Hầu hết các bài n ghiên cứu đều cho là chế độ lạm phát mục tiêu có lợi ích quan trọng
cho cả hai nước phát triển và đan g phát triển. Việc thực thi chế độ này có tác dụn g tích cực
đối với tăng trưởng kinh tế cho tất cả các nước theo lạm phát mục tiêu. Vì vậy, không có
ngạc nhiên khi nhiều quố c gia từ cả các nước ph át triển và đan g phát triển thông qua chế độ
lạm phát mục tiêu trong nhữn g năm tới.
Để thực h iện đước ch ế độ lạm phát mục tiêu hiệu quả thì phải có nhữn g điều kiện nhất
định hay phải có sự đánh đổi là là một mức độ độc lập của ch ính sách tiền tệ và không có
cam kết một mức cụ thể cho tỷ giá hối đoái.
19 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3173 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lạm phát mục tiêu (inflation targeting), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
1
Tiểu luận
LẠM PHÁT MỤC TIÊU
(INFLATION TARGETING)
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
2
ĐỀ TÀI :
LẠM PHÁT MỤC TIÊU
(INFLATION TARGETING)
I. Giới thiệu:
1. Lạm phát m ục tiêu “xuất hiện” như thế nào?
Đối với mỗi quốc gia, lạm phát không chỉ được coi là vấn đề kinh tế mà còn là vấn
đề xã hội rất ngh iêm trọng do những tác động mạnh mẽ của nó đến đời sống xã hội. Một
nền kinh tế có lạm phát ở mức cao, bên cạnh việc giá cả bị bóp méo sẽ dẫn đến sụt giảm
tiết kiệm, sụt giảm đầu tư, kích thích việc chuyển hướng nguồn vốn vào các tài sản nước
ngoài, kim loại quý, hay bất độn g sản. Ngoà i ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng trưởng
kinh tế và tạo nên sự căng thẳng về chính trị và xã hội.
Do kinh n ghiệm và sự thuận tiện, hầu hết các nước trên thế giới điều hành CSTT
thông qua điều chỉnh các mục tiêu trung gian như khối lượng tiền hay tỷ giá. T uy nhiên,
vào những năm 1990, một số nước công n ghiệp phát triển đã bắt đầu tập trung vào chỉ số
lạm phát trong quá trình điều hành CSTT. Nghĩa là, họ tập trung vào kiểm soát lạm phát
(được gọi là lạm phát mục tiêu - Inflation targeting). Đây là một cơ chế điều hành CSTT
mới, đi đầu áp dụng nó là NHTU New ZeaLand (năm 1990), sau đó là hàng loạt các nước
khác thực hiện nh ư: Canada (năm 1991), Vương quốc Anh (năm 1992), Phần lan, Thụy
Điển (1993) và Australia (cùng năm 1993), Tây Ban Nha (1994)... Tại châu Âu có Thụy
Sỹ, Na Uy, IreLand đã công bố về việc chuyển đổi sang lạm phát mục tiêu trong điều hành
CSTT của mình. Nước đầu t iên trong các n ước đang phát triển áp dụng lạm phát mục tiêu
là Ch ilê, sau đó đến Brazin và Israel. Các nước khác: Cộng hoà Séc, Ba Lan và từ tháng
06/2001 có Hungari.
Vậy tại sao các quốc gia trên lựa chọn lạm phát mục tiêu? Trước tiên, việc ổn định
giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát thấp là đóng góp chính cho CSTT làm cho tăng trưởng kinh
tế. Và như vậy, Khi NHTU các nước thực h iện CSTT mở rộng để mau chóng đạt được
một vài mục tiêu (nh ư tạo thêm việc làm, tăng trưởng kinh tế… ) sẽ dễ dẫn đến gia tăng
lạm phát, làm cho giá cả bất ổn định. Điều này vi phạm nguyên tắc ổn định giá cả. Biện
pháp thông thường để kiềm chế lạm phát là NHTU thực hiện tăng lãi suất, tuy nhiên hành
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
3
động này sẽ phải hứng chịu nhiều chỉ trích và áp lực từ xã hội hơn là việc làm giảm lãi
suất để k ích thích các hoạt độn g k inh tế. Về nguyên tắc, áp dụng lạm phát mục tiêu có
nghĩa là x em mục tiêu giảm lạm phát là cao hơn so với các m ục tiêu khác của CSTT ( sản
lượng, việc làm …). Nó buộc NHTU nhìn về phía trước, hy sinh các mục tiêu khác trước
khi áp lực lạm phát trở nên nghiêm trọng. Lạm phát mục tiêu có nghĩa là các cơ quan có
thẩm quyền về tiền tệ xác định rõ ràng lạm phát mục tiêu và thiết lập các thể chế chính x ác
để đạt được mục tiêu này.
Lạm phát mục tiêu rất minh bạch, ít nhất là trong lý thuyết. NHTU dự báo xu hướng
tương lai của lạm phát, dự báo được so sánh với tỷ lệ lạm phát mục tiêu (tỷ lệ lạm phát
chính phủ thấy thích hợp cho nền kinh tế); sự khác biệt giữa dự báo và tỷ lệ lạm phát mục
tiêu sẽ xác định CSTT được điều chỉnh như thế nào. Các nước đã áp dụng lạm phát mục
tiêu tin rằng v iệc này có thể cải thiện cách thiết kế và thực hiện chính sách tiền tệ so với
cách thông thường được theo dõ i bởi NHTU.
(Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano, và Sunil Sharma, năm 1998).
“Lạm phát mục tiêu đã trở nên ngày càng phổ biến t rong thập kỷ qua. Là một khuôn
khổ chính sách t iền t ệ danh n ghĩa với một cam kết côn g khai và rõ ràng để duy trì kỷ luật
kinh tế, lạm phát mục tiêu đang được quảng cáo là một khuôn khổ chung trong giảm và
kiểm soát tỷ lệ lạm phát, cải thiện khả năng dự đoán, trách nhiệm và minh bạch”.
(Sheridan, 2001).
2. Những yêu cầu cần có để thực hiện được lạm phát mục tiêu?
Nguyên tắc khi thực hiện Lạm phát mục tiêu: Thứ nhất, NHTƯ cần có một mức độc
lập tương đối để thực thi CSTT, m ặc dù không có một NHTƯ nào có thể hoàn toàn độc
lập khỏi sự ảnh hưởng của chính phủ. NHTƯ cần phải được tự do lựa chọn các công cụ để
đạt được tỷ lệ lạm phát mục tiêu trong giới hạn cho phép. Để thực hiện yêu cầu này, các
vấn đề thuộc chính sách tài khoá không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến CSTT, các
khoản vay từ NHTƯ của chính phủ phải ở mức thấp nhất. Ngoài ra, chính phủ phải có cơ
sở nguồn thu rộng rãi và không phải tăng nguồn thu từ việc phát hành thêm tiền. Nếu chi
phối về mặt tài khoá tồn tại thì chính sách thuế khoá, chính sách phát hành tiền, hoặc việc
Chính phủ yêu cầu NHTƯ giảm lãi suất để tăng thuế… sẽ gây áp lực đến lạm phát và làm
vô hiệu hoá hiệu quả của CSTT. Thứ hai, NHTƯ phải có khả năng thực hiện lạm phát mục
tiêu v à không có trách nhiệm với các m ục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay
tỷ giá. Ví dụ, nếu một quốc gia duy trì chế độ tỷ giá cố định, trong điều kiện các luồng vốn
dịch chuyển mạnh nh ư h iện nay thì không thề cùng một lúc thực hiện được lạm phát mục
tiêu. Hơn nữa là khi NHTƯ duy trì cùng lúc ha i hay nhiều mục tiêu thì khi thị trường xấu
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
4
đi, không biết mục tiêu nào sẽ được ưu tiên thực hiện. Ví dụ, khi xuất hiện mối đe doạ đến
tỷ giá, NHTƯ buộc phải lựa chọn: hoặc duy trì tỷ giá cố định, từ bỏ m ục tiêu lạm phát;
hoặc bảo vệ chính sách lạm phát mục tiêu, hy sinh tỷ giá cố định.
Sau khi thỏa mãn hai yêu cầu cơ bản, một quốc gia có thể, t rong lý thuyết, thực h iện
chính sách t iền tệ tập t rung vào lạm phát mục tiêu. Trong thực tế, các cơ quan có thẩm
quyền cũng phải thực hiện các bước sơ bộ nhất định. Họ phải thiết lập các mục tiêu định
lượng rõ ràng cho lạm phát cho một số thời kỳ trước. Họ phải ch ỉ ra rõ ràng và không mập
mờ cho công chúng rằng việc đạt đến lạm phát mục tiêu được ưu tiên hơn tất cả các mục
tiêu khác của chính sách tiền tệ. Họ phải thiết lập một mô hình hoặc phương pháp dự báo
lạm phát mà sử dụng một số các chỉ số có chứa thông tin về lạm phát trong tương lai. Cuối
cùng, họ phải nghĩ ra một thủ tục điều hành hướng tới tương lai trong đó công cụ chính
sách tiền tệ được điều ch ỉnh phù hợp với đánh giá của lạm phát trong tương lai để đạt các
mục tiêu lựa chọn. Các cơ quan tiền tệ phải có năng lực kỹ thuật để mô hình hoá và dự báo
lạm phát, biết độ trễ của thời gian giữa việc điều chỉnh các công cụ tiền tệ và ảnh hưởng
của ch úng trên tỷ lệ lạm phát, và có m ột cái nhìn đầy đủ thông tin về hiệu quả tương đối
của các công cụ chính sách t iền tệ xử lý của họ.
II. C ác nghiên cứu xung quanh việc thực hiện lạm phát mục tiêu:
1. Tác động của lạm phát mục tiêu lên nền kinh tế như thế nào?
Trong số các n ghiên cứu trước đó về chế độ lạm phát mục tiêu, Svensson (1997)
tuyên bố rằng chế độ này giúp giảm tính biến thiên của lạm phát và lập luận rằng nếu
chế độ IT linh hoạt h ơn thì nó cũng có thể giúp trong việc ổn định năng suất. Bernanke
et al.(1999) phác thảo vai trò của chế độ lạm phát mục tiêu tron g v iệc neo kỳ vọng lạm
phát của công chúng, tuyên bố rằn g chế độ này cung cấp một kế hoạch rõ ràng và chỉ
đạo cho các nhà ho ạch định chính sách tiền tệ. Điều này sẽ giúp ổn định lạm phát.
Mishkin (1999) lập luận r ằng các quốc gia theo lạm phát mục tiêu quản lý để giảm cả
lạm phát hiện tại và kỳ vọng quá mức mà có thể đạt được trong sự v ắng mặt của chế độ.
King (2002) cho thấy rằng tỷ lệ lạm phát tại các quốc gia lạm phát mục tiêu không chỉ
thấp hơn, mà còn ít biến động. Neumann và Hagen (2002) lập luận rằng chế độ lạm
phát mục tiêu giúp các quốc gia với nền kinh tế kém để bắt kịp, vì nó thúc đẩy sự hội tụ
giữa các nước. Johnson (2002) sử dụng một mẫu của 5 nước phát triển lạm phát m ục
tiêu và 6 nước phát triển không theo lạm phát mục tiêu, và tìm thấy rằn g chế độ lạm
phát mục tiêu làm giảm lạm phát kỳ vọng. Tanuwi djaja và C hoy (2006) sử dụng một
mô hình vĩ mô nhỏ để đoán xu hướng cho n ền kinh tế Indonesia và đề n ghị rằng bằng
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
5
cách công bố một mục tiêu lạm phát, Ngân hàng Indonesia (BI) có thể lấy được độ tin
cậy giúp làm giảm và ổn định lạm phát .
Gần đây, Goncalves và Salles (2008) sử dụng các dữ liệu cho 36 nước đang p hát
triển (trong đó có 13 theo lạm phát mục tiêu) trong giai đoạn 198 0-2005 và cho thấy
rằng các quốc gia theo lạm phát mục tiêu có mức giảm lớn hơn trong tỷ lệ lạm phát và
biến độn g của tỷ lệ tăng trưởng GDP. Kết quả của họ ngụ ý rằng các chế độ lạm phát
mục tiêu có thể có ảnh hưởng đáng kể h ơn vào nền kinh tế v ĩ mô của các nước đang ph át
triển hơn so với những n gười phát triển, đơn giản ch ỉ vì các nước sau n ày không bắt đầu
với lạm phát nghiêm trọng.
Civicir và Akcaglayan (2010) sử dụng một phương trình phản ứng tổng quát cho
các Ngân hàn g Trung ương của n ước Cộn g hoà Thổ Nhĩ Kỳ (CBRT) và lập luận r ằng
việc thực hiện chế độ lạm phát mục tiêu đã tăng độ tin cậy của CBRT. Các tác giả kết
luận r ằng lạm phát mục tiêu đáng tin cậy có thể neo kỳ vọng lạm phát và làm giảm tỷ giá
vào lạm phát
Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác, nghi ngờ về những lợi ích của chế độ lạm phát
mục tiêu. Sử dụng một mẫu của 20 nước phát triển theo và không theo lạm phát m ục
tiêu, B all và Sheridan (2005) cho thấy tỷ lệ lạm phát suy giảm ở các nước không theo
lạm phát mục tiêu cũng như các quốc gia theo lạm phát mục tiêu. Do đó , họ kết luận
rằng lý do của sự sụt giảm trong tỷ lệ lạm phát không ph ải là việc thôn g qua các chế độ
lạm phát mục tiêu, mà đó ch ỉ đơn giản là có nghĩa là sự quay l ại lạm phát trước đây. Sử
dụng các dữ liệu cho 7 quốc gia công nghiệp thông qua chế độ lạm phát mục tiêu trong
những năm 1990, Lin và Ye (2007) lập luận rằng chế độ lạm phát mục tiêu không có tác
động đáng kể đến tỷ lệ lạm phát hoặc biến động. Sims (2005) cho thấy rằng chế độ lạm
phát mục tiêu có thể có hại hơn là hữu dụng, nếu có m ột cơ hộ i đáng kể mà các ngân
hàng trung ương sẽ không thể k iểm soát đường đi của lạm ph át.
Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano, and Sunil Sharma (1998) cho thấy
rằng các nước (Canada, New Zealand, Thụy Điển, Anh, Phần Lan, và Tây Ban Nha) có áp
dụng lạm phát mục tiêu (trong năm 1988-92) đã làm giảm tỷ lệ lạm phát nhiều hơn so v ới
các nước công nghiệp lớn và kể từ đó họ duy trì mức độ lạm phát tương đương với các nền
kinh tế công n gh iệp lớn. Hiệu quả của v iệc thực hiện lạm phát mục tiêu cho thấy rằng cách
việc sử dụng lạm phát mục tiêu rất hữu ích cho những quốc gia vốn thiếu uy t ín trong việc
chống lạm phát.
Mặc dù lạm phát đã giảm, nhưng kèm theo nó là tỷ lệ thất nghiệp cao hơn ở hầu
như cả bảy nước. (1 thất bại của IT ). So sánh tỷ lệ thất nghiệp ở các quốc gia có sử dụng
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
6
lạm phát mục tiêu với các nước côn g n ghiệp lớn cho thấy rằng tỷ lệ thất ngh iệp trung bình
tăng đáng kể trong những năm 1990, nhưng từ năm 1994 có xu hướng trở lại hướng tới
mức độ của các nước côn g n ghiệp lớn.
Alan Bollard andO zer Karagedikli Alan Bollard and Ozer Karagedikli (2006) đề
cập đến các tính năng của phương pháp tiếp cận mục tiêu lạm phát của New Zealand.
Những tính năng này được ràng buộc ch ặt chẽ vào các cơ cấu lập pháp của Ngân hàng Dự
trữ Luật New Zealand (1989). Kinh nghiệm của New Zealand thi thực thi lạm phát mục
tiêu đã thành côn g lớn, mặc dù không phải là không có những thách thức. Tuy nh iên, có
nhiều thay đổ i từ kh i bắt đầu thực thi lạm phát mục tiêu về vấn đề làm thế nào để quản lý
chính sách : Mục tiêu lạm phát của New Zealand đã được thay đổi trong phạm vi từ 0-2%
thành 1-3 %, ghi nhận những rủi ro giảm phát và các vấn đề khác. Ngoài lạm phát thấp,
nền kinh tế New Zealand cũng đã đạt được tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp.
Các hình thức lạm phát mục tiêu đi tiên phong của Ngân h àng Dự trữ New Zealand
đã được áp dụng ở nhiều nước trong nh ững năm qua. Mặc dù có nhiều sự khác biệt trong
các quốc gia khác nh au tron g quá trình thực h iện chính sách lạm phát mục tiêu, có hai
điểm chính mà New Zealand tiếp tục khác biệt. Đầu tiên là quá trình ra quyết định của
New Zealand, nơi Thống đốc là người quyết định duy nhất. Tuy nhiên, mặc dù Thống đốc
ra quyết định cuối cùng duy nhất, vẫn có một Ủy ban cố vấn đưa ra lời khuyên bằng văn
bản cho Thống đốc. Mặc dù này tư vấn Ủy ban không được yêu cầu của Đạo luật, nó đã
được thực hiện. Sự khác biệt thứ hai là mức độ minh bạch cao. Đặc biệt trong việc công
bố những tài liệu theo dõ i tỷ lệ lạm phát của NewLand, Ngân hàng Dự trữ New Zealand
có thể được mô tả như là một trong những NHTƯ minh bạch nhất trong số nước áp dụng
lạm phát mục tiêu.
Raghbendra Jha (2008) đánh giá các việc thực hiện lạm phát m ục tiêu ở Ấn Độ, bắt
đầu bằng cách nêu rõ các m ục tiêu của chính sách t iền tệ tại Ấn Độ và lập luận rằng kiểm
soát lạm phát không thể là một mối quan t âm riêng của chính sách tiền tệ khi vẫn còn h iện
diện của sự đó i n ghèo lan rộng.
Các chính sách t iền tệ ở Ân Độ đang bị giới hạn bởi:
Tự do hóa thị trường tài chính chưa hoàn chỉnh nên sự tác động của lãi suất là
không đầy đủ. Hơn n ữa hệ thống ngân h àng có yếu tố độc quyền mạnh mẽ và ch ính
phủ sở hữu cổ phần áp đảo... Sự phát triển của đội ngũ có trách nh iệm cùng với
thâm hụt ngân sách cao đã làm trầm trọng thêm những khó khăn của chính sách
tiền tệ trong bối cảnh của Ấn Độ.
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
7
Việc xây dựng đa mục tiêu theo đuổi của Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI) có ý
nghĩa và cho rằng chính sách tiền tệ nên được theo đuổi để duy trì lãi suất và tỷ lệ
lạm phát ổn định và tiền tệ bị định giá thấp để tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên,
chính sách này đã dẫn đến dòng vốn chảy vào lớn, dường như không bền vững nếu
không có lý do khác hơn so với thực tế là khoản dự trữ dòn g vốn đó thu hút các sản
lượng thấp.
Do đó, tại Ấn Độ chưa thể thực thi lạm phát mục tiêu. Bài nghiên cứu cung cấp vài
bằng chứng về ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu lên phát triển và các nền kinh tế chuyển
đổi và tranh cãi rằng mặc dù lạm phát mục tiêu có chịu trách nhiệm về v iệc duy trì chế độ
lạm phát thấp nhưng về căn bản tự nó không kéo giảm tỷ lệ lạm phát. Hơn nữa, tính dễ
biến động của tỷ giá và sản lượng đầu ra ở các nền kinh tế chuyển đổi có áp dụng lạm phát
mục tiêu thì cao hơn ở các nền kinh tế phát triển. Thực tế thì Ấn Độ chưa sẵn sàng để thực
hiện lạm phát mục tiêu, mặc dù RBI m uốn làm, nhưng vẫn không thể thực thi lạm phát
mục tiêu trong bố i cảnh lãi suất ngắn hạn không có ảnh hưởng có ý nghĩa lên tỷ lệ lạm
phát.
Do vậy, hai gói ch ính sách để giải quyết vấn đề này đã được thảo luận.
Một là: hướng tới điều chỉnh tài chính và tiền tệ mở rộng.
Hai là: đánh giá cao tỷ giá hối đoái thực (phù hợp nhiều hơn so với áp dụng lạm
phát mục tiêu)
Cả hai ch ính sách này sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát thấp và giảm dòng vốn nước ngoài,
và do đó, dự trữ quốc gia được giải quyết ở mức giá nh ất định. Kể từ kh i tăng trưởng xuất
khẩu nhanh chóng, nó tạp ra cảm giác sai lầm về việc đánh giá thấp tỷ giá hối đoái. Điều
này sẽ cho phép Ấn Độ nắm giữ một phần lớn hơn của thị trường thế giới. Xuất khẩu ngày
càng tăng, lần lượt, nâng cao kh uyến khích đầu tư. Xu h ướng tiết kiệm cũng tăng lên để
đáp ứng với lợi nhuận tăng đầu tư theo định hướng xuất khẩu. Hơn nữa, một tỷ giá hối
đoái bị định giá thấp là có khả năng thúc đẩy tiết kiệm bằng cách tăng cổ phần của lợi
nhuận trong thu nhập quốc dân. Ấn Độ đã được thực hiện một số hình thức của tỷ giá hối
đoái thực sự nhắm m ục tiêu dẫn tới sự gia tăng mạnh dự trữ n goại hối, điều này đã đi kèm
với chi phí kinh tế cao. Theo đuổi chính sách lạm phát mục tiêu làm giảm nhu cầu dự trữ
lớn nhưng giá phải trả là khả năng của một tỷ giá hối đoái không ổn định hoặc khôn g phù
hợp. Hoạch định chính sách của Ấn Độ là khôn ngoan để từ chối chế độ này và chọn tham
gia quản lý có chọn lọc các dòn g vốn.Tuy nhiên, dự trữ hiện nay ở một mức độ rất thoải
mái nhưng vẫn t iếp tục tăng với một tốc độ nhanh chón g.
Bushra và Syed Kumail Abbas (2009)
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
8
Bài nghiên cứu này nhằm mục đích đo lường và so sánh hiệu quả kinh tế của bốn
nền kinh tế châu Á ( gồm In donesia, Phillipines, Nam Triều Tiên, và Thái Lan) chấp nhận
và thực hiện lạm phát m ục tiêu ngược lại với sáu nước lân cận khác (Trung Quốc, Hồn g
Kông, Ấn Độ, Malaysia, Singapore và Pakistan). Nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng
chứng tỏ lạm phát mục tiêu giúp làm tăng trưởng kinh tế như nghiên cứu của Goncalves
và Salles năm 2008 và Batini và Laxt ion năm 2007 (trong cùng thời điểm) nhưng cũng
không tìm thấy bằng chứng lạm phát mục tiêu có hại cho tăng trưởng kinh tế. Một phát
hiện quan trọng là NHTƯ ở các nước lạm phát mục tiêu thì không có trách nhiệm nặng nề
với sự thay đổi của lạm phát . Điều này l àm sáng tỏ: “ở các nền kinh tế Châu Á, dữ liệu
nghiên cứu không hỗ trợ trường hợp áp dụng lạm phát mục tiêu”.
Irineu de Carvalho Filho (2010) tìm thấy các chứng cứ chưa rõ ràn g rằng các nước
dùng chính sách lạm phát mục tiêu giải quyết tốt vấn đề tỷ lệ thất nghiệp và nước sử dụng
chính sách lạm phát mục tiêu có sự sản xuất công ngh iệp hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn các
nước không. Cuố i cùng, chúng ta thấy được rằng các nước áp dụng chính sách lạm phát
mục tiêu có tỷ lệ tăng trưởng GDP cao hơn các nước khôn g sử dụng chính sách này trong
cùng một nhóm nước (Vd: các nước phát triển, các nước đang phát triển-các nước không
phải Mới Nổi), nhưng lại không tìm thấy sự khác biệt như vậy ở các n ước mới nổ i.
Salem Abo-Zaid and Didem Tuzemen (2011) cho thấy rằng chế độ lạm phát mục
tiêu có lợi ích quan trọng cho cả hai nước phát triển và đang phát triển. Tác giả cho thấy
rằng tỷ lệ lạm phát thấp hơn đáng kể trong các nước đang phát triển theo lạm phát mục
tiêu, v à ch ế độ này có tác dụng tích cực đối với tăng trưởng GDP cho tất cả các nước theo
lạm phát mục tiêu . Ngoà i r a, kết quả của n ghiên cứu n ày chỉ ra một sự hội t ụ rõ ràng của
tỷ lệ tăng trưởng GDP trong số các nước lạm phát mục tiêu đang phát triển sau khi thông
qua chế độ này. Cuố i cùng, tác giả thấy rằng chính sách tài khóa được tiến hành thắt chặt
khi các nước phát triển nhắm đến lạm phát.
2. Kinh nghiệm khi áp dụng lạm phát m ục tiêu như thế nào?
Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano, and Sunil Sharma (1998)
Kinh nghiệm của các nước công nghiệp:
Trong thập kỷ qua, lạm phát mục tiêu đã được lựa chọn và thực hiện (theo thứ tự
thời gian) ở New Zealand, Canada, Anh, Phần Lan, Thụy Điển, Australia, và Tây Ban
Nha. Kinh nghiệm từ các kết quả không tốt đẹp với việc thiết lập các mục tiêu tiền tệ trung
gian hoặc duy trì tỷ giá cố định đã thúc đẩy sự đổi mới ở hầu hết các quốc gia này. Tại
New Zealand và Canada, ban đầu các Chính ph ủ giới thiệu các mục tiêu để chống lại giảm
phát. Sự thành công của hai quốc gia này trong việc kiềm chế lạm phát cao một cách
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
9
tương đối (theo t iêu chuẩn c ủa các nước công n ghiệp) đã thúc đẩy một phần sự chấp nhận
và thực hiện các chính sách tương tự ở năm quốc gia khác, nơi mà, trái lại, tỷ lệ lạm phát
đang ở mức tương đối thấp.
Bảy quốc gia cùng đã có những “thành tích” nghèo nàn tron g cuộc chiến chống
lạm phát trong vòng 30 năm qua nếu đem so sánh với Đức, Nhật Bản, Thụy Sĩ, và Hoa
Kỳ. Hơn nữa, những người tham gia thị t rường nói chung luôn nhận thức rằng nhóm bảy
nước n ày thiếu chính sách t iền tệ đáng tin cậy. Có thể suy đoán rằng, lạm phát mục tiêu là
sự sáng tạo mà nhờ đó các nước này tìm ra cách xây dựng một “kỷ lục” về lạm phát thấp
và chính sách tiền tệ có uy t ín. Ở các n ước này, tỷ lệ lạm phát là mục tiêu chính của chính
sách t iền tệ và được ưu tiên hơn các mục tiêu khác, chẳng hạn như tỷ giá, việc làm.
Trong phương pháp này, việc dự báo lạm phát đóng vai trò tối quan trọng. Kể từ khi việc
dự báo quyết định CSTT nên phản ứng như thế nào, cấu trúc của nền kinh tế phải được ổn
định và dễ dàng mô hình hóa để đảm bảo dự báo chính xác.
- Sự phân công của lạm phát mục tiêu Việc côn g bố lạm phát mục tiêu kh ác nhau ở
các quốc gia. Ở Úc, Phần Lan, v à Thụy Điển, NHTƯ đơn phương côn g bố lạm phát mục
tiêu mà không có sự xác nhận rõ ràng từ chính phủ. Ở Canada và New Zealand, lạm phát
mục tiêu là k ết quả của một thỏa thuận chung giữa các bộ trưởng tài chính và thống đốc
NHTƯ. Ở các nước mà lạm phát mục tiêu được côn g bố bởi NHTƯ, thì hầu hết sau đó
phương pháp lạm phát mục tiêu đều được xác nhận bởi chính phủ. Mặc dù không có
NHTƯ nào có đặc quyền đề cập rõ ràng đến lạm phát mục tiêu, nhưung mục tiêu vẫn minh
chứng rằng nó là phương pháp đúng đắn để đạt được m ục đích cuối cùng của tiền tệ hoặc
sự ổn định giá cả.
- Định nghĩa của m ục tiêu: Định ngh ĩa của lạm phát mục tiêu cũng khác nhau qua bảy
quốc gia. Sự khác biệt chính liên quan đến thời gian để xác định sự nh ận thức (sẽ mất bao
lâu để đạt kết quả và mất bao lâu mục tiêu sẽ chiếm ưu thế), giá cả được đo lường như thế
nào, và liệu mục tiêu sẽ được xác định tại cụ thể hay trong khoảng nào đó.
- Tầm nhìn của mục tiêu. Tầm nhìn của lạm phát mục tiêu phụ thuộc một phần vào tỷ
lệ lạm phát tại thời điểm chính sách đã được thông qua. Ở Canada và New Zealand, chính
quyền sử dụng lạm phát mục tiêu để khuyến khích giảm phát, cho phép 18 tháng để đạt
được mục tiêu ban đầu. Bước tiếp theo, khoảng thời gian để đạt được mức lạm phát thấp
hơn là 12 tháng ở New Zealand và 18 tháng ở Canada. Một khi lạm phát đã giảm đến mức
mong muốn, mục tiêu ở cả h ai nước đã được thiết lập trong năm năm. Ở Vương Quốc
Anh, các cơ quan có thẩm quyền đầu tiên đặt tầm nhìn như là kết thúc của nhiệm kỳ Quốc
hội (giữa 1997). Tron g thời gian cho đến khi giữa 1997, lạm phát đạt được trong khoảng
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
10
14%, sau đó nó đã được ổn định dưới 2,5% vô thời hạn. Ngược lại với sáu quốc gia khác,
tại Úc tầm nhìn thời hạn cho lạm phát mục tiêu là độ dài của chu kỳ kinh doanh.
- Mức giá. Những chênh lệch trong việc t ính toán chỉ số giá tiêu dùng (ví dụ, giới thiệu
hàng hoá mới hoặc nhu cầu cao hơn cho chất lượng hàng hoá tốt hơn) ngụ ý rằng, trong
thực tế, sự ổn định của giá cả có thể được x em như tỷ lệ tăng nhỏ của chỉ số giá t iêu dùng
(nhưng lớn h ơn khôn g). Theo quy luật lạm phát mục tiêu xoay quanh tỷ lệ khoảng 2% một
năm. Ở mức độ thấp như vậy, theo các bằng chứng thực nghiệm hiện có, n gay cả việc đặt
ra mục tiêu tỷ lệ lạm phát thấp hơn là không hứa hẹn mang lại lợi ích đáng kể.
- Độ rộng của lạm phát m ục tiêu. Một sự khác biệt lớn tron g định nghĩa của lạm phát
mục tiêu giữa các quốc gia là độ rộn g khoảng giá trị của lạm phát mục tiêu. Ở cả Úc và
Phần Lan, khung lạm phát mục tiêu đều là một tỷ lệ lạm phát cụ thể, t rong khi Canada,
New Zealand, Thụy Điển, và Anh đều x ác định một khoảng cho lạm phát mục tiêu. Ở Tây
Ban Nha, chính quyền quy định về mức trần cho tỷ lệ lạm phát.
Sự cần thiết phải xác định khoảng giá trị của lạm phát mục tiêu là kết quả của việc
kiểm soát không hoàn hảo của chính sách tiền tệ về tỷ lệ lạm phát. Khi lựa chọn khoảng
giá trị phả i đánh đổi giữa một khoảng nhỏ, chặt chẽ, hiếm khi vi phạm và một khoảng giá
trị rộng (hay chính sách "mềm dẻo" của n gân hàng trung ương). Những chủ thể tham gia
thị trường có thể h iểu một khoảng giá trị hẹp kh i chỉ r a một vi phạm nghiêm t rọng của lạm
phát mục tiêu. Nếu vẫn duy trì trong một khoảng giá trị hẹp chứng tỏ sự khó khăn trong
thực tế, tuy nhiên, nếu vi phạm thường x uyên có thể làm suy y ếu mạnh sự tín nhiệm.
- Trách nhiệm giải thích: Lạm phát mục tiêu cung cấp một thước đo đố i với hành động
của ngân hàng trung ương có thể được đánh giá, cơ quan có thẩm quyền có thể được yêu
cầu để biện minh cho quyết định chính sách tiền tệ. Sự minh bạch, sự cởi mở, gắn liền với
trách nhiệm giải thích. Để tăng hiệu quả của chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu, các
cơ quan có thẩm quyền phải thôn g báo thay đổi ch ính sách và lý do cho những thay đổi
một cách rõ ràng nhất có thể. Tăng tính minh bạch giúp củng cố thêm ảnh hưởng và làm
giảm độ trễ của chính sách t iền tệ thay đổi quyết định giá cả v à tiền lương.
Nói ch ung, n gân hàng trung ương thi thực hiện lạm phát mục tiêu thì có t rách nhiệm
giải thích trực tiếp với chính phủ. Thường xuyên báo cáo cho quốc hộ i và côn g bố báo cáo
hàng n ăm đã được và chịu trách nhiệm với báo cáo này. Kể từ năm 1989, Thống đốc Ngân
hàng Dự trữ New Zealand cũng đã được yêu cầu công bố định kỳ 6 tháng một lần về
Chính sách tiền tệ, mà các thảo luận đã đạt được về lạm phát mục tiêu trong sáu tháng
trước đó và chiến lược cho 6 tháng tiếp theo. Báo cáo được lấy làm nguyên mẫu cho các
ấn phẩm tương tự ở những nơi khác. Ngân hàng của Anh và Riksbank của Thụy Điển đã
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
11
một thời gian phát hành báo cáo lạm phát tập trung duy nhất trên lịch sử gần đây và cách
nhìn nhận lạm phát, và Ngân hàng Canada v à Ngân hàng của Tây Ban Nha đã bắt đầu xuất
bản t ài liệu tương tự. Trong các tài liệu này, các quan chức chỉ thảo luận duy nhất chính
sách tiền tệ về lạm phát mục tiêu. Ngoà i ra, Ngân hàng Anh làm tăng tính minh bạch của
chính sách tiền tệ bằng cách x uất bản (với khoảng n ăm đến sáu tuần) biên bản cuộc họp
của Ủy ban chính sách t iền tệ của mình.
- Dự báo lạm phát: Với độ trễ trong tác động của chính sách tiền tệ, lạm phát mục tiêu
phải được hướng tới tương lai. “Cuộc tấn công phủ đầu” là cần thiết: hành động phải được
thực hiện trước kh i tỷ lệ lạm phát bắt đầu tăng. Do đó, việc dự báo lạm phát của NHTƯ rất
quan trọng.
Một số tiêu chuẩn cơ sở cho dự báo lạm phát. Phải có đủ dữ liệu lịch sử để ước t ính các
mối quan hệ đáng tin cậy, và phải tự tin dự báo được hợp lý rằng những mối quan hệ này
sẽ vẫn ổn định dưới chế độ mới. Các cơ quan có thẩm quyền c ần căn cứ vào quyết định
chính sách tiền tệ của họ trên dự đoán cho con đường tương lai của lạm phát, mặc dù kỳ
vọng này không cần phả i được dựa trên một m ô hình cụ thể. Trong thực tế, kinh nghiệm
trong tất cả các quốc gia thì lạm phát mục tiêu đã cho thấy rằng bằng cách sử dụng đầu
vào từ nhiều mô hình khác nhau để cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những
thông tin hữu ích nhất .
Áp dụng đối với các nước đang phá t triển
Trong điều kiện nào các nước đang phát triển có thể áp dụng lạm phát mục tiêu?
Những quốc gia này đại diện cho một nhóm hỗn hợp, đặc biệt trong chính sách tiền tệ và
thị trường tài chính. Mặc dù xu hướng chung theo hướng dựa nhiều hơn vào c ác công cụ
gián tiếp của ch ính sách tiền tệ, tăng cường hội nhập thị trường vốn quốc tế, và cải cách
khu vực tài chính, tổng quát có thể được thực hiện v ề mức độ phát triển tài ch ính ở các
nước này. Ch ỉ số tiêu ch uẩn của lãi suất, tài chính sâu sắc hơn, và mức thu nhập chưa cho
thấy một sự phân loạ i được chấp nhận rộng rãi hoặc xếp h ạng của các nước đang phát
triển. Kết quả là, vô cùng khó khăn để đánh giá những lợi ích cho các nước này áp dụng
lạm phát mục tiêu. Do đó, phân tích vẫn còn chủ yếu là thăm dò và tranh luận chứ không
phải dựa trên bằng chứng thực n gh iệm vững chắc.
- Yêu cầu cơ bản
Nhớ lại rằng các điều kiện t iên quyết cơ bản cho v iệc áp dụng lạm phát mục tiêu ở bất
kỳ quốc gia nào là tự do từ sự thống trị của chính sách tài khóa và sự vắng mặt của một
cam kết vững chắc của chính quyền vớ i các mục tiêu khác, có lẽ mâu thuẫn, chẳn g hạn
như tỷ giá hố i đoái.
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
12
Trong một số nước đang phát triển, yêu cầu cơ bản cho việc áp dụng lạm phát mục tiêu
rõ ràng không hài lòn g. Trong n ền kinh tế với lạm phát cao (trên 30-40% một năm), chính
sách tiền tệ sẽ giúp đỡ và chỉ có tác dụng ngắn ngủi và không thể đoán trước về tỷ l ệ lạm
phát. Ưu tiên cho chính sách kinh tế ở các nước này là một chương trình toàn diện giảm
phát lâu dài bao gồm thâm hụt ngân sách thấp hơn, cắt vay vốn từ ngân hàng trung ương
để tài trợ cho các hoạt động chính phủ, và nhắm m ục tiêu của một hay nhiều ch ỉ số để kỳ
vọng lạm phát . Đối với các nước này, tiến hành chính sách tiền tệ một cách phù hợp với
lạm phát mục tiêu có thể là một lựa chọn, nhưng ch ỉ sau khi gốc r ễ của vấn đề tài ch ính, đã
tận diệt và tỷ lệ lạm phát rơi xuống mức quản lý.
Đối với hầu hết các n ước đang phát triển, tuy nhiên, đánh giá mức độ phù hợp với điều
kiện t iên quyết cơ bản là khó khăn hơn. Các nghiên cứu độc lập của n gân hàng trung ương
ở các nước này cho thấy, với một số trường hợp ngoại lệ đáng chú ý, phạm vi của n gân
hàng trung ương để thực hiện một chính sách t iền tệ độc lập có xu hướng bị cản trở bởi sự
phụ thuộc nặng nề vào khoản thu lợi từ việc in t iền, thị trường tài chính nôn g cạn, và hệ
thống ngân hàng mong manh.
- Sự phụ thuộc vào khoản thu lợi từ việc in tiền. Sự phụ thuộc vào khoản thu lợi từ
việc in tiền có lẽ là đơn giản và phổ biến nhất của sự thống trị tài chính. Sự liên k ết giữa
không có khả năng của chính phủ để nâng cao doanh thu cần thiết từ nguồn vốn thông
thường và truy đòi khoản thu lợi từ việc in tiền. Tại các nước đang phát triển, liên kết này
thường mạnh mẽ bởi vì cơ cấu chức năng (tập trung và không ổn định nguồn thu thuế, thủ
tục thu thuế n gười nghèo, và phân phối thu nhậ p chênh lệch nh au) và hướng lạm dụng
quyê n lực in tiền, đặc biệt là trong thời gian khủng hoảng.
- Thị trường tài chính. Thị trường vốn nông cạn, phổ biến, mặc dù t inh tế hơn, dấu hiệu
của sự thống trị tài chính. Chúng thường là một sản phẩm c ủa chương trình chính phủ để
lấy doanh thu từ hệ thống tài chính thôn g qua các hình thức khác nhau của áp chế tài
chính, bao gồm cả trần lãi suất, yêu cầu dự trữ cao, ch ính sách tín dụng n gành, và các v ị trí
bắt buộc của nợ công. Ở một số nước có thu nhập thấp, thị trường vốn chưa phát triển có
thể là nguyên nhân nhiều như một hệ quả của sự thống trị tài chính, để lại quyê n của
việc thu lợi từ việc in tiền và các hình thức khác của sự đàn áp tài chính là lựa chọn duy
nhất. Bất kể nguyên nhân, t uy nhiên, bằng chứng của một mối quan hệ xấu giữa kiềm chế
tài chính và phát triển của thị trường vốn trong nước là không thể chố i cãi.
- Hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng mong manh là một hệ quả hiển nhiên của
thời gian kéo dài của áp chế tài chính. Tuy nhiên, hậu quả của cải cách lĩnh vực tài chính,
hệ thống n gân hàng có thể truyền đạt một ảnh hưởng độc lập v ề việc t iến hành ch ính sách
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
13
tiền tệ, nhưng trong bối cảnh này mâu thuẫn có thể phát sinh giữa các mục tiêu của v iệc
đạt được sự ổn định giá cả và khôi phục lại lợi nhuận n gành ngân hàng. Các n ghiên cứu
gần đây đã tìm thấy rằng cuộc khủng hoảng ngân h àng nghiêm trọng hơn tron g việc phát
triển hơn so với ở các nước công nghiệp. Bằng chứng cho thấy rằng, t rong giai đoạn đầu
của tự do hóa tài chính, mục tiêu ch ính sách phải được rõ ràng xếp hạng và theo thứ tự ưu
tiên.
- Các đặc điểm chung
Một phân tích thống kê về tầm quan trọng tương đối của ba yế u tố này ở các n ước đang
phát triển cho thấy một số quy tắc. Đầu tiên, như mong đợi, sự ph ụ thuộc vào quyê n của
việc thu lọ i từ in t iền là cao hơn đáng kể ở các nước đang phát triển hơn tron g nền kinh tế
công n ghiệp. Tại các nước đang phát triển, doanh thu hàng năm từ khoản thu lọi từ việc in
tiền trung bình 1.4 - 3,0% của GDP, t ùy thuộc vào kh u vực, trong khi ở các nền kinh tế
phát triển doanh thu h àng năm từ nguồn này trong 16 năm qua đã liên tục trung bình ít hơn
1% của GDP.
Thứ hai, mối quan hệ giữa thâm hụt trung bình tài chính, lạm phát, và thu lợi từ v iệc in
tiền khác nhau đáng kể giữa các v ùng và các nhóm quốc gia. Điều này thiếu rõ ràn g của
hiệp hội là một phần do vấn đề đo lường, nhưng về cơ bản nhất là mối quan hệ mơ hồ giữa
thâm hụt tài chính và lạm phát. Kích thước của thâm hụt ngân sách, do đó, một chỉ số sai
lệch của mức độ của sự thống trị tài chính.
Thứ ba, sự phụ thuộc trung bình trên việc thu lợi từ in tiền của 7 nước công ngh iệp đã
thông qua lạm phát mục tiêu là tương tự với mức trung bình cho tất cả các nền kinh tế t iên
tiến, nhưng cao hơn so v ới ở Hoa Kỳ và Đức.
Thứ tư, sự phụ thuộc trung bình trên việc thu lợi từ in tiền và lạm phát thực hiện gần
đây ở một số nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao (Israel, Hàn Quốc, Mexico,
và Nam Phi) dường như không khác nhiều so với mức trung bình được gh i bởi các quốc
gia lạm phát mục tiêu 7 nước ngay lập tức trước khi họ thông qua cách tiếp cận n ày.
Những gì có vẻ rõ ràng từ bằng chứng rằng, trong một số lượng lớn của các nước đang
phát triển, sự thống trị tài chính và cơ sở hạ tần g n ghèo của thị trường tài chính bị hạn chế
phạm vi cho chính sách tiền tệ độc lập. Trong thực tế, hầu hết các nước, hiệu quả từ việc
độc lập của n gân hàng trung ương để sử dụng công cụ lựa chọn riêng của nó sẽ rất có thể
có để chờ đợi 1 cải cách chung cho toàn diện khu v ực mà mở rộng cơ sở thuế, giảm sự phụ
thuộc của chính phủ về thu lọi từ việc in tiền và các khoản thu khác từ chế tài chính, làm
giảm lạm phát xuống dưới 2 con số, và cải tiến các hệ thốn g n gân hàng và tài chính.
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
14
Tuy nhiên, nó cũng là điều hiển nhiên rằng các khó khăn về chính sách tiền tệ đối với
sự thống trị tài chính, lạm phát cao, và áp chế tài chính đáng kể ít nghiêm trọng trong
những năm 1990 cho một số nước đang phát t riển có thu nhập trung bình cao. Đố i với các
quốc gia này, những trở ngại để t iến hành chính sách t iền tệ một cách phù hợp với lạm
phát mục tiêu dường như liên quan đến tính khả thi hơn để sẵn sàng ưu tiên giảm lạm phát
trong những mục tiêu kh ác của chính sách t iền tệ v à khả năng của mình để truyền đạt các
mục tiêu chính sách trước công chúng một cách đáng tin cậy và minh bạch.
- Xung đột với các mục tiêu khác
Tại các nước đang phát triển với thị trường tài ch ính hợp lý hoạt độn g tốt, trung bình
lạm phát thấp, và không có triệu chứng rõ ràn g về sự thống trị tài chính, sự độc lập của
chính sách tiền tệ phụ thuộc chủ yếu vào chế độ tỷ giá hối đoái và tính di động vốn. Mặc
dù tỷ giá hối đoái cố định đã trở nên h iếm hoi, họ đã đưa ra cách ở các nước đang phát
triển một loạt các linh hoạt, nhưng vẫn quản lý, sắp xếp tỷ giá hối đoái, và tiếp cận thị
trường vốn quốc tế đã tăng lên đáng k ể. Tuy nhiên, thỏa thuận tỷ lệ hối đoái danh nghĩa
linh hoạt hơn nh iều các quốc gia này đã áp dụng, dường như không có lãnh đạo các cơ
quan có thẩm quyền để xem xét một trọng lượng thấp hơn nhiều mục tiêu tỷ giá hối đoái
hoặc n gừng sử dụng tỷ giá hối đoái để hướng dẫn thiết lập chính sách tiền tệ. Những ph át
triển này đã phức tạp hơn các nhiệm vụ tiến hành chính sách tiền t ệ trong các nền kinh tế
và có tầm quan trọng cho dù các nền kinh tế mới nổi có thể áp dụng lạm phát mục tiêu.
Các điều kiện cần thiết cho lạm phát mục tiêu - ưu t iên của lạm phát mục tiêu trong những
mục tiêu chính sách khác và một thủ tục điều hành hướng tới tương lai bằng cách sử dụng
dự báo lạm phát - khó khăn để đáp ứng trong một bối cảnh tỷ giá hối đoái ổn định là một
mục tiêu được nêu h ay t iềm ẩn của tiền tệ chính sách (như kh i các cơ quan có thẩm quyền
áp dụng trên thực tế một mức độ m ục tiêu, con đường, hay nhóm cho tỷ giá hối đoái ngay
cả khi tỷ lệ đó linh hoạt hợp pháp) hoặc sự hiểu biết về các liên kết k inh nghiệm giữa các
công cụ và mục tiêu của chính sách tiền tệ là thô sơ. Miễn là một cùng tồn tại lạm phát
mục tiêu với mục tiêu khác của chính sách tiền tệ và ngân hàng trung ương thiếu phương
tiện để truyền đạt những ưu tiên chính sách công và thủ tục hoạt động trong một cách đáng
tin cậy và minh bạch, sự căng thẳng giữa các lạm phát mục tiêu v à ch ính sách mục tiêu là
không thể tránh khỏi. Trong hoàn cảnh như vậy, lợi ích của việc lạm phát mục tiêu thấp
hơn, và những khó khăn của việc thực hiện ch ính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
mới nổi sẽ vẫn chưa được giải quyết.
- Đặc điểm kỹ thuật của lạm phát m ục tiêu
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
15
Lạm phát mục tiêu cần được xác định trên cơ sở đánh giá hiệu quả của các quyết định
khác nhau về mức độ của lạm phát mục tiêu, thời gian cho các mục tiêu để đạt được, ngoại
trừ chỉ số giá, và xử lý việc thực thi giá .
Lạm phát mục tiêu trung hạn hàm ý một sự đồn g thuận về tỷ lệ lạm phát cho phù hợp
tối ưu. Trong hầu hết các nước đang phát triển, bao gồm cả những người với một số phạm
vi chính sách tiền tệ độc lập, một sự đồn g thuận như vậy ch ỉ đơn giản là khôn g tồn tại. Đối
với nhiều lý do, lợi ích của lạm phát thấp và ổn định trong các nền kinh tế này hiếm khi
được định lượng hoặc gắn liền với một tỷ lệ cụ thể của lạm phát . Miễn là tình trạng này
vẫn tồn tại, bất kỳ sự lựa chọn của một lạm phát mục tiêu trung hạn cho các quốc gia này
được ràng buộc để được t ùy ý.
Thậm chí ít có thể nói về tốc độ mà tại đó lạm phát mục tiêu cần phải đạt được. Kể từ
khi ý kiến về vấn đề này liên quan mật thiết đến sự khác biệt quan điểm về m ục tiêu chính
của chính sách tiền tệ trong các nền kinh tế, không có cơ sở để hy vọng rằng thỏa thuận về
tốc độ thích hợp của hội tụ lạm phát mục tiêu có thể đạt được một cách nhanh chóng.
Sự lựa chọn của chỉ số giá làm cơ sở cho lạm phát mục tiêu cũng có khả năng là vấn đề
trong việc phát t riển hơn so với ở các nước côn g n ghiệp. Mặc dù nói chung, bằng cách sử
dụng một chỉ số được công nhận rộng rãi như chỉ số giá tiêu dùng tăng cường độ tin cậy
và minh bạch của chính sách tiền tệ, thực tế là các nước đang phát triển có x u h ướng ph ải
chịu nhữn g cú sốc cung cấp rất nhiều và biến lập luận ủng hộ loại bỏ một số mặt hàng dễ
biến động từ tỷ lệ lạm phát cơ bản được sử dụng hướng dẫn thiết lập chính sách t iền tệ.
Ở nhiều n ước phát triển, quản lý hoặc kiểm soát giá là một thành phần quan trọng của chỉ
số giá tổng hợp và do đó các hành vi ngắn hạn c ủa lạm phát. Lạm phát dự báo đúng thủ
tục cần phải kết hợp các giả định rõ ràng về thời gian và cường độ của các thay đổi trong
các giá. Do đó, phố i hợp giữa các cơ quan tiền t ệ và tài khóa sẽ được yêu cầu so với các
nền kinh tế nơi mà hầu hết giá cả thị trường xác định
Alan Bollard and Ozer Karagedikli (2006)
Mặc dù có những khác biệt, kinh nghiệm của New Zealand có thể có thể cung cấp những
kết luận hoặc cảnh báo những quốc gia gần đây đã bắt đầu lạm phát mục tiêu:
Lạm phát mục tiêu không ph ải là một cơ chế điều h ành CSTT.
Trong thời hạn của lạm phát mục tiêu, nó có thể lrất linh hoạt. Tuy nh iên, lạm phát
mục tiêu cũng không phải là quá chính xác;
Thực hiện chính sách t iền tệ có thể được nhiều sự hỗ trợ của các chính sách khác như
chính sách tài ch ính và tái cấu trúc;
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
16
Một NHTƯ không thể chịu trách nhiệm về nhiều mục tiêu kh ác lạm phát. Một công
cụ duy nhất để k iểm soát biến lạm phát duy nhất vẫn là trọng điểm;
NHTƯ độc lập là rất quan trọng.
Lạm phát mục tiêu có thể cung cấp một khuôn khổ vững chắc và lâu dài, nhưng trong
đó có sự thích ngh i và tiến hóa theo thời gian.
Chính sách t iền tệ sẽ không làm việc mà không có uy t ín v à sự tín nhiệm chỉ có thể thu
được bằng cách đạt được lạm phát thấp và ổn định. Bản chất của chế độ phát triển lạm
phát mục tiêu và các học thuyết đi kèm với nó cho thấy một cách tiếp cận linh ho ạt để theo
đuổi sự ổn định giá cả mong muốn trong một ý nghĩa nhất định.
3. Mối liên hệ giữa lạm phát mục tiêu và bộ ba bất khả thi.
Hai điều kiện t iên quyết quan trọng cho v iệc áp dụng lạm phát mục tiêu là một
mức độ độc lập của chính sách tiền tệ và không có cam kết một mức cụ thể cho tỷ giá hối
đoái. Một quốc gia đáp ứng các yêu cầu này có thể chọn để tiến hành chính sách tiền tệ
của mình trong một khuôn khổ lạm phát mục tiêu.
Tại những n ước đang phát triển có thị trường tài chính hoạt động tương đối tốt,
lạm phát ở m ức v ừa phải và NHTƯ được độc lập tương đối, thì sự độc lập của CSTT phụ
thuộc chủ yếu vào chế độ tỷ giá hối đoá i và khả năng dịch chuyển của các luồng vốn. Mặc
dù hiện nay, chế độ tỷ giá cố định đã ngày càng ít nhưng chế độ ty giá thả nổi hoàn toàn
cũng khôn g được áp dụng phổ biến. Thông thường các quốc gia lựa chọn thực h iện chế độ
tỷ giá có quản lý. Trong những thập kỷ 90, trào lưu áp dụng tỷ giá linh hoạt được rất nhiều
nước đang phát triển áp dụng nhưng tỷ giá hối đoái vẫn là một công cụ đắc lực để thực thi
CSTT. Và như vậy, NHTƯ rơi vào tình thế phải lựa chọn : từ bỏ chế độ tỷ giá cố định hay
bảo vệ sự ổn định của tỷ giá. Điều n ày gây khó khăn cho CSTT vì một điều kiện cần thiết
của lạm phát mục tiêu là ưu t iên mục tiêu lạm phát hơn các mục tiêu chính sách khác, hay
nói cách khác, ch ỉ số lạm phát mục tiêu chiếm ưu thế hơn tất cả các mục tiêu còn lại của
CSTT. Theo như trên, duy trì ổn định tỷ giá hố i đoái sẽ xung đột với nguyên tắc lạm phát
mục tiêu. Đến lúc đó mục tiêu lạm phát sẽ tồn tại cùng những mục tiêu khác của CSTT và
do đó hiệu quả của lạm phát mục tiêu sẽ bị hạn chế. Một cách để giải quyết t ình trạng này
là đưa ra chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, điều này c ũng đồng nghĩa với việc h uỷ bỏ việc
kiểm soát các luồng vốn.
4. Giải pháp thay thế lạm phát m ục tiêu:
Luis Miguel Galindo, Jaim e Ros (2008)
Lạm phát mục tiêu chắc chắn là một khuôn khổ linh hoạt hơn cho chính sách tiền tệ
hơn khuôn khổ tiền tệ trước đó chẳng hạn như việc sử dụng của một số tổng tiền tệ để
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
17
kiểm soát tỷ lệ lạm phát. Đó là, Lạm phát mục tiêu sẽ xem xét các yếu tố bổ sung để kiểm
soát lạm phát như tỷ giá hối đoái. Ngoà i ra, giả thuyết rằng giá cả và tiền tệ tổng hợp có
mối quan hệ ổn định và tiền mà có thể coi là biến ngoại sinh không xuất hiện hợp lệ. Vì
vậy, Lạm phát m ục tiêu đại diện cho một chính sách mới có thể bao gồm bổ sung có thể
tùy chọn.
Lựa chọn đầu tiên là di chuyển chính sách tiền tệ đối với một lập trường trung lập
(tức là một hơn đối xứng để đáp ứng với những cú sốc tỷ giá hối đoái). Trong ý nghĩa này,
cơ quan tiền tệ nên cố gắng, ít nhất, để sử dụng một giảm số tiền của "el corto" trong
trường hợp của đánh giá cao tỷ giá hối đoá i thực. Điều này có nhiều khả năng và khả thi
hơn so với trong quá khứ như là lạm phát có xu hướng hội tụ hướng tới mục tiêu lâu dài,
và như là kết quả của một trong hai một nâng cao độ tin cậy của các n gân hàng trung ương
hoặc một môi trường lạm phát. Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát có x u hướng giảm, chính
sách tiền tệ có độ nhiều tự do bởi vì các nhà chức trách đã thiết lập một cách thức chống
lại lạm phát. Trong bối cảnh, m ột chính sách tiền tệ trung gian không có n ghĩa là NHTƯ
sẽ mất uy tín trong cam kết của mình để kiểm soát lạm phát. Một CSTT trung gian sẽ có ít
nhất hai tác động chính.
Đầu tiên, nó sẽ cho phép một chính sách tiền tệ với sự thiên vị ít hơn so với tăng
trưởng kinh tế. Đó là, nếu các tác dụng phụ của một CSTT tệ thắt chặt, ít nhất là trong
ngắn hạn, tăng trưởng kinh tế, một Một CSTT trung gian đóng góp, ở bên lề, để tăng
trưởng kinh tế năng động hơn.
Thứ hai, một trung lập chính sách t iền tệ sẽ không góp phần vào v iệc định giá quá cao
của tỷ giá hối đoái thực, và do đó, sẽ không có một khuynh hướng bổ sung đối với tăng
trưởng kinh tế thông qua việc thực tỷ giá hối đoái kênh.
Lựa chọn thứ hai là chuyển đổi từ mục tiêu hiện tại (CPI) chỉ số giá tiêu dùng đến
một mục tiêu lạm phát trong nước (tức là một thước đo lạm phát thanh lọc từ những tác
động trực tiếp của tỷ lệ trao đổi hàng ho á nhập khẩu trong chỉ số giá t iêu dùng). Một động
thái như vậy sẽ làm giảm hơn nữa tác động của tỷ giá trên chỉ số giá mục tiêu và góp phần
loại bỏ ph ản ứng không đố i xứng của ch ính sách tiền tệ để trao đổi những cú sốc tỷ
giá. Trong trường hợp này, một chuyển tiếp cú sốc về tỷ giá hối đoái danh n ghĩa sẽ không
tạo ra một phản ứng trực tiếp trong lãi suất. Trong những trường hợp chính sách tiền tệ sẽ
được tập trung hơn vào đường dẫn dài hạn của tỷ lệ lạm phát và do đó nó sẽ không phản
ứng thái quá với những cú sốc tạm thời. Hai tùy chọn bảo quản khuôn khổ lạm phát mục
tiêu.
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
18
Thứ ba, t riệt để hơn khởi hành từ khuôn khổ hiện tại, sẽ là k ết hợp lạm phát mục tiêu
với thực tế tỷ giá hối đoái nhắm mục tiêu. Chính xác hơn, các ngân hàng trung ương sẽ
thúc đẩy cạnh tranh tỷ giá hối đoái bằng cách thành lập một sàn trượt tỷ giá hối đoái để
ngăn chặn đánh giá cao quá mức (Ros, 2001). Điều này có ngụ ý can thiệp vào thị trường
ngoại hối vào các thời điểm. tỷ giá chạm sàn, nhưn g cho phép tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
khác. Đề nghị là miễn phí từ một số phản đối ch ính thống đã được thực h iện để thực tỷ giá
hối đoái nhắm mục tiêu. Đặc biệt, nó không đòi hỏ i kiến thức đầy đủ hoặc cân bằng tỷ giá
hối đoái thực nhưng chỉ tron g những vùng nguy hiểm, trong đó định giá quá cao bị tổn
thương quá trình tăng trưởng. Điều này là vì theo đề nghị của chúng tôi, Ngân hàng Trung
ương không nhắm mục tiêu một tỷ lệ trao đổi cụ thể nhưng chỉ thiết lập một sàn trên đó là
giá trị, tỷ giá hối đoá i thực tế để di chuyển tự do ở trên ngưỡng này. Hơn nữa, không có
vấn đề với lượng dự trữ cần thiết để bảo vệ tỷ giá kể từ khi Ngân hàng Trung ương chỉ bảo
vệ tầng (trong đó yêu cầu để tích lũy hơn so với làm cạn kiệt dự trữ như sẽ là trường hợp
nếu Ngân hàng Trung ương bảo vệ trần nhà).Tất nhiên, có là 17 bổ sung chính thống phản
đối khi nói đến bảo vệ một sàn tỷ giá hối đoái và điều này là Ngân hàng trung ương có thể
mất kiểm soát cung tiền và điều này có thể hàm ý cho việc đạt được các mục tiêu lạm phát
(đối v ới một cuộc thảo luận đầy đủ hơn xem (Frenkel và Rapetti , 2004).
Vấn đề phát sinh tại thời điểm cung cấp dư thừa n goại tệ như là một kết quả, đặc biệt,
các dòng vốn chảy vào lớn. Nó là đáng chú ý, t uy nhiên, dòng vốn đầu cơ sẽ có xu h ướng
thể ngăn cản được mức độ mà các ngân hàng trung ương rõ ràng báo hiệu rằng nó sẽ ngăn
chặn sự lên giá của đồng nộ i tệ như vậy, ổn định kỳ vọng tỷ giá hố i đoái. Nếu cần thiết,
tuy nhiên, các n gân hàng trung ương có thể áp đặt các quy định về tài khoản vốn vào các
dòng vốn ngắn hạn để thu hồ i kiểm soát về cung cấp t iền
III. Kết luận và hướng nghiên cứu tiếp theo
Hầu h ết các bài n ghiên cứu đều cho là chế độ lạm phát mục tiêu có lợi ích quan trọng
cho cả hai nước phát triển và đang phát triển. Việc thực thi chế độ này có tác dụng tích cực
đối với tăng trưởng kinh tế cho tất cả các nước theo lạm phát mục tiêu. Vì vậy, không có
ngạc nhiên khi nhiều quốc gia từ cả các nước phát triển và đang phát triển thông qua chế độ
lạm phát mục tiêu trong những năm tới.
Để thực h iện đước ch ế độ lạm phát mục tiêu hiệu quả thì phải có những điều kiện nhất
định hay phải có sự đánh đổi là là một mức độ độc lập của ch ính sách t iền tệ và không có
cam kết một mức cụ thể cho tỷ giá hối đoái.
Môn: Tài Chính Quốc Tế - GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo 2012
19
Hướng n ghiên cứu tiếp theo của vấn đề này nên xem xét tác động của chế độ lạm phát
mục tiêu lên chính sách tài khóa của các nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luis Miguel Galindo and Jaime Ros (2008). Alternatives to inflation targeting in
Mexico.
2. Bushra NAQVI and Syed Kumail Abbas RIZVI (2009). Inflation Targeting
Framework: Is the story different for asian economies.
3. Kenneth N.Kuttner and Adam S.Posen (2011). How Flexible Can Inflation Targeting
Be an d Still Work?
4. Salem Abo-Zaid and Didem Tuzemen (2011). Inflation Target ing: A Three-Decade
Perspective.
5. Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano, and Sunil Sharma (1998). Inflation
Targeting as a Framework for Monetary Policy.
6. Irineu de Carvalho Filho (2010). Inf lation Targeting and the Crisis: An Empirical
Assessment
7. Raghbendra Jha (2008). Inflation Targeting in India I ssues and Prospects.
8. Michael Woodford (2011). Inflation tar geting & financial stability
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_3_nhom_3_lam_phat_muc_tieu_final__9695.pdf