Do đó, khi kiểm tra điều kiện khởi kiện của khách hàng, luật sư cầm xem
xét tranh chấp của khách hàng có bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải cơ sở không.
Điều đó có nghĩa là luật sư phải xác định được chính xác quan hệ tranh chấp mà
khách hàng muốn khởi kiện là quan hệ tranh chấp nào, tranh chấp về đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động, tranh chấp về kỷ luật lao động theo hình thức sa
thải hay tranh chấp về đòi bồi thường chi phí đào tạo,.Sau khi đã xác định được
chính xác tranh chấp của khách hàng thì luật sư cần căn cứ khoản 2 Điều 166 sử
đổi bổ sung một số điều của BLLĐ năm 2006 để xem tranh chấp của khách hàng
có phải bắt buộc qua thủ tục hòa giải không.
29 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2853 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong việc hỗ trợ khách hàng khởi kiện tranh chấp lao động về bồi thường chi phí đào tạo ra tòa án, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Có nghĩa giai đoạn này đòi hỏi phải xác định các điều
kiện khởi kiện một cách chính xác, rõ ràng và hợp pháp để tránh thiếu sót, sai về
mặt nội dung và hình thức dẫn đến việc Tòa án không thụ lý vụ án, gây phiền hà,
tốn kém cho các đương sự.
Về phương diện kỹ năng của luật sư, hỗ trợ khách hàng trong giai đoạn khởi
kiện vụ án dân sự là một hoạt động gồm những kỹ năng nghề nghiệp tiên quyết,
quan trọng trong hoạt động tố tụng dân sự. Thực hiện đúng và đầy đủ những kỹ
năng trong giai đoạn khởi kiện, luật sư đã xem như có một hồ sơ đầy đủ, cơ bản
của vụ án, nhằm tiết kiệm được thời gian, công sức và tạo được niềm tin, hy vọng
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 7
cho khách hàng của mình trong những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Đây cũng chính
là yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công trong nghề nghiệp của một luật sư.
1.1.2. Mục đích- ý nghĩa kỹ năng của luật sư trong hỗ trợ khách hàng
khởi kiện vụ án dân sự.
Cho đến thời điểm này, tranh chấp dân sự thực chất là một loại tranh chấp
phổ biến và phức tạp trong thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các cấp Tòa án.
Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác nhận thấy họ có quyền
dân sự bị xâm phạm, thì pháp luật trao cho họ quyền được khởi kiện vụ án dân sự
để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, ghi nhận trong Điều 4, 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây xin
được phép ghi là BLTTDS) năm 2005.
Như vậy, khi phát sinh tranh chấp, đương sự thực hiện quyền tự định đoạt
của mình thông qua việc nộp đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ có liên quan,
làm cơ sở cho yêu cầu khởi kiện. Đồng thời với việc được thực hiện quyền khởi
kiện, cá nhân, cơ quan, tổ chức còn được pháp luật trao cho quyền được tự bảo vệ
hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình (Điều 9- Bộ luật
TTDS năm 2005). Việc tham gia của luật sư trong giai đoạn này có vai trò rất
quan trọng trong việc giúp khách hàng xác định những thuận lợi và khó khăn của
việc khởi kiện.
Đây cũng là giai đoạn đầu tiên luật sư giúp khách hàng hiểu rõ bản chất
pháp lý vấn đề tranh chấp và những yêu cầu của khách hàng, giúp họ thực hiện
quyền và nghĩa vụ chứng minh thông qua việc chuẩn bị hồ sơ khởi kiện với những
chứng cứ có liên quan làm cơ sở cho Tòa án thụ lý, giải quyết tranh chấp để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự, đảm bảo công bằng xã hội.
1.2. Kỹ năng chung của luật sư trong giai đoạn chuản bị khởi kiện vụ
án dân sự.
1.2.1. Kỹ năng tiếp xúc khách hàng.
1.2.1.1. Trao đổi với khách hàng về nội dung tranh chấp.
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 8
Kim chỉ nam trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư chính là quyền lợi
của khách hàng. Vì vậy, trước tiên luật sư cần xác định được yêu cầu cụ thể của
khách hàng, tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc mà họ đang
gặp phải. Luật sư cần phải nắm vững được nội dung tranh chấp để từ đó xác định
khách hàng cần gì và mong muốn đạt kết quả ra sao. Trên cơ sở những yêu cầu cụ
thể của khách hàng, căn cứ vào các quy định của pháp luật nội dung để luật sư xác
định chính xác quan hệ pháp luật tranh chấp. Việc tìm hiểu nội dung tranh chấp có
thể thông qua việc nghe lời trình bày của khách hàng. Bên cạnh đó, luật sư có thể
xem xét các giấy tờ do khách hàng cung cấp. Luật sư cũng cần tìm hiểu thông tin,
nội dung, chứng cứ để xem xét các điều kiện khởi kiện của khách hàng là có đủ cơ
sở và đúng pháp luật hay chưa để chỉnh sửa, bổ sung hoặc thậm chí không thể
khởi kiện được. Khi tiếp xúc với khách hàng, Luật sư cần chú ý là không nên lạm
dụng các thuật ngữ pháp lý, ngôn từ pháp lý để tránh tình trạng khách hàng không
thể hiểu được một cách chắc chắn, rõ ràng những vấn đề luật sư hỏi và tư vấn.
Đặc biệt luật sư cần lưu ý cho khách hàng những vấn đề về tố tụng, phân tích
những thuận lợi và khó khăn của việc khởi kiện để khách hàng không bị mơ hồ về
quyền lợi của họ.
1.2.1.2. Tư vấn cho khách hàng để họ quyết định có khởi kiện ra Tòa án
hay không.
* Phân tích những lợi ích của việc khởi kiện hay không khởi kiện:
Việc khởi kiện hay không khởi kiện thuộc quyền tự định đoạt của các
đương sự. Luật sư chỉ đứng trên bình diện của luật pháp giúp khách hàng thực
quyền tự định đoạt của mình trên cơ sở phân tích cho họ thấy rõ những thuận lợi
và bất lợi của việc khởi kiện cũng như không khởi kiện thì quyền và lợi ích hợp
pháp của khách hàng sẽ được bảo vệ như thế nào. Trong quy tắc đạo đức không
cho luật sư hứa trước kết quả với khách hàng, nhưng trên cơ sở những quy định
của pháp luật, luật sư có thể phân tích giúp khách hàng hiểu được khả năng thắng
kiện đến đâu. Thậm chí bằng những kinh nghiệm và kiến thức pháp luật của mình,
luật sư còn phải phân tích và đánh giá được khả năng bản án được đưa vào thi
hành trên thực tế.
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 9
Từ việc phân tích các khía cạnh pháp lý của việc tranh chấp và yêu cầu cụ
thể của khách hàng, luật sư phân tích cho khách hàng nhưng lợi thế và bất lợi nếu
thương lượng với đối phương, những bất lợi cho khách hàng trong việc khởi kiện
và những lợi ích cũng như khả năng có thể đạt được nếu khách hàng khởi kiện..
Luật sư cũng cần tư vấn chuẩn bị tâm lý cho khách hàng thông qua việc xác
định thời gian tối đa do luật định để xem xét và giải quyết vụ án tại các cấp Tòa
án.
Đối với các vụ án dân sự theo quy định tại Điều 25 và những tranh chấp về
hôn nhân gia đình theo quy định tại Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thời hạn
chuẩn bị xét xử là 4 tháng. Trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do
trở ngại khách quan thì chánh án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng
không quá 2 tháng (Điều 179 Bộ luật TTDS). Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm trong
trường hợp đương sự có kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có kiến nghị, vụ án sẽ
được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là 2
tháng. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì Chánh
án Tòa án cấp phục thẩm có thể kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá
1 tháng. Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa
án phải mở phiên tóa phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời
hạn này là 2 tháng (Điều 5 BLTTDS. Luật sư cần hướng dẫn khách hàng nắm bắt
sơ bộ chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét giải quyết vụ án trên cơ sở
giúp khách hàng tập hợp những chứng cứ theo hướng dẫn của mình. Các chứng
cứ mà khách hàng có thể tự thu thập được thông thường bao gồm: các hồ sơ cá
nhân mà đương sự có giữa một bản như các bản hợp đồng, các bản di chúc, giấy
chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu, các giấy tờ về quyền sở hữu nhà, các giấy tờ về
quyền sở hữu tài sản, các giấy tờ về quyền sử dụng đất,...một số chứng cứ đương
sự phải tự thu thập thông qua chính quyền địa phương như trích lục bản đồ thửa
đất, giấy xin xác nhận hộ khẩu thường trú, giấy xin xác nhận hoặc chứng nhận
một sự kiện pháp lý nào đó, các loại biên bản làm việc hoặc biên bàn trao đổi với
cơ quan chính quyền,...
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 10
* Phân tích điều kiện khởi kiện của khách hàng:
Đây là khâu quan trọng nhất trong giai đoạn khởi kiện, nó thể hiện những
kiến thức và kỹ năng cơ bản của một luật sư, đồng thời thể hiện rõ kỹ năng, kinh
nghiệm về việc nhận định hướng giải quyết có lợi nhất cho khách hàng. Bao gồm
những điều kiện cần và đủ như sau:
Thứ nhất, điều kiện về chủ thể khởi kiện.
+ Theo quy định tại Điều 161 Bộ luật TTDS thì: “cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án
dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình”. Căn cứ vào quy định này thì luật sư có thể hướng dẫn cho khách hàng tự
mình khởi kiện hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện. Trường hợp
chủ thể khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của cơ
quan, tổ chức đó có thể khởi kiện hoặc thông qua người đại diện theo ủy quyền.
Khi khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể khởi kiện là cá nhân thì phải có năng lực hành
vi tố tụng dân sự, đi kèm với điều kiện đủ là phải có quyền và lợi ích bị xâm
phạm. Luật sư cũng hết sức lưu ý đến điều kiện đủ này, bởi vì có một số trường
hợp khách hàng yêu cầu khởi kiện trong khi họ không có quyền và lợi ích bị xâm
phạm mà vì một người khác hoặc vì lợi ích công cộng. Trong trường hợp này luật
sư phải tư vấn cho khách hàng về việc chọn lựa quan hệ pháp luật tranh chấp để
khởi kiện từ yêu cầu cụ thể của khách hàng chứ không phải của đối tượng khác.
+ Khi tiếp xúc với khách hàng, luật sư cũng cần tư vấn và xem xét về tư
cách chủ thể khởi kiện liên quan trực tiếp đến quyền khởi kiện của khách hàng để
có những tư vấn về điều kiện khởi kiện theo đúng quy định của pháp luật. Ví dụ A
bị tai nạn giao thông chết. B là em trai của A đến nhờ luật sư tư vấn và khởi kiện
C- người đã gây ra tai nạn giao thông cho A. Trường hợp này, luật sư cần xem xét
tư cách chủ thể khởi kiện của B thông qua việc xác định hàng thừa kế thứ nhất của
A (cha, mẹ, vợ, con đẻ, con nuôi) thì B chỉ có tư cách khởi kiện là người đại diện
theo ủy quyền- do những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của A ủy quyền theo
quy định tại Điều 73, 74 BLTTDS.
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 11
Xuất phát từ thực tiễn, rất nhiều trường hợp đương sự không có kiến thức
nói chung và kiến thức pháp luật nói riêng cũng như không có kinh nghiệm trong
việc tham gia tố tụng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi cho đương sự, BLTTDS quy
định họ có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác đại diện tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong trường hợp khách hàng không
tự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng, luật sư có thể hướng dẫn cho khách hàng
lập giấy ủy quyền qua chứng thực tại ủy ban nhân dân địa phương hoặc lập hợp
đồng ủy quyền qua công chứng tại phòng công chứng. Luật sư cũng cần hướng
dẫn cho khách hàng những trường hợp theo quy định của pháp luật không được
phép đại diện hoặc bị hạn chế đại diện theo ủy quyền. Mọi chủ thể có năng lực
hành vi tố tụng dân sự đầy đủ được đương sự ủy quyền đều có thể đại diện cho
đương sự trừ trường hợp người đại diện theo ủy quyền cũng chính là đương sự
trong một vụ án mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích
hợp pháp của người được đại diện hoặc đang là đại diện theo pháp luật cho một
đương sự khác trong cùng một vụ án mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
đó đối lập với quyền và lợi ích của người được đại diện; Hoặc trong các vụ án ly
hôn, liên quan đến quan hệ nhân thân, tình cảm, nên đương sự cũng không được
ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng; hoặc đối với những
người là cán bộ, công chức trong ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an, vì do tính
chất nghề nghiệp, pháp luật TTDS cũng hạn chế không cho phép tham gia với tư
cách người đại diện theo ủy quyền (Khoản 3- Điều 75 BLTTDS).
+ Hình thức ủy quyền: về nguyên tắc, việc ủy quyền của khách hàng cho
người đại diện phải được lập thành văn bản, trong đó phải nêu rõ phạm vi ủy
quyền. Điều 586 BLDS quy định về hình thức hợp đồng ủy quyền nếu có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định thì hợp đồng ủy quyền phải có chứng nhận của
công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân có thẩm quyền.
Khách hàng có thể ủy quyền cho người đại diện một phần hoặc toàn bộ các quyền
và nghĩa vụ tố tụng của mình. Người đại diện theo ủy quyền có thể thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi ủy quyền. Như vậy, hình
thức ủy quuyền là căn cứ pháp lý để xác định phạm vi ủy quyền, quyền và nghĩa
vụ của người được ủy quyền đồng thời xác định trách nhiệm dân sự của người
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 12
được ủy quyền hoặc người ủy quyền khi tham gia vào quan hệ tố tụng dân sự. Đây
là điều luật sư cần đặc biệt lưu ý khi hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục ủy
quyền.
Thứ hai, xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp:
Thẩm quyền xét xử vụ án là một điều kiện quan trọng quyết định việc Tòa
án thụ lý giải quyết vụ án trên cơ sở đơn khởi kiện của đương sự. Theo quy định
của pháp luật, vụ án được xác định theo 3 loại thẩm quyền : thẩm quyền chung,
thẩm quyền theo cấp Tòa án, thẩm quyền theo lãnh thổ. Vì vậy, khi giúp khách
hàng xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, luật sư cần xác định
thẩm quyền chung : vụ án mà khách hàng khởi kiện có thuộc một trong các loại
việc được quy định tại Điều 25,27,29,31 BLTTDS hay không; xác định vụ án khởi
kiện đúng với cấp Tòa án có thẩm quyền giải quyết quy định tại Điều 33,34,35,36,
37 BLTTDS, NQ 33/2004/QH11 của Quốc hội ban hành ngày 15/6/2004 và Nghị
quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồyng Thẩm phán
TANDTC.
Việc xác định thẩm quyền là một vấn đề tương đối phức tạp và khó khăn
trong hoạt động nghề nghiệp luật sư. Vì vậy luật sư cần nắm vững các quy định
của pháp luật về thẩm quyền trên cơ sở đó tư vấn giúp khách hàng lựa chọn Tòa
án có thẩm quyền gai3i quyết tranh chấp thuận lợi nhất và có tính khả thi nhất cho
khách hàng. Luật sư cũng cần xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc thuộc thẩm
quyền của Tòa án hay của cơ quan Nhà nước khác, thẩm quyền của Tòa án cấp
nào; và lựa chọn khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự hay thủ tục tố tụng hành
chính để có lợi nhất cho thân chủ của mình. Khi xác định thẩm quyền luật sư cần
dựa theo nguyên tắc chung. Tuy nhiên, đối với mỗi loại vụ án dân sự ngoài chịu
sự chi phối bởi các quy định chung về thẩm quyền, luật sư cũng cần lưu ý các quy
định của pháp luật đối với từng loại việc để tư vấn cho khách hàng lựa chọn Tòa
án có thẩm quyền khởi kiện một cách tốt nhất và thuận lợi nhất cho khách hàng.
Thứ ba, xác định về thời hiệu khởi kiện:
Theo quy định tại Điều 159 BLTTDS, thì “1. Thời hiệu khởi kiện là thời
hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 13
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất
quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; 2. Thời hiệu yêu cầu
là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự dể bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi
ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”. Như vậy, tùy theo tính chất của mỗi loại quan hệ
tranh chấp, Tòa án giải quyết trong vụ án dân sự hay việc dân sự mà thời hiệu sẽ
khác nhau là một năm đối với việc dân sự và 2 năm đối với vụ án dân sự (khoản
3- Điều 159 BLTTDS).
Trong việc xác định chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như
trong việc ổn định các quan hệ dân sự có liên quan với nhau về thời gian việc xác
định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy khi xác định các điều kiện khởi kiện, Luật sư
phải nắm vững các quy định của bộ luật Dân sự như cách tính thời hiệu, thời điểm
bắt đầu thời hiệu, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện khi xảy ra một số
sự kiện pháp lý, vấn đề bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện,... cũng như các quy định
của BLTTDS về thời hạn, thời hiệu như vừa nêu trên.
Ngoài ra, Luật sư cũng cần phải nghiên cứu một số điều kiện khác như điều
kiện hòa giải cơ sở hay xác định yêu cầu khởi kiện của khách hàng đã được giải
quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật chưa.
Đối với những vụ án pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải
quyết trước và chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện vụ án khi mà các cơ quan hữu
quan khác đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan đó
thì luật sư hướng dẫn khách hàng làm thủ tục đề nghị cơ quan hữu quan giải quyết
để làm căn cứ khởi kiện (trường là trong các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất).
Luật sư cũng cần xác định yêu cầu khởi kiện của khách hàng đã được giải quyết
bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật hay chưa. Nếu một vụ án
đã được Tòa án Việt Nam giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu
lực pháp luật thì khách hàng không được khởi kiện lại đối với vụ án đó nữa. Trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác (ví dụ bác đơn ly hôn, thay đổi nuôi con
nuoi, thay đổi mức cấp dưỡng,...).
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 14
1.2.1.3. Tư vấn cho khách hàng những vấn đề về thủ tục trước khi khởi
kiện.
* Về nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí đối với yêu cầu khởi kiện:
Trong vụ án dân sự thì nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng phải nộp tạm ứng án phí, án phí cho yêu cầu
của mình. Luật sư cần lưu ý các quy định về án phí, tạm ứng án phí được quy định
tại mục 1 chương 9 về án phí, lệ phí của BLTTDS và các quy định tại Nghị định
70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí để có sự tư vấn cho khách
hàng một cách phù hợp. Theo tính chất của từng loại vụ việc và hoàn cảnh kinh tế
của từng khách hàng, Luật sư có thể xem xét trường hợp yêu cầu khởi kiện của
khách hàng có thuộc một trong các trường hợp mà pháp luật quy định không phải
nộp tiền tạm ứng án phí hoặc được miễn án phí (yêu cầu cấp dưỡng, xin xác nhận
cha mẹ cho con chưa thành niên ngoài giá thú, việc bồi thường thiệt hại trong các
vụ án hình sự và hành chính mà yêu cầu không được Tòa án chấp nhận, người đòi
bội thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe).
Trường hợp khách hàng có khó khăn về kinh tế, Luật sư có thể hướng dẫn
cho khách hàng làm đơn xin miễn một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng án phí.
Trong đơn, Luật sư cần lưu ý phải thể hiện được hoàn cảnh khó khăn về kinh tế
của khách hàng. Đơn này phải được Ủy ban nhân dân xã phường- thị trấn, cơ
quan, tổ chức xã hội nơi cư trú hoặc làm việc của khách hàng chứng nhận mới có
căn cứ để Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu khách hàng trong việc xin miễn một
phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng án phí.
* Hướng dẫn khách hàng thu thập, bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho
việc cho việc khởi kiện:
Đối với mỗi yêu cầu khác nhau, mỗi quan hệ tranh chấp khác nhau của
khách hàng mà luật sư cần phải chú ý và hướng dẫn khách hàng thu thập bổ sung
những tài liệu, chứng cứ cần thiết, quan trọng và có ích, có giá trị chứng minh cao
cho yêu cầu khởi kiện của khách hàng.
Đối với vụ án thừa kế thì luật sư cần hướng dẫn khách hàng thu thập các
chứng cứ để xác định tổng thể di sản, phần đóng góp của những người liên quan;
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 15
xác định đồng chủ sở hữu của người để lại di sản; thu thập các chứng cứ về nghĩa
vụ tài sản và chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán từ di sản; các chứng
cứ chứng minh các điểm tranh chấp về quyền thừa kế,...
Đối với các vụ kiện về ly hôn có tranh chấp về nuôi con, tài sản: luật sư
hướng dẫn khách hàng thu thập các chứng cứ xác định tình trạng hôn nhân thông
qua sự phản ánh của những người có quan hệ gần gũi như cha mẹ, anh chị em, cơ
quan quản lý của vợ hoặc chồng, tổ dân cư, đoàn thể xã hội mà họ sinh hoạt. Yêu
cầu khách hàng xác định về thu nhập và các ý kiến của con từ đủ 9 tuổi trở lên.
Đối với vụ kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệc hại ngoài hợp đồng: luật sư
cần hướng dẫn cho khách hàng phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra,
mức yêu cầu bồi thường và việc thu thập các chứng từ và giấy biên nhận hợp lệ về
các khoản chi phí hợp lý- những chi phí thực tế cần thiết phù hợp với tính chất,
mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm
phát sinh chi phí,...
Đối với các vụ kiện về hợp đồng: luật sư cần hướng dẫn khách hàng thu
thập các chứng cứ liên quan đến quan hệ hợp đồng, quá trình thực hiện hợp đồng
và thực hiện nghĩa vụ các bên theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Đối với các vụ kiện về lao động cụ thể như bồi thường chi phí đào tạo: luật
sư hướng dẫn khách hàng chứng minh những khoản chi phí thực tế, hợp lý, các
chứng từ hợp lệ liên quan đến các khoản chi phí đó, hợp đồng lao động, bản cam
kết đào tạo và các nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm bản cam kết đào tạo là chủ
quan hay khách quan,...
1.2.2. Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Theo như phần khái niệm khởi kiện vụ án dân sự, thì việc yêu cầu khởi kiện
gởi cho Tòa án là nghĩa vụ của nguyên đơn, người được giả định là có quyền và
lợi ích bị xâm phạm hoặc cơ quan, tổ chức được Nhà nước trao quyền khởi kiện
nhằm bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
Vì vậy trong phần chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, chỉ xin nêu trong trường hợp
khách hàng là nguyên đơn quyết định khởi kiện.
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 16
1.2.2.1 Khái niệm về hồ sơ khởi kiện.
Hồ sơ khởi kiện là hồ sơ mà nguyên đơn nộp cho Tòa án khi khởi kiện vụ
án. Việc lập hồ sơ khởi kiện nhằm tập hợp một cách có hệ thống các tài liệu,
chứng cứ và những vấn đề có liên quan đến vụ án mà nguyên đơn yêu cầu Tòa án
xem xét, giải quyết. Hồ sơ khởi kiện giúp đưa các thông tin đích thực của nguyên
đơn đến với các thành viên của Hội đồng xét xử. Hồ sơ khởi kiện chứa đựng
những ý tưởng quan trọng mà qua đó nguyên đơn muốn làm rõ yêu cầu của mình.
Hồ sơ khởi kiện thông thường bao gồm:
- Đơn khởi kiện;
- Các tài liệu làm cơ sở cho yêu cầu của nguyên đơn hoặc các tài liệu giải
trình trực tiếp cho yêu cầu của nguyên đơn;
- Các tài liệu về tư cách chủ thể của nguyên đơn (CMND, sổ hộ
khẩu,...trong trường hợp nguyên đơn là cá nhân); các tài liệu, giấy tờ xác định tư
cách pháp nhân của nguyên của nguyên đơn (người khởi kiện là cơ quan, tổ
chức);
- Các tài liệu, chứng cứ kèm theo tùy thuộc vào từng loại quan hệ pháp luật
tranh chấp;
- Trong trường hợp cần thiết có thể đính kèm các tài liệu của nguyên đơn và
các bên có liên quan;
- Các văn bản pháp luật có liên quan với mục đích chứng minh cho yêu cầu
của nguyên đơn.
1.2.2.2. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
* Giúp khách hàng soạn thảo đơn khởi kiện:
Đơn khởi kiện là hình thức biểu đạt yêu cầu của người khởi kiện đến Tòa
án nhằm giải quyết tranh chấp dân sự. Vụ án phát sinh chủ yếu là do cá nhân,
pháp nhân thực hiện quyền khởi kiện của mình bằng việc nộp đơn khởi kiện tại
Tòa án. Với tư cách là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án xem xét, quyết định thụ
lý vụ án dân sự vì vậy về nguyên tắc đơn khởi kiện phải tuân thủ các quy định của
pháp luật về nội dung cũng như hình thức đơn theo Điều 164 BLTTDS. Đơn khởi
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 17
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án phải rõ ràng, đầy đủ. Nội dung đơn kiện phải
trình bày được nội dung tranh chấp và đặc biệt phải thể hiện rõ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Khi giúp khách hàng soạn thảo đơn khởi kiện, luật sư cần chú ý:
- Trong đơn khởi kiện, phần diễn biến của vụ việc và yêu cầu của nguyên
đơn luật sư phải đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên phần diễn biến sự việc tránh kể lể
dài dòng mà chỉ nêu các sự kiện có tính chất là mốc thời gian, nhưng không được
quá sơ sài khiến người đọc không nắm bắt được diễn biến của tranh chấp. Phần
yêu cầu của nguyên đơn phải được trình bày rõ ràng, ngắn gọn, đồng thời mang
tính chất đề xuất để Tòa án xem xét giải quyết, tránh tình trạng đưa ra các yêu cầu
phi thực tế, các yêu cầu không thể thực hiện được, các yêu cầu trái với quy định
của pháp luật.
- Địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền nghĩa vụ liên quan phải
là địa chỉ liên lạc được với người đó. Trường hợp không có địa chỉ của bị đơn, của
người có quyền nghĩa vụ lia6n quan thì phải nói rõ trong đơn.
- Hình thức đơn khởi kiện: Đơn khởi kiện có thể viết tay, đánh máy, nhưng
phải có chữ ký xác nhận ý chí của người khởi kiện. Trong trường hợp nguyên đơn
ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền viết đơn khởi kiện và ký tên xác nhận
ý chí khởi kiện thì có được chấp nhận hay không và có đảm bảo về mặt hình thức
của đơn khởi kiện? Theo tinh thần của Điều 161 BLTTDS cho phép cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền tự mình khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình khi bị các chủ thể khác xâm phạm hoặc có thể ủy quyền
cho người đại diện khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Quy
định này cũng phù hợp với quy định của BLDS về hợp đồng ủy quyền, theo đó
người được ủy quyền được phép thực hiện các hành vi pháp lý trong phạm vi ủy
quyền.
Sau khi viết xong đơn khởi kiện, luật sư và đương sự cần trao đổi, xem lại
lần cuối trước khi gởi hồ sơ khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền.
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 18
* Sắp xếp các giấy tờ trong hồ sơ khởi kiện:
Theo quy định tại Điều 164 BLTTDS, người khởi kiện phải gởi kèm đơn
khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn
cứ và hợp pháp. Vì vậy luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng thu thập các tài
liệu, chứng cứ tương ứng với từng yêu cầu cụ thể, từng quan hệ pháp luật cụ thể
một cách logic, có thứ tự nhằm mang tính chính xác và thuyết phục cao khi Tòa
án xem xét hồ sơ khởi kiện của khách hàng.
1.2.2.3. Hướng dẫn khách hàng thủ tục nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án.
Theo quy định tại Điều 166 BLTTDS, luật sư có thể hướng dẫn khách hàng
nộp đơn khởi kiện bằng 2 phương thức:
- Nộp trực tiếp tại Tòa án và nhận biên lai xác nhận việc nộp đơn. Ngày
khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án.
- Gửi đến Tòa án qua bưu điện và lấy xác nhận của bưu điện về việc gởi
đơn. Ngày khởi kiện được tính từ ngày có dấu bưu điện nơi gởi.
Sau khi nộp đơn khởi kiện, khi có thông báo của Tòa án về việc thụ lý vụ
án dân sự, luật sư cần hướng dẫn khách hàng đến tại cơ quan thi hành án dân sự
cùng cấp với Tòa án đang thụ lý để nộp tạm ứng án phí.
Chương 2:
KỸ NĂNG ĐẶC THÙ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC HỖ TRỢ KHÁCH
HÀNG KHỞI KIỆN TRANH CHẤP LAO ĐỘNG VỀ BỒI THƯỜNG CHI
PHÍ ĐÀO TẠO RA TÒA ÁN
2.1. Kỹ năng của luật sư trong việc tiếp xúc- trao đổi với khách hàng.
2.1.1. Trong vụ án lao động nói chung.
Cũng như việc khởi kiện các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, trước khi tư vấn cho khách hàng trong tranh chấp lao động nên khởi
kiện hay không khởi kiện, luật sư cũng phải tiếp xúc, trao đổi với khách hàng để
nắm được nội dung vụ tranh chấp và các yêu cầu cụ thể của khách hàng. Từ đó
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 19
luật sư có thể đưa ra lời khuyên thích hợp cho khách hàng hướng tới một kết quả
tốt nhất.
Do đặc thù của tranh chấp lao động, khi tiếp xúc trao đổi với khách hàng,
luật sư cần làm rõ những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất làm rõ xem các bên thực sự có quan hệ lao động không, việc này thể
hiện thông qua hợp đồng lao động. Nếu có hợp đồng lao động thì hợp đồng này là
bằng miệng hay bằng văn bản, thời hạn của hợp đồng, công việc, tiền lương, thời
gian làm việc, địa điểm làm việc,...Việc xác định rõ các yếu tố này chính là kỹ
năng cơ bản giúp luật sư xác định một cách chính xác quan hệ giữa các bên là
quan hệ lao động, dân sự hay hành chính. Để từ đó xác định được chính xác Tòa
án có thẩm quyền giải quyết.
Thứ hai, luật sư cần trao đổi và làm rõ nội dung tranh chấp giữa các bên.
Trước khi đưa ra lời khuyên cho khách hàng, luật sư cần xác định được tranh chấp
giữa các bên là tranh chấp gì (đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kỷ luật
lao động hay bồi thường chi phí đào tạo,...). Khi làm rõ nội dung tranh chấp, luật
sư cần làm rõ nguyên nhân dẫn đến tranh chấp giữa các bên; thời điểm xảy ra sự
kiện pháp lý dẫn đến tranh chấp và thủ tục các bên tiến hành (thủ tục kỷ luật sa
thải, thủ tục đơn phương chấm dứt hợp đồng,...).
Thứ ba, luật sư cần trao đổi làm rõ những yêu cầu của khách hàng: muốn
bồi thường tiền lương trong những ngày không được làm việc, nhận tiền trợ cấp
thôi việc hay muốn trở lại làm việc (đối với khách hàng là người lao động) hoặc
muốn yêu cầu người lao động bồi thường chi phí đào tạo khi vi phạm cam kết đào
tạo (đối với khách hàng là người sử dung lao động). Nếu khách hàng có nhiều yêu
cầu muốn khởi kiện thì phải sắp xếp các yêu cầu theo thứ tự ưu tiên. Từ việc xác
định rõ yêu cầu của khách hàng, luật sư có thể đưa ra nội dung tư vấn thích hợp,
có lợi nhất cho khách hàng.. Ví dụ như mong muốn của khách hàng chỉ là muốn
nhận lại làm việc thì luật sư nên hướng khách hàng chọn phương án thương
lượng, hòa giải chứ không nên đưa vụ việc ra Tòa án chỉ làm mối quan hệ hai bên
trở nên căng thẳng và nếu có thắng kiện thì liệu khách hàng trở lại làm việc có
được thoải mái và đối xử một cách công bằng hay không?
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 20
2.1.2. Trong vụ án lao động về bồi thường chi phí đào tạo.
Về nguyên tắc và cả thực tế, quan hệ pháp luật tranh chấp về bồi thường chi
phí đào tạo trong vụ án lao động bao giờ cũng là mối quan hệ phát sinh và gắn
liền với quan hệ tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc
quan hệ tranh chấp về kỷ luật sa thải. Bởi vì khi có hai quan hệ tranh chấp trên
mới phát sinh ra tranh chấp đòi bồi thường chi phí đào tạo. Nếu như người lao
động vẫn làm việc, không tự ý nghỉ việc hoặc không do người sử dụng lao động
sa thải thì cũng không có tranh chấp về bồi thường chi phí đào tạo.
Vì vậy, khi tiếp xúc vói khách hàng, ngoài việc trao đổi những nội dung cơ
bản như trong những tranh chấp lao động khác, luật sư cần phải tìm hiểu thêm
những nội dung như: giữa hai bên có ký hợp đồng đào tạo không? Nội dung của
hợp đồng đào tạo như thế nào? Nguyên nhân người lao động không làm việc cho
doanh nghiệp hay làm việc không đúng thời gian đã thỏa thuận trong hợp đồng
đào tạo? Người sử dung lao động có thực hiện đúng các nội dung trong hợp đồng
đào tạo hay không?
Trong phần nghiên cứu yêu cầu của khách hàng, luật sư cần làm rõ những
nội dung như mức phí đào tạo mà khách hàng yêu cầu, muốn đòi bồi thường (đối
với khách hàng là người sử dụng lao động) hoặc từ chối bồi thường (đối với khách
hàng là người lao động) là một phần hay toàn bộ?
2.2. Kỹ năng của luật sư trong việc kiểm tra điều kiện khởi kiện của
khách hàng.
Sau khi trao đổi với khách hàng nội dung vụ tranh chấp, về cơ bản luật sư
đã nắm được diễn biến tranh chấp và yêu cầu cụ thể của khách hàng. Nếu khách
hàng quyết định khởi kiện thì bước tiếp theo hết sức quan trọng trong kỹ năng của
luật sư là kiểm tra điều kiện khởi kiện của khách hàng. Thông thường khi giúp
khách hàng khởi kiện một vụ án lao động nói chung, vụ án lao động về bồi thường
chi phí đào tạo nói riêng, ngoài việc kiểm tra những điều kiện khởi kiện khác như
đã trình bày ở phần 1.2.1.2, luật sư cần chú ý kiểm tra những điều kiện khởi kiện
đặc thù sau:
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 21
2.2.1. Quyền khởi kiện.
Khách hàng khởi kiện là người lao động: theo quy định của pháp luật,
người lao động từ đủ 15 tuổi trở lên có quyền tự mình khởi kiện. Đây là điểm
khác về chủ thể khởi kiện trong hầu hết các tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh
doanh- thương mại. Trong một số lĩnh vực lao động đặc thù thì người dưới 15 tuổi
vẫn có thể tham gia ký kết hợp đồng lao động (lao động trong các loại hình nghệ
thuật như múa, xiếc, điện ảnh,...). Khi họ có quyền lợi ích bị tranh chấp và muốn
khởi kiện thì luật sư cần trao đổi cho họ biết trong mọi trường hợp họ phải khởi
kiện thông qua người đại diện hợp pháp cha mẹ hoặc người giám hộ ).
Khách hàng khởi kiện là người sử dụng lao động: nếu người sử dụng lao
động là cá nhân thì họ phải đủ 18 tuổi trở lên, có thể tự mình khởi kiện hoặc ủy
quyền bằng văn bản cho người khác khởi kiện. Nếu người sử dụng lao động là
pháp nhân thì luật sư cần trao đổi cho họ biết người có quyền khởi kiện là người
đại diện theo pháp luật (giám đốc, tổng giám đốc) hoặc người đại diện theo ủy
quyền.
Trong quan hệ tranh chấp lao động về bồi thường chi phí đào tạo, thì đây là
điểm cốt lõi của vấn đề cần được quan tâm. Trên thực tế, khi phát sinh tranh chấp
thì thường những người không phải đại diện theo pháp luật của pháp nhân (cấp
phó hoặc trưởng phòng) đến gặp luật sư và yêu cầu khởi kiện trong khi họ cũng
chưa được ủy quyền để đại diện công ty tham gia giải quyết tranh chấp này với
người lao động với lý do là người lao động này thuộc sự quản lý của họ hoặc
người đại diện theo pháp luật có công tác khác hoặc khi ký hợp đồng lao động thì
họ là đại diện bên pháp nhân sử dụng lao động ký với người lao động,... Luật sư
cần phải giải thích rõ để họ có thể tham gia trong quan hệ tranh chấp này với điều
kiện họ phải được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền.
2.2.2. Điều kiện hòa giải cơ sở.
Theo quy định tại Điều 166 BLLĐ và Điều 61 BLTTDS thì về nguyên tắc, đối với
những tranh chấp lao động cá nhân, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết khi tranh chấp đó
đã được Hội đồng hòa giải cơ sở, hòa giải viên lao động hòa giải không thành
hoặc không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định (trong thời hạn 7 ngày
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 22
kể từ ngày nhận đơn yêu cầu), trừ một số tranh chấp không bắt buộc phải qua hòa
giải cơ sở.
Do đó, khi kiểm tra điều kiện khởi kiện của khách hàng, luật sư cầm xem
xét tranh chấp của khách hàng có bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải cơ sở không.
Điều đó có nghĩa là luật sư phải xác định được chính xác quan hệ tranh chấp mà
khách hàng muốn khởi kiện là quan hệ tranh chấp nào, tranh chấp về đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động, tranh chấp về kỷ luật lao động theo hình thức sa
thải hay tranh chấp về đòi bồi thường chi phí đào tạo,...Sau khi đã xác định được
chính xác tranh chấp của khách hàng thì luật sư cần căn cứ khoản 2 Điều 166 sử
đổi bổ sung một số điều của BLLĐ năm 2006 để xem tranh chấp của khách hàng
có phải bắt buộc qua thủ tục hòa giải không.
Nếu tranh chấp của khách hàng là tranh chấp bắt buộc phải qua hòa giải cơ
sở mà khách hàng chưa hòa giải cơ sở thì luật sư khuyên khách hàng nên làm đơn
yêu cầu Hội đồng hòa giải cơ sở hoặc hòa giải viên (trong trường hợp ở doanh
nghiệp chưa thành lập Hội đồng hòa giải cơ sở hoặc đối với tranh chấp về thực
hiện hợp đồng học nghề và chi phí dạy nghề) hòa giải trước khi làm đơn khởi kiện
ra Tòa. Chỉ khi Hội đồng hòa giải cơ sở hoặc hòa giải viên đã hòa giải nhưng
không thành thì khách hàng mới nên khởi kiện ra Tòa án. Trong trường hợp tranh
chấp của khách hàng đã qua hòa giải cơ sở và đã hòa giải thành (có biên bản hòa
giải thành do Hội đồng hòa giải cơ sở hoặc hòa giải viên lập) thì luật sư nên
khuyên khách hàng không nên khởi kiện ra Tòa án, vì có gởi đơn Tòa án cũng sẽ
không thụ lý.
Nếu tranh chấp của khách hàng không bắt buộc phải qua hòa giải cơ sở
nhưng pháp luật cũng không hạn chế các bên yêu cầu Hội đồng hòa giải lao động
cơ sở hoặc hòa giải viên hòa giải. Do đó luật sư cũng cần kiểm tra xem khách
hàng đã yêu cầu hòa giải tranh chấp tại cơ sở chưa. Nếu đã có hòa giải và kết quả
là hòa giải thành thì luật sư cũng giải thích cho khách hàng không được khởi kiện
nữa. Vì về nguyên tắc Tòa án chỉ thụ lý vụ án nếu việc hòa giải tại cơ sở không
thành.
Đối với tranh chấp lao động về bồi thường chi phí đào tạo, căn cứ vào
Khoản 2- Điều 166 Luật số 74 của Quốc Hội về sửa đổi bổ sung một số điều của
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 23
Bộ luật Lao động năm 2006 thì tranh chấp lao động về bồi thường chi phí đào tạo
bắt buộc phải qua hòa giải cơ sở. Vì vậy, luật sư phải hết sức chú ý nhắc nhở
khách hàng về thủ tục này, thậm chí luật sư phải tận tâm hướng dẫn khách hàng
ngay trong quá trình tham gia hòa giải cơ sở để có thể đạt được kết quả tốt nhất,
tránh khởi kiện đến Tòa án, hạn chế đến mức thấp nhất những chi phí không cần
thiết cho khách hàng của mình. Nếu khách hàng đã có hòa giải tại cơ sở nhưng
không thành thì phải có biên bản nộp kèm vào hồ sơ khởi kiện như một loại giấy
tờ cần thiết, mang tính pháp lý cho việc khởi kiện của khách hàng sau này.
2.2.3. Thời hiệu khởi kiện.
Để xác định tranh chấp của khách hàng là còn thời hiệu khởi kiện hay
không, luật sư cần căn cứ vào quy định tại Điều 167 Bộ luật Lao động.
Khi kiểm tra điều kiện về thời hiệu khởi kiện, luật sư cần chú ý: thời hiệu khởi
kiện đối với các tranh chấp lao động được tính từ ngày “mỗi bên cho rằng quyền
và lợi ích của mình bị vi phạm”. Mặc dù pháp luật không quy định một cách cụ
thể ngày nào là ngày mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi
phạm nhưng luật sư bằng kỹ năng nghề nghiệp của mình có thể căn cứ vào ý chí
chủ quan của khách hàng để xác định. Luật sư cần trao đổi với khách hàng để biết
được chính xác ngày xảy ra sự kiện pháp lý dẫn đến tranh chấp (ngày người sử
dụng lao động ra quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, ngày
người sử dụng lao động ra quyết định sa thảy người lao động hoặc ngày người lao
động bắt đầu đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, không đến làm việc
nữa,...) và ngày khách hàng của mình biết được sự kiện đó. Từ việc xác định này
luật sư mới có thể kiểm tra được tranh chấp của khách hàng có còn thời hiệu khởi
kiện không. Nếu thời hiệu đã hết thì luật sư nên giải thích rõ để khách hàng hiểu
rằng minh đã không thể khởi kiện ra Tòa án vì thời hiệu khởi kiện đã hết.
2.3. Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho khách hàng.
Sau khi trao đổi tiếp xúc khách hàng, nắm được sơ bộ diễn biến quan hệ
tranh chấp, xác định được các điều kiện khởi kiện và nhận thấy yêu cầu của khách
hàng là có căn cứ pháp lý mà khách hàng quyết định khởi kiện thì luật sư cần giúp
họ chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 24
2.3.1. Viết đơn khởi kiện.
Tài liệu cần thiết đầu tiên được pháp luật yêu cầu chính là đơn khởi kiện.
Cũng giống như đơn khởi kiện trong các vụ án dân sự, kinh doanh- thương mại,
về nguyên tắc đơn khởi kiện trong vụ án lao động cũng phải có đầy đủ nội dung
được quy định tại Điều 164 Bộ luật TTDS. Luật sư có thể yệu cầu khách hàng
cung cấp bổ sung một số thông tin cần thiết khác trong quan hệ lao động, sự kiện
chấm dứt hợp đồng lao động, các yêu cầu cụ thể của khách hàng,...để làm đơn
khởi kiện giúp họ. Trong trường hợp khách hàng đã tự viết đơn khởi kiện thì luật
sư cần xem lại đơn kiện và giúp họ chỉnh sửa, bổ sung nếu thấy cần thiết.
2.3.2. Chuẩn bị, sắp xếp hồ sơ, chứng cứ gởi kèm theo đơn khởi kiện.
Cùng với đơn khởi kiện, luật sư cần giúp khách hàng chuẩn bị các tài liệu
cần thiết nộp kèm theo đơn để chứng minh yêu cầu khởi kiện của khách hàng là
có căn cứ và hợp pháp. Trong vụ án lao động, tùy thuộc vào từng tranh chấp mà
khách hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là tranh chấp gì mà luật sư hướng
dẫn khách hàng cung cấp các tài liệu cần thiết cho hồ sơ khởi kiện. Nhưng nhìn
chung trong vụ án lao động, tài liệu cần gởi kèm theo đơn kiện thông thường bao
gồm:
Các tài liệu chứng minh giữa hai bệnh tranh chấp tồn tại quan hệ lao động
như hợp đồng lao động, phụ lục hợp đồng lao động, cam kết hoặc hợp đồng đào
tạo,...
Các tài liệu chứng minh sự kiện pháp lý làm phát sinh tranh chấp giữa các
bên như quyết định kỷ luật sa thảỉ; quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động; biên bản về việc người lao động bắt đầu ngừng làm việc tại cơ quan mà
không có sự dồng ý của người sử dụng lao động; Bản cam kết về thời gian làm
việc bắt buộc cho người sử dụng lao động sau khi được đào tạo,...
Ngoài ra, tùy thuộc vào tranh chấp của khách hàng là tranh chấp cá nhân
hay tập thể, có bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải cơ sở hay không mà luật sư cần
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 25
hướng dẫn cho khách hàng nộp kèm theo Biên bản hòa giải không thành (đối với
tranh chấp lao động cá nhân bắt buộc phải qua hòa giải cơ sở) hoặc Quyết định
giải quyết của Hội đồng trọng tài lao động cấp Tỉnh (đối vối tranh chấp lao động
tập thể).
Chương 3.
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
3.1. Kiến nghị.
3.1.1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ tranh chấp lao
động trong lĩnh vực bồi thường chi phí đào tạo.
Phần kiến nghị này chỉ xin phép nói trong lĩnh vực doanh nghiệp vì theo
quy định tại Nghị định số 54/2005/NĐ-CP ngày 19/04/2005, những cán bộ, công
chức, viên chức được cơ quan, đơn vị cử đi đào tạo (ở trong nước và nước ngoài)
mà trong thời gian đang học tập hoặc khi trở về cơ quan, đơn vị tự ý bỏ việc hoặc
đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc thì phải bồi thường chi phí đào tạo. Như
vậy, nếu cán bộ, công chức, viên chức thôi việc vì bất cứ lý do gì trong thời gian
yêu cầu phục vụ, sẽ phải bồi thường chi phí đào tạo, không có trường hợp ngoại
lệ. Đây cũng có thể xem là một sự phân biệt đối xử giữa nguồn vốn ngân sách nhà
nước với những nguồn vốn khác?
Như phần lời nói đầu đã trình bày, trong thực tế có một số doanh nghiệp đã
và đang gặp phải vấn đề là sau khi được đào tạo, được tiếp thu kiến thức về kinh
doanh, về khoa học kỹ thuật thì người lao động lại bỏ doanh nghiệp đã tài trợ chi
phí cho mình đi học để tìm đến những doanh nghiệp khác với nhiều lý do khác
nhau. Điều này làm cho doanh nghiệp “vừa mất người vừa mất của”. Hoặc ngược
lại, nắm bắt được tâm lý muốn được cơ quan đào tạo miễn phí, người lao động
thường không quan tâm đến những quy định “hơi nghiêng” trong hợp đồng đào
tạo như thời gian làm việc cho người sử dụng lao động sau khi được đào tạo
thường rất dài, không quy định cụ thể chế độ đãi ngộ hoặc nâng lương sau khi
được đào tạo, khi bồi thường phải bồi thường những khoản kể cả tiền lương, tiền
thưởng trong thời gian đào tạo,...do đó khi gặp tranh chấp người lao động sẽ rất
thiệt thòi.
Vì vậy, trong phạm vi bài tiểu luận này, xin nêu ra một một số quy định bất
cập trong Luật lao động, tạo một kẽ hở để người lao động “an tâm” ký hợp đồng
tạo tạo mà không cần quan tâm trong đó quy định điều gì, để khi xảy ra tranh chấp
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 26
lại dở khóc dở cười với những mâu thuẫn giữa quy định của pháp luật và những
thỏa thuận ghi trong hợp đồng đào tạo.
Theo quy định của Bộ luật lao động hiện hành tại khoản 3 Điều 41 quy
định: “Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động thì phải bồi thường chi phí đào tạo (nếu có) theo quy định của Chính
phủ”. Điều 13 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/5/2003 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động về Hợp đồng lao động quy
định: “Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động phải bồi
thường chi phí đào tạo… trừ trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động mà thực
hiện đúng và đủ các quy định tại Điều 37 của Bộ luật lao động đã sửa đổi, bổ
sung.”. Thông tư số 21/2003/TT-BLĐTBXH của Bộ lao động thương binh và xã
hội hướng dẫn Điều 13 Nghị định số 44 tại khoản 4 mục III hướng dẫn rõ hơn
cách thức thực hiện đó là, người lao động và người sử dụng lao động phải ký văn
bản thoả thuận về việc người sử dụng lao động bỏ kinh phí để đào tạo người lao
động thì người lao động phải có có trách nhiệm trở lại làm việc cho người sử dụng
lao động trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Trường hợp người
lao động tự ý bỏ việc hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi
thường chi phí đào tạo, trừ trường hợp quy định tại Điều 37 Bộ luật lao động.
Điều 37 khoản 3 Bộ luật lao động quy định:“Người lao động làm việc theo hợp
đồng lao động không xác định thời hạn có quyền chấm dứt hợp đồng lao động,
nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày…”.
Như vậy, theo các quy định hướng dẫn Bộ luật lao động nêu trên, có nghĩa
rằng, người lao động có ký văn bản cam kết với người sử dụng lao động về việc
phải làm việc cho người sử dụng lao động một thời gian sau khi được đào tạo và
phải bồi thường chi phí đào tạo khi vi phạm cam kết này hay không cũng không
có ý nghĩa gì khi người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định
thời hạn muốn chấm dứt hợp đồng lao động chỉ cần báo trước với người sử dụng
lao động 45 ngày. Bốn mươi lăm ngày báo trước thực sự là một điều kiện rất dễ
mà người lao động nào cũng có thể thực hiện được và như vậy là hết trách nhiệm
và không phải bồi thường gì cả cho dù người sử dụng lao động có bỏ ra bạc tỷ để
đào tạo người lao động. Điều này vô hình chung đã làm vô hiệu hoá hiệu lực
những cam kết về đào tạo được các bên xác lập trong hợp đồng lao động hay một
thoả thuận riêng bằng văn bản về đào tạo đi kèm giữa người lao động và người sử
dụng lao động, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
3.1.2. Một số kiến nghị và giải pháp.
Từ những vấn đề thực tiễn và lý luận nêu trên, chúng tôi thấy rằng quy định
về việc bồi thường chi phí đào tạo của người lao động đối với người sử dụng lao
động theo Điều 13 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP của Chính phủ là không phù hợp
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 27
với thực tế và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động bởi: Thứ nhất, xét dưới khía cạnh lợi ích kinh tế, người sử dụng lao động đã
phải bỏ ra một khoản tiền nhất định để đào tạo người lao động với hy vọng người
lao động sẽ phục vụ doanh nghiệp, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp nhưng điều
này không đạt được và như vậy doanh nghiệp vừa không đạt được mục tiêu phát
triển nhân lực vừa mất tiền của. Thứ hai, xét dưới góc độ về mối quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động thì đây là mối quan hệ không hài hoà,
không gắn kết công bằng giữa quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động với
quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Thứ ba, xét dưới khía cạnh
phát triển nguồn nhân lực thì quy định này làm hạn chế động lực phát triển nguồn
nhân lực có chất lượng cao.
Vì vậy, pháp luật cần tạo ra một cơ chế thoả thuận bình đẳng giữa người lao
động với người sử dụng lao động về việc đào tạo và cam kết lao động. Trước mắt
cần phải có sự sửa đổi quy định của Điều 13 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày
9/5/2003 của Chính phủ theo hướng “Người lao động đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động phải bồi thường chi phí đào tạo, trừ trường hợp chấm dứt hợp đồng
lao động theo khoản 1 Điều 37 Bộ luật lao động”. Như vậy, chỉ những trường hợp
chấm dứt hợp đồng lao động theo các điều kiện mà nguyên nhân từ phía người sử
dụng lao động hoặc vì điều kiện khách quan thì người lao động không phải bồi
thường chi phí đào tạo còn những trường hợp khác khi chấm dứt hợp đồng lao
động đều phải bồi thường chi phí đào tạo (nếu được đào tạo và có cam kết).
Ngược lại cũng nên có một số hướng dẫn trong việc ký hợp đồng đào tạo hoặc
cam kết đào tạo, cụ thể như số năm phục vụ sau khi được đào tạo phải phù hợp
với số tiền mà người sử dụng lao động đầu tư, không nên quá dài; Có quy định cụ
thể lộ trình tăng lương hoặc các chế độ khác sau khi được đào tạo,... để tránh một
“bản thỏa thuận nghiêng” mà trong đó người lao động phải chịu nhiều thiệt thòi
khi đặt bút ký mà sau này có phát sinh tranh chấp. Phải có sự hài hòa như vậy thì
một bên mới an tâm đầu tư đào tào nguồn nhân lực, còn bên kia yên tâm phục mà
không “bức xúc” vì mình đang bị bóc lột sức lao động. Đây là nền tảng cơ bản để
thị trường lao động Việt Nam ngày càng tăng về lượng, nâng về chất, góp phần
xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu, mạnh.
3.2. Kết luận.
“ Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải
vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng
và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước....” (Lời nói
đầu Bộ Luật Lao động năm 1994). Đúng vậy! Con người có thể tồn tại được là
nhờ có lao động, lao động là một hoạt động quan trọng nhất của sự phát triển xã
hội loài người. Một xã hội phát triển đòi hỏi phải có một lực lượng lao động đủ
chất, đủ lượng dù là lao động trí óc, hay lao động chân tay. Mà muốn có được
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 28
điều đó, người lao động phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức nghề
nghiệp, nâng cao tay nghề để kết quả lao động luôn đạt mức cao nhất như mong
muốn. Việc tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho người lao động và người sử
dụng lao động trong các lĩnh vực của quan hệ lao động nói chung và trong lĩnh
vực bồi thường chi phí đào tạo nói riêng là một điều kiện cần thiết để có một đội
ngũ lao động lành nghề, sáng tạo, năng động, nhiệt huyết làm việc với năng suất
cao nhất. Thiết nghĩ, các nhà làm luật nên sớm có những quy định mới để góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động của đất nước.
“Bộ luật lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của
người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn định, góp
phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động
chân tay, của người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến
bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý
lao động, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng- dân chủ- văn minh”. Với ý nghĩa cao cả và
mục đích hết sức thiết thực này, đòi hỏi những luật sư của chúng ta phải là những
người am hiểu một cách sâu sắc về pháp luật nói chung, lĩnh vực lao động nói
riêng; có tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt; có kỹ năng nghề nghiệp vững vàng để
có thể là chỗ dựa tin cậy cho khách hàng, hướng tới mục đích làm hài hòa mối
quan hệ lao động, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng và
góp phần vào xây dựng sự nghiệp “Dân giàu-Nước mạnh, xã hội Công bằng- Dân
chủ- Văn minh”.
Huỳnh Thị Thu Hằng – Lớp C Page 29
Tài liệu tham khảo.
- Bộ luật Dân sự;
- Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Bộ luật Lao động 1994;
- Luật 74/2006/QH11 sửa đổi bổ sung một số điều của BLLĐ ngày 29/11/2006;
- Nghị định 44/2003/NĐ-CP ngày 7/5/2003 của Chính phủ;
- Thông tư 21/2003/TT-BLĐTB-XH ngày 22/9/2003 của Bộ Lao động TB&XH;
- Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự của Học viện Tư pháp;
- Tuổi trẻ onlie thứ 7, 25/12/2010;
- Trang Civillaw Network;
-
- Ecolaw@ecolaw.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_hp_dansu_tc_btcpdt_1352.pdf