Tiểu luận Lịch sử máy tính hiện đại dưới góc nhìn của người sáng tạo khoa học
          
        
            
               
            
 
            
                
                    Qua bài tiểu luận, ta đã điểm qua một số cột mốc quan trọng của 
máy tính, từ sự xuất hiện máy tính cơ học đầu tiên cho đến sự kiện 
tiên đoán của UNIVAC. Ta có thể thấy, sự hình thành và phát triển 
của máy tính là cả một quá trình lâu dài và hàm chứa rất nhiều sự sáng 
tạo, đổi mới. Dưới góc nhìn của một người làm khoa học tài liệu đã 
phân tích, đồng thời chỉ rõ các phương pháp sáng tạo được áp dụng 
cho máy tính, từ đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về các phương pháp 
sáng tạo trong khoa học cũng như sự linh hoạt, uyển chuyển khi áp 
dụng chúng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 18 trang
18 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3012 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lịch sử máy tính hiện đại dưới góc nhìn của người sáng tạo khoa học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
0 
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 
KHOA KHOA HỌC MÁY TÍNH 
BỘ MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
TRONG TIN HỌC 
------------------------------------------ 
Bài tiểu luận 
LỊCH SỬ MÁY TÍNH HIỆN ĐẠI DƯỚI GÓC NHÌN CỦA 
NGƯỜI SÁNG TẠO KHOA HỌC 
 GVHD: GS. TS. Hoàng Văn Kiếm 
 Học viên: Nguyễn Vĩnh Kha 
 MSHV: CH1101096 
 LỚP: CH06 
 KHÓA: 2011-2013 
TP. Hồ Chí Minh – 03/2012 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
1 
Mục lục 
Lời nói đầu ............................................................................................................ 2 
Chương I.Konrad Zuse và máy tính có khả năng lập trình tự do đầu tiên. .......... 4 
Chương II.Atanasoff-Berry: Sự xuất hiện của máy tính điện tử đầu tiên. ........... 8 
Chương III.Howard Aiken và Grace Hopper: Máy tính Havard MARK I ........ 11 
Chương IV.UNIVAC - Tiếng vang đầu tiên của máy vi tính. ............................ 13 
Lời kết ................................................................................................................. 16 
Tài liệu tham khảo ............................................................................................... 17 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
2 
Lời nói đầu 
Trong lịch sử văn minh nhân loại, con người đã chứng kiến những 
phát minh, phát kiến có tầm vóc hết sức to lớn, thay đổi hầu như hoàn 
toàn diện mạo cuộc sống của chúng ta: Công cụ đồ đá đầu tiên, việc sử 
dụng lửa, các máy cơ học, .... cho đến những phát minh vĩ đại thời 
gian gần đây như vệ tinh nhân tạo, các nhà máy điện hạt nhân hoặc 
các tiến bộ trong lĩnh vực sinh học (nhân bản vô tính, sơ đồ gen loài 
người) ... Từng bước, con người ngày càng cải thiện cuộc sống của 
mình nhờ vào các công cụ, thiết bị "hiện đại dần theo thời gian". 
Trong kỉ nguyên "công nghệ - thông tin" hiện nay, máy vi tính 
(computer) đã trở thành một khái niệm phổ cập, mà sự tồn tại của nó 
là không thể tách rời với sự tiến bộ của con người. Bản thân sự hình 
thành và phát triển của máy tính đã là một quá trình chứa đựng rất 
nhiều nỗ lực cũng như óc sáng tạo của nhiều thế hệ con người. Trong 
bài tiểu luận này, ta sẽ điểm qua một số cột mốc quan trọng trong lịch 
sử phát triển máy tính và đưa ra những phân tích dưới góc nhìn của 
một người làm sáng tạo khoa học. 
Trong giới hạn của một bài tiểu luận, người viết xin điểm qua năm 
cột mốc quan trọng của máy vi tính từ năm 1936 (thời điểm máy tính 
cơ học đầu tiên ra đời) đến 1952 (sự kiện máy tính UNIVAC dự đoán 
chính xác kết quả một cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào lúc đó, là sự 
kiện đầu tiên gây tiếng vang cho máy tính - khiến nó trở thành một cái 
tên nổi tiếng trong cộng đồng), tương ứng với 5 chương: 
Chương I. Konrad Zuse và máy tính có khả năng lập trình tự do 
đầu tiên. 
Chương II. Atanasoff-Berry: Sự xuất hiện của máy tính điện tử đầu 
tiên. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
3 
Chương III. Howard Aiken và Grace Hopper: Máy tính Havard 
MARK I. 
Chương IV. UNIVAC - Tiếng vang đầu tiên của máy vi tính. 
Cuối mỗi chương, ta sẽ đưa ra một số nhận xét, đánh giá về những 
phát kiến, thay đổi của máy tính dưới góc nhìn của một người làm 
nghiên cứu khoa học. Các luận điểm, phương pháp được đề cập sẽ dựa 
trên quyển “Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản” của tác giả 
Phan Dũng. 
Trong quá trình soạn thảo tài liệu, người viết không thể tránh khỏi 
những thiếu sót và nhầm lẫn - do vậy rất mong nhận được các ý kiến 
đóng góp từ đọc giả, cũng như quý thầy cô. 
TP.HCM - ngày 13 tháng 04 năm 2012 
Học viên. Nguyễn Vĩnh Kha 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
4 
Chương I. Konrad Zuse và máy tính có khả năng lập trình tự do 
đầu tiên. 
Konrad Zuse (1910-1995) là một kĩ sư xây dựng trong công ty 
Henschel Aircraft ở Berlin, Đức vào giai đoạn đầu của thế chiến thứ 
II. Ông được gọi là "người phát minh ra máy tính hiện đại" nhờ vào 
chuỗi các máy tính tự động mà ông sáng chế ra. 
Một trong những vấn đề khó nhất khi 
thực hiện những tính toán lớn, thậm 
chí là với một cây thước loga hoặc 
một máy tính cơ học là theo dấu tất cả 
các kết quả trung gian và sử dụng 
chúng đúng chỗ trong các bước tính 
toán tiếp theo. Konrad Zuse muốn 
khắc phục khó khăn này. Ông nhận ra 
rằng một thiết bị tính toán tự động 
cần có ba thành phần cơ bản: một bộ 
điều khiển, một bộ nhớ, và thành phần đảm nhận các tính toán số học. 
Vào 1936, Zuse tạo ra một máy tính cơ học với tên gọi Z1, đây 
được xem là máy tính sử dụng cơ số 2 đầu tiên. Zuse đã sử dụng nó để 
thực hiện các khảo sát một số công nghệ nền tảng trong việc phát triển 
máy tính: thuật toán về dấu chấm động, bộ nhớ có trữ lượng lớn, các 
modules cũng như các rowle hoạt động trên nguyên tắc yes/no. Các ý 
tưởng của Zuse mặc dù không được cài đặt đầy đủ vào Z1, nhưng đã 
ngày càng hoàn thiện hơn với 
mỗi mẫu máy tính Z. 
Vào 1939, Zuse hoàn tất Z2, 
máy tính cơ-điện đầy đủ chức 
năng đầu tiên. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
5 
Konrad Zuse hoàn thành Z3 vào 1941, sử dụng các phụ kiện tái chế 
được các đồng nghiệp và sinh viên quyên góp. Đây là máy vi tính số 
đầu tiên có đầy khả năng lập trình và hoạt động bằng điện, chiếc máy 
dựa trên số chấm động nhị phân và hệ thống chuyển mạch. Zuse sử 
dụng các cuộn phim cũ để lưu trữ chương trình và dữ liệu cho Z3, thay 
vì sử dụng băng giấy hay bìa đục lỗ. Trong suốt thời gian chiến tranh, 
giấy vốn được cung cấp rất hạn chế ở Đức. 
Vào 1941, Z3 chứa đựng hầu hết các thành phần của máy tính hiện 
đại, vốn được John von Neumann và các cộng sự của ông thiết kế vào 
1946. Thiếu sót duy nhất là khả năng lưu trữ chương trình trên bộ nhớ 
cùng với dữ liệu. Konrad Zuse đã không cài đặt thiết kế này cho Z3, lý 
do là vì bộ nhớ 64 từ là quá nhỏ để hỗ trợ chế độ làm việc này. Dựa 
trên thực tế rằng ông muốn thực hiện hàng ngàn chỉ thị trong cùng một 
câu lệnh, ông chỉ sử dụng bộ nhớ để lưu trữ các biến và con số. 
Cấu trúc khối của Z3 rất tương đồng với một chiếc máy tính hiện 
đại. Z3 bao gồm các thành phần độc lập, chẳng hạn một thiết bị đọc 
băng giấy, thành phần điều khiển, thành phần số học cho dấu chấm 
động cũng như các thiết bị nhập/xuất. 
Năm 1946, Konrad Zuse đã viết ra ngôn ngữ lập trình đầu tiên và 
đặt tên là 'Plankalkul', đây là ngôn ngữ ông dùng để lập trình các máy 
tính của mình. Sử dụng Plankalkul, Zuse đã viết ra chương trình chơi 
cờ vua đầu tiên trên thế giới. 
Ngôn ngữ lập trình Plankalkul bao gồm các mảng và mẩu tin, nó sử 
dụng một kiểu phép gán (lưu trữ giá trị của một biểu thức trong một 
biến), trong đó giá trị mới nằm ở cột bên phải. Mảng là một tập các 
mục dữ liệu cùng loại được phân biệt bằng chỉ số. Mảng là phương 
pháp tốt nhất khi cần truy xuất theo thứ tự bất kỳ. Ngược lại với danh 
sách, vốn là cách thức tốt nhất khi truy cập tuần tự. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
6 
Các mẫu từ Z1 đến Z3 bị phá hủy trong chiến tranh, cùng với Zuse 
Apparatebau, công ty máy vi tính đầu tiên do Zuse sáng lập vào 1940. 
Ông rời nước Đức đến Zurich để hoàn thành Z4.Ông đã phải lén đưa 
Z4 ra khỏi nước Đức trên một xe tài quân sự. Ông hoàn tất việc xây 
dựng và cài đặt Z4 tại trụ sở khoa toán ứng dụng của học viện bách 
khoa liên bang Zurich. Chiếc máy được sử dụng ở đó cho đến năm 
1955. Z4 sỡ hữu một bộ nhớ cơ học với dung lượng 1024 từ vài đầu 
đọc thẻ. Zuse không còn phải sử dụng băng ghi phim để lưu trữ các 
chương trình của mình; lúc đó ông đã có thể sử dụng các bìa đục lỗ. 
Chiếc máy có thành phần đục lỗ và các thiết bị khác tạo khả năng lập 
trình linh động bao gồm cả dịch địa chỉ và phân nhánh có điều kiện. 
Năm 1949, ông chuyển về lại Đức để thành lập công ty thứ hai tên gọi 
Zuse KG để xây dựng và quảng bá cho các thiết kế của mình. Ông đã 
làm lại mẫu Z3 vào 1960 và Z1 vào 1984. 
Nhận định và phân tích: 
Trong giai đoạn này, ta có thể thấy sự hình thành của chuỗi máy 
tính cơ học đầu tiên đã ứng dụng các phương pháp sáng tạo khoa học 
sau: 
 Nguyên tắc phân nhỏ: Việc Zuse tách một máy tính ra ba 
thành phần riêng biệt - bộ điều khiển, bộ nhớ, và thành phần 
đảm nhận các tính toán số học – rõ ràng đã sử dụng nguyên 
tắc phân nhỏ: Phân nhỏ và tách rời máy tính ra các thành 
phần cơ bản, chuyên môn hóa các thành phần này theo các 
mục đích khác nhau. 
 Nguyên tắc sử dụng trung gian: Việc sử dụng hệ cơ số 2 cho 
máy tính chính là biểu hiện của nguyên tắc sử dụng trung 
gian. Cơ số thập phân – đối với con người vốn là cơ số dễ 
thao tác và thân thiện – nhưng với máy tính lại không phải là 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
7 
giải pháp tối ưu. Vậy nên, thay vì sử dụng trực tiếp cơ số 
thập phân cho máy tính, ông đã quyết định cài đặt cơ số nhị 
phân. Đây chính là sử dụng một yếu tố trung gian để đạt 
được hiệu suất cao nhất. 
 Nguyên tắc “rẻ” thay cho “đắt”: Do trong thời gian chiến 
tranh chi phí cho các thiết bị máy tính tăng cao, việc sử dụng 
các thẻ đục lỗ khá đắt đỏ, Zuse giải quyết vấn đề bằng cách 
sử dụng chất liệu thay thế. Mặc dù không cho hiệu suất tốt 
như các thẻ đục lỗ, nhưng các cuộn phim cũ lại có ưu thế về 
mặt kinh tế, điều đó hoàn toàn có thể chấp nhận được vào 
thời điểm ấy. Đây rõ ràng là biểu hiện của nguyên tắc “rẻ” 
thay cho “đắt”. 
 Nguyên tắc tách khỏi: Sự kiện không lưu trữ chương trình 
trên bộ nhớ cùng với dữ liệu là một biểu hiện của nguyên tắc 
tách khỏi: tách thành phần không quá quan trọng ra khỏi giải 
pháp mong muốn. Thật sự Zues hoàn toàn có thể thực hiện 
theo đúng thiết kế ban đầu, nhưng do nhận thấy không tối ưu 
so với hiện trạng lúc đó nên ông đã quyết định một cách cài 
đặt khác. 
 Nguyên tắc sử dụng trung gian: Xét về mặt mục đích, ngôn 
ngữ lập trình được xem như đối tượng trung gian, cho phép 
lập trình viên thao tác dễ dàng – bài bản hơn với phần cứng 
máy tính. Việc sử dụng ngôn ngữ lập trình thực sự là biểu 
hiện của nguyên tắc sử dụng trung gian: Sử dụng đối tượng 
dễ thao tác hơn làm cầu nối với đối tượng khó thao tác. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
8 
Chương II. Atanasoff-Berry: Sự xuất hiện của máy tính điện tử đầu 
tiên. 
Giáo sư John Atanasoff và nghiên cứu sinh Clifford Berry chế tạo 
thành công chiếc máy tính điện tử kỹ thuật số đầu tiên trên thế giới tại 
Đại Học bang Iowa từ năm 1939 đến năm 1942. Các máy tính 
Atanasoff-Berry đại diện cho một số đổi mới trong tính toán, bao gồm 
hệ thống nhị phân của số học, xử lý song song, bộ nhớ tái sinh, và sự 
tách biệt giữa bộ nhớ máy và các chức năng tính toán. 
“Đó là vào một buổi tối 
phóng xe 100 m/h với rượu 
Scotch” John Atanasoff nói 
với các phóng viên, “khi các 
khái niệm hình thành, một 
cỗ máy vận hành bằng điện 
năng sử dụng hệ nhị phân 
(hai số) thay vì hệ mười chữ 
số, bộ nhớ ngưng, và quá 
trình tái sinh để ngăn cản mất bộ nhớ từ việc bị cúp điện”. 
Vào cuối năm 1939, John Atanasoff hợp tác với Clifford Berry để 
xây dựng một mẫu thử nghiệm. Họ tạo ra các máy tính đầu tiên sử 
dụng điện năng, ống chân không, số nhị phân và tụ điện. Các tụ điện 
nằm trong một trụ quay hình ống tích điện trữ cho bộ nhớ. Một Berry 
thông minh và sáng tạo, với kiến thức chuyên về điện tử và các kỹ 
năng cơ khí xây dựng, là đối tác lý tưởng cho Atanasoff. Mẫu thử 
nghiệm này đã giành được một khoản trợ cấp 850 đô la để xây dựng 
bản hoàn chỉnh. Sản phẩm cuối cùng có kích cỡ của một bàn làm việc, 
nặng 700 pounds, có hơn 300 ống chân không, với dây dài 1 dặm. Nó 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
9 
có thể tính toán một phép tính mỗi 15 giây, một máy tính ngày nay có 
thể tính toán 150 tỷ phép 
tính trong 15 giây. 
John Atanasoff đã viết 
hầu hết các khái miệm 
của máy tính hiện đại đầu 
tiên ở mặt sau của một 
khăn ăn cocktail. Ông rất 
thích lái xe nhanh trong 
khi uống scotch. 
Nhận định và phân tích: 
Trong giai đoạn mở đầu của máy tính điện tử, ta có thể thấy biểu 
hiện của các phương pháp sáng tạo khoa học sau: 
 Nguyên tắc thay thế sơ đồ cơ học: Máy tính, trong giai đoạn 
đầu được thiết kế và cài đặt hoàn toàn theo hướng cơ học 
nhưng trong giai đoạn này John Atanasoff đã quyết định xây 
dựng một máy tính điện tử kỹ thuật số. Việc áp dụng công 
nghệ điện tử cho máy tính không những tăng hiệu suất của 
máy mà còn giảm tải sự cồng kềnh và chi phí vận hành. Ta 
hoàn toàn có thể nói đây chính là biểu hiện của nguyên tắc 
thay thế sơ đồ cơ học. 
 Nguyên tắc liên tục tác động có ích: Việc áp dụng phương 
thức xử lý song song cho Atanasoff-Berry chính là hướng 
tiếp cận theo nguyên tắc liên tục tác động có ích: cỗ máy 
được thiết kế hướng đến mục tiêu “tất cả các thành phần đều 
phải hoạt động đồng thời – không nên có thành phần nào 
ngưng nghỉ trong quá trình hoạt động”. Khả năng tăng năng 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
10 
suất và tiết kiệm thời gian, chi phí vận hành là không thể phủ 
nhận khi ta áp dụng nguyên tắc này. Ngày nay hầu hết các 
máy tính đều được thiết kế để có thể thực hiện xử lý song 
song một lúc nhiều tác vụ. 
 Nguyên tắc tự phục vụ và nguyên tắc dự phòng: Việc áp 
dụng tụ điện để tự nạp điện cho bộ nhớ, phòng ngừa khả 
năng mất mát dữ liệu do cúp điện thực sự là một cải tiến 
trong thiết kế của Atanasoff-Berry, từ đó sản sinh ra khái 
niệm bộ nhớ tái sinh. Với thiết kế này, chiếc máy có khả 
năng tự phục vụ bản thân và ngăn ngừa bất trắc xảy ra – đây 
chính là minh chứng cho việc áp dụng đồng thời hai nguyên 
tắc: nguyên tắc phục vụ và nguyên tắc dự phòng. 
 Nguyên tắc thay đổi độ trơ: Với cỗ máy của mình, Atanasoff 
và Berry đã sử dụng một kỹ thuật khá phổ biến hiện nay là 
dùng các ống chân không. Khéo léo sử dụng những tiến bộ 
công nghệ đương thời trong sản phẩm của mình, hai người 
đã cho ra một chiếc máy có độ bền cao hơn và hiệu suất tốt 
hơn. Sử dụng chân không trong các thiết bị chính là cách 
thức tiếp cận theo nguyên tắc thay đổi độ trơ. 
 Nguyên tắc sử dụng các vật liệu hợp thành (composite): Về 
mặt kĩ thuật, tụ điện là một linh kiện điện tử thụ động tạo bởi 
hai bề mặt dẫn điện được ngăn cách bởi điện môi. Sử dụng 
đồng thời nhiều vật liệu trong một đơn vị linh kiện rõ ràng là 
ứng dụng của nguyên tắc sử dụng các vật liệu hợp thành. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
11 
Chương III. Howard Aiken và Grace Hopper: Máy tính 
Havard MARK I 
Howard Aiken và Grace Hopper thiết kế chuỗi máy MARK tại đại 
học Havard. Sê-ri MARK bắt đầu vào năm 1944 với mẫu đầu tiên là 
MARK I. Hãy tượng tượng về một căn phòng khổng lồ đầy tiếng ồn, 
các thành phần kim loại va vào nhau lách cách, một căn phòng dài 55 
feet và cao tới 8 feet. Với trọng lượng 5 tấn, thiết bị khổng lồ này bao 
gồm gần 760 ngàn thành phần. Chiếc máy được hải quân Mỹ sử dụng 
cho việc chế tạo đại bác và đạn đạo, MARK I được sử dụng cho đến 
năm 1949. 
Cỗ máy được điều khiển bởi các cuộn giấy được đục lỗ trước, có 
thể thực hiện các phép toán cộng, trừ, nhân, chia và tham chiếu đến 
các kết quả tính toán trước đó. Nó có các chương trình con phục vụ 
cho các tính toán liên quan đến logarit, lượng giác và sử dụng bộ số 
thập phân dài 23 chữ số. Dữ liệu được lưu trữ và tính toán hoàn toàn 
cơ học thông qua 3000 bánh răng bộ nhớ thập phân, 1400 bộ ngắt 
mạch vòng và 500 dặm dây điện. Các rờ le điện tử khiến nó được xếp 
vào danh sách các máy tính rờ le. Tất cả đầu ra được hiển thị trên một 
máy đánh chữ hoạt động bằng điện. Theo tiêu chuẩn hiện nay, MARK 
thực sự là chậm, nó cần 3 đến 5 giây để thực hiện một phép nhân. 
Vào 1949, Grace Hopper bắt đầu nghiên cứu cho công ty Máy tính 
Eckert-Mauchly, ở đây, bà đã thiết kế một trình biên dịch cải tiến và 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
12 
trở thành một thành viên 
của đội ngũ phát triển 
Flow-Matic, được xem là 
trình biên dịch xử lý dữ 
liệu bằng tiếng anh đầu 
tiên. Bà cũng là người 
phát minh ra ngôn ngữ 
APT và thẩm định ngôn 
ngữ COBOL. 
Nhận định và phân tích: 
Trong giai đoạn của Havard MARK I, các phương pháp sáng tạo 
khoa học sau đã được ứng dụng: 
 Nguyên tắc sử dụng trung gian: Sự kiện Grace Hopper thiết 
kế một trình biên dịch cải tiến có thể xem là một biểu hiện 
của nguyên tắc này: trình biên dịch thực thi chức năng diễn 
dịch lại các mã lệnh do lập trình viên nhập vào thành các mã 
lệnh theo ngôn ngữ máy. Sử dụng trình biên dịch làm thành 
phần giao tiếp trung gian giữa ngôn ngữ lập trình và ngôn 
ngữ máy hiện là một khái niệm cơ bản mà bất cứ lập trình 
viên nào hiện nay đều nắm rõ. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
13 
Chương IV. UNIVAC - Tiếng vang đầu tiên của máy vi tính. 
Máy tính tự động vạn năng - (Universal Automatic Computer) hay 
UNIVAC là một cột mốc quan trọng trong lịch sử máy vi tính.Chiếc 
máy được tạo ra bởi tiến sĩ Presper Eckert và John Mauchly, đây vốn 
là team phát minh ra máy tính ENIAC. 
John Presper Eckert và John Mauchly, sau khi rời khỏi môi trường 
giáo dục của trường kỹ thuật Moore để bắt đầu sự nghiệp kinh doanh 
của riêng mình, tìm được khách hàng đầu tiên là cục dân số liên bang 
Mỹ. Đơn vị này cần một máy tính mới để giải quyết vấn đề bùng nổ 
dân số đang diễn ra trên toàn liên bang (bắt đầu với quả bom trẻ sơ 
sinh nổi tiếng ở Mỹ vào thời điểm đó). Tháng 4 năm 1946, một khoản 
tiền trị giá 300 ngàn đô la được giao cho Eckert và Mauchly cho mục 
đích nghiên cứu một máy tính mới - UNIVAC. 
Cỗ máy được thiết kế theo các đặc tả dưới đây: 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
14 
 UNIVAC có khả năng thực hiện một phép cộng trong 120 
micro giây, phép nhân trong 1800 micro giây và phép chia trong 3600 
micro giây 
 Đầu vào gồm băng ghi từ tính với tốc độ đọc 12800 ký tự 
mỗi giây - tương ứng với khả năng đọc dải băng dài 100 inch trong 
một phút, với mật độ 20 ký tư/inch. Nó còn bao gồm một thiết bị 
chuyển từ thẻ đục lỗ sang băng ghi với tốc độ 240 thẻ mỗi phút, cho 
phép thẻ đục lỗ 80 cột đưa vào 120 ký tự mỗi inch, cuối cùng là thiết 
bị cho phép chuyển dải giấy đục lỗ sang băng ghi từ tính với tốc độ 
200 ký tự một giây. 
 UNIVAC hỗ trợ nhiều dạng thiết bị đầu ra: 
 Băng ghi từ tính: tốc độ ghi 12800 ký tự/giây. 
 Uniprinter: tốc độ ghi 10-11 ký tự/giây. 
 Máy in tốc độ cao: 600 dòng mỗi phút. 
 Bộ chuyển từ băng ghi sang thẻ: 120 thẻ mỗi phút 
 Bộ nhớ đệm Rad Lab với tốc độ 60 từ mỗi phút. 
Trong một lần trình diễn, UNIVAC được dùng để dự đoán kết quả 
của cuộc chạy đua vào nhà Trắng giữa hai ứng viên Eisenhower và 
Stevenson. Chiếc máy đã dự đoán đúng rằng Eisenhower sẽ đắc cử, 
nhưng các cơ quan truyền thông đã phủ nhận dự đoán của UNIVAC 
và khẳng định rằng nó bị hỏng. Đến khi cuộc bầu cử có kết quả chính 
thức, mọi người nhận ra rằng một máy tính có thể dự đoán được điều 
mà một nhà dự đoán chính trị không thể ngờ được. Cái tên UNIVAC 
nhanh chóng được người người biết đến. Chiếc máy UNIVAC nguyên 
bản hiện đang được giữ ở học viện Smithsonian. 
Nhận định và phân tích: 
Sự ra đời của UNIVAC đánh dấu một cột mốc quan trọng trong 
lịch sử máy tính hiện đại, không những vì hiệu suất làm việc tuyệt vời 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
15 
của nó so với các đời máy trước mà còn do nó được xem là một hình 
tượng quảng bá mẫu mực và đầu tiên cho khả năng của một máy vi 
tính. Về mặt sáng tạo, các phương pháp sau đã được ứng dụng trong 
quá trình xây dựng UNIVAC: 
 Nguyên tắc thay thế sơ đồ cơ học: John Presper Eckert và 
John Mauchly đã chuyển từ việc sử dụng thẻ đục lỗ sang 
băng ghi cho các thiết bị nhập/xuất. Việc thay thế này không 
những nâng cao hiệu suất làm việc của máy, cải thiện tuyệt 
vời tốc độ đọc/ghi mà còn giúp cho kích thước của máy trở 
nên tinh giản hơn. Đây là một thành công của việc ứng dụng 
nguyên tắc thay thế sơ đồ cơ học. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
16 
Lời kết 
Qua bài tiểu luận, ta đã điểm qua một số cột mốc quan trọng của 
máy tính, từ sự xuất hiện máy tính cơ học đầu tiên cho đến sự kiện 
tiên đoán của UNIVAC. Ta có thể thấy, sự hình thành và phát triển 
của máy tính là cả một quá trình lâu dài và hàm chứa rất nhiều sự sáng 
tạo, đổi mới. Dưới góc nhìn của một người làm khoa học tài liệu đã 
phân tích, đồng thời chỉ rõ các phương pháp sáng tạo được áp dụng 
cho máy tính, từ đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về các phương pháp 
sáng tạo trong khoa học cũng như sự linh hoạt, uyển chuyển khi áp 
dụng chúng. 
TP.HCM - ngày 13 tháng 04 năm 2012 
Học viên. Nguyễn Vĩnh Kha 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC 
17 
Tài liệu tham khảo 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ch1101096_khanv_baitieuluan_ppnckhtth_9323.pdf ch1101096_khanv_baitieuluan_ppnckhtth_9323.pdf