Nói chung một bài bảo vệ cần phải có sự thống nhất từ đầu đến
cuối: như những câu dự địnhsẽ hỏi, phải xác định hỏi ai, hỏi như thế nào
và có mục đích gì cho phần dự định sẽ tranh luận, tránh trường hợp hỏi
cho có, cho qua loa, phần trình bầy những quan điểm để bảo vệ cho
thân chủ nhất thiết phải có căn cứ dựa vào hồ sơ vụ án (bút lục), các
điều khoản cụ thể của điều luật, văn bản luật và các căn cứ khác sẽ
được bổ sung vào bản luận cứ trong quá trình xét xử tại phiên Tòa tránh
trường hợp soạn thỏa một bài bảo vệ trên cơ sở những lý lẽ suông.
Trong thời gian soạn thảo bản luận cứ trước khi tham gia phiên Tòa
khi nó chưa thật sự hoàn chỉnh mà nó có thể được bổ sung, sửa chữa
cho phù hợp sau khi Luật sư trực tiếp tham gia vào quá trình xét hỏi sẽ
tranh luận công khai tại phiên Tòa. Vì thế : khi nhận định, phân tích,
chứng minh mọi vấn đề thì ngay bên dưới cần chừa một khoảng cách
đúng sai ( ngăn kéo giữa các vấn đề để bổ sung các kết quả thu thập
trong diễn biến phiên Tòa .
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3263 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kỹ năng soạn thảo bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Học viện tư pháp
Page 1 of 21
Tiểu luận
KỸ NĂNG SOẠN THẢO BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ
CHO ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Học viện tư pháp
Page 2 of 21
I. NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ BÀI LUẬN CỨ BẢO VỆ :
Luật sư trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thân chủ mình tại phiên Tòa đuợc mọi người đánh giá cao, rất hay, rất
thuyết phục….. Ở đây, chúng ta chỉ nhìn nhận từ góc độ chuyên môn
không thể lấy việc thắng thua để làm tiêu chuẩn để đánh giá. Sự thành
công đó là cả một quá trình lao động, nghiên cứu, tư duy của Luật
sư: như việc thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ, đánh giá chứng
cứ và phân lọai chứng cứ, hay đó là quá trình Tìm kiếm, so sánh và áp
dụng các qui định của pháp luật có liên quan …. Sau đó hình thành bài
bảo vệ của Luật sư, tham gia xét xử, hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Từ
đó cho thấy hoạt động của Luật sư là một chuỗi công việc, mỗi công
việc là một mắt xích quan trọng. Tuy nhiên chúng ta có thể phân chia
cả một quá trình làm việc đó thành hai giai đoạn, giống như hai phần
của một tảng băng.
Giai đoạn đầu kể từ khi bắt tay vào thu thập, nghiên cứu tài liệu
đến khi hình thành Bài luận cứ bảo vệ ( phần chìm ).
Giai đọan hai là từ khi Luật sư tham gia vào phiên Tòa xét xử
( phần nổi ).
Như vậy, hai giai đoạn này là một tổng thể thống nhất không thể
tách rời với nhau, bài luận cứ bảo vệ là nền tảng, là cơ sở vững chắc
cho việc Luật sư trình bày tại phiên tòa.
Việc chuẩn bị bài luận cứ bảo vệ như là vũ khí mà Luật sư không
thể thiếu khi tham gia phiên tòa. Do khả năng của con người là có giới
hạn và Luật sư không phải là trường hợp ngoại lệ nên Luật sư không
thể chủ quan, tự tin vào trí nhớ của mình để khi trình bày say sưa một
Học viện tư pháp
Page 3 of 21
vấn đề nào đó mà bỏ sót ý hoặc dài dòng một cách không cần thiết,
không bảo đảm trật tự trước sau. Vì thế, Bài bảo vệ phải được chuẩn bị
một cách cẩn thận, đầy đủ, theo một trật tự nhất định, văn phong phải
chuẩn xác, rõ ràng, mạch lạc và dễ hiểu.
II) BÀI LUẬN CỨ BẢO VỆ :
Bài luận cứ bảo vệ là một sự kết tinh, là sản phẩm của cả một quá
làm việc của người Luật sư, một chu trình nghiên cứu, tìm tòi, tư duy
thể hiện quan điểm của Luật sư, nguyện vọng của khách hàng dựa trên
cơ sở những quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho khách hàng. Một bài luận cứ chặt chẻ, thuyết phục, đạt hiệu
quả cao nhằm để chinh phục được Hội Đồng Xét Xử và những người có
mặt tại phiên tòa, mang lại những kết quả tốt đẹp nhất cho thân chủ
( khách hàng ) của mình, Luật Sư cần có sự chuẩn bị cẩn thận. Thể
hiện qua các bước:
Vạch ra một đề cương chi tiết
Sắp đặt những phần đã được ghi chép theo đề cương.
Tìm các văn bản áp dụng
Trình bày những nhận định và kết luận dưới dạng đơn giản.
Chuẩn bị các luận cứ để bác lại ý kiến của Luật sư đối
phương.
Học viện tư pháp
Page 4 of 21
Bố cục của Bài luận cứ bảo vệ trong vụ án hành chính gồm có 3
phần cơ bản: Bài luận cứ bảo vệ là văn bản tố tụng rất quan trọng của
luật sư, nó thể hiện cơ sở pháp lý của những quan điểm bảo vệ mà
người Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình. Vì
vậy bài luận cứ bảo vệ Luật sư có thể gửi cho toà án ( Hội đồng xét
xử ) để họ nguyên cứu trước. Nên khi gửi cho toà án cần thể hiện thêm
các tiêu chí khác như: Tiêu đề của Đoàn luật sư, Văn Phòng luật sư, địa
chỉ liên hệ: điện thoại, fax, Email ... Thông thường phần tiêu đề được
đặt trên cùng, bên trái là logo Văn Phòng luật sư mà mình là thành
viên, ở giữa là tên Văn Phòng và địa chỉ liên hệ. Tiêu đề chỉ ghi tên
Đoàn luật sư hay Văn Phòng luật sư và địa chỉ liên hệ. Bản thân họ và
tên của luật sư được thể hiện ở Bản luận cứ. Có thể viết sẵn những
thông tin mà chắc chắn sẽ không thay đổi: họ và tên Luật sư, họ và tên
khách hàng mà mình nhận bảo vệ, tên toà án ...
A. Phần mở đầu :
Để thể hiện tính nghiêm túc, văn hoá, tôn trọng mọi người thì Luật
sư cần mở đầu bằng việc thưa gửi. Mỗi người có một cách thưa gửi
khác nhau nhưng có thể mở đầu bằng các hình thức sau:
Kính thưa Hội đồng xét xử, thưa vị đại diện Viện Kiểm sát và các
Luật sư đồng nghiệp ....
Kính thưa Quý toà, thưa vị đại diện Viện Kiểm sát và các Luật sư
đồng nghiệp ....
Đây là thủ tục không bắt buộc phải có nhưng Luật sư không nên
bỏ qua việc chào hỏi này :
Thứ nhất: Thể hiện tư cách đạo đức của Luật sư.
Học viện tư pháp
Page 5 of 21
Thứ hai: Tòa Án ( Hội đồng xét xử ), Viện Kiểm Sát là những
cơ quan đại diện của Nhà Nước thực thi quyền xét xử và quyền công
tố tại phiên tòa nên cần có được sự tôn trọng.
Thứ ba: Măc dù trong lúc tham gia xét xử tại phiên tòa các
bên đều tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình đôi khi rất căng
thẳng và rất gay gắt nhưng ko vì thế mà dẫn đến mâu thuẫn hay
ganh ghét. Tất cả có chung một mục đích là bảo vệ pháp luật bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Sau đó, Luật sư giới
thiệu về mình và bối cảnh nhận tham gia tố tụng với tư cách là Luật
sư tham gia trong vụ án. Và đây cũng là hình thức để Luật sư giới
thiệu về mình như: “Tôi Luật sư Nguyễn Văn A trưởng văn phòng
Luật sư B, địa chỉ văn phòng tại C thuộc đoàn Luật sư D tham gia
phiên tòa hôm nay để bảo vệ cho thân chủ của tôi là ông/bà E là
người khởi kiện ( người bị kiện – người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan) trong vụ án F, tôi xin trình bày một số quan điểm như sau:”
Tuy nhiên cũng không quá lạm dụng việc giới thiệu này vì đây là
việc thông tin về danh tiếng của người Luật sư cũng như thông tin về
Văn phòng Luật sư, vì vậy tùy từng phiên tòa cụ thể mà Luật sư có
những cách giới thiệu về mình khác nhau. Nếu như Hội đồng xét xử xét
xử quá nhiều vụ án trong ngày hoặc đã cuối buổi, cuối ngày mọi người
đã mệt thì Luật sư nên giới thiệu ngắn gọn tránh dài dòng đôi khi mang
lại cảm giác khó chịu cho mọi người mà chỉ cần giới thiệu ngắn gọn
như: tôi là Luật sư A thưộc đoàn Luật sư B bảo vệ cho than chủ của tôi
là ông (bà) C. sau đây tôi xin trình bầy một số quan điểm. như vậy là
đã đủ rồi.
Học viện tư pháp
Page 6 of 21
B. Phần tóm tắt nội dung vụ án:
Phải nêu đựơc nội dung chính, đảm bảo đầy đủ, cô đọng, xúc tích
phản ánh được tất cả các tình tiết, hệ thống chứng cứ. Nhấn mạnh các
nội dung liên quan đến lập luận trình bày trong Bản luận cứ. Cũng như
phần giới thiệu của Luật sư thì phần tóm tắt này cũng vậy không nên
thực hiện một cách máy móc nhất nhất phải nêu bằng được những gì
mình tóm tắt sẵn trong bài luận cứ, nhất là khi những vấn đề - những
nội dung này đã được các Luật sư khác trình bày, lăp đi lăp lại, do vậy
chúng ta cũng nên bỏ qua khi nó thật sự không cần thiết trong Bài luận
cứ của mình. Sau tóm tắt: Luật sư cần xác định văn bản quy phạm
pháp luật nào liên quan để làm cơ sở đề xuất giải quyết. Nếu Luật sư
xác định được điều đó nó sẽ giúp chúng ta biết đựợc còn thiếu những
văn bản nào. Văn bản nào liên quan và có giá trị chứng minh. Hơn nữa
khi nghe qua tên văn bản thì Hội đồng xét xử đã biết được công việc
bào chũa của Luật sư là đúng hay sai. Luật sư cần phân tích những lập
luận không đúng, không phải của đối phương như: đối tượng khởi kiện,
điều kiện khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án,
thủ tục được áp dụng từ khi khởi kiện và thụ lý vụ án cho đến thời
điểm Tòa án xét xử vụ án.
Đối tượng khởi kiện của một vụ án hành chính gồm:
Quyết định hành chính
Hành vi hành chính.
● Quyết định hành chính: Thuộc loại quyết định cá biệt là quyết
định bằng văn bản của cơ quan hành chính Nhà Nước hoặc là của
ngừoi có thẩm quyền trng cơ quan hành chính Nhà Nướcđược áp dụng
một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý Nhà Nước. Vấn đề này được quy định cụ thể
Học viện tư pháp
Page 7 of 21
tại khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh giải quyết các vụ án Hành chính năm
2006 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh 2006):
“ Quyết định hành chính”: là quyết định bằng văn bản của cơ quan
hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số
đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành
chính” Và hướng dẫn chi tiết tại mục 2 Nghị quyết 04/2006 ngày
04/8/2006 của HĐTP TANDTC (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 04/2006 ).
● Hành vi hành chính: Được quy định tại khoản 2 điều 4 Pháp lệnh:
“ Hành vi hành chính”: là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước,
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của
pháp luật ” Là qui định về việc thực hiện hay không thực hiện công
vụ của cán bộ, viên chức Nhà Nước và được quy định cụ thể tại mục
3 Nghị quyết 04/2006 ngày 04/8/2006 của HĐTP TANDTC.
Điều kiện khởi kiện : ( ĐKKK) phải thực hiện giai đoạn tiền tố tụng,
căn cứ để xem xét ĐKKK chúng ta phải dựa vào Điều 2 Pháp lệnh:
“ l. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải
quyết vụ án hành chính về các khiếu kiện quy định tại các khoản từ
khoản 1 đến khoản 16 Điều 11 của Pháp lệnh này trong các trường
hợp sau đây:
a) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết mà không tiếp
tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
b) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhưng không
Học viện tư pháp
Page 8 of 21
đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và không tiếp tục
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
c) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được
giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu trong trường hợp pháp luật quy định không được quyền
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
d) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
hai, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được
giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
lần hai.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải
quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 17 Điều 11
của Pháp lệnh này trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất
đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng người khiếu nại
không đồng ý với quyết định giải quyết đó và không tiếp tục khiếu
nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương.
b) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất
đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng người khiếu nại không
đồng ý với quyết định giải quyết đó.
Học viện tư pháp
Page 9 of 21
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải
quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 18 Điều 11
của Pháp lệnh này nếu đã khiếu nại với cơ quan lập danh sách cử
tri, nhưng không đồng ý về cách giải quyết của cơ quan đó.
4. Cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở
xuống theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức có quyền
khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy
định tại khoản 19 Điều 11 của Pháp lệnh này nếu đã khiếu nại với
người đã ra quyết định kỷ luật, nhưng không đồng ý với quyết định
giải quyết đó và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại tiếp theo.
5. Cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án
hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 20 Điều 11 của Pháp
lệnh này nếu đã khiếu nại với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, nhưng không đồng ý với quyết định giải
quyết đó.
6. Cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án
hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 21 Điều 11 của Pháp
lệnh này nếu đã khiếu nại với Hội đồng cạnh tranh hoặc Bộ trưởng
Bộ Thương mại, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó.
7. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải
quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 22 Điều 11
của Pháp lệnh này theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1à thành viên
về các khiếu kiện đó ”.
Học viện tư pháp
Page 10 of 21
Và bên cạnh đó, điều kiện khởi kiện ở Điều 2 này còn được hướng
dẫn chi tiết tại Mục 1 Nghị quyết 04/2006 ngày 04/8/2006 của HĐTP
TANDTC.
Thời hiệu khởi kiện : Căn cứ vào Điều 30 - Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính :
“ l. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện
để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền; lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi
kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường hơp pháp luật không có quy định khác thì thời hiệu
khởi kiện được quy định như sau:
a) Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 2
của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải
quyết khiếu nại lần giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý
với quyết định giải quyết đó.
b) Đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Pháp
lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu
nại lần hai mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận
được quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng không đồng ý với
quyết định giải quyết đó.
c) Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 2 của Pháp lệnh này
là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó.
d) Đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này
chậm nhất là năm ngày, trước ngày bầu cử, nhưng không đồng ý về
cách giải quyết của cơ quan lập danh sách cử tri.
Học viện tư pháp
Page 11 of 21
đ) Đối với trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 2 của Pháp lệnh này
là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó.
e) Đối với trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 2 của Pháp lệnh này
là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu
nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó.
f) Đối với trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 2 của Pháp lệnh này
là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu
nại của Hội đồng cạnh tranh hoặc của Bộ trưởng Bộ Thương mại,
nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó.
g) Đối với trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 2 của Pháp lệnh này
thì thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về
trường hợp đó; nếu pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế không có
quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện là ba mươi ngày,
kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai hay
kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc
lần hai.
3. Đối với vùng, sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn khởi kiện
quy định tại các điểm a, b và đ khoản 2 Điều này là bốn mươi lăm
ngày.
4. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học
tập ở nơi xa hoặc vì trở ngại khách quan khác mà người khởi kiện
không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3
Học viện tư pháp
Page 12 of 21
Điều này thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khởi
kiện.
5. Người khởi kiện phải làm đơn khởi kiện trong thời hạn quy định tại
các khoản 2, 3 và 4 Điều này. Đơn khởi kiện phải có các nội dung
chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn.
b) Toà án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính.
c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện.
d) Nội dung quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi
việc cán bộ, công chức hay tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính.
đ) Nội dung quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có).
e) Các yêu cầu Toà án giải quyết.
6. Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan,
tổ chức khởi kiện thì người đại điện hợp pháp của cơ quan, tổ chức
đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; nếu việc khởi kiện để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do cha, mẹ, người giám hộ
của những người này ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp Viện kiểm sát
khởi tố thì viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ
nhiệm ký tên và đóng dấu. Kèm theo đơn khởi kiện, văn bản khởi tố
phải có các tài liệu, chứng từ chứng minh cho yêu cầu của người khởi
kiện, việc khởi tố là có căn cứ và hợp pháp.”
Vấn đề thời hiệu theo điều 2 này được hướng dẫn cụ thể tại Mục 13
Nghị quyết 04/2006 ngày 04/8/2006 của HĐTP TANDTC.
Học viện tư pháp
Page 13 of 21
Thẩm quyền giải quyết: Căn cứ vào điều 11, 12, 13 Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính:
“Điều 11
Các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án:
l. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
2. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm việc xử lý vi phạm hành chính.
3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế, thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính.
4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp
dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính bằng một trong các
hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo
dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế
hành chính.
5. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp
dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố
khác.
6. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc
cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh;
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc
khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan
đến hoạt động kinh doanh, tài chính của thương nhân.
7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan
đến thương mại hàng hoá quốc tế hoặc trong nước.
Học viện tư pháp
Page 14 of 21
8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan
đến chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng
dịch vụ.
9. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc
trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản.
10. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc
áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế.
11. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc
áp dụng phí, thu phí, lệ phí; thu tiền sử dụng đất.
12. Khiếu kiến quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản
lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.
13. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản
lý nhà nước về đầu tư.
14. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan hải quan, công chức hải quan.
15. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý
hộ tịch.
16. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc
từ chối công chứng, chứng thực.
17. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý
đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng
dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ,
giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất.
Học viện tư pháp
Page 15 of 21
18. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh
sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
19. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ
chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống.
20. Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của
Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư.
21 . Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc.
22. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
''Điều 12
1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những khiếu kiện sau đây:
a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án và
của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó.
b) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án
đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức
đó.
c) Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách
cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách
cử tri trên cùng lãnh thổ với toà án.
Học viện tư pháp
Page 16 of 21
2. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
khiếu kiện sau đây:
a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước,
Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ
trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú,
nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên
cùng lãnh thổ với Toà án.
b) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
chức năng thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a
khoản này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ,
công chức của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện là cá
nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ
chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án.
c) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công
chức của cơ quan nhà nước đó.
d) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công
chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó, trừ những khiếu
kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
đ) Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trên cùng lãnh thổ với Toà án giải quyết
Học viện tư pháp
Page 17 of 21
khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen
thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư.
e) Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm
việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh
thổ vời Toà án.
g) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều này
mà Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết”.
''Điều 13
1. Trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức không
được giải quyết hoặc đã được giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu
nại không đồng ý mà khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần hai và khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền thì phân biệt thẩm quyền như sau:
a) Trường hợp chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại
Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà
án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ
hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền.
b) Trường hợp có nhiều người mà họ vừa khởi kiện vụ án hành chính
tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần hai hoặc trong đó có người khởi kiện vụ án
hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc
Học viện tư pháp
Page 18 of 21
thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai ngay sau khi phát hiện việc
giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình.
c) Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản này, nếu hết thời
hạn giải quyết khiếu nại lần hai thì có quy định của pháp luật về khiếu
nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải
quyết, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần hai thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục
chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính, nếu phát hiện vụ án không
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì ra quyết định chuyển hồ sơ
vụ án cho Toà án có thẩm quyền và xoá sổ thụ lý. Quyết định này
phải được gửi ngay cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến
nghị quyết định này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được quyết định. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án đã ra quyết định chuyển
vụ án hành chính phải giải quyết khiếu nại, kiến nghị.
3. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các
Toà án cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương do Chánh án Toà án cấp tỉnh giải quyết. Tranh chấp về thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án cấp huyện thuộc
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các
Toà án cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải quyết”.
Học viện tư pháp
Page 19 of 21
Vấn đề thẩm quyền còn được hướng dẫn cụ thể tại Mục 7,8,9 Nghị
quyết 04/2006/NQ-HĐTP.
Thủ tục được áp dụng từ khi khởi kiện và thụ lý vụ án cho đến thời
điểm Tòa án xét xử vụ án: Trong các vụ án hành chính thì thủ tục tố
tụng rất dễ bị sai cho nên chúng ta cần kiểm tra chặt chẽ “Bất chiến tự
nhiên thành”, ngoài việc dựa vào Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hoành chính còn phải xem xét các qui định pháp luật liên quan như :
Quyết định, hành vi bị kiện đã được ban hành thực hiện có đúng
thẩm quyền không ?
Người kí Quyết định hành chính hay có Hành vi hành chính bị kiện
đã có sự ủy quyền của cấp có thẩm quyền ?
Vụ việc phải được giải quyết thuộc thẩm quyền của cơ quan hay cá
nhân ?
Vụ việc được giải quyết thuôc thẩm quyền của cơ quan khác cấp :
Ví dụ: Như thâm quyền xử phạt của chủ tịch xã và huyện...
Quyết định hành chính hay Hành vi hành chính đó đã được ban
hành hoặc thực hiện như thế nào, có đúng trình tự thủ tục không ?
Quyết định hành chính hay Hành vi hành chính đó được thực hiện
đúng thời hiệu hay không ?
Việc xử lý đó đúng với văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở ra
Quyết định hành chính hay Hành vi hành chính bị kởi kiện hay không ?
Xem xét thiệt hại có phải là hậu quả của Quyết định hành chính hay
Hành vi hành chính gây ra hay không ?
Chứng cứ xác định mức độ thiệt hại cụ thể : Hóa đơn , chứng từ ...
Quyết định hành chính hay Hành vi hành chính (bị khởi kiện) dưa
trên báo cáo của cấp dưới: báo cáo có đúng thực tế hay không ?
Học viện tư pháp
Page 20 of 21
Quyết định hành chính hay Hành vi hành chính (bị khởi kiện) dựa
trên ý kiến, khiếu nại của những người khác: Các ý kiến, khiếu nại có
trung thực và khách quan không ?
Các tình tiết trong vụ kiện có điều gì không đúng thực tế , mâu
thuẫn với các chứng cứ khác hay không ?
Nói chung một bài bảo vệ cần phải có sự thống nhất từ đầu đến
cuối: như những câu dự địnhsẽ hỏi, phải xác định hỏi ai, hỏi như thế nào
và có mục đích gì cho phần dự định sẽ tranh luận, tránh trường hợp hỏi
cho có, cho qua loa, phần trình bầy những quan điểm để bảo vệ cho
thân chủ nhất thiết phải có căn cứ dựa vào hồ sơ vụ án (bút lục), các
điều khoản cụ thể của điều luật, văn bản luật và các căn cứ khác sẽ
được bổ sung vào bản luận cứ trong quá trình xét xử tại phiên Tòa tránh
trường hợp soạn thỏa một bài bảo vệ trên cơ sở những lý lẽ suông.
Trong thời gian soạn thảo bản luận cứ trước khi tham gia phiên Tòa
khi nó chưa thật sự hoàn chỉnh mà nó có thể được bổ sung, sửa chữa
cho phù hợp sau khi Luật sư trực tiếp tham gia vào quá trình xét hỏi sẽ
tranh luận công khai tại phiên Tòa. Vì thế : khi nhận định, phân tích,
chứng minh mọi vấn đề thì ngay bên dưới cần chừa một khoảng cách
đúng sai ( ngăn kéo giữa các vấn đề để bổ sung các kết quả thu thập
trong diễn biến phiên Tòa .
Một bài bảo chữa chuẩn bị chu đáo, đầy đủ sẽ tạo một sự tự tin,
trình bày một cách lưu loát, nhanh chóng chính xác, liền mạch. Hạn chế
việc khi Luật sư đang trình bầy một vấn đề mọi người đang chú ý lắng
nghe thì Luật sư dừng lại, lật đi lật lại tìm căn cứ, câu biện dẫn ( gây
cảm giác khó chịu cho mọi người, sự lúng túng có thể không tìm ra hoặc
nhầm lẫn giữa những vấn đề và áp dụng sai chứng cứ ) .
Học viện tư pháp
Page 21 of 21
C. Phần kết luận:
Đây là phần tối quan trọng của bài bảo vệ, ở phần kết luận này
Luật sư phải tóm tắt và khẳng định lại các yêu cầu của người được
bảo vệ là giữ nguyên hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, chấm dứt
hoặc thực hiện hành vi mà quyết định hành chính hay hành vi hành
chính này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ
như:
o Yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) phải nêu một cách cụ thể
về mức bồi thường thiệt hại như: phần nào, bao nhiêu, tổng cộng là
bao nhiêu ( trên cơ sở phân tích ở phần trước ).
o Tất cả các yêu cầu trên phải được trình bày một cách rõ ràng
ngắn gọn, đủ ý, dễ hiểu, tránh gay nhầm lẫn cho người nghe.
Không được dùng một số từ mang tính chất địa phương như: tiếng
lóng, trừu tượng khó hiểu, từ hiểu theo nhiều nghĩa…. Không nên
dùng những thuật ngữ pháp lý cổ xưa như: khế ước, căn cước…và
khi viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật để chứng minh thì cần
chú ý đến những văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn theo
luật ban hành văn bản pháp luật. Và đặc biệt quan trọng là trong
bản luận cứ, Luật sư chúng ta không nên dùng những từ ngữ xúc
phạm, coi thường và thiếu tôn trọng đối với Hội đồng xét xử và Luật
sư đồng nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_hc_4138.pdf