Lạm phát là hệ quả tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân. Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước cũng phải áp dụng nhiều giải pháp tổng hợp để giá phải trả cho việc chống lạm phát là thấp nhất. Hơn nữa, chống lạm phát thường là sự khảo nghiệm thực chứng. Vì vậy, “trên phương hướng đúng cứ làm đi rồi thực tiễn sẽ cho thấy dần”. Điều quan trọng là thường xuyên theo dõi, đánh giá phản ứng của thị trường để kịp thời điều chỉnh đi đôi với việc hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường.
Giờ đây, cần phải thiết lập được sự cân bằng giữa (1) nhu cầu phát triển kinh tế bền vững, (2) việc sử dụng các chính sách và công cụ mới để kiểm soát lạm phát, (3) sự có mặt và tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong việc kiểm soát lạm phát, (4) việc tái cấu trúc hay tái xác định chiến lược phát triển và cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước hay có vốn của nhà nước, và đặc biệt (5) việc quản lý vĩ mô minh bạch có giám sát và điều chỉnh của Chính phủ.
32 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 4041 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế hay không? Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước thường sử dụng các biện pháp nào? Ở Việt Nam hiện nay có lạm phát không? Nếu có , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số lượng hàng hóa và dịch vụ .Số tiền lưu hành tăng khoảng 25% mỗi năm, số tín dụng tức số tiền cho vay tăng khoảng trên 35% .Trong khi đó số lượng hàng hóa dịch vụ mà dân chúng có thể mua chỉ tăng dưới 10 % một năm. Trong năm ngân hàng nhà nước đã bỏ một lượng lớn nội tệ để mua ngoại tệ ( đầu tư trực tiếp và đặc biệt là đầu tư vào thị trường chứng khoán) đã làm cho mức cung tiền tăng cao.
Đồ thị 4 : so sánh mức cung tiền của việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan
(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.)
Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan hầu như không đáng kể.
Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan không thể khác nhau nhiều.
2.3.3. Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công.
Đối với đầu tư công thì đây là một vấn đề lớn tồn tại hàng chục năm chưa giải quyết được. khi nói đến lạm phát người ta thường nhắc đến yếu tố tiền tệ mà không chú ý đến vấn đề đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, tức là đầu tư của nhà nước, sử dụng tiền rất lớn nhưng đa số lại không phát huy hiệu quả cũng như làm thất thoát rất nhiều theo số liệu thống kê cho thấy năm 2007 đầu tư công chiếm 200.000 tỷ trong số 461.000 tỷ đồng đầu tư của toàn xã hội. vì vậy một trong những nguyên nhân sâu xa của tình trạng lạm phát hiện nay là sự thất thoát và lãng phí trong đầu tư công, hàng năm các chuyên gia đều có khuyến cáo nhưng những nhà làm chính sách hình như coi nhẹ vấn đề này. Nguyên nhân nữa là các khoảng đầu tư không hiệu quả của nhiều công ty quốc doanh lớn hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Nếu con số này chính xác thì tronh năm qua đã có 60.000 tỷ đồng lãng phí đang nằm trong lưu thông, làm trầm trọng thêm tình hình lạm phát. Thâm hụt ngân sách 5,8% GDP trong khi theo kinh nghiệm quốc tế, thâm hụt 3% đã đáng lo ngại. thâm hụt thương mại ước chừng 12 tỷ USD, tức khoảng 16% GDP trong khi mức 5-10% đã là đáng lo ngại đối với quốc tế.
Chưa kể những khoản đầu tư nước ngoài được rót vào những dự án mà hiệu suất kinh tế khá thấp.Một nghiên cứu gần đây của các nhà kinh tế học harvard (mỹ) chỉ số ICOP của Việt Nam năm 2007 là 4.7 ; nghĩa là trong nền kinh tế của chúng ta muốn tăng 1% GDP thì phải tăng 4.7% vốn đầu tư. Đó là chỉ số quá cao so với ICOP thông thường của nước, chỉ từ 1.2 đến 2 mà thôi. Việc sử dụng vốn không hiệu quả cũng góp phần làm gia tăng lạm phát như hiện nay. Vì mục tiêu phải duy trì tăng trưởng Việt Nam đã phải đầu tư nhiều hơn các nước khác và tăng cung tiền nhiều hơn.và đương nhiên lạm phát cũng vì đó mà tăng lên. Có thể nói, lạm phát hiện nay là kết quả của chính sách tìm mọi biện pháp ngắn hạn (mà chủ yếu là thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư) để kích thích tăng trưởng của nhiều năm trước trong khi ICOP không được cải thiện.
2.3.4. Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng mạnh.
Tổng phương tiện thanh toán tăng 20% - 30% và dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 18-22% so với năm 2006 cùng với nhiều cơ chế, chính sách đi kèm.Tổng phương tiện thanh toán cả năm 2007 tăng cao hơn nhiều năm trước: tăng khoản 37% so với năm 2006, cao hơn mức tăng trung bình của thời kỳ 2001- 2007 (xem đồ thị 2.1.2). Như vậy, nếu so với chỉ tiêu đề ra đầu năm thì tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán năm 2007 quá cao, vượt 80% so với kế hoạch. Đây là con số nói lên lượng cung tiền tệ tăng quá mức cần thiết của nền kinh tế.Tuy nhiên, trong vấn đề này, có thể khẳng định là cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do năm 2007, lượng ngoại tệ vào nhiều thông qua con đường FDI, FII và kiều hối chuyển về, xuất khẩu tăng về nguyên nhân chủ quan phải thừa nhận chúng ta chưa chú trọng đúng mức việc thắt chặt tiền tệ ngay từ đầu năm mà đôi khi lại áp dụng chính sách có phần nới lỏng như phát hành tiền ra quá mức để mua ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại tệ một cách ồ ạt như trong 6 tháng đầu năm 2007.
Theo kinh nghiệm nhiều năm trước đây thì tổng phương tiện thanh toán tăng ở mức 20 – 30% so với năm 2006 Như kế hoạch đề ra là phù hợp. nếu có sự tăng đột biến cung ngoại tệ vào nền hinh tế thì nên có giải pháp khác, không phải phát hành tiền ra mua ngoại tệ thì sẽ tốt hơn.
Đồ thị 5 : tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán
(nguồn : trang web ngân hàng nhà nước)
Bên cạnh đó có thể thấy dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn nền kinh tế năm 2007 cũng tăng khá mạnh, tăng 37,8%; cao đột biến so với nhiều năm trước đây. Tính chung trong cả nước, tính đến hết tháng 11/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư đối với nền kinh tế của hệ thống NH tăng gần 34% và ước tính hết năm 2007 tăng tới 37-38% so với cuối năm 2006 và tăng gấp khoảng 2 lần so với mức dự kiến từ đầu năm là 17-21%. Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng NH trong năm 2007 đó là đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới và khu đô thị mới, đầu tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng hải sản bên cạnh đó, đối tượng đầu tư chứng khoán, vàng,tiêu dung cũng thu hút một khối lượng rất lớn vốn tín dụng. đây là chỉ tiêu quan trọng đối với kiềm chế lạm phát và phát triển nền kinh tế. vấn đề chuyển dịch cơ cấu tín dụng còn chưa đúng hướng và có diễn biến phức tạp, thể hiện ở chỗ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất có xu hướng tăng mạnh, trong khi lĩnh vực sản xuất lại chưa đáp ứng được nhu cầu( xem đồ thị 2.1.3), cụ thể, giá điện tăng 7%, nhiên liệu tăng 7,8%. Tuy nhiên, đây chỉ là hiệu ứng một lần, không phải là liên tục.
Đồ thị 6 : tăng trưởng dư nợ cho vay ngành ngân hàng 2004-2007
( Nguồn : ESP research)
Theo tin từ ngân hàng nhà nước chi nhánh TP.HCM , dư nợ bất động sản của các ngân hàng cổ phần trên địa bàn đang được ở mức khá cao, xấp xỉ 10% trên tổng dư nợ, số liệu chưa đầy đủ cho thấy khoảng 40.000 tỉ đồng đã đổ vào thị trường bất động sản trong năm qua vì vậy, nếu không thận trọng nguy cơ “bong bóng” tín dụng bất động sản có thể xảy ra.
2.3.5. Do cầu kéo
Đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư nhũng nhu cầu mới cao hơn. Tuy nhiên, trong nước hai năm 2006-2007, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại rất nặng nề (thiệt hại kinh tế khoảng 33.600.000 tỷ đồng) đã làm ảnh hưởng lớn đến giá lương thực, thực phẩm. trong khi đó nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng, làm cho mặt bằng giá cả của nước tăng đột biến. mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản vào năm 2007, nhu cầu xây dựng tăng cao, dẫn đến giá cả của nguyên vật liệu xây dựng, sắt thép, các mặt hàng trang trí nội thất tăng giá. Một diễn biến khác xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất khẩu gạo của Việt Nam được cải thiện, khối lượng gạo xuất khẩu gia tăng, thị trường xuất khẩu thuỷ sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá cả của các mặt hàng lương thực thuỷ sản tăng lên.
Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo. Giá lương thực, thưc phẩm cuối năm 2007 tăng 18,92% so với cuối năm 2006. Đây lại là nhóm hàng chiếm tỷ trọng 42,85%, tỉ trọng lớn nhất, trong rổ giá hàng hoá được khảo sát.
Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng lên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Tong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bênh không thể tăng kịp =>Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng thêm. Cuối năm 2007, giá lương thực thực phẩm tăng 18,92% so với cuối năm 2006. đây lại là nhóm hàng chiếm tỉ trọng lớn 42,85% trong rổ giá hàng hoá được khảo sát.
2.3.6. Do chi phí đẩy.
Nhân tố chủ yếu do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị trường Thế Giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, phân đạm ure, bột giấy, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế , giá sắt thép tăng là do ngành xây dựng và cơ khí chế tạo tăng chi phí. Nguyên vật liệu tăng giá nên một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên. Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản năm 2007, hệ luỵ của nó là vô cùng lớn. đáng lẽ các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đặc biệt là trong dân cư phải được tập trung để đầu tư phát triển sản xuất thì nay, mọi người dùng tiền để kinh doanh bất động sản gây rối loạn thị trường, đẩy giá bất động sản tăng cao. Do vậy giá thuê mặt bằng để sản xuất, thuê cửa hàng để kinh doanh tăng lên tương ứng, đẩy chi phí sản xuất lên cao.
Bên cạnh đó, dưới tác động của quá trình ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nên ảnh hưởng từ giá thế giới đến Việt Nam cũng nhanh và rất rõ nét. Việt nam đang nhập khẩu nhiều nguyên liệu đầu vào cho sản xuất như 100% xăng dầu, 70% nguyên liệu dệt may, nhiều vật tư cơ bản khác như phôi thép, phân bón Đây là những mặt hàng tăng giá mạnh trong thời gian qua.
2.3.7. Do công tác dự báo chưa tốt
Một yêu cầu hêt sức cơ bản của dự báo là sự rạch ròi giữa tính khách quan của công tác này với mục tiêu chủ quan của các chính sách. Thế nhưng, thực tế lại không diễn ra như vậy. rất dễ nhận thấy thời gian qua công tác dự báo trở thành công cụ minh hoạ, lập lại và làm an lòng các giới chức trong quyết tâm hoàn thành kế hoạch kinh tế do chính họ đề ra.
Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập trong công tác điều hành. Điều này dẫn tối tình trạng số liệu CPI thự so với số liệu CPI mà tổ này dự báo luôn cao hơn tới 20-30%. Sai số đó mới chỉ được cải thiện trong thời gian gần đây. Dẫn tới hậu quả của việc dự báo không hết, không đúng với các tình huống và độ chính xác không cao là làm giảm sự chủ động trong công tác kiểm soát lạm phát. Sự thiếu rạch ròi này đã trở thành nguyên nhân quan trọng khiến chính phủ liên tục bất ngờ, thậm chí lúng túng trong giải các động thái giá cả thị trường. từ đó làm giảm tính chủ động và hiệu quả của các giải pháp kiềm chế lạm phát được lựa chọn.
Một nguyên nhân nữa là chính phủ chưa coi trọng công tác dự báo về tác động hai mặt của những chính sách được đưa ra theo yêu cầu quản lí kinh tế thị trường.
Cuối cùng là thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, công vụ dự báo và các tổ chức thực hiện. Dự báo tốt giúp cơ quan quản lí nhà nước nâng cao hiệu quả điều hành thực tiễn. còn việc bám sát thực tiễn điều hành của các cơ quan quản lí nhà nước sẽ giúp cho công tác dự báo thêm cơ sở tin cậy và mềm dẻo, chính xác hơn
2.3.8. Tỉ giá cố định trong thời gian dài
Tỉ giá cố định trong một thời gian quá lâu là một trong những nhân tố được nhiều nhà nghiên cứu đề cập như một nguyên nhân gây lạm phát. Do tỉ giá giữa USD/VND rất ít thay đổi trong nhiều nam (bình quân thay đổi khoảng 1-2%/năm) và không linh hoạt nên hiệu ứng hấp thụ lạm phát từ bên ngoài vào của tỉ giá hoàn toàn bị mất đi. Khi tỉ giá không linh hoạt thì lạm phát ở các nước khác cao sẽ kéo theo lạm phát ở Việt Nam cao.
Vì vậy, nhiều đề xuất cho rằng linh hoạt tỉ giá sẽ giúp chống lạm phát. Nhưng cũng nên xác định là linh hoạt tỉ giá hoàn toàn không đồng nghĩa với việc cho đồng tiền tăng giá để chống lạm phát. VND càng tăng giá thì dầu tư vào trái phiếu Việt Nam sẽ càng có lợi, như vậy dòng vốn quốc tế đổ vào sẽ càng nhiều.Còn nếu như hạn chế dòng vốn vào thì lấy gì bù đắp cho khoản nhập siêu đang tăng lên, rõ ràng năm nay kinh tế các nước đang suy thoái thì kiều hối có duy trì được mấy tỉ USD nữa không? Mà như thế không nhờ vào dòng vốn vào bù đắp thâm hụt thương mại thì nhờ cái gì? Siết chặt tiền tệ mà không cho vốn vào sẽ giết mất thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán không khởi sắc thì vốn vào sẽ giảm => chính vì vậy, để đảm bảo có nguồn ngoại tệ bù đắp thâm hụt thương mại, không nên siết chặt tiền tệ quá mức và hạn chế dòng vốn vào ( trừ vốn ngắn hạn, nhưng dùng biện pháp hạn chế ngắn hạn lại có thể gây ra mất lòng tin cho cả nhà đầu tư dài hạn, khi đó sẽ gây ra hậu quả không mong đợi rất nguy hiểm).
2.3.9. Lúng túng trong điều hành
Một điều cũng góp phần khiến tình hình lạm phát ngày càng nghiêm trọng là sự lúng túng trong điều hành chính sách chống lạm phát của chính phủ. Nhiều chính sách tỏ ra mang tính tình thế, bí đâu gỡ đấy, ví dụ như cung tiền tăng nhiều quá rồi thắt chặt cung tiền bằng mọi giá, bao gồm cung tiền ra mua USD vào. Điều này giống như làm đổ một bình nước rồi giờ tiết kiệm từng giọt nước một, trong khi cơ thể thì vẫn cần nước để sống.
Điều này do việc quy hoạch chính sách của chính phủ còn thiếu tính dự báo, thiếu việc ứng dụng các mô hình định lượng trong ra quyết định nên đề xuất nào cũng không có cơ sở định lượng khoa học. hiện giờ ai đề xuất dùng lý thuyết nào chống lạm phát cũng được, vì cơ sở đánh giá hiệu quả là không hề có. Đây là hệ quả của những yếu kém trong công tác thống kê kinh tế thời gian qua, cũng như có chiến lược đặt hàng nghiên cứu khoa học phục vụ chính sách hiệu quả ( phần lớn là đề tài nói suông không có cơ sở định lượng ).
2.4. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam
Lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Những tác động chủ yếu bao gồm: Giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong tương lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất. Lạm phát cao đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập không tăng kịp mức tăng của giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu nhập cố định như là những người hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi và mức sống của họ sẽ bị giảm đi. Lạm phát làm khổ toàn dân, nhưng giới lao động bị đe dọa trực tiếp.
2.4.1. Tác động của lạm phát đến người tiêu dùng
Trong khu vực tiêu dùng, người tiêu những người hàng ngày thấy được tác động của sự tăng giá. Với mức lương không đổi giá cả các mặt hàng lương thự thực phẩm lại tăng cao đã đẩy những người tiêu dùng rơi vào tình trạng rất khó khăn. Như vậy, lạm phát như một loại thuế vô hình đánh vào người tiêu dùng, và những người phải chịu hậu quả nặng nề nhất của thứ thuế này là những người có thu nhập cố định, không được điều chỉnh theo mức tăng giá, chẳng hạn như người về hưu, những người trong diện chính sách, người hưởng lương cố định theo ngạch lương của nhà nước, sinh viên v.v.
2.4.2. Tác động của lạm phát tới người nông dân
Nói nông dân và lạm phát là nói về ba vấn đề: những sản phẩm do nông dân làm ra đang có tốc độ tăng giá cao nhất; nông dân là lực lượng đông nhất, nghèo nhất, nên tác động của lạm phát lên lực lượng này là lớn nhất; nông dân cũng sẽ là lực lượng chống lạm phát có hiệu quả.
Về vấn đề thứ nhất : giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng khác và cao gấp rưỡi tốc độ tăng chung (năm 2007 tăng 18,92% so với tăng 12,63%, 2 tháng đầu năm 2008 tăng 10,17% so với tăng 6,02%). Nhóm hàng này hiện còn chiếm tới 42,85% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của dân cư, nên tốc độ tăng giá của nó trở thành bộ phận quyết định đến tốc độ tăng giá chung.
Về vấn đề thứ hai : nông dân hiện chiếm gần ba phần tư dân số cả nước, cũng tức là chiếm gần ba phần tư tổng số người tiêu dùng cả nước. Chênh lệch giàu/nghèo lớn (lên đến 8,43 lần), trong khi tỷ trọng chi tiêu cho lương thực, thực phẩm của người nghèo cao gấp đôi của người giàu, thì lạm phát cao sẽ làm cho người nghèo bị khổ hơn.
Như vậy, xét về cả hai mặt (người tiêu dùng và người tiêu dùng nghèo) thì nông dân đều chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên lạm phát cao đã làm cho nông dân, nhất là nông dân nghèo càng bị khổ. Ở đây xuất hiện một câu hỏi: giá lương thực, thực phẩm tăng thì nông dân sẽ được lợi chứ sao lại bị thiệt? Đó là xét về đầu ra, nhưng ở đầu vào giá vật tư nông nghiệp còn tăng cao hơn (năm 2007 giá lương thực tăng 15%, giá thực phẩm tăng 10%, thì giá nhập khẩu phân bón tăng 19,2%, giá thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu lên đến 30- 40%, giá thuốc trừ sâu tăng gần 20%; hai tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, giá lương thực tăng 17,4%, giá thực phẩm tăng 26,8%, thì giá nhập khẩu phân bón tăng tới 71,3%, giá thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng trên 40%, giá thuốc trừ sâu tăng trên 50%,...). Giá đầu ra tăng như thế, nhưng đó là giá cuối cùng, bởi người nông dân không trực tiếp bán cho người tiêu dùng mà còn phải chia cho thương lái, người nông dân chỉ được một phần nhỏ trong số đó. Nếu vừa được mùa, vừa được giá thì mới có lợi, còn nếu được giá nhưng mất mùa thì có khi nhiều nông dân còn khổ hơn.
Về vấn đề thứ ba : trước hết cần ngược lại lịch sử vài chục năm trước đây, khi nước ta rơi vào khủng hoảng với lạm phát phi mã. Chính lúc đó, người nông dân sau khi được giải phóng bởi Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI, đã sản xuất ra một lượng lương thực không những đủ dùng trong nước mà còn xuất khẩu với khối lượng lớn. Khi an ninh lương thực được bảo đảm đã làm cho nông nghiệp phát triển toàn diện với nhiều nông sản xuất khẩu đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Trong điều kiện có sự cộng hưởng giữa khó khăn ở trong nước và giá cả trên thế giới như đã nêu trên, nếu không có sự ra tay của nông dân và sự hỗ trợ của Nhà nước, thì giá lương thực, thực phẩm sẽ tiếp tục "lồng lên" và kéo tốc độ giá tiêu dùng lên theo. Nhưng để chống lạm phát, ngoài việc phải tăng lượng, còn phải giảm chi phí để sản xuất ra sản phẩm. Nhà nước cần có chính sách giảm thuế suất để giảm giá nhập khẩu đối với nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu, nhất là phân bón, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu, nhiên liệu...
2.4.3. Tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán
Trong lịch sử quản lý kinh tế vĩ mô của Việt Nam, kiểm soát lạm phát là một trong những thành công được ghi nhận. Chúng ta đã giảm lạm phát từ 700% năm 1986 xuống thấp vào đầu những năm 1990 và ở mức kiểm soát được những năm sau này. Nếu lạm phát tiếp tục tăng cao trong thời gian tới, Chính phủ có thể thực hiện các biện pháp mạnh để kiềm chế, nhưng có thể tác động tiêu cực tới thị trường cổ phiếu trong ngắn hạn.
Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, điều này có tác dụng hút lượng tiền nhàn rỗi ngoài lưu thông về ngân hàng nhà nước. Nếu lạm phát tiếp tục tăng cao, việc nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng nhà nước từ 10% lên 15% chỉ còn là vấn đề thời gian, tỉ lệ này đã được điều chỉnh từ 5% lên 10%.
2.4.4. Tác động của lạm phát đến tín dụng ngân hàng
Lạm phát làm cho sức mua của đồng tiền giảm , tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên càng làm cho sức mua của đồng tiền giảm xuống nhanh chóng .Hoạt động của hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh, các ngân hàng thương mại chạy đua lãi suất tăng lãi suất tiền gửi.Trên thị trường hầu như chỉ có người đi vay chứ không có người cho vay, do chính sách thặt chặt tiền tệ của chính phủ. Gây ra thiếu nội tệ trên thị trường .Làm cho nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán , thua lỗ trong kinh doanh .Ngoài ra các ngân hàng nhỏ không có khả năng thanh khoản cao nên đẩy lãi suất cao , cao nhất trong những năm qua rồi vay lại trên thị trường liên ngân hàng , làm náo động thị trường .Tình hình đó làm cho hệ thống tiền tệ bị rối loạn và không kiểm soát nổi.
2.4.5. Tác động của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh
Do lạm phát giá cả hàng hóa nguyên liệu tăng làm cho việc sản xuất kinh doanh ngày càng giảm sút , dẫn tới sự phát triển không đồng đều , mất cân đối giữa các ngành.
Trong khu vực sản xuất công nghiệp, biểu hiện của tăng giá là sự gia tăng liên tục của một số yếu tố đầu vào, đặc biệt là sắt thép và xăng dầu. Giá đầu vào tăng đẩy chi phí giá thành, và do vậy khiến các công ty phải bán ở mức giá cao hơn, và do vậy khác hàng sẽ mua ít hơn. Một áp lực quan trọng nữa đối với giá thành của các doanh nghiệp là sức ép đòi tăng lương từ phía người lao động. Vì giá cả tăng cao nên nếu mức lương của người lao động vẫn giữ nguyên như cũ thì mức sống của họ sẽ bị giảm sút. Để duy trì mức sinh hoạt như cũ buộc phải có mức lương cao hơn. Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn ngân hàng để đầu tư và mở rộng kinh doanh cũng gặp phải khó khăn do lãi suất tiền vay có áp lực tăng. Nói tóm lại, khi mức giá trung bình của các sản phẩm tiêu dùng tăng cao, không chỉ những lĩnh vực tiêu dùng những sản phẩm có mức giá tăng nhanh mới bị ảnh hưởng, mà ảnh hưởng này có tính chất lan tỏa, tác động một cách toàn diện tới các lĩnh vực của sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng khác
2.4.6. Tác động của lạm phát tới tài chính nhà nước Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập chi ngân sách nhà nước qua cơ chế phân phối lại thu nhập và kể cả qua cơ chế phát hành .Nhưng ảnh hưởng nặng nề và lâu dài của lạm phát lại làm giảm nguồn thu của ngân sách , chủ yếu là thuế do sản xuất bị yếu kém nhiều doanh nghiệp, công ty bị phá sản , giải thể, Trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng lạm phát gây hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của một đất nước .Lạm phát làm cho quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho nhóm này kiếm được lợi lộc nhưng lại làm cho nhóm khác thiệt hại nặng nề , nhất là đối với người lao động.
2.5. Các chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ trong thời gian qua
Trong thời gian vừa qua chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là: Phấn đáu kiềm chế lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này.
Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Để thực hiện vấn đề này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiêm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Chính phủ cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
Bảy là, thực hiện các giải pháp, chính sách hỗ trợ người nghèo bị thiệt hại do thiên tai và do giá tăng đột biến trong thời gian qua; tiếp tục tập trung thực hiện các biện pháp hỗ trợ nông dân bị thiệt hại trong đợt rét đậm, rét hại vừa qua; hỗ trợ giải quyết một phần khó khăn cho sản xuất, đời sống nhân dân do điều chỉnh tăng giá, trước hết là đối với người nghèo, vùng miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác; biến khó khăn thành các thời cơ thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Tám là, các cấp các ngành, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải tích cực triển khai thực hiện tốt các chính sách và giải pháp chống lạm phát, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống đầu cơ tăng giá. Các phương tiện thông tin đại chúng phải đưa thông tin chính xác, tạo niềm tin, khí thế trong nhân dân về các tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế - xã hội bền vững của nước ta.
Nhận xét:
Trong tám giải chính phủ đã nêu lên, nhìn chung được đánh giá cao là trúng vấn đề và có quyết tâm, nhằm vào 3 cụm vấn đề (a) siết chặt tiền tệ, (b) loại bỏ đầu tư kém hiệu quả, (c) giảm sốc cho các biện pháp của chính phủ. Về cơ bản Việt Nam vẫn đang ở trong bối cảnh quốc tế thuận lợi.
Bây giờ tất cả phụ thuộc vào sự thực hiện, những vấn đề sau đây:
Tình hình khẩn cấp, kiến nghị nên có một cơ quan làm việc khẩn cấp, dưới dạng một “task forces” với sự giúp đỡ của một tập hợp cán bộ kỹ trị, có thể tham vấn ý kiến chuyên gia nước ngoài. Cơ quan này tùy sự lựa chọn của Thủ tướng. Nhóm này có chức năng: thực hiện tổng rà soát các vấn đề liên quan nhằm bảo đảm thực hiện 8 giải pháp, lên ngay chương trình hành động, trực tiếp chỉ huy thực hiện 8 giải pháp. Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia đảm nhận mặt trận riêng của nó trong cuộc chiến chung này song không thay thế được cơ quan chống lạm phát này.
Cơ quan này lên kế hoạch xét duyệt chương trình thực hiện 8 biện pháp của toàn thể các cấp Bộ, ngành, địa phương (cấp tỉnh) và các tập đoàn lớn, quyết định xử lý ngay những vấn đề lớn; trực tiếp hàng ngày đôn đốc và kiểm soát thực hiện chương trình 8 giải pháp của các ngành các cấp. Chương trình thực hiện 8 điểm này phải được coi như một "bộ Luật khẩn cấp".
Vận dụng bàn tay của kỹ trị tập trung chỉ đạo đưa tỷ giá trở về sát thị trường, kiểm soát chặt chẽ các dòng vốn theo hướng lái chúng vào sản xuất kinh doanh, làm thông suốt thị trường vốn. kiên quyết tách các tập đoàn kinh tế lớn ra khỏi gia đình chúng: (1) ngân hàng thương mại, (2) kinh doanh địa ốc. Nhà nước có thể tiếp tục cho phép các tập đoàn kinh doanh các ngành nghề khác với sản phẩm chính của tập đoàn tới mức 30% tổng vốn để khỏi trái Luật hiện hành. Trực tiếp kiểm soát gắt gao việc các doanh nghiệp và các địa phương thực hiện các biện pháp “giảm sốc”.
PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁP Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam
Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam là đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường nội địa. Xét về mặt tác dụng thì hướng về xuất khẩu không mâu thuẫn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho thay thế nhập khẩu. Bởi vì, các sản phẩm sản xuất ra, cho dù không đủ điều kiện để xuất khẩu thì cũng đã có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong nước, từ đó góp phần hạn chế nhập khẩu.
Vấn đề đặt ra là, mở rộng thị trường ngoài nước được thực hiện ra sao cho có thể kết hợp giữa thu hút vốn đầu tư bên ngoài, xuất khẩu và nhập khẩu, bảo đảm được quan hệ hài hoà giữa hai quá trình ưu tiên hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, kết hợp tốt lợi ích có được khi mở rộng thị trường ngoài nước với yêu cầu củng cố và phát triển thị trường trong nước. Giải pháp cho vấn đề này là: tất cả hàng hoá của ta đều phải có chất lượng cao, chi phí thấp, đạt trình độ xuất khẩu. Những hàng hoá đó nếu xuất khẩu sẽ mở rộng thị trường ngoài nước, nếu không xuất khẩu, sẽ cạnh tranh được với các hàng ngoại nhập, nhằm củng cố và phát triển thị trường trong nước.
Mở rộng thị trường ngoài nước là phù hợp với tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH hướng mạnh về xuất khẩu. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 là bước đầu quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 – Chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Một trong những mục tiêu của công nghiệp Việt Nam mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra là, tới năm 2010, giá trị xuất khẩu công nghiệp chiếm 70-75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Có mở rộng thị trường ngoài nước mới tận dụng được những lợi thế của Việt Nam so với các quốc gia khác.
Cần phải khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh của đất nước trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, làm cho sản phẩm của Việt Nam ngày càng gắn với thị trường thế giới, thu hút được nhiều vốn, tranh thủ được công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Căn cứ vào các nguồn lực phát triển của đất nước, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, Việt Nam có những lợi thế sau:
Về lao động: Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ. Nguồn nhân lực Việt Nam cần cù, thông minh, có khả năng tiếp thu công nghệ mới tương đối nhanh. Nguồn lao động của đất nước là một trong những lợi thế tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm Việt Nam.
Về tài nguyên: Tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam về đất đai, khí hậu, tài nguyên, sinh vật vô cùng đa dạng, và phong phú. Bờ biển nước ta dài 3260 km với nhiều đảo lớn nhỏ nhiều vùng vịnh và cảng biển. Đây là một lợi thế rất lớn và vô cùng quan trọng.
Về vị trí địa lý: Nằm trong khu vực châu á- Thái Bình Dương, Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi cho giao lưu quốc tế. Đây là một khu vực phát triển năng động của thế giới
Xuất khẩu có ý nghĩa lớn đối với các quốc gia có thu nhập thấp so mức trong khu vực và so với mức chung của thế giới. Trong bối cảnh hội nhập, không phải chỉ sản phẩm xuất khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước. Song, ở các nước đang và chậm phát triển, do có mức thu nhập thấp nên sức mua yếu, làm cho thị trường nội địa chật hẹp, không đủ trang trải cho các chi phí sản xuất các mặt hàng theo đúng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Điều này khiến sản xuất trong nước khó phát triển. Vì thế, mở rộng thị trường ngoài nước giúp cho các nước này lợi dụng thu nhập cao, thị hiếu đa dạng... của người nước ngoài để làm gia tăng nhu cầu về hàng hoá. Từ đó đẩy mạnh sản xuất ( tận dụng các nguồn lực, nguyên vật liệu sẵn có trong nước và rẻ hơn...) để đáp ứng nhu cầu đó. Chỉ có như vậy sản xuất trong nước mới có thể phát triển được.
3.2. Các giải pháp cần và đủ .
Tăng lượng cung tiền và tăng tín dụng chỉ là một trong các nguyên nhân gây ra lạm phát ở nước ta. Có xác định đúng nguyên nhân mới có thể có giải pháp đúng và giá phải trả cho kiềm chế lạm phát mới thấp.Chính sách thắt chặt tiền tệ như đang thực hiện có làm giá lương thực, giá xăng dầu giảm không. Từ đó, phải kết hợp đồng bộ các chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá cùng với việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, kể cả của doanh nghiệp nhà nước.
Thắt chặt tiền tệ: Bao gồm hạn chế lưọng tiền trong lưu thông (M2) và hạn chế mức tăng tín dụng. Tuy nhiên, thắt chặt quá mức sẽ hạn chế tăng trưởng đồng thời làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh. Nó sẽ đẩy giá thành và giá bán hàng hoá và dịch vụ lên, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu; việc làm cũng giảm.Vì vậy, theo ý chúng tôi, cần áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng mềm dẻo hơn so với các biện pháp đang áp dụng hiện nay. Ví dụ mở rộng thời gian mua trái phiếu theo từng đợt với hạn mức được chia nhỏ; quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng.
Chính sách tài khóa: Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. Mặt khác, cũng phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Đương nhiên, việc việc thắt chặt chi tiêu chính phủ và đầu tư công cũng không làm giảm sự tăng giá lương thực thực phẩm, giá xăng dầu. Sự kết hợp hài hoà giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ là để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm.
Sử dụng công cụ tỉ giá: Đây là một giải pháp cần được tính đến. Tuân thủ nguyên tắc tỉ giá hối đoái giữa đồng USD và VND phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ. Theo đó, nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ giá lương thực hiện đang tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới.
Trong bối cảnh lạm phát đang thao túng thị trường, để đạt được và duy trì sự cân bằng cho những yếu tố nêu trên, cần ngay một chính sách và công cụ kiểm soát lạm phát mới, đã được sử dụng tại nhiều nước tiến bộ cũng như đang phát triển hay chậm tiến. Nó được gọi là “Inflation Targeting’’, tạm dịch là chính sách ‘’xác định hạn mức lạm phát”.
"Xác định hạn mức lạm phát" là một chính sách tiền tệ mới, được đưa ra sử dụng gần đây, gồm có nhiều đặc điểm:
+ Chính phủ công bố các hạn mức lạm phát có thể chấp nhận được trong khoảng thời gian trung hạn;
+ Việc cam kết ổn định giá của Chính phủ được lấy làm mục tiêu cho chính sách tiền tệ và tất cả các mục tiêu khác sẽ được coi là thứ yếu;
+ Chiến lược về chính sách tiền tệ trên đây được thông báo đầy đủ cho công chúng và các thị trường (chứng khoán, tiền tệ, tài chính, hối đoái, v.v.). Các quyết định về mục tiêu, chương trình hành động của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương hay Nhà nước, các tổ chức tài chính tiền tệ, phải được công khai minh bạch trên các kênh thông tin đại chúng;
+ Quy định trách nhiệm rõ ràng của Ngân hàng Trung ương hay Nhà nước về việc duy trì hạn mức và mục tiêu kiềm chế lạm phát;
+ Chiến lược thông tin sử dụng mọi chính sách vĩ mô về tiền tệ, hối đoái... để đưa ra được các công cụ kiểm soát lạm phát.
Để góp thêm vào việc ổn định kinh tế, giúp phát triển bền vững, Chính phủ cần giảm bớt một số lệ thuộc hay ràng buộc, đặc biệt là tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào một ngoại tệ, như tình trạng đôla hóa hiện nay của nền kinh tế Việt nam. Các biến đổi về tỷ giá trong thị trường ngoại tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp và tức thời trên nền kinh tế và trên doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước tạo nên các làn sóng lạm phát khi các doanh nghiệp này tăng giá bán ra để bù vào chi phí chuyển đổi hay mua bán ngoại tệ. Chính phủ cũng cần giảm thiểu sự áp đảo của các tập đoàn kinh tế hay Tổng công ty Nhà nước trên thị trường tài chính cũng như ngân hàng. Việc này tạo nên sự mất cân đối trong kinh tế, làm giảm sự tin tưởng của người dân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hay khu vực tư nhân vào chính sách vĩ mô của Chính phủ.
Những giải pháp cụ thể cần thiết
+ Đấu thầu và cho thuê là hình thức chủ yếu để thu hẹp khu vực kinh tế quốc doanh.
+ Thành lập các hội đồng đấu thầu trung ương và địa phương, Hội đồng này có nhiệm vụ xác định danh mục các cơ sở kinh tế quốc doanh phải thu hẹp, phải đưa ra đấu thầu (trước hết là các xí nghiệp nhỏ , các cơ sở nghiệp vụ, thương nghiệp bán lẻ.) Kiểm kê giá trị tài sản của các cơ sở đó, xác định mức giá đấu thầu tối thiểu, lập bản thông báo về tình hình kinh doanh của xí nghiệp, tìm người đấu thầu và tổ chức đấu thầu. Có thể áp dụng hình thức bán đấu thầu toàn bộ xí nghiệp hoặc một phần. Với hình thức này nhà nước chuyển quyền sở hữu cho tập thể và tư nhân.
+ Có thể không bán đấu thầu mà cho thuê các cơ sở kinh doanh, trong hình thức này nhà nước vẫn là chủ sở hữu.
+ Những người tham gia đấu thầu hoặc thuê gồm đủ các thành phần kinh tế - quốc doanh, tập thể, tư nhân, tư bản nước ngoài hoặc Việt kiều, nghĩa là bất kì ai có thể cải tổ cơ sở đó để làm ăn có lãi
Giá đấu thầu về nguyên tắc phải theo giá thị trường có trích khấu hao, có tính phần trăm khuyến khích những người đấu thầu nhận thầu.
+ Những cơ sở được đấu thầu có thể xem xét miễn thu thuế trong thời hạn 3-6 tháng để họ cải tổ xí nghiệp
+ Những người nhận thầu có quyền tiệp nhận hoặc không tiếp nhận các cán bộ công nhân của cơ sở đó, nhà nước phải chuyển họ thành cán bộ công nhân của khu vực tập thể hoặc tư nhân ( đảm bảo các quyền lợi chính đáng cho họ trong thời gian đã làm cho nhà nước) đồng thời thực hiện chính sách trợ cấp xã hội đối với những cán bộ công nhân trong thời gian chờ đợi bố trí công việc mới .
+ Những người nhận thầu có toàn quyền sắp xếp lại bộ máy điều hành quản lý xí nghiệp, sắp xếp nhân sự
+ Các tổ chức đảng và đoàn thể quần chúng ở đây chỉ làm chức năng lãnh đạo chính trị tư tưởng
+ Chính quyền các cấp không được can thiệp vào hoạt động kinh doanh hợp pháp của họ
+ Một vấn đề đặt ra là : liệu có người đứng ra đấu thầu các cơ sở quốc doanh yếu kém không . Chắc chắn là số người tham gia đấu thầu lúc đầu sẽ rất ít, vì họ còn bỡ ngỡ, chưa tin và không có vốn. Nhà nước cần tạo điều kiện, khuyến khích những người có năng lực đứng ra đấu thầu, hỗ trợ cho họ về tài chính , về kỹ thuật về điều kiện kinh doanh .Chúng ta đã có thể quốc doanh hóa được một nền kinh tế lạc hậu, thì cũng có thể thu hẹp nó lại được, mặc dù đó là công việc rất phức tạp.
+ Công ty cổ phần các loại sẽ là hình thức kinh doanh phổ biến trong nước
+ Cần nghiên cứu cơ chế vận hành của các công ty cổ phần hiện có trên thế giới và từ đó thiết kế ra các mô hình công ty cổ phần đa thành phần, trong đó thành phần quốc doanh là chính cũng có thể hợp tac xã và tư nhân là chính; các công ty cổ phần chuyên ngành là chính, hay kinh doanh tổng hợp là chính .
+ Do có sự xuất hiện của các công ty cổ phần nên cần tính đến việc thành lập các thị trường chứng khoán, trước mắt là các cơ sở giao dịch – giúp cho việc lưu thông chứng khoán, di chuyển vốn từ các cơ sở hiệu quả sang các cơ sở có hiệu quả cao hơn.
+ Cần ban hành một đạo luật về công ty cổ phần và bảo vệ quyền tư hữu, kinh doanh của các công dân.
3.3. Các đề xuất kiến nghị
- Giới hạn chức năng của ngân hàng quốc gia Việt Nam trong 4 chức năng chủ yếu sau: phát hành tiền tệ; dự trữ tiền tệ; cấp tín dụng lớn với lãi suất chỉ đạo; nhận ký thác tiền.
- Chức năng kinh doanh tiền tệ trao cho các ngân hàng kinh doanh, cho phép các thành phần kinh tế được mở ngân hàng kinh doanh kể cả tư nhân và được phép kinh doanh cả vàng và ngoại tệ.
- Tỷ giá đồng tiền của ta với các đồng tiền khác được xác định theo giá thị trường, thay đổi hàng ngày, do các ngân hàng kinh doanh quyết định dưới sự kiểm soát và điều tiết của ngân hàng quốc gia
- Ban hành ngay một đạo luật về tiền tệ và tín dụng quy định từ nay các ngân hàng phải có trách nhiệm bảo vệ quyền tư hữu giá trị tài sản của công dân gửi tiền vào ngân hàng, quy định viêc đổi tiền phải được tiến hành công khai và bảo vệ giá trị tài sản bằng tiền của các công dân khi đổi tiền
- Về vấn đề xác định giá cả:
Điều quan trọng trong việc xác định giá cả là phải có 1 cơ chế định giá sao cho giá cả có thể phản ánh được chi phí kinh doanh, cung cầu, giá trị tiền tệ và có tác dụng khuyến khích các hướng kinh doanh có hiệu quả. Cơ chế nhà nước định giá hiện nay dù đã phân quyền bớt cho các bộ và chính quyền các địa phương vẫn không đáp ứng được các yếu cầu trên. Tính quan liêu và hành chính trong việc định giá không giảm mà tăng lên, chỉ khác là căn bệnh này chuyển từ trung ương xuống các cấp dưới. Các cơ sở kinh doanh chưa có quyền định giá .Do vậy cơ chế định giá, theo chúng tôi phải cải tổ theo hướng :
Trao quyền định giá cho những người kinh doanh và tiêu dùng, chứ không phải là cho các bộ và uỷ ban nhân dân địa phương, nhà nước chỉ định một số giá.
Để ngăn chặn tình trạng độc quyền định giá nâng giá, phải mở rộng cạnh tranh,mà giá cả sẽ hạ xuống.
Việc ổn định giá cả từng đợt rồi lại tăng giá , nếu bằng cách đó mà ép được các xí nghiệp giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu qua thì đó là biện pháp lý tưởng. Nhưng thực tế những năm qua cho thấy , những đợt ổn định giá rồi bất ngờ tăng giá vùn vụt đã gây ra những “cơn co giật” bất thần của nền kinh tế, vừa không ép được các xí nghiệp nâng cao hiệu quả kinh tế , vừa đẩy họ vào tình trạng bế tắc và phải đối phó với nhà nước. Do vậy, không nên áp dụng biện pháp này nữa. Hơn nữa khi trao quyền định giá cho những người kinh doanh và tiêu dùng, họ sẽ không làm như vậy.Các nước TBCN cũng đã từng áp dụng biện pháp “đông giá”, nhưng khi tăng giá, họ cũng chỉ dám tăng 5-10% chứ chưa có nước nào mỗi đợt tăng giá lại cao tới 2-3 lần như nước ta. Biện pháp chủ yếu ngăn việc tăng giá là giảm việc ném tiền vào lưu thông.
Vai trò kiểm soát và điều tiết giá cả của nhà nước rất quan trọng . Nhà nước phải có trách nhiệm thông báo về tình hình giá cả trong nước và thế giới hàng ngày, xác định các chính sách kiểm soát và điều tiết thông qua chế độ thuế , thông qua các biện pháp chống đầu cơ và ấn định một số giá.
- Về chế độ tiền lương phải được cải tổ theo hướng:
Nhà nước chịu trách nhiệm trả lương cho bộ máy hành chính, an ninh, quốc phòng, y tế, giáo dụcvà tạm thời nâng mức lương của họ lên mức tối thiểu và điều chỉnh mức đó cùng với lạm phát. Còn những người làm việc trong các xí nghiệp kinh doanh , do các xí nghiệp đó tự trả, xoá bỏ chế độ bao cấp qua lương
Nhà nước chuyển phần chi cho một số quỹ phúc lợi xã hội như : giáo dục, y tếvào quỹ lương và mọi công dân phải trả các phí giáo dục và y tế..Thành lập các công ty kinh doanh bảo hiểm sức khoẻ, việc làm.Thành lập quỹ từ thiện và cứu tế xã hội có thể của nhà nước, cũng có thể của tư nhân. Ban hành chính sách thuế thu nhập để điều tiết các thu nhập bất hợp lý. Nghiên cứu thi hành chính sách xoá bỏ bao cấp về nhà ở và các bất động sản khác.
- Về chính sách tài chính:
- Cần cải tổ công tác tài chính theo hướng tăng thu giảm chi nuôi dưỡng và phát triển các nguồn thu và giảm các nhu cầu chi.Những biện pháp cần chú ý :
+ Chấm dứt việc phát hành tiền bù cho bội chi cho ngân sách. Thiếu hụt trong ngân sách chỉ được bù bằng cách nhà nước phải vay các ngân hàng và nhân dân với lãi suất cao hơn mức lạm phát
+ Cải tổ các hệ thống thuế sao cho người tự kiểm soát lẫn nhau và buộc nhau phải nộp thuế cho nhà nước, nên đánh thuế thu nhập.
+ Tính đến việc thu phí giáo dục, y tế giải trí, sách báo văn nghệ
+ Thu về chênh lệch hối suất.
- Theo ước tính tổng số tăng thu này có thể lên tới 722 tỷ.Ta cứ giả định là chỉ tăng thu được một nửa thì đã là 361 tỷ vượt quá mức thiếu hụt ngân sách. Các biện pháp giảm chi có thể kể ra là :
+ Giảm chi bù giá lương thực; nếu nhà nước không bù giá lương thực cho những người làm trong khu vực sản xuất mà giao cho các xí nghiệp phải bù (60% lao động) , đã có thể giảm chi khoảng 177 tỷ.
+ Nếu chuyển được 20% lao động thuộc khu vực nhà nước sang cho các khu vực khác, đã giảm được khoảng 1.3 triệu lao động, do vậy giảm chi cho quỹ lương khoảng 300-400 tỷ.
+ Giảm chi cho thu mua lương thực, nhà nước hàng năm phải chi cho thu mua lương thực cả trăm tỷ .Để giảm khoản chi này, nhà nước phải bãi bỏ chế độ độc quyền kinh doanh lương thực. Nhà nước chỉ tạm giữ độc quyền kinh doanh việc nhập khẩu lương thực, còn việc mua bán lương thực trong nước sẽ trao cho các thành phần kinh tế tham gia. Để điều tiết giá lương thực, nhà nước phải có 1 số lương thực dự trữ và có 1 chính sách trợ giá. Nhà nước trợ giá để giữ giá thị trường, chứ không tìm giá thoát ly khỏi giá thị trường. Nhà nước phải thi hành chính sách bù giá vào lương thực , khi giá gạo tăng, chứ không nên thi hành chính sách 2 giá
+ Giảm chi tiêu quốc phòng, an ninh và các chi tiêu cho khu vực hành chính, thi hành chính sách tiết kiệm chống tham ô lãng phí
- Để cho các khu vực kinh doanh có hiệu quả của nền kinh tế nước ta có thể mở rộng và thu hẹp được các khu vực kinh doanh kém hiệu quả, phải có các quy định cho phép tự do di chuyển lao động và tiền vốn .Chính sách hộ khẩu, bao cấp lương thực, cấp giấy phép kinh doanh “hiện hành” ở nước ta đang cột chặt người lao động vào một cơ sở, ở một địa phương, tiền vốn cũng bị chôn chặt ở một chỗ. Người lao động hay các chủ kinh doanh thấy bị chèn ép, kinh doanh kém hiệu quả cũng không thể chuyển đi chỗ khác. Do vậy, họ đành kéo dài tình cảnh làm việc kém hiệu quả. Chính quyền địa phương và lãnh đạo cơ sở kinh doanh không bị một sức ép kinh tế nào đòi phải cải tổ . Để chấm tình trạng này, có thể áp dụng các biện pháp sau :
+ Bãi bỏ chế độ hộ tịch hiện hành, cho phép mọi công dân chỉ cần có giấy chứng minh thư có đủ quyền cư trú và kinh doanh ở mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Giấy phép kinh doanh sẽ cấp cho mọi công dân, chỉ cần họ phải thường trú ở nơi kinh doanh .
+ Vốn của mọi công dân được phép tự do di chuyển từ công ty này sang công ty khác, từ địa phương này sang địa phương khác.
+ Mọi người lao động có quyền chuyển nơi công tác, khi họ có yêu cầu.
- Lập quỹ dự trữ tài chính và hàng hóa. Để tiến hành chương trình chống lạm phát này, cần lập 1 quỹ dự trữ tài chính và hàng hóa để ứng phó với những tình thế cấp bách xảy ra do thực thi các giải pháp trên. Quỹ này có thể vay từ các nước XHCN, có thể vay của các tổ chức quốc tế và chủ yếu là bằng cách vay của nhân dân với lãi suất cao hơn lạm phát. Bộ tài chính có thể phát hành công trái thời hạn 1 năm với mức lãi suất cao hơn lạm phát.
KẾT LUẬN
Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Lạm phát là hệ quả tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân. Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước cũng phải áp dụng nhiều giải pháp tổng hợp để giá phải trả cho việc chống lạm phát là thấp nhất. Hơn nữa, chống lạm phát thường là sự khảo nghiệm thực chứng. Vì vậy, “trên phương hướng đúng cứ làm đi rồi thực tiễn sẽ cho thấy dần”. Điều quan trọng là thường xuyên theo dõi, đánh giá phản ứng của thị trường để kịp thời điều chỉnh đi đôi với việc hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường.
Giờ đây, cần phải thiết lập được sự cân bằng giữa (1) nhu cầu phát triển kinh tế bền vững, (2) việc sử dụng các chính sách và công cụ mới để kiểm soát lạm phát, (3) sự có mặt và tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong việc kiểm soát lạm phát, (4) việc tái cấu trúc hay tái xác định chiến lược phát triển và cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước hay có vốn của nhà nước, và đặc biệt (5) việc quản lý vĩ mô minh bạch có giám sát và điều chỉnh của Chính phủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] TS. Nguyễn Trọng Hoài ( Khoa kinh tế phát triển) : Ảnh hưởng của lạm phát đến sản xuất và tiêu dùng , Ổn định lạm phát
[2] Báo cáo công tác của chính phủ , thủ tướng chính phủ nhiệm kỳ 2002-2007
[3] Tăng trưởng và phát triển kinh tế ; Trường đại học kinh tế quốc dân
[4] PGS.TS. Trần Ngọc Thơ và TS. Nguyễn Ngọc Định ; Giáo trình sách tài chính quốc tế
[5] Nguyễn Thị Thu ; Lạm phát cơ bản từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam
[6] Trương Quang Hùng & Nguyễn Hoài Bảo ; Nhìn lại lý thuyết truyền thống về lạm phát và phân tích trường hợp Việt Nam
[7] Thời báo kinh tế Sài Gòn
[8] Báo tuổi trẻ online
[9] www.vneconomy.com.vn
[10] www.thanhnien.com.vn
[11] www.saga.vn
[12] www.sggp.org.vn
[13] www.tuoitre.com.vn
[14] www.eps.com.vn
[15]
[16]
[17] www.Sbv.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lam_phat_co_anh_huong_toi_tat_ca_cac_doi_tuong_tu_nguoi_tieu_dung_doanh_nghiep_den_chi_tieu_tang_tru.doc