Sự chuyển giao các công trình nước ngoài xây dựng theo hợp tác song phương hay đa phương sau khi hoàn tất hoặc cơ bản hoàn thành cho phía Việt Nam, việc khai thác các công trình này tạo ra sự phát triển kinh tế phụ thuộc ở Việt Nam. Muốn có kết quả tốt từ các dự án này cần có mục tiêu và phương hướng ban đầu đúng đắn. Vốn ODA là nguồn phát triển cơ sở hạ tầng và các hạng mục đời sống. Việc sử dụng đúng chỗ đúng mục đích, thời gian là rất quan trọng, nó quyết định sự thành bại của nền kinh tế và khả năng trả nợ của nước ta.
Tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản thúc đẩy quá trình tạo ra giá trị thặng dư, nhưng với nguồn vốn ODA thời gian của một vòng chu chuyển là rất dài. 10 năm, 20 năm, 30 năm nó được đánh giá qua bộ mặt kinh tế xã hội – nơi nó đầu tư vào và được đánh giá bởi sự lớn mạnh kinh tế xã hội nơi được đầu tư về cơ sở vật chất hạ tầng. Sự tuần hoàn của nó kéo dài và lồng ghép song song. Đầu tư vào cái này để thúc đẩy cái còn lại. Nhìn chung cần khai thác và sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả nhất, làm cho vốn quay vòng nhanh và thu hồi được nguồn vốn ban đầu nhanh nhất có thể.
40 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 9432 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó đối với hoạt động huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh thái là TB tiền tệ, TB sản xuất, TB hàng hoá.
1.2 Sự thống nhất của 3 hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp.
Quá trình vận động của tư bản chủ nghĩa trải qua 3 giai đoạn, tư bản lần lượt khoác lấy 3 hình thái: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa. Mỗi một hình thái đều có thể xem là điểm xuất phát, đồng thời là điểm hồi quy của nó. Tư bản công nghiệp là loại hình tư bản vận động đồng thời cùng một lúc dưới cả 3 dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất, tuần hoàn của tư bản hàng hóa. Sau đây, ta đi sâu xem xét cụ thể từng dạng tuần hoàn đó.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ vận động theo công thức:
SLĐ
T – H …SX… H’ – T’
TLSX
Theo tuần hoàn này điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’ ( với T’ > T). Do đó tuần hoàn của tư bản tiền tệ biểu thị một cách rõ rệt nhất động cơ và mục đích của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền lớn hơn. Trong tuần hoàn này T là phương tiện ứng ra trong lưu thông và T’ là mục đích đạt được trong lưu thông nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn, còn giai đoạn sản xuất chỉ là khâu trung gian không thể tránh được, chỉ là một “tai vạ” cần thiết để làm ra tiền, để tăng thêm giá trị. Chính vì vậy mà hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất của tuần hoàn tư bản công nghiệp, đồng thời cũng là hình thức phiến diện nhất, che dấu bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất vận động theo công thức :
SX…H’ – T’ – H … SX
Tuần hoàn tư bản sản xuất nói lên sự vận động của tư bản được lặp đi lặp lại, theo chu kỳ của tư bản sản xuất. Ở đây tư bản hàng hóa được sinh ra từ quá trình sản xuất. còn tư bản tiền tệ chỉ là phương tiện mua, chuẩn bị các điều kiện cho sản xuất, tức chỉ làm điều kiện cho tư bản hàng hóa chuyển thành tư bản sản xuất. Tuần hoàn tư bản sản xuất đã vạch rõ nguồn gốc của tư bản đều tư sane xuất mà ra. Dù trong quá trình tái sản xuất giản đơn, hay trong quá trình tái sản xuất mở rộng. Nhưng tuần hoàn của tư bản sản xuất lại không biểu thị được việc sản xuất ra giá trị thặng dư, vì nó không hề chỉ ra mục đích của quá trình làm gia tăng thêm giá trị. Ở đây mục đích chỉ là sản xuất thật nhiều, thật rẻ và nó cũng không nói rõ sẽ có hiện tượng sản xuất thừa tương đối.
Tuần hoàn của tư bản hàng hóa
Tuần hoàn của tư bản hàng hóa vận động theo công thức:
H’ – T’ – H…SX… H’
Khác với mọi hình thái tuần hoàn trên tuần hoàn của tư bản hàng hóa có điểm xuất phát bao giờ cũng là H’ – Một giá trị tư bản ứng trước đã chứa đựng giá trị thặng dư. Bởi vậy, tuần hoàn của tư bản hàng hóa có những đặc điểm sau:
Một là: nó biểu thị hình thái hàng hóa được sản xuất từ trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa.Nên nó bao hàm cả tiêu dung trong sản xuất và tiêu dung cá nhân.
Hai là: điểm kết thúc của quá trình vận động là H’ vẫn dưới hình thái là hàng hóa. Nó chưa được chuyenr hóa lại thành tiền đã tăng thêm giá trị T’. Bởi vậy nó sẽ là một hình thái chưa hoàn thành, nó còn phải tiếp tục vận động,nên nó bao gồm quá trình tái sản xuất.
Ba là: tuần hoàn tư bản của hàng hóa làm nổi bật sự lien tục của lưu thông. Điểm bắt đầu tuần hoàn H’, ddiemr kết thúc tuần hoàn cũng là H’, điểm bắt đầu tuần hoàn đỏi hỏi lưu thông, thì điểm điểm kết thúc cũng đòi hỏi một quá trình lưu thông mới.
Bốn là: hình thái tuần hoàn tư bản hàng hóa còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau. Bởi ai nấy cũng đều sản xuất hàng hóa rồi ném chúng vào lưu thông để thu tiền về sẽ gặp nhiều khó khăn hơn và quá trình sản xuất tiếp theo sẽ bị hạn chế lại.
Tóm lại nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn thì mỗi hình thái chỉ phản ánh hiện thực nền sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện. Fo đó khi làm nổi bật bản chất này thì lại che dấu mặt bản chất khác của sự vận động của tư bản công nghiệp. Vì vậy ta phải xem xét đồng thời cả ba hình tái tuần hoàn mới hiểu hết được đầy đủ sự vận động của tư bản, mới hiểu được bản chất của mối quan hệ tư bản chủ nghĩa đưpcj biểu hiện trong sự vận động đó.
Trong thực tế, chỉ có sự thống nhất cả ba hình thái tuần hoàn thì quá trình vận động mới có thể tiến hành một cách lien tục không ngừng. Tuần hoàn của tư bản chỉ được tiến hành bình thường khi cả ba giai đoạn chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một gia đoạn nào đó bị ngừng trệ thi toàn bộ quá trình tuần hoàn sẽ bị phá hoại.
Lý luận chu chuyển tư bản
Sự vận động biến hóa hình thái của tư bản không chie diễn ra một lần mà nó không ngừng lặp đi lặp lại đó chính là chu chuyển của tư bản.
Chu chuyển tư bản chính là sự lặp đi lặp lại của tư bản có tính định kỳ.
Thời gian chu chuyển của tư bản
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian từ khi tư bản được ứng ra dưới một hình thái nào đó cho đén khi thu về cũng dưới hình thái ấy, nhưng có kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển tư bản chính là khoảng thời gian mà tư bản trải qua các giai đoạn lưu thông và sản xuất trong quá trình tuần hoàn. Nó bao gồm thời gian lưu thông cộng thời gian sản xuất.
Thời gian sản xuất
Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất bao gồm:
Thời gian lao động, tức là thời gian người lao động sử dụng tư liệu tác đọng vào đối tượng lao động để tạ ra sản phẩm. Đây là thời gian duy nhất tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Thời gian gián đoạn lao động, tức là thời gian đối tượng lao động bán ra thành phẩm, chịu sự tác động của thiên nhiên mà không cần tác động của con người vào. Ví dụ: ngâm thóc giấm thành mạ gieo,gạch để phơi khô, gạo để ủ men…
Thời gian dự trữ sản xuất, tức thời gian tư bản sản xuất đã sẵn sang làm điều kiện cho quá trình sản xuất, nhưng chưa đưa vào sản xuất. Bộ phận tư bản này là tư bản ở góa, nó là điều kiện cho quá trình sản xuất không ngừng.
Thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất không tạo ra giá trị thặng dư. Do đó rút ngắn các thời gian này là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình sản xuất ra hàng hóa.
Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn do tác động của nhiều nhân tố, chủ yếu là bốn nhân tố sau:
Một là: tính chất của nghành sản xuất.
Hai là: vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.
Ba là: Trình độ phát triển của khoa học ký thuật cai hay thấp.
Bốn là: Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu.
Thời gian lưu thông
Thời gian lưu thông là thời gian mà tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Thời gian lưu thông dai fhay ngắn sẽ làm cho quá trình sản xuất được lặp đi lặp lai nhanh hay chậm, khối lượng tư bản làm chức năng tư bản sản xuất được nhiều lần hay ít, do đó hiệu quả tư bản tức là việc sản xuất ra giá trị thặng dư cao hay thấp.
Thời gian lưu thông bao gồm thời gian mua và thời gian bán, trong đó thời gian bán là quan trọng hơn và khó khăn hơn. Thời gian lưu thông phụ thuộc vào ba nhân tố sau:
Một là: tình hình thị trường.
Hai là: giao thông và phương tiện giao thông.
Ba là: khoảng cách thị trường.
Số vòng chu chuyển của tư bản
Do chịu ảnh hưởng của hàng loạt các nhân tố nên thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của các tư bản không thể giống nhau. Do đó thời gian chu chuyển của tư bản trong các nghành khác nhau cũng như trong cùng một nghành rất khác nhau.
Thời gian chu chuyển của tư bản dài, ngắn khác nhau như vậy, nên muốn tinhd toán so sánh với nhau người ta tính tốc độ chu chuyển của các tư bản trong một thời gian nhất định(một năm) xem tư bản đã quay được mấy vòng. Ta có công thức tính số vòng chu chuyển của tư bản như sau:
n = CH/ch
Trong đó n: số vong chu chuyển của tư bản.
CH: thời gian một năm
Ch: thời gian chu chyển một vong của tư bản
Thí dụ: một tư bản chu chuyển mootn vòng mất 6 tháng thi số vòng chu chuyển sẽ là n = 12 tháng/6 tháng.Vậy số vòng chu chuyển của tư bản sẽ là 2 vòng.
Tư bản cố định và tư bản lưu động
Thời gian chu chuyển tư bản bao gồm thời gian chu chuyển của các bộ phận tư bản ứng ra để sản xuất. Nhưng do phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản không giống nhau, nên vòng chu chuyển của bọn chúng cũng rất khác nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản, người ta phân chia bộ phận tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định
Tư bản cố định là tư bản tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phàn sang sản phẩm.
Tư bản cố định trước hết là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) trong quá trình sản xuất nó chuyển dần giá trị vào sản phẩm. Phần giá trị cố định như vậy trong tư liệu lao động không ngừng giảm cho đén khi tư liệu lao động không dùng được nữa. Tư liệu lao động càng bền, càng chậm hao mòn bao nhiêu thì thì giá trị của nó càng được biểu hiện dưới hình thức sử dụng lâu bấy nhiêu.
Xếp vào bộ phận tư bản cố định còn có bộ phận tư bản chất dung để cải taojddaats có tác dụng lâu daiftrong nhiều chu kỳ sản xuất… giá trị của nó cũng được chuyển dần vào sản phẩm.
Tư bản lưu động
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến tiêu dung trong quá trình sản xuất như nguyên liệu, phụ liệu, nhiên liệu… và bộ phận tư bản khả biến (v) cũng có phương thức chuyển dịch giá trị như trên, nên cũng được xếp vào tư bản lưu động. Việc phân chia tư bản sản xuất thành các bộ phận tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ có tính chất tương đối. Vì có những tư liệu sản xuất khi là tư bản cố định khi là tư bản lưu động tùy theo chức năng của nó trong quá trình sản xuất.
Thí dụ, trâu bò dùng trong việc kéo cày là tư bản cố định nhưng trâu bò dung để giết thịt thì lại là tư bản lưu động.
Hao mòn hữu hình vào hao mòn vô hình.
Trong qúa trình sản xuất tư bản cố định bị hao mòn dần về mặt giá trị sử dụng. Đi đôi với quá trình hao mòn về vật chất, giá trị của nó cũng giảm dần do chuyển từng phần sang sản phẩm. Quá trình hao mòn về mặt giá trị đó gọi là hao mòn hữu hình (hao mòn do sử dụng trong sản xuất, do phá hoại của thiên nhiên sinh ra như máy móc bị han rỉ).
Ngoài hao mòn hữu hình, tư bản cố định còn bị hao mòn vô hình, tức là hao mòn thuần túy về mặt giá trị, hao mòn vô hình do các nguyên nhân sau gây ra:
Một là: Do năng suất lao động tăng lên làm giảm giá trị của các máy móc cũ tuy giá trị sử dụng của chúng vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới gao mòn một phần.
Hai là: Do tiến bộ của khoa học kỹ thuật giúp con người sản xuất được những máy móc tối tân hơn, công suất cao hơn các máy cũ. Vì vậy, làm cho máy cũ tuy giá trị sử dụng vẫn còn nguyên vẹn, nhưng giá trị của nó lại bị giảm đi nhiều.
Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của tư bản cố định đều được tính chuyển giá trị vào sản phẩm hình thành nên quỹ khấu hao dung để đổi mới tư bản cố định. Để phát huy hiệu quả của tư bản, quỹ này có thể được đưa ra mua sắm thêm máy móc để mở rộng sản xuất theo chiều rộng hoặc cải tiến máy móc nhằm tăng thêm hiệu suất (phát triển theo chiều sâu).
Tư bản cố định phải được bảo quản chu đáo để tránh những hao mòn bất thường, nâng cao hiệu quả sử dụng của nó. Ngoài việc bảo quản tư bản cố định phải được bảo dưỡng, tu bổ, sửa chữa có định kỳ. Những phí dung cho việc bảo quản, sửa chữa cố định đó được tính vào giá cả sản phẩm sản xuất ra. Trong quá trình sản xuất, để hạ được giá thành sản phẩm cần hết sức tránh những hao mòn vô ích trên đây.
Tác dụng và phương pháp làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản
Trong quá trình sản xuất, tổng tư bản ứng trước cần được tăng tốc độ chu chuyển. Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Theo công thức sau:
Giá trị chu Giá trị chu chuyển
Tốc độ chu chuyển của tư bản cố định + của tư bản lưu động
chuyển của tổng =
tư bản ứng trước Tổng số tư bản úng trước (trong năm)
Thí dụ: tổng số tư bản ứng trước là 100.000 USD. Trong đó: tư bản cố định là 80.000 USD được sử dụng trong vòng 10 năm. Tư bản lưu động là 20.000 USD cứ hai tháng chu chuyển một lần. Vậy tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước bằng:
(80.000 USD :10) + (20.000 x 6) 128.000
= = 1,28 lần.
100.000 100.000
Có thể rút ra nguyên lý: tốc độ chu chuyển của tư bản ứng trước tỷ lệ thuận với tổng giá trị của tư bản cố định và tư bản lưu động, tỷ lệ nghịch với giá trị của tổng tư bản ứng trước. Vì vậy tăng tốc độ của tư bản sẽ làm tăng được hiệu quả sản xuất,có thể tránh được thiệt hại do hao mòn vô hình và tăng được quỹ khấu hao vào việc mở rộng và cải tiến sản xuất.
Đặc biệt đối với tư bản lưu động, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản có ý nghĩa rất lớn. Như đối với bộ phận bất biến lưu động (nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu…) nếu chu chuyển nhanh sẽ tiết kiệm được tư bản ứng trước. Hoặc đối với tư bản khả biến lưu động việc tăng tốc độ chu chuyển tư bản càng hết sức quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định làm tăng thêm giá trị thặng dư.
Thí dụ: có hai tư bản A và B, có lượng tư bản khả biến ứng ra bằng nhau là 20.000 USD có tỷ suất giá trị thặng dư như nhau m’ = 100%. Nhưng tư bản A mỗi năm chu chuyển được một vòng, tư bản B mỗi năm chu chuyển được hai vòng. Kết quả:
Số lượng giá trị thặng dư tư bản A thu được:
20.000 USD x 100% = 20.000 USD
Số lượng thặng dư tư bản B thu được
(20.000 USD x 2) x 100% = 40.000 USD
Vậy số lượng giá trị thặng dư hai tư bản thu được là khác nhau và tỷ suất giá trị thặng dư hằng năm của hai tư bản cũng khác nhau. Cụ thể:
Tỷ suất giá trị thặng dư của tư bản A bằng:
m’(A) = 20.000/20.000 x 100% = 100%
Tỷ suất giá trị thạng dư hằng năm của tư bản B bằng:
m’(B) = 40.000/20.000 x 100% = 200%
Rút ra nhận xét: hai tư bản khả biến ứng trước như nhau, nhưng có tốc độ chu chuyển khác nhau, vì vậy tư bản khả biến sử dụng cũng khác nhau và mặc dù tỷ suất giá trị thặng dư thực tế bằng nhau nhưng tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm khác nhau.
Thời gian chu chuyển của tư bản của tư bản gồm có thời gian sản xuất và thời gian lưu thông, nên muốn tăng tốc đọ chu chuyển của tư bản càn hết sức rút ngắn được các thời gian đó.
Phương pháp để rút ngắn thời gian sản xuất thực hiện bằng cách áp dụng kỹ thuật mới, cải tiến cách thức sản xuất, mở rộng phạm vi phân công hiệp tác, cải tiến tổ chức quản lý lao động, tăng cường lao động… Có như vậy mới rút ngắn được thời gian lao động, rút ngắn quá trình tác động của tự nhiên vào đối tượng lao động, rút ngắn được thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lưu thông có thể rút ngắn bằng cách cải tiến chất lượng hàng hóa,cải tiến mặt hàng, cải tiến mạng lưới và phương thức bán hàng. Đặc biệt phải phát triển mạnh nghành giao thông vận tải, tăng cường việc thông tin quảng cáo dưới nhiều hình thức khác nhau…
Tóm lại lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản vạch rõ sự vận động cá biệt về cả mặt chất và lượng vận động của tư bản. Đồng thời lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản vạch rõ những phương thức chuyển dịch giá trị các bộ phận tư bản cấu thành nên tư bản sản xuất. Trên cơ sở đó lý luận tuần hoàn tư bản đã rút ra những nguyên lý luận, những phương pháp tổ chức quản lý thích hợp nhằm rút ngắn thời gian sản xuất ra sản phẩm, tăng vòng quay của tư bản… Đó cũng là những bài học vận dụng quý báu trong sản xuất kinh doanh đối với chúng ta hiện nay.
CHƯƠNG 2
Ý nghĩa thực tiễn việc nghiên cứu ý lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản với quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thế giới đang đứng trước nhiều biến động phưc tạp,trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn thử thách. Đảng và chính phủ ý thức rõ được tầm quan trọng của việc vận dụng lý luận kinh tế chính trị Mac – Leenin vào quá trình xây dựng kinh tế nhà nước. Ứng dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản vào vấn đề huy động và sử dụng vốn là hết sức cần thiết và cấp bách cần làm trước tiên.
Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu học thuyết tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác vào quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Ứng dụng thực tế của học thuyết
Trong thực tế, tư bản công nghiệp cũng vận động theo công thức:
TLSX
H-T …SX…H – T’
SLĐ
Và khi xem xét ứng dụng thực tế của công thức này cần xem xét qua ba giai đoạn:
Giai đoạn 1 TLSX
T – H
SLĐ
Giai đoạn này các doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, tuy nhiên việc mua này không thể diễn ra một cách tùy tiện. Đối với các doanh nghiệp, mục tiêu của họ là tối đa hóa lợi nhuận, do vậy điều quan trọng nhất là tối thiểu hóa chi phí sản xuất. Việc lựa chọn phương thức tối ưu trong khi mua tư liệu sản xuất và sức lao động là hết sức cần thiết.
Giai đoạn 2
TLSX
H …SX…
SLĐ
Trong giai đoạn thứ 2, các doanh nghiệp chú trọng vào khâu sản xuất. Nếu quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả thì sẽ được thể hiện ở hiệu quả sản xuất, ở chất lượng sản phẩm. Hơn thế nữa, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả còn giúp các doanh nghiệp rút ngắn được thời gian chu chuyển tư bản, khiến cho vốn quay vòng nhanh, tiết kiệm được tư bản ứng trước và cho phép tăng quy mô sản xuất. Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình vì thế mà cũng sẽ được giảm bớt do các yếu tố khách quan khác tác động.
Giai đoạn 3
H’…T’
Doanh nghiệp chú trọng vào lưu thông và tiêu thụ sản phẩm. Để có thể rút ngắn thời gian tiêu thụ sản phẩm cần phải có biện pháp xúc tiến thích hợp như các chiến lược Maketing độc đáo, sẽ làm tăng doanh thu, giảm chi phí lưu thông và đạt được hiệu quả của một tư bản cao nhất.
Đối với tư bản tài chính, trên thực tế chủ yếu biểu hiện ở các hoạt động của các tư bản thương mại, hoạt động theo công thức chung của tư bản, từ T thành T’. Các ngân hàng thương mại nhận tiền gửi từ khách hàng với một lãi suất nhất định. Sau đó lượng tiền này cùng với vốn cố định của ngân hàng sẽ được cho vay với mức lãi suất cao hơn. Sử dụng vốn tiền gửi và vốn ban đầu có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh sẽ đem lại lợi nhuaanjcao hơn, số vòng chu chuyển tư bản tăng lên, giá trị thặng dư từ đó được tạo ra với lượng lớn hơn nữa.
Vai trò của việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
Có thể nói huy động và sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc xây dựng, phát triển king tế của bất kỳ quốc gia nào. Thế giới đã chứng kiến bao bài học xương máu về hoạt động quản lý và sử dụng vốn, trong đó gồm cả những thành công và thất bại. Ở các nước có nền kinh tế thị trường thành công trong khu vực Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kong… thì chiến lược kinh tế của họ trong quá trình hiện đại hóa là tăng trưởng và tích tụ vốn tài chính cho các bước phát triển tiếp theo. Nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu, các nguồn lực hạn hẹp vì thế mà không bị dàn trải, xé nhỏ. Bởi vậy nâng cao được chất lượng công nghiệp mà sản phẩm xuất khẩu chính là thành quả của chính sách này.
Trong nền kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, do ưu tiên vào phát triển công nghiệp nặng, một nghành đòi hỏi huy động một lượng rất lớn vốn đầu tư,thêm vào đó thời gian chu chuyển rất dài và cơ sở hạ tầng thấp kém đã dẫn tới hiệu quả tư bản không cao, hiệu quả kinh tế thu được rất chậm và bấp bênh. Đất nước rơi vào thời kỳ khó khăn, phức tạp. Mọi nguồn lực đều bị sử dụng vô tội vạ, các nguồn vốn tài chính cạn kiệt, nợ nước ngoài chồng chất, lạm phát gia tăng. Bộ máy công nghiệp đồ sộ không còn nhiên liệu hoạt động bỗng chốc trở thành gánh nặng kinh tế nặng nề. Đúng ra với nguồn vốn ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu kém cấn được tập trung đầu tư vào các nghành có thời gian chu chuyển ngắn, tốc đọ chu chuyển nhanh. Do sai lầm trong việc quản lý sử dụng vốn mà các nhà hoạch định chính sách đã đẩy kinh tế nước ta vào hoàn cảnh tụt lùi với thế giới cả chục năm về kinh tế.
Tóm lại, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là rất quan trọng, đặc biệt là trong việc xác định mục tiêu và họach định các chiến lược phát triển kinh tế. Từ đó để có chiến lược huy đọng và sử dụng vốn có hiệu quả, thich hợp nhất. Nước ta hiện nay dang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với một nền kinh tế hết sức nhạy cảm với các tác động chủ quan,khách quan. Vì vậy việc vận dụng lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác cũng như lý luận kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác Leenin và nắm vững vai trò của việc huy động và sử dụng vốn hiệu quả là việc làm đầu tiên và quan trọng nhất.
Vận dụng lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản vào quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta rong giai đoạn hiện nay.
Quá trình huy động và sử dụng vốn của các doanh nghiệp
Như chúng ta biết, doanh nghiệp là tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là nơi kết hợp một cách có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra của cải cho xã hội, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh kinh tế, sự giàu có của một quốc gia. Trong giai đoạn hiện nay của nước ta việc quản lý và sử dụng vốn hiệu quả của các doanh nghiệp là một vấn đề tương đối phức tạp. Giữa lý luận và hiện thực còn có nhiều vướng mắc mâu thuẫn chưa thực sự giải quyết được. Vì vậy nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản với điều kiện hiện có của doanh nghiệp là rất cần thiết cho mỗi doanh nghiệp để xác định vị trí và chỗ đứng trên thị trường. Bởi vì nó có ảnh hưởng không nhỏ đến sự biến động của sản xuất kinh doanh.Nó quyết định lãi, lỗ của doanh nghiệp, xác định mức độ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Vấn đề đối với các doanh nghiệp của chúng ta bây giờ là làm sao để sản xuất kinh doanh tốt để có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội, để có thể cạnh tranh tốt với hàng hóa của các doanh nghiệp khác mà đặc biệt là lượng hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường của chúng ta, vấn đề vốn với các doanh nghiệp của nước ta là một vấn đề nan giải.tình trạng thừa vốn trong các ngân hàng thương mại và thiếu vốn trong các doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp không phải ít, việc sử dụng vốn bừa bãi lãng phí vốn đang là thực trạng đáng buồn hiện nay.Vì vậy mà các doanh nghiệp cần phải quản lý,huy động và sử dụng vốn một cách hợp lý và hiệu quả để đem lại hiệu quả cho kinh doanh.
Huy động vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Huy động từ việc cổ phần hóa.
Các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong mọi lĩnh lực nhưng lại hoạt động kém hiệu quả. Quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động the cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản doanh nghiệp nhà nước. Sắp xếp chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được coi là xương sống của công cuộc đổi mới về kinh tế. Chủ trương này đã được triển khai thực hiện trong gần 20 năm qua.
Qua cổ phần hóa, doanh nghiệp nước đã chuyển thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm được nguồn vốn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập của doanh nghiệp được năng lên. Mặc dù có những thăng trầm, nhưng công cuộc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp doanh nghiệp nhà nước được thực hiện bằng các giải pháp: sắc nhập, hợp nhất, cổ phần hóa, giao, khoán, bán cho thuê doanh nghiệp, tổ chức lại các tổng công ty và thành lập các tập đoàn kinh tế. Trong tất cả các giải pháp đó, cổ phần hóa được coi là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Đến hết tháng 8-2006, cả nước ta đã sắp xếp được 4447 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 3060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đền nay đã sắp xếp được 3389 doanh nghiệp( bằng 68% số doanh nghiệp nhà nước có vào đầu năm 2001). Hình thức sắp xếp phổ biến nhất là cổ phần hóa. Nhờ đó mà số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa tăng mạnh. Tính đến 30/6/2006, cả nước ta đã cổ phần hóa được 3365 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp.thông qua cổ phần hóa đã huy động được trên 22000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp cổ phần hóa có quy mô vốn lớn hơn trước đây : trong hơn 967 đơn vị đã được phê duyệt phương án cổ phần hóa trong năm 2005thì có tới 310 đơn vị có số vốn trên 10 tỷ đồng(chiếm 32%), trong đó có gần 10 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn nhà nước trong 2307 đơn vị cổ phần hóa chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ riêng năm 2005 vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hóa đã đạt 20 ngàn tỷ đồng bằng 8& tổng số vốn nhà nước. Năm 2004, theo kết quả điều tra của Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Trung ương đối với trên 500 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành việc cổ phần hóa và đa dạng hóa quan hệ sở hữu trên một năm cho thấy, hiệu quả kinh doanh đã có những chuyển biến tích cực: vốn điều lệ tăng từ 50 đến 100%; doanh thu tăng 60%; lợi nhuận trước thuế tăng 130%; nộp ngân sách tăng 45%; thu nhập người lao động tăng 63%. Cổ phần hóa tuy đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng so với yêu cầu đổi mới còn chậm. Vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa cò nhỏ và việc huy động vốn trong qua trình chưa được nhiều, thời gian cổ phần hóa dài.
Nhìn chung các doanh nghiệp được cổ phần hóa đến nay vẫn còn nhỏ, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư có tiềm năng lớn về vốn, công nghệ, thị trường, chưa phân biệt và có nhận thức rõ vai trò người đại diện sở hữu phần vốn nhà nước và người trực tiếp sở hữu doanh nghiệp cổ phần, tình trạng các cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu không đúng thủ tục luật pháp cồn nhiều và có hiện tượng mua gom cổ phiếu. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng ít về số lượng nhưng lại nắm một phần rất lớn về vốn. Lượng vốn nằm trong các doanh nghiệp nhà nước lên tới 270 ngàn tỷ đồng nhưng không được sử dụng có hiệu quả, sụ thất thoát vốn không phải là nhỏ. Ngoài ra doanh nghiệp nhà nước còn sử dụng tới 70-80% vốn tín dụng của ngân hàng quốc doanh, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng lợi thế vị thế “chủ đạo” của mình biến độc quyền nhà nước thành độc quyền của doanh nghiệp gây ra những xáo động không nhỏ trong nền kinh tế, trong số hơn 3000 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp đã cổ phần chi phối trên 51% tại 29% doanh nghiệp.Thí dụ Tổng công ty Điện lực Viêt Nam nắm tới 65% vốn của nhà máy thủy điện Vĩnh Sơn- Sông Hinh, 75% vốn của nhà máy thủy điện Thác Bà và nhiệt điện Phả Lại. Với tỷ lệ cao như thế các cổ đông bên ngoài hầu như không có quyền hạn gì. Điều này cho thấy, mặc dù đã cổ phần hóa nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn nhất. Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà nhà nước còn nắm tại các công ty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà nhà nước nắm trong các công ty cổ phần là 28% thì đến thời kì 2001-2004, tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,55. Đây chính là điều hạn chế sự tham gia tiến trình cổ phần hóa của các nhà đầu tư chiến lược.
Huy động vốn từ tín dụng ngân hàng.
Doanh nghiệp nhà nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mặc dù thắt chặt tín dụng không có nghĩa là phân biệt đối xử, có khi chỉ đạt 2-3% tổng mức đầu tư, áp lực nợ rất căng thẳng.Bởi lẽ trước đây chỉ cần bảo lãnh của công ty là doanh nghiệp có thể vay theo hình thức tín chấp nhưng khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ phải tuân thủ quy định chặt chẽ hơn: phải có bảo lãnh của công ty (bằng văn bản bảo lãnh hoặc hợp đồng cam kết bảo lãnh) đối với toàn bộ nghĩa vụ trả nợ gốc và các khoản lãi công ty đã vay và sẽ vay; doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp, bảo đảm tiền vay.Đây là một trong những thực trạng mà doanh nghiệp sau cổ phần hóa gặp phải trong việc huy đọng vốn.
Huy động vốn qua cổ phiếu.
Công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã đạt được kết quả trên nhiều mặt, các kết quả này có tác động tích cực đến thị trường chứng khoán Việt Nam .Cổ phần hóa rộng khắp lĩnh vực kinh tế là nguồn hàng hóa quan trọng làm phong phú nguồn hàng hóa trên thị trường chứng khoán.Cổ phần hóa đã huy động được một lượng vốn nhàn rỗi cho đầu tư qua thị trường chứng khoán với 2242 doang nghiệp nhà nước được cổ phần hóa năm 2004, 12411 tỷ đồng cổ phiếu đã được bán, nàh nước nhờ đó đã có 10169 tỷ đồng(chiếm 58% tổng số vốn nhà nước đã cổ phần hóa) để tái đầu tư phát triển kinh tế.
Bán đấu giá cổ phần đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp nhà nước thông qua thị trường chứng khoán.Từ tháng 7/2003 đến nay đã có khoảng 40 doanh nghiệp nhà nước bán đấu giá cổ phần tại Việt Nam để chuyển sang hình thức công ty cổ phần.Nhiều chuyên gia đánh giá thị trườn này đang ngày càng sôi động.Ví dụ : Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam, Công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương, Công ty chứng khoán Ngân hàng công thương, Công ty chứng khoán Bảo Việt… hiện là những đơn vị hàng đầu trong việc nhận làn đại lý bán cổ phần cho các công ty chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Ngoài ra, nhiều công ty cổ phần cũng tự thành lập hội đồng bán đấu giá và tự tổ chức bán đấu giá. Theo công ty chứng khoán của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, từ tháng 7/2003 đến nay, công ty này đã nhận bán đấu giá cho 5 khách hàng là Gamex, Vifon, Vinamilk, Badaco,TIE. Kết quả bán đấu giá cổ phần lần đầu của các doanh nghiệp này rất khả quan.
Huy động từ trái phiếu.
Việc phát hành trái phiếu ra công chúng cũng góp phần quan trọng quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và nâng cao vị thế của chính công ty phát hành trái phiếu.
Hạn chế vẫn còn gặp phải của doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu:
Khả năng đáp ứng nhu cầu nguồn vốn còn chưa cao: Khối lượng vốn huy động từ phát hành trái phiếu còn nhỏ cua đáp ứng đủ nhu cầu. Riêng 2006 nguồn vốn đấu tư mà EVN chưa cân đối được là 7584 tỷ trong đó 2004 đợt phát hành trái phiếu tính đến 30/9/2006 huy động được 2006 tỷ đồng. mới đáp ứng được 34,28% giá trị vốn chưa cân đối được nguồn.
Về tính chất sử dụng vốn: Việc sử dụng vốn từ phát hành trái phếu mới chỉ bó hẹp trong phạm vi phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản mà chưa được sử dụng cho các mục đích khác như: cơ cấu khoản vay dài hạn, tăng quy mô vốn kinh doanh.
Tính chủ động kịp thời đáp ứng nu cầu vốn chưa cao: Do nhiều doanh nghiệp tự phát hành trái phiếu nên thời gian huy động vốn tương đối lâu, tiến hành giải ngân vốn chậm. Hiện nay doanh nghiệp vẫn chưa có thói quen thuê tư vấn phát hành, chính vì thế việc thực hiện các thủ tục vẫn còn phức tạp, rườm rà.
Sử dụng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Đầu tư cho xây dựng cơ bản.
Đầu tư cho xây dựng cơ bản có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp động này tạo ra cơ sở vật chất hạ tầng cho doanh nghiệp, tạo tiền đề cho hoạt động của donah nghiệp. Trong hơn 4000 doanh nghiệp nhà nước năm 2005, số doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa chiếm một tỉ trọng lớn (vốn dưới 5 tỷ, và dưới 300 lao động). Doanh nghiệp có vốn từ 1-5 tỷ đồng chiếm 37,01%, doanh nghiệp có vốn từ 5-10 tỷ chiếm 8,18%. Chính vì có qui mô nhỏ nên hoạt động xây dựng cơ bản không được chú trọng. Mức độ trang bị cho tài sản cố định thấp, số doanh nghiệp có mức trang bị cho tài sản cố định dưới 5 tỷ chiếm 86%. Máy móc thiết bị rất lạc hậu. Tuy nhiên không phải tất cả các doanh nghiệp đều như vậy. ví dụ: Tổng công ty sữa Việt Nam(VINAMILK) từ khi thành lập năm 1976 đến nay đã tiến hành xây dựng nhiều nhà máy ở khắp 3 miền của đất nước. Các chi nhánh hoạt động cũng được Vinamilk đầu tư xây dựng tích cực.
Đầu tư bổ xung hàng dự trữ.
Đây là hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra liên tục. Tuy nhiên trong các doanh nghiệp nhà nước sản xuất hiện nay cũng chưa được tiến hành một cách hiệu quả. Tình trạng thiếu nguyên vật liệu vẫn thường xuyên xảy ra.Nghành dệt may của Việt Nam phải nhập khẩu tới 80% nguyên vật liệu từ nước ngoài.Nghành điện tử nội địa chỉ đáp ứng được dưới 20% linh kiện, ngành lắp ráp ô tô là 96,5% … điều này cho thấy doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nguồn từ nước ngoài.Khi có những biến động xảy ra trên thế giới thì các doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng đình trệ sản xuất vì thiếu nguyên nhiên vật liệu. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chủ động và nắm đằng chuôi trong hoạt động sản xuất của mình.
Đầu tư cho hoạt động Marketing, quảng cáo.
Hoạt động này sẽ giúp cho sản phẩm củ doanh nghiệp đến được với khách hàng. Trong doanh nghiệp phần trăm cho hoạt động này chiếm đến 5% doanh thu. Tuy vậy các hoạt động quảng cáo tiếp thị sản phẩm của các doanh nghiệp dường như không có gì. Trên các phương tiện thông tin ta có thể thấy hoạt động quảng cáo vẫn còn quá trầm. Những năm gần đây các doanh nghiệp cũng quan tâm nhiều hơn dến quảng cáo tuy nhiên chất lượng chưa cao.Các quảng cáo của các doanh nghiệp nước ngoài vẫn được chú ý nhiều hơn.
Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực.
Có thể thấy được rằng cả đội ngũ cán bộ quản lí và công nhân ở các doanh nghiệp nhà nước chất lượng không cao. Theo điều tra của Tổng cục Lao động Việt Nam, công nhân lao động trong cả nước có trình độ tiểu học chiếm 3,7%, trung học cơ sở là 14,7%, trung học phổ thông 76,6%, cao đẳng là 13,8%, đại học là 13,24%. Đứng trước thực tế như vậy cho thấy việc đầu tư cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp chưa được chú trọng và quan tâm nhiều. Điều này sẽ dẫn đến năng xuất lao động thấp ở các doanh nghiệp.
1.3 Giải pháp cho việc huy động và sử dụng vốn một cách hiệu quả.
- Lựa chọn phương án kinh doanh.
- Lựa chọn và sử dụng hợp lí các nguồn vốn.
- Tổ chức và quản lí tốt quá trình sản xuất kinh doanh: quản lí vốn cố định và vốn lưu động.
- Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Tổ chức tốt công tác hạnh toán kế toán và phân tích hoat động kinh tế.
Xây dựng chiến lược huy động vốn phù hợp với thực trạng thị trường và môi trường kinh doanh của từng thời kỳ.
- Tạo niềm tin cho các nơi cung ứng vốn bằng cách nâng cao uy tin của công ty: ổn định và hợp lý hóa các chỉ tiêu tài chính, thanh toán các khoản nợ đúng hạn…
- Chứng minh được mục đích sủ dụng vốn bằng cách đưa ra kết quả kinh doanh và hiệu quả vòng quay vốn trong năm qua và triển vọng năm tới.Đối với công tác sử dụng vốn: Khi thực hiện công ty phải căn cứ vào kế hoạch huy động và sử dụng vốn kinh doanh đã lập làm cơ sở để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế tại công ty.
- Nếu phát sinh nhu cầu bất thường, công ty cần có kế hoạch chủ động cung ứnc kịp thời đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục, tránh tình trạng phải ngừng sản xuất do thiếu vốn kinh doanh.
- Nếu thừa vốn, công ty phải có biện pháp xử lý kịp thời nhằm đảm bảo phát huy thế mạnh, khả năng sinh lời của vốn.
Để có kế hoạch huy động và sử dụng vốn sát với thực tế, nhất thiết phải dựa vào thực trạng sử dụng vốn trong kỳ và đánh giá điều kiện cũng như xu hướng thay đổi cung cầu trên thị trường.
Huy động và sử dụng vốn trong các ngân hàng thương mại
Khái quát vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh:trong nền kinh tế thị trường bất kì doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh cũng cần có vốn . Đối với NHTM vốn là đối tượng kinh doanh chủ yếu , là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, nếu không có vốn NHTM không thể kinh doanh được.
Vốn quyết định quy mô của hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng: vốn quyết định đến vấn đề mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng và các hoạt động khác của NHTM .Vốn tự có dùng để mua sắm trang thiết bịm góp vốn liên doanh. Là căn cứ để giới hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ
Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thị trường: một NHTM có thể thu hút được nhiều khách hàng khi ngân hàng đó có uy tín trên thị trường , uy tín của ngân hàng biểu hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng khi họ yêu cầu. Nếu có vốn thì khả năng thanh toán sẽ cao uy tín ngân hàng cũng được nâng cao từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng nâng cao vị thế của ngân hàng trên thị trường
Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại: với một ngân hàng quy mô , trình độ công nghệ hiện đại là tiền đề để thu hút vốn đồng thời khả năng về vốn la điều kiện tiền đề để mở rộng khối lượng tín dụng và quy đinh mức lãi suất cho vay từ đó tạo ưu thế trong cạnh tranh và giúp ngân hàng có tiềm lực trong việc mở rộng các hình thức liên doanh
Tóm lại: Vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Thực trạng huy động vốn ở ngân hàng thương mại hiện nay
Sau 14 năm đổi mới hoạt động huy động vốn ở các ngân hàng thương mại nước ta đã đạt được một số kết quả : mức huy động tín dụng ngày càng tăng . Trong bối cảnh thị trường chứng khoán, trái phiếu….còn hạn hẹp thì ngân hàng thương mại đã giữ vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Điều này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , cung cấp dịch vụ ngày càng được mở rộng và phát triển tạo điều kiện thu hút khách hàng, góp phần tạo điều kiện luân chuyển vốn nhanh hơn do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông . Cơ cấu mạng lưới ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển , thúc đẩy cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc đa dạng hóa dịch vụ cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng. Tuy nhiện bên cạnh đó còn tồn tại một số khó khăn, thách thức trong vấn đề huy động vốn
Trong giai đoạn hiện nay xu hướng hội nhập là không thể tránh khỏi, sự gia nhập vào thị trường vốn của ngân hàng ngày càng nhiều đối thủ đặt các ngân hàng thương mại vào sự cạnh trạn ngày càng gay gắt. Chính vì vậy các ngân hàng thương mại Việt Nam phải đầu tư vốn vào kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị, hiện đại hóa hệ thống thanh toán mới có thể theo kịp tình hình phát triển và làm ăn có hiệu quả
- Hiện nay các dịch vụ của ngân hàng thương mại còn nghèo nàn, đơn điệu , tính tiện ích chưa cao , chưa thuận lợi và cơ hội cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong việc tiếp cận và sử dụng vốn còn ít. Bên cạnh đó phần lớn các Ngân hàng thương mại còn thiếu chiến lược kinh doanh thiếu hiệu quả và bền vững . Hoạt động kiểm tra, kế toán, kiểm toán còn yếu thiếu tính độc lập , hệ thống thông tin báo cáo tìa chính và quản lý còn khác biệt so với hệ thống kế toán ngân hàng thế giới do đó không phản ánh đúng đánh giá đầy đủ hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường
- Cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý, nguồn tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trong thấp, nguồn tiền gửi của cư dân còn nhỏ , nguồn tiền gửi có kỳ hạn chủ yếu là tiền gửi với lãi suất cố định tuy ổn định song dễ dẫn đến rủi ro về mặt lãi suất. Vốn điều lệ trong các ngân hàng thương mại còn bé, tỷ trọng vốn đầu tư nhỏ, độ an toàn trong các ngân hàng thương mại chưa cao => khả năng huy động vốn còn hạn chế
- Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng làm cho mức chênh lệch lãi suất giữa đầu vào và đầu ra ngày càng thu hẹp .Do cạnh tranh lãi suất huy động vốn tăng cao trong khi lãi suất cho vay lại tăng chậm, khoản chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra thấp. Do lo lắng đồng tiền bị mất giá nên khách hàng đến rút tiền để đầu tư các lĩnh vực khác ngày càng đông , trong khi số người gửi tiền giảm điều này đã gây khó khăn cho vấn đề huy động vốn ở các ngân hàng thương mại nước ta hiện nay
2.3 Thực trạng sử dụng vốn ở ngân hàng thương mại hiện nay
Trong những năm gần đây bối cảnh kinh tế nước ta xuất hiện nhiề thuận lợi cho việc phát triển hoạt động tín dụng. Nền kinh tế đang từng bước tăng trưởng , khá tiêu biểu la hoạt động xuất nhập khẩu.Đặc biệt tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng rau quả,thủy sản…..là những thuận lợi cho vôn tín dụng của ngân hàng thương mại. Môi trường vĩ mô cho hoạt động tín dụng dần dần đi vào ổn định, rõ ràng và an toàn hơn.
Những năm gần đây đặc điểm nổi bật trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là thay đổi cơ cấu thu nhập nhất là đối với các ngân hàng thương mại với quy mô lớn. Nhìn chung tỷ trong doanh thu từ hoạt động tín dụng giảm xuống ở hầu hết các ngân hàng, tuy nhiên hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chính của ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng sử dụng vốn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đã thu được một số kết quả nhất định và vẫn đang đối mặt với những thách thức đáng lưu ý.
Một số kết quả đạt được
- 2/8/2000 Ngân hàng nhà nước chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản, các ngân hàng thương mại chủ động linh hoạt quy định lãi suất, cho vay theo quan hệ với khác hàng, lãi suất cho vay linh hoạt theo diễn biến cung cấp vốn , theo yêu cầu của thị trường và khách hàng làm cho hoạt động tín dụng được mở rộng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn của các doanh nghiệp
- Hiện nay các ngân hàng thương mại đã quan tâm đến việc thiết kế các loại sản phẩm tín dụng bán ra, quan tâm đến sức mua của khách hàng như cho vay theo dự án BOT. cho vay trả góp,….tóm lại đã có nhiều loại cho vay cụ thể để khách hàng có cơ hội lựa chọn sản phẩm mà họ mong đợi
- Bên cạnh đó ngân hàng còn cho vay, phục vụ các đối tượng chính sách và chương trình phát triển kinh tế của chính phủ mang lại hiệu quả rõ rệt về mặt xã hội
Những vấn đề còn tồn tại
- Mức tăng trưởng tín dụng của ngân hàng còn chậm, mức tăng trưởng tín dụng tăng chậm hơn so với tốc độ tăng trưởng vốn huy động do một số nguyên nhân như: các công ty làm ăn thô lỗ, phá sản, hàng loạt vụ án lớn đối với doanh nghiệp vay vốn bị đưa ra xét xử khiến ngân hàng e ngại không dám mở rộng cho vay như trước. Nhiều doanh nghiệp chưa đủ điều kiện khả thi nên khó tiếp cận với vốn ngân hàng ngoài ra một số ngành trước đây tăng trưởng thì nay lâm vào tình trạng khó khăn do biến động của thị trường hay rủi ro. Vì vậy ngân hàng khó khăn trong việc phát triển hoạt động tín dụng
- Từ 2/8/2000 khi doanh nghiệp nhà nước áp dụng điều hành theo lãi suất cơ bản dẫn đến tình trạng cạnh tranh lãi suất. Bên cạnh một số mặt tích cực cũng tồn tại một số lo ngại như hạ lãi suất theo kiểu phá giá theo đó nó chỉ thu hút được khách hành chứ không thu được lơị nhuận nó sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng có môi trường kém thuận lợi. Cạnh tranh các ngân hàng sẽ nới lỏng các điều kiện cho vay như vậy sẽ dẫn tới rủi ro tín dụng.
- Rủi ro đối với hoạt động tín dụng có xu hướng tăng: tổng số vốn bị quá hạn tăng , xuất hiện các khoản dư nợ được điều chỉnh kì hạn…..Bên cạnh đó các loại hình cho vay của các ngân hàng thương mại còn nghèo nàn.Một số doanh nghiệp thương mại thường ít áp dụng phương thức luân chuyển mà chỉ cho vay theo từng món độc lập vì thế vốn tín dụng thường không tiếp cận kịp thời với đối tượng cho vay. Khách hàng có ít cơ hội lựa chọn , nhiều khách hàng cần vốn dài hạn nhưng bắt buộc phải vay vốn ngắn hạn dẫn đến tình trạng lúng túng về tài chính
- Tuy tín dụng ngân hàng phục vụ cho các đối tượng chính sách nhưng vẫn tồn tại một số vướng mắc nhất là khả năng thu hồi vốn thấp, nợ quá hạn tăng.Ngoài ra còn một sô khó khăn về cán bộ tín dụng : tình trạng quá tải về cán bộ tín dụng , trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng thương mại.
3. Huy động và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)
Tình hình trong 10 năm gần đây(2001 – 2010)
Trong vài năm gần đây, việc hàng loạt các dự án đầu tư nước ngoài có giá trị hàng tỷ $ vào Việt Nam khiến các nhà quản lý cũng không khỏi ngạc nhiên. Những con số đáng chú ý về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong 10 năm qua có thể kể đến trên 124 tỷ $ vốn đăng ký mới thuộc gần 8.5 nghìn dự án, vốn thực hiện đạt 48 tỷ $, đầu tư từ khu vực FDI chiếm 25% đến 30% tổng đầu tư toàn xã hội, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn trên 25%, có năm đạt 56%, giải quyết trên 1.7 triệu lao động,nộp ngân sách đạt gần 2.5 tỷ (năm 2009).
Theo đánh giá của cục đầu tư nước ngoài, vốn FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy chyển giao công nghệ, đóng góp vào ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô, thúc đẩy các thủ tục hành chính, tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác nhưng thực tế dòng FDI đang có sự thay đổi ngầm.
Theo ông Kochi Takano (Phó trưởng phòng đại diện tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản) đưa ra một đánh giá khái quát về xu hướng đầu tư liên doanh của Nhật Bản, theo đó các nhà đầu tư thông qua tổ chức này để tìm hiểu cơ hội đầu tư vào Việt Nam thời gian gần đây đang có sự thay đổi về nhu cầu đầu tư: “Thực tế là quan phát triển hoạt động chế biến, chế tác đã giảm hơn so với giai đoạn trước, trong khi nghành xây dựng, phân phối bán lẻ và dịch vụ khác đang được quan tâm ngày càng nhiều.
Nếu so sánh với chỉ tiêu thu hút vốn FDI tốt của IMF tức là các dòng vốn nước ngoài đổ vào khu vực chế tác, công nghệ cao và đầu tư dài hạn, Việt Nam đang đi những bươc tụt lùi.
Giáo sư Nguyễn Mại – Chủ tịch hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhận xét: tỷ trọng doanh nghiệp lien doanh giảm từ 70% xuống còn 20%. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng 70%. Đáng chú ý trên góc độ chuyển giao công nghệ: Vai trò của khối FDI gần đây không thể hiện nhiều. Những dự án của quốc gia sở hữu công nghệ cao như Nhật, EU rất khó nhớ trong tổng đầu tư khu vực này.
Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI
Theo bộ kế hoạch và đầu tư, năm 2010 tính chung cả vốn cấp mới và tăng vốn cho 837 dự án, cả nước thu hút được 18.9 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài(FDI). Trong đó vốn FDI đăng ký mới đạt 14.05 tỷ USD, vốn tăng thêm là 4.9 tỷ USD. Có thể thấy hiện nay khủng hoảng tài chính và vấn đề suy thoái kinh tế vẫn là nguyên nhân chính khiến vốn FDI vào nước ta thấp và không được như mong muốn. Tuy nhiên cũng không thể kể đến những nguyên nhân chủ quan làm giảm nguồn vốn FDI đăng ký cũng như vốn FDI thực hiện tại Việt Nam như thủ tục hành chính rườm rà, hạ tầng yếu kém,hệ thống đường giao thông, cảng biển… phục vụ sản xuất và nhập khẩu hàng hóa, nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu, công tác xúc tiến đầu tư chưa thật hiệu quả.
Nhưng bên cạnh những hạn chế, thách thức chúng ta có những cơ hội để nâng cao khả năng thu hút FDI vào nước ta. Theo kết quả mới nhất của hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), Việt Nam nằm trong 15 nước được đánh giá cao về môi trường đầu tư nước ngài và là điểm đến hấp dãn cho nguồn vốn FDI trong năm 2010. Hơn nữa kinh tế Việt Nam đang phục hồi sexlamf tăng niềm tin của các nhà đầu tư, thúc đẩy lượng vốn FDI vào Việt Nam. Con số 14.5 tỷ USD vốn FDI đăng ký mới trong năm 2010 cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Để tận dụng những lợi thế và biến thách thức thành thời cơ trong thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, nhiều chuyên gia cho rằng cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn và đẩy mạnh giải ngân, trong đó chú trọng tới các địa phương có tiềm năng, song chưa tạo được bước đột phá trong thu hút FDI. Tập trung giải quyết những yếu kém về kết cấu hạ tầng giao thông điện nước; về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng; năng lực quản lý của bộ máy nhà nước; tháo dỡ những khó khăn về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện để đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn đăng ký FDI. Cần rà soát chặt chẽ và kiên quyết sử lý các dự án treo kéo dài,chủ đầu tư không có khả năng thu xếp vốn, dự án chuyển đổi mục đích… tạo cơ hội cho các đối tác khác vào đầu tư, tránh lãng phí về cơ sở hạ tậng, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Đặc biệt các cơ quan quản lý cần chú trọng hơn nữa những ảnh hưởng về môi trường và các thiệt hại về tài nguyên trong việc cấp phép các dự án FDI; giám sát chặt chẽ việc thực hiện cam kết không gây ô nhiễm môi trường của các dự án đầu tư; nghiêm khắc xử lý những hành vi gây ảnh hưởng đến môi trường, làm thiệt hại lợi ích của nhân dân.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA
Tình hình thu hút vốn ODA
Từ khi tiếp nhận ODA (11/1993) tới cuối 2010, các nhà tài trợ đã cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam trên 64 tỷ USD với tốc độ trung bình hiện nay đạt gần 8 tỷ/ năm. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư: trong giai đoạn 2006 đến 2010, tổng ODA cam kết là 31.8 tỷ tăng 255 so với 5 năm trước. Các chương trình dự án tài trợ được ký kết đạt 20.1 tỷ USd, tăng 17.9% so với 5 năm trước, vốn giải ngân đạt 13.8 tỷ, tăng 17%. Có nhiều nhận định được đưa ra, Việt Nam là một nước đang phát triển, một thị trường, một nền kinh tế đang lên trong khi khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng. Vốn ODA vào việt nam trong những năm gần đây có xu hướng tăng nhưng cũng có nhiều sự biến động. Viện trợ không hoàn lại giảm rõ rệt từ 20% xuống 7.9% trong khi đầu tư cho phát triển với lãi suất thấp trong thời hạn trả nợ dài tăng 70% tới 81%. Không thể nhìn nhận trên tổng nguồn vốn ODA nếu không có kế hoạch xem xét và sử dụng hợp lý, Việt Nam sẽ trở thành con nợ của thế giới.
Huy động và sử dụng và có hiệu quả vốn ODA
Sự chuyển giao các công trình nước ngoài xây dựng theo hợp tác song phương hay đa phương sau khi hoàn tất hoặc cơ bản hoàn thành cho phía Việt Nam, việc khai thác các công trình này tạo ra sự phát triển kinh tế phụ thuộc ở Việt Nam. Muốn có kết quả tốt từ các dự án này cần có mục tiêu và phương hướng ban đầu đúng đắn. Vốn ODA là nguồn phát triển cơ sở hạ tầng và các hạng mục đời sống. Việc sử dụng đúng chỗ đúng mục đích, thời gian là rất quan trọng, nó quyết định sự thành bại của nền kinh tế và khả năng trả nợ của nước ta.
Tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản thúc đẩy quá trình tạo ra giá trị thặng dư, nhưng với nguồn vốn ODA thời gian của một vòng chu chuyển là rất dài. 10 năm, 20 năm, 30 năm…nó được đánh giá qua bộ mặt kinh tế xã hội – nơi nó đầu tư vào và được đánh giá bởi sự lớn mạnh kinh tế xã hội nơi được đầu tư về cơ sở vật chất hạ tầng. Sự tuần hoàn của nó kéo dài và lồng ghép song song. Đầu tư vào cái này để thúc đẩy cái còn lại. Nhìn chung cần khai thác và sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả nhất, làm cho vốn quay vòng nhanh và thu hồi được nguồn vốn ban đầu nhanh nhất có thể.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa – nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với hội nhập quốc tế. Để đạt được các mục tiêu kinh tế cần có một lượng vốn lớn và quá trình huy động, sử dụng vốn phải được tiế hành có hiệu quả. Việc vận dụng lý luận kinh tế chính tri Mác – Lênin mà trực tiếp là lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản vào quá trình huy động và sử dụng vốn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, thúc đẩy nền kinh tế đất nước tăng trưởng và phát triển.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bt_thao_luan_nhom_mon_triet_2657.docx