồ ở Nga là những người theo đạo Cơ đốc chính
thống (Orthodox).
Đạo Cơ đốc du nhập vào nước Nga năm 988 trong buổi lễ rửa tội được tổ chức theo
nghi thức của Roma cổ đại. Lễ rửa tội của N ga chính là cơ sở cho sự ra đời và phát
triển của Nhà thờ Orthodox ở nước này. Năm 1448, Hội đồng Giáo s ĩ cấp cao của Nga
đã nâng cấp Toà giám mục Iona của Ryazan thành nhà thờ chính của M át-xcơ-và và
toàn thể nước Nga, đưa Nhà thờ Orthodox của N ga trở thành một dòng tôn giáo phát
triển độc lập.
Chức Tổng Giám mục Mát-xcơ-va được thành lập vào năm 1589 và Nova trở thành vị
Tổng Giám mục đầu tiên của Nga vào ngày 26/1 cùng năm. Nikow, Tổng Giám mục
của Mát-xcơ-va và N ga (1652-1658) là vị Tổng Giám mục nổi tiếng nhất trong các
Tổng Giám mục ở Nga nhờ những nỗ lực đáng kể của ông trong việc cải tiến các quy
tắc hành lễ cho phù hợp với những quy tắc được thực h iện ở các nhà thờ Hy Lạp.
Những cải cách của ông dẫn đến sự chia rẽ tôn giáo và sự ra đời của một dòng mới,
dòng Cựu giáo (Old Belief).
Chức vụ Tổng Giám mục tồn tại ở Nga cho tới đầu thế kỷ 18. Năm 1718, Vua Peter
Đại đế áp dụng thống nhất các biện pháp kiểm soát nhà thờ. Tuy nhiên, những cải cách
này chỉ có hiệu lực cho tới năm 1721, khi Trường Dòng được chuyển thành Giáo hội
37
với chức năng của một cơ quan hành chính thực hiện quyền lực của Nhà thờ Oxthodox
ở Nga.
Trong những năm dưới Chính quyền Xô-Viết, đạo Cơ đốc chính thống ở N ga không
có vai trò nào đáng kể. Vào cuối những năm 1980, những nỗ lực nhằm cải tổ lại hệ
thống kinh tế và chính trị của quốc gia làm cho mối quan hệ giữa Nhà nước và Nhà thờ
ở Nga có hy vọng được hồi s inh. Lễ kỷ niệm 1000 năm tuổi của đạo Cơ đốc ở Nga đã
được tổ chức với phạm vị rộng lớn vào năm 1988. Cũng trong năm đó, 1.610 cộng
đồng tôn giáo mới, mà hầu hết là đạo Cơ đốc chính thống, đã được t hành lập ở nước
Nga.
Năm 1990, một loạt các luật về tự do tôn giáo đã được thông qua, trong đó nhiều chế
đối với các cộng đồng tôn giáo đã được dỡ bỏ, cho phép những cộng đồng này đẩy
mạnh hơn các hoạt động tôn giáo của mình.
Tôn giáo ở Nga ngày nay
Với gần 5000 giáo hội, Nhà thờ Orthodox của N ga đã chiếm tới quá nửa tổng số giáo
hội được đăng ký ở Nga. Tiếp đến là đạo Hồi với 3000 giáo hội; Baptist - 450 giáo
hội; Seventh Day Advent ists -120 giáo hội ; Evangelicals - 120 giáo hội; Cựu giáo
(Old Believers) - trên 200 giáo hội; Thiên chúa giáo - 200 giáo hội; Krishnaites - 68
giáo hội; Đạo Phật - 80 giáo hội; Đạo Do Thái - 50 giáo hội và Đạo Unified
Evarfelical Lutherans - 39 giáo hội.
Một số nhà thống kê ước tính số người theo đạo chiếm 40% tổng số dân Liên bang
Nga. Gần 9000 cộng đồng ở N ga thuộc về trên 40 tôn giáo khác nhau đã chính thức
đăng ký.
Phần lớn tôn giáo của Nga ngày nay là đạo Cơ đốc giáo. Đất nước này có trên 5000
nhà thờ Oxthodox, mà rất nhiều trong số đó được sửa chữa hoặc làm mới bằng công
quỹ của giáo khu hoặc địa phương.
Nga có 19 triệu người theo đạo Hồi, cộng đồng tôn giáo lớn thứ 2 ở Nga, có trên 800
giáo khu và đền đài, phần lớn là ở Bashkortostan, Daghestan, Kabarda-Balkaria, Bắc
Ossetia, Tatarst an, Ingushetia và Chechny a.
Đạo Phật được phát triển lan rộng ở các vùng Buryat ia, Kalmykia, Tuva và các khu
vực I rkutsk và Chits. Liên bang Nga hiện nay đã có 10 phật đường với 200 ngôi chùa,
10 phật đường khác đang được xây dựng.
38
Liên bang Nga có 42 cộng đồng Do Thái. Thành phố Mát-xcơ-va có hơn 10% dân số
là người Do Thái, và có 3 giáo đường Do Thái, trong đó có Giáo đường Hasidic.
II. NHữNG THÓI QUEN, Sở THÍCH TRONG GIAO TIếP CủA NGƯờI NGA
Mỗi dân tộc có thói quen, sở thích khi giao tiếp khác nhau. Vì vậy để tạo ấn tượng và tránh
thất thố trước một vị khách nước ngoài, cần phải hiểu được những đặc điểm tron g văn hóa
giao tiếp của quốc gia đó. Người Nga đư ợc đánh giá là dễ bộc lộ tình cảm, cởi mở và dễ hòa
mình thích nghi với môi trường mới. Họ thẳng thắng, dễ thương lượng và chân thành trong
các mối quan hệ. Vì thế văn hóa giao tiếp của người Nga có nét chân t hành, thể hiện sự hiếu
khách và ít đặt nặng vấn đề hình thức.
1. Tính cách tâm lý dân tộc
Người Nga là khách dễ tính, ít đòi hỏi, tính đôn hậu, t rung thực tình cảm dễ thể hiện ra bên
ngoà i. N gười N ga rất thích nói về hòa bình, thích đọc nhiều và r ất quan tâm đến kỹ thuật,
khoa học tự nhiên, n ghệ thuật, âm nhạc và văn học. những người có thể trao đổi được với họ
ở mặt bằng trí thức cao sẽ khiến người Nga nể phục. Bạn nên đọc các tác phẩm của Tolstoi,
Puskin, Dostojevski.
2. Đặc điểm giao tiếp
- Chào hỏi, làm quen
Khi chào hỏi, làm quen nhau lần đầu t iên với người N ga, bạn không được tỏ ra quá thân thiện.
Thái độ xuồng xã hoặc quá d í dỏm hay bị n gười Nga coi là “Mỹ quá”, thậm chí còn không
được xem trọng. Đối với những người thân thiết thì họ thường ôm, hôn má khi gặp mặt.
Khi từ biệt họ vẫy t ay nhưng lại ngửa lòng bàn tay về phía ngoài và khua lên xuống. Nếu lòng
bàn tay hướng về phía mình và khua ra trước và sau có nghĩa là ”hoy đến đây”.
- Tín ngưỡng
Khi tiếp khách là người Nga, bạn n ên thận trọng với màu sắc trang trí của nơi đón tiếp . Họ có
cách hiểu riêng về màu sắc và con số. Tốt nhất là sử dụng màu đỏ (đối với người Nga tượng
trưng cho vẻ đẹp, sự phục sinh, tình yêu), xanh lá cây , xanh da trời, số 3, số 7 và số 12.
Không được dùng màu đen và số 13. Sử dụng màu trắng cũng phải hết sức thận trọng vì
người N ga cho rằng màu trắng tượng trưng cho s ự tinh khiết, trong trắng, nhưng đồng thời
cho cả đau thương.
- Khoảng cách
Đối với người Nga, khoảng cách riêng tư nhỏ hơn so với những người Châu Âu khác. Trong
khi trao đổi có thể vỗ vai nhau hay nắm tay nhau, vì người N ga coi đó là sự thể hiện của t ình
39
thân thiện. Khi đã quen biết nhau lâu hơn - kể cả phụ nữ và nam giới - đều có thể ôm nhau
hoặc hôn lên má để thể hiện tình thân.
- Quà tặng
Quan hệ càng thân thiết và càng lâu dài thì giá trị, mối liên hệ giữa món quà với cá nh ân
người tặng quà và mức độ tỷ mỷ khi chọn quà càng phải cao. Hoa luôn là món quà thích hợp ,
nhưng nhớ phải chọn số bông lẻ. Số bông chẵn chỉ được dùng để viếng tang. Hoa màu vàng
và trắng còn có nghĩa liên tưởng tới đau thương và mất mát.
- Tục chú c sức khỏe
Khi một Nga thấy người khác bị hắt hơi, họ có thói quen nói với anh ta “Budte zdorovy!”
(chúc sức khỏe). Với người Nga hắt hơi được co i là điềm lành. Người ta cho rằng, nếu như
hắt hơi, tức là anh ta sẽ khỏe, còn mong muốn của anh ta thành sự thật . Nếu như một người
nói điều gì đó, v à anh ta hắt hơi, có nghĩa là điều anh ta nói là thật. Nếu như ai đó hắt hơi sau
bữa tối, có nghĩa là: con người hạnh phúc hắt hơi cho sự xuất hiện của một người mới trong
nhà, còn với người không hạnh phúc, ngược lại, là ai đó chết hoặc đi xa. Nói “Bud zdorov!”
cũng cho cả những con vật – chó và mèo.
- Tiếp đã i khách:
Người Nga thường hay tiếp đãi các vị khách quan trọng bằng bánh mỳ-muối. Tục lệ đón
khách bằng bánh mỳ và muối đã quen thuộc với người d ân N ga từ rất lâu rồi. Sự kết hợp của
bánh mỳ và muối đóng vai trò quan trọng đặc biệt về b iểu tượng: Bánh mỳ thể hiện mong
muốn giàu có và sung túc, còn muối là sự bảo vệ con người khỏi những ảnh hưởng và sức
mạnh của kẻ thù.
Tiếp đãi khách bằng bánh mỳ và muối tức là mối quan hệ giữa khách và chủ nh à là thân thiện
và đầy t in cậy. Nếu từ chối thì nó như một sự sỉ nhục.
- Giao tiếp trong công việc:
Trong doanh nghiệp Nga, người đứng đầu ít khi ủy quy ền cho cấp dưới. Vì thế, muốn đàm
phán có kết quả thật sự, bạn nên tìm cách đàm phán trực tiếp với người đứng đầu n ày.
Nếu đối tác của bạn là nữ đôi khi chỉ cần gật đầu chào là đủ, t ron g khi bắt tay đối tác nam giới
chặt và lâu. Nhưng tập tục này đang có chiều h ướng thay đổi vì ngày càng có nhiều phụ nữ
Nga đảm nhận cương vị quản lý quan trọng.
Xưng hô với người Nga bằng tên gọi của họ đi kèm với tên của người cha. Ví dụ, tên gọi của
đối tác là Sergej, tên gọi của người cha là Oskar, thì gọ i đối tác là Sergej Oskarovitsh. Các
chức danh cấp cao thì mới sử dụng trong xưng hô, chẳng hạn như Tổng Giám đốc hay Bộ
trưởng.
40
Một điều đáng lưu ý, muốn làm ăn với người Nga, các đố i tác n ên phải biết tiếng Nga hoặc ít
nhất phải có p hiên dịch giỏi. Bởi, nhiều người N ga ứng xử giống như người Mỹ: nói ngôn
ngữ của chúng tôi hoặc chẳng nói n gôn ngữ n ào hết.
- Những điều kiêng kỵ:
Người Việt chúng ta thường kiêng chụp ảnh 3 người, kiêng ăn thịt chó đầu tháng, kiêng nói
những từ không hay vào ngày đầu tiên của năm. Những người đi biển thì kiêng lật cá khi ăn,
sĩ tử trước khi đi thi thì kiêng ăn trứng ho ặc chuối, thậm chí k iêng cả tắm...v.v. Người Nga
cũng vậy , họ cũng có những điều kiêng kỵ riêng do đó cần phải lưu ý để tránh làm mất lòng
họ.
Khi nói chuyện với người Nga nên t ránh bàn về các đề tài Stalin, khơ – rut – sốp…,
với phụ nữ thì không nên hỏ i tuồi.
Người Nga rất không thích “khách không mời mà đến”, vì vậy trước khi đến thăm
nhà, bạn cần phải thông báo trước nếu không họ sẽ không tiếp hoặc nếu có thì cũng rất
miễn cưỡng.
Họ cũng rất kiêng kỵ việc bắt tay hay đưa tiền qua cánh cửa, cũng không thích ngồi ở
góc bàn.
Khi một người Nga dẫm phải chân người khác sẽ tự động đưa chân ra cho đối phương
dẫm nhẹ lên. Người kia buộ c phải đồng ý nếu không kẻ phạm lỗi sẽ gặp xui. Còn một điều
tương tự nữa là nếu bạn bước ngang qua một người (đang nằm phơi nắng trên biển) thì
bạn sẽ phải bước lại chứ không được ch ỉ đi "1 ch iều".
Phụ nữ Nga kiêng không dùng chung lược, của ai người nấy dùng, không mượn qua
lại như phụ nữ VN.
Không tặng nhau khăn mù xoa.
Tặng ai cái v í nhất thiết bên trong phải có một đồng tiền (1 kop . cũng được), chứ tặng
ví không lại là r ủa người k ia luôn nhẵn túi.
Tặng hoa phải là số bôn g lẻ, đi viến g đám ma mang số bông chẵn.
Không được tặng người ốm chậu hoa cây hoa (có rễ mọc, lâu khỏi bệnh)
Kiêng ngửa tay khi rót rượu.
Rượu bia đã rót hết thì chai phải để ngay xuống sàn, không để trên bàn.
Không như ở Việt Nam, đàn ông N ga khi uốn g rượu bằng chai có thể chuyền tay nhau
được nhưng bằng ly thì tuyệt đối không.
- Một số thói quen giao tiếp khác
41
Dấu hiệu “O.K” là một cử chỉ mơ hồ ở Nga. N ếu như đối với các nước phương
Tây nó thể hiện “Tốt” hay “Được” thì đối với nhiều v ùng của Nga đó được xem
là một cử chỉ tục t ĩu, khiếm nhã.
Khi ăn họ cầm dao bằng tay phải và nĩa bằng tay trái. Họ không có thiện cảm
với hành động để tay lên đùi trong khi ăn. Cổ tay luôn được đặt trên bàn trong
bữa ăn của họ.
Bước vào tiệm ăn và để gọi hầu bàn, 2 cách phổ biến người Nga dùng là một
cái gật đầu nhẹ hoặc giơ một bàn tay lên cao.
Một điều kiêng kỵ ở rạp chi ếu là bạn quay lưng vào mặt những người đang ngồi
để đến chỗ của mình, hãy luôn xoay mình và đi đối diện với họ.
III. NHữNG THÓI QUEN, Sở THÍCH, NHU CầU CủA NGƯờI NGA KHI ĐI DU LịCH
Như chúng ta đã biết, N ga là quốc gia có nền văn hóa lâu đời, người Nga có
tính thật thà, đôn hậu, ham hiểu biết, ưa thích cuộc sống p hóng khoáng, gần gũi với
thiên nhiên. Họ gi ản dị trong sinh hoạt, đơn giản trong ăn uống v à không cầu kì trong
giao tiếp.
Với du khách Nga, phương Đông ngày càng cuốn hút b ởi sự độc đáo riêng, nền
văn hóa và triết học lâu đời, những phong tục t ập quán h ay những truyền thuyết dân
gian, và cả những cảnh quan thiên nhiên đặc sắc. Bên cạnh đó là tình hình an ninh
chính trị của nhiều quốc gia phương Đông ổn định, đặc biệt là đố i với khu vực Đông
và Nam Á, ki nh tế – xã hội đang ngày càng phát triển theo xu hướng hội nhập. Do vậy
phương Đông nói ch ung và Việt Nam nói riêng, bên cạnh đáp ứng nhu cầu tham quan
nghỉ dưỡng của phần đông du khách Nga, còn có thể đáp ứng nhu cầu tìm kiếm thị
trường và đối tác kin h doanh của một nhóm du khách khác của Nga.
Với du lịch Việt Nam, du khách N ga là một thị trường tiềm năng. Vì khoảng
tháng 11 đến tháng 3, du khách Nga bắt đầu những chuyến đi du lịch tránh đông, trong
khi ở Việt Nam lại là mùa hè. Điều này, khiến Việt Nam trở thành lựa chọn hàng đầu,
trong đó những bãi biển, resort ở khu vực miền Trung rất hấp dẫn du khách Nga. Hơn
thế du khách N ga luôn là một trong những thị trường có tốc độ tăng trưởng mạnh, độ
dài lưu trú và mức chi tiêu cao với tỷ lệ tăng bình quân từ 50 đến 80%/năm.
Du khách N ga thích đi du lịch theo gia đình hoặc các nhóm bạn bè về các vùng
quê hay thăm các danh lam thắng cảnh vào những ngày nghỉ. Khi du lịch n ước ngoài
42
du khách Nga thường đi theo đoàn (nhiều trường hợp là đi theo các phiếu nghỉ của
Công đoàn nơi họ làm việc). Họ thích vui vẻ, hài hước và đàn hát. Nhu cầu về lưu trú
của du khách Nga khá cao, nên hầu hết nơi ở họ chọn thường là khách sạn lớn. Một
điều không thể thiếu của du khách Nga khi đến một xứ sở khác là mua sắm. Hàng hóa
được họ chú ý nhiều nhất thường là hàng hóa cao cấp và hàng lưu niệm. Hầu hết các
du khách Nga đều rất thích mua những thứ đặc trưng của nơi mình đến.
Điều cần chú ý của hướng dẫn viên khi đón đoàn khách Nga là:
Bắt t ay và giới thiệu tên khi gặp mặ t.
Đầu mục chủ yếu của các buổi nói chuyện (gợi chuy ện hay bắt chuyện):
hòa bình.
Người Nga giỏi t iếng Anh rất ít.
Quà nên tặng: Đồ jean, bút tốt, album nhạc, sách
Người Nga thường có thói quen đi du lịch vào mùa hè, họ có nhu cầu đi du l ịch
biển và du lịch nghỉ ngơi an dưỡng cao. Phương tiện di chuyển chủ yếu mà du khách
Nga ưa thích dùng tr ong du lịch là máy bay, xe lửa và ô tô, một số đông du khách Nga
( có khả năng chi trả cao) còn thích dùng thuy ền. Ngoài ra họ còn thích khám phá, tìm
hiểu bản sắc văn hóa, lịch sử, con người ở các vùng miền nơi họ đến. Khi đi du lịch,
họ thích tham gia vào các loại hì nh thể t hao như: bóng bàn, bóng đá, cầu lông, đua
ngựa hoặc leo núi.
Tính tập thể cũng như ý thức của du khách nga khá cao. Họ tập trung rất đúng
giờ của chương trình hay theo lời hướng dẫn (trước khi ăn hoặc giờ tham quan). Khi
ăn xong ở nhà hàng h ọ rời bàn thường cùng một lúc nên dễ tạo những tiếng độ ng gây
chú ý xung quanh.
Dù du khách Nga không cầu kì trong ăn uống n hư du khách một số quốc gia
khác, tuy nhiên họ cũng có những thói quen riêng, đặc trưng riêng trong bữa ăn của
mình. Chính vì thế cần chú ý đến một số điểm nổ i bậc trong khẩu vị của họ như:
Người Nga thường thích ăn những món lạnh, trong bữa ăn của họ luôn
có bánh mì, sữa và bơ. Bữa sáng họ thường dùn g cháo sữa, bánh mì bơ
và trà đen.
Khai vị du khách Nga ưa chuộng món súp có lẫn t hịt được chế biến từ
bắp cải tím, củ cải đỏ, lá thơm (đặc biệt là súp củ cải đỏ, đây được xem
43
như một món ăn truyền thống của N ga. Để chuẩn bị loại súp này cần chú
ý chọn loại củ cải đỏ cả vỏ lẫn ruột thì khi chế biến mới có thể có được
màu đặc trưng). Súp là món không thể thiếu trong bữa ăn trưa.
Họ thích ăn các món quay, các món nấu phả i nh ừ, hay các món thịt xay
nhỏ, bỏ lò, rán hay om có nước sốt. Món chính trong bữa ăn của du
khách N ga nhất thiết phải có cá hay thịt (thịt bò và thịt cừu được ưa
chuộng hơn) nướng hay hầm, ăn kèm với rau hay t rái cây. Ngoài ra còn
có món thịt ướp muối hun khói. Du khách N ga thường không thích ăn
các món tái và ki êng ăn chim bồ câu.
Các loại r au củ được họ ưa chuộng đầu tiên phải nói đến khoai t ây . Ở
Nga có đến khoảng 1000 món ăn chế biến từ khoai t ây, từ đơn giản đ ến
cầu kì. Ngoài ra cũng phải kể đến bắp cải, cà chua, dưa chuột, củ cải đỏ,
xà lách (ăn kèm với các món thịt viên hay thịt ninh nhừ) và bắp cả i muối
chua.
Hai món ăn đặc biệt với người Nga (có thể hiểu như cơm trong bữa ăn
với người Việt N am) là bánh mì đen và salad N ga. Bánh mì đen được
làm từ bột mì đen và ủ chua, tục ngữ ngườ i Nga so sánh bánh mì đen
giống như cha của mỗi người. Riêng đối với salad Nga đượ c chế biến từ
giò, dưa chuột, cà chua, khoai t ây luộ c và thịt nạc luộc được thá i vu ông
nhỏ sau đó trộn với mayona ise của Nga.
Trước bữa ăn, du kh ách Nga thích nhấp chút Voska, Whisky, Cognac
hay một số loại khác. Trong thói quen phổ biến của du khách Nga thì
rượi Voska đỏ được ưa t hích nhiều hơn cả. Bên cạnh việc uống một ít
rượi trước khi dùng bữa thì du khách N ga thường uống coffe (pha rất
loãng), chocolate, ca cao hay hỗn hợp của chúng. Và hoa quả tươi hay
nước uống đóng hộp. Họ sẽ tỏ ra thích thú nếu được mời cốc (to) nước
chè đen nóng, có đường và một vài l át chanh.
Món tráng miệng thường được du khách Nga dùng là coffe và bán h. Các
loại bánh được làm từ bột mì, có nhân là mứt h oa quả hay pho -mát.
Trong trường hợp vui vẻ hay liên hoan nên chu ẩn bị cho bàn ăn của họ
một chiếc bánh gatô và một chai Voska.
44
Trong những năm gần đây, lượng du khách N ga đến Việt Nam có chiều hư ớng
tăng mạnh. Các h ãng hàn g không của Việt Nam lẫn Nga đã và đang tăng các chuyến
bay để kịp đáp ứng nhu cầu của du khách. Nơi thu hút du khách Nga n hiều nhất Việt
Nam hiện nay có thể kể đến các vùng biển du lịch miền Tr ung như Bình Thuận, Phan
Thiết, Nha Trang, Qui Nhơn. Du khách Nga thường chọn tour 2 tuần khi du lịch ở Việt
Nam nhằm kết hợp vừa du ngoạn, t ìm hiểu và nghỉ dưỡng. Khí hậu hay danh lam
thắng cảnh của Việt Nam làm du khách rất hài lòng, từ những bãi biển dài, cát trắng,
nước trong như Bình Th uận, Nha Trang đến n hững con đường phố cổ trầm mặc ở Hội
An, Hà Nội . Các hệ thống Nh à hàng – Khách sạn cùng sự phục vụ của nhân viên, sự
thân thiện của mọi người là những điểm cộng mà du khách Nga ưu ái dành cho Việt
Nam. Tuy nhiên, đi ều đáng nói trong việc đáp ứng nhu cầu du khách là v ần đề lực
lượng hướng dẫn viên tiếng Nga còn hạn chế về chất lư ợng cũng như s ố lượng nên dẫn
đến tình trạng du khách không được truyền đạt những thông tin như mong đợi (hoặc
không được cảm nhận nhiều qua giới thiệu của hướng dẫn). Điều này đi ngược lại với
tinh thần tìm hiểu, khám phá của người N ga trong du lịch. thế nên bên cạnh việc đáp
ứng các yêu cầu về các dịch vụ nhà hàng – khách sạn, nhu cầu về tham quan nghỉ
dưỡng cho du khách, cần đào tạo n hiều hơn các hướng dẫn viên tiếng Nga, hi ện t ại đây
là điểm yếu của du lị ch Việt Nam khi muốn khai thác thị trường tiềm năng này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nga_8044.pdf