Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ,phức
tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là tác nhân
kìm hãm sự phát triển kinh tế thậm chí . Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối quan
hệ hài hoà giữa hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của
Viêt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định
về kinh tế đó cũng là nhờ một phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm
phát hợp lí. Tuy nhiên những bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát trong một số thời
gian là dấu hiệu để chúng ta cần điều chỉnh và đưa ra những chính sách có hiệu quả.
Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi
mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần chấp nhận đánh đổi giữa mục tiêu
kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nghĩa là “hy sinh” mục tiêu tăng trưởng
cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm được tăng trưởng
ở mức hợp lý, khi có điều kiện thuận lợi phấn đấu đạt mức tăng trưởng có hơn. Đây
là một quyết định khó khăn, nhưng lạm phát hiện tại đã đạt mức độ tiêu cực và ưu
tiên hàng đầu kiềm chế lạm phát là cần thiết và điều này phù hợp với quan điểm,
chủ trương của Chính phủ: "kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, k hi có điều kiện
thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm
2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
19 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3307 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 1
SVTH : nhóm 1
Tiểu luận
Lý thuyết mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 2
SVTH : nhóm 1
Mở đầu
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề lớn cơ bản của kinh tế vĩ mô,
lạm phát và tăng trưởng kinh tế có một quan hệ chế ức lẫn nhau và lạm phát chỉ
có thể ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng kinh tế. Có thể nói,
trong rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế thì lạm phát giữ
một vai trò rất to lớn. Vì vậy mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát là vấn đề
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế. Trong thời gian gần đây,
kinh tế thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
làm giảm tốc độ tăng trưởng và khiến lạm phát cao ở nhiều nước, trong đó có Việt
Nam. Điều này đặt ra yêu cầu nghiên cứu sự tác động qua lại giữa lạm phát và
thúc đẩy tăng trưởng cho từng quốc gia.Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp và
mọi giai đoạn phát triển kinh tế, các lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng kinh tế
đều đúng tuyệt đối. Lạm phát trong trường hợp cụ thể sẽ có ảnh hưởng ở những
mức độ và khía cạnh khác nhau. Do vậy, việc xem xét sự ảnh hưởng của lạm phát
trong điều kiện cụ thể của quá trình phát triển kinh tế được đặt ra cấp thiết, từ đó
có những biện pháp kịp thời kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trưởng kinh tế
trong những chặng đường phát triển tiếp theo.
Từ những lý do trên, nhận thấy tầm quan trọng và cấp bách của vấn đề
trong khuôn khổ của tiểu luận môn học, nhóm tôi muốn đi sâu, tìm hiểu một khía
cạnh trong vấn đề lạm phát với đề tài:” Tìm hiểu lý thuyết mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng k inh tế”, nhằm tìm hiểu các lý thuyết về mối quan hệ của lạm
phát đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, từ đó nhận định được sự tầm ảnh hưởng cũng
như phân tích được những khuyết điểm của các lý thuyết trên. Từ đó rút ra được
mối quan hệ: lạm phát ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế như thế nào trong bối
cảnh kinh tế hiện nay.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 3
SVTH : nhóm 1
1. Mục tiêu đề tài
Bài tiểu luận này giúp chúng ta hiểu thêm về các quan niệm lạm phát và
tăng trưởng kinh tế là gì. Từ đó đặt ra câu hỏi : “ lạm phát ảnh hưởng như thế nào
đến tăng trưởng kinh tế ?”
Tập trung vào xem lại nền tảng của lý thuyết truyền thống về mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, cũng như nghiên cứu thực nghiệm về ảnh
hưởng của lạm phát đến tăng trưởng từ sau giai đoạn khủng hoảng dầu mỏ (1073-
1974).
Đánh giá được tính đúng đắn cũng như những vấn đề còn tồn tại chưa giải
quyết được trong từng lý thuyết, nghiên cứu của các trường phái kinh tế, cũng như
các nhà kinh tế tiêu biểu.
Tìm hiểu tình hình tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ năm
2000 đến 2011, từ đó phân tích được mối quan hệ của lạm phát và tăng trưởng là
mối quan hệ tuyến tính hay phi tuyến tính.
Nhận định xem các lý thuyết, nghiên cứu của các nhà kinh tế học, lý thuyết
nào phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế Việt Nam.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 4
SVTH : nhóm 1
2. Tìm hiểu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế
2.1 Lạm phát [4; 5]
Có nhiều phát biểu khác nhau về khái niệm lạm phát. Một số nhà kinh tế
học cho rằng “lạm phát là hiện tượng tiền được cung ứng nhiều hơn mức cần thiết
hoặc là do khối lượng tiền thực tế trong lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần
thiết” hoặc cho rằng “lạm phát là quá nhiều tiền được bỏ ra để săn lùng quá ít hàng
hoá”, “lạm phát là hiện tượng bội chi lâu dài của ngân sách nhà nước”, “lạm phát
là một khối u ác tính, thể hiện sự nở phồng lên của tiền tệ”. Theo Milton Friedman
(1970) “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”.
Như vậy, có thể coi lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá
nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa
tăng lên đồng loạt. Lạm phát có những đặc trưng là:
- Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến
đòng tiền bị mất giá.
- Mức giá chung tăng lên.
Chính vì vậy, khi tính mức độ lạm phát, các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá
cả. Chỉ số giá cả được sử dụng nhiều nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Chỉ số này
phản ánh mức thay đổi giá cả cảu một giỏ hàng hóa tiêu dùng so với năm gốc cụ
thể.
Phân loại lạm phát:
- Lạm phát vừa phải – Là loại lạm phát ở mức một con số - dưới 10%/năm.
Loại lạm phát này được xem là là tích cực và cần thiết vì nó có khả năng tạo
điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Lạm phát phi mã – Là loại lạm phát ở mức hai đến ba con số, từ 10% 100%
900% ... một năm. Loại lạm phát này tác động tiêu cực đến nền kinh tế, với
những hậu quả cực kỳ khó khăn cho đời sống kinh tế, xã hội, chính trị trong
nước.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 5
SVTH : nhóm 1
- Siêu lạm phát – Là loại lạm phát 4 con số, từ 1000 % trở lên. Đây thực sự là
một giai đoạn cực kỳ hỗn loạn, bất ổn định kinh tế xã hội và đời sống nhân
dân.
2.2Tăng trưởng kinh tế [4;5]
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy
mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so
sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy
mô sản lượngkinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng
trưởng là"cặp đôi"trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, trên thế giới người ta thườngtính mức gia tăng về tổng giá trị của
cải của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩmquốc dân hoặc tổng sản phẩm
quốc nội.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của
mình (dù là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất
định (thường là một năm).
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (dù
nó thuộc về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian
nhất định (thường là một năm).
So sánh tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
ta thấy:
GNP = GDP + thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài.
Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài = thu nhập chuyển về nước của công
dân nước đó làm việc ở nước ngoài trừ đi thu nhập chuyển ra khỏi nước của người
nước ngoài làm việc tại nước đó.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 6
SVTH : nhóm 1
Tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với năm
trước. GNP và GDP là hai thước đo tiện lợi nhất để tính mức tăng trưởng kinh tế
của một nước biểu hiện bằng giá cả. Vì vậy, để tính đến yếu tố lạm phát người ta
phân định GNP, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP, GDP danh nghĩa là
GNP và GDP tính theo giá hiện hành của năm tính; còn GNP và GDP thực tế là
GNP và GDP được tính theo giá cố định của một năm được chọn làm gốc. Với tư
cách này, GNP, GDP thực tế loại trừ được ảnh hưởng của sự biến động của giá cả
(lạm phát). Do đó, có mức tăng trưởng danh nghĩa và mức tăng trưởng thực tế.
Từ các quan niệm về lạm phát và tăng trưởng kinh tế đặt ra câu hỏi: “ lạm
phát ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế?”
Để trả lời được câu hỏi này, đầu tiên chúng ta nghiên cứu các lý thuyết về
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng.
3. Các lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
3.1 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Keynes [3]
Hình 1. Mô hình mô tả sự cân bằng của nền kinh tế
Khi mô tả nền kinh tế, ông cho rằng có hai đường tổng cung: AS - LR phản
ánh mức sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, và AS - SR phản ánh khả năng thực
tế. Và, cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 7
SVTH : nhóm 1
thông thường sản lượng thực tế đạt được ở mức cân bằng nhỏ hơn mức sản lượng
tiềm năng, nơi mà dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người.
Nền kinh tế có thể cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng (Yo <Y*)
Theo Keynes, để đảm bảo sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp,
khủng hoảng và duy trì tăng trưởng kinh tế cần phải có sự can thiệp của nhà nước
vào nền kinh tế để tăng cầu có hiệu quả, kích thích tiêu dùng, sản xuất, kích thích
đầu tư để bảo đảm việc làm và tăng thu nhập. Theo ông, chính phủ có thể can
thiệp vào nền kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng thông qua các hoạt động: đầu tư
nhà nước; hệ thống tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ; các hình thức khuyến
khích tiêu dùng.
Về hệ thống tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ, theo Keynes, hệ thống
tài chính, tín dụng có vai trò quan trọng trong việc kích thích lòng tin, tính lạc
quan và tích cực đầu tư của các nhà kinh doanh. Theo ông, Nhà nước có thể đưa
thêm tiền vào lưu thông để giảm lãi suất cho vay, khuyến khích nhà kinh doanh
mở rộng quy mô đầu tư. Đồng thời, để tăng hiệu quả tư bản, ông chủ trương “lạm
phát có kiểm soát” để làm tăng giá cả hàng hoá nhờ đó các nhà kinh doanh thu
được lợi nhuận nhiều hơn (trong điều kiện chi phí sản xuất chưa thay đổi). Cóthể
nói, đây là một trong các động lực trực tiếp của các nhà sản xuất kinh doanh, góp
phần vào tăng trưởng kinh tế.
J.M.Keynes (1936) cho rằng: trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm
phát và tăng trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp
nhận một tỷ lệ lạm phát nhất định; trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm
phát di chuyển cùng chiều; sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm
phát để thúc đẩy tăng trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng
giảm (đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất
nghiệp); mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu dương.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 8
SVTH : nhóm 1
3.2 Lý thuyết tiền tệ và thu nhập quốc dân của M. Friedman [1]
+ Nhân tố quyết định sự tăng trưởng của sản lượng quốc gia là mức cung
tiền tệ. Theo M.Friedman, các biến số vĩ mô như: giá cả, sản lượng, công ăn việc
làm phụ thuộc vào mức cung tiền tệ chứ không phải vào chính sách tài chính (thuế
và chi tiêu ngân sách).
Mức cung tiền tệ thường không ổn định và phụ thuộc vào quyết định chủ
quan của chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Nếu ngân hàng trung ương
phát hành không đủ tiền thì dễ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, còn nếu phát hành
thừa tiền thị lại bị lạm phát.
Mức cầu tiền tệ có tính ổn định cao, nó được quyết định bởi thu nhập. Mức
cầu danh nghĩa về tiền đuợc xác định bởi công thức:
Md = f(Yn,i)
Trong đó:
- Md: mức cầu danh nghĩa về tiền tệ
- Yn: thu nhập danh nghĩa
- i: Lãi suất danh nghĩa.
Qua công thức trên, những người trọng tiền hiện đại cho rằng sự thay đổi
cầu về tiển tệ phụ thuộc vào sự thay đổi của thu nhập, còn lãi về tiền là nhân tố
ngọai sinh của nền kinh tế.
Từ đó có thể trình bày công thức cầu về tiền dưới dạng đơn giản sau:
Md=f(Yn)
Qua những phân tích trên, ông đề nghị thực hiện chu kỳ tiền tệ và thu nhập
quốc dân nhằm chủ động điều tiết mức cung tiền tệ trong từng thời kỳ phát triển.
Trong thời kỳ khủng hoàng thì tăng mức cung tiền tệ để đưa nền kinh tế thoát khỏi
khủng hoảng, còn trong thời kỳ phồn vinh thì giảm mức cung tiền để kìm hãm bớt
mức phồn vinh. Theo ông, để giữ sự ổn định trong nền kinh tế cần tăng khối lượng
tiền hàng năm ổn định mức từ 3-4%.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 9
SVTH : nhóm 1
+Giá cả hàng hóa phụ thuộc vào khối lượng tiền tệ. Từ công thức M.V =
P.Q, ta có: Nếu V,Q không đổi thì P phụ thuộc vào M. Khối lượng tiền tệ càng
nhiều thì giá cả hàng hóa càng tăng cao. Do đó, các nhà trọng tiền hiện đại quan
tâm đến việc ổn định tiền tệ và chống lạm phát. Theo họ, vấn đề cần quan tâm
trong nền kinh tế là lạm phát chứ phái phải là vấn đề thất nghiệp như phái Keynes.
Với lập luận rằng, trong thời gian ngắn hạn tốc độ V, tổng sản phẩm Y sẽ thay đổi
không đáng kể và coi như bất biến, nếu lượng tiền M tăng lên thì giá cả P cũng
phải tăng theo. Theo cách lý giải này, bất cứ việc tăng cung tiền nào cũng làm cho
giá cả tăng lên, và như vậy để giảm tỷ lệ lạm phát thì biện pháp duy nhất là ngưng
việc tăng cung tiền vào trong lưu thông.
M.Friedman (1970) cho rằng: lạm phát là sản phẩm của việc tăng cung tiền
hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế; nghĩa là, trong
dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng
trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ
xảy ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm
giảm lạm phát.
Qua những lý thuyết về lạm phát trên, mặc dù có nhiều cách giải thích khác
nhau, nhưng các nhà kinh tế học đều cho rằng, giữa lạm phát và tăng tăng trưởng
kinh tế có mối quan hệ dương.Tuy nhiên trên thực tế lạm phát có thể tác động tiêu
cực lên tăng trưởng như: dấu hiệu bất ổn kinh tế vĩ mô; tăng sự không chắc chắn
của các hoạt động đầu tư; lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối, làm méo mó quá
trình phân bổ nguồn lực; lạm phát còn được xem như là một loại thuế đánh vào
nền kinh tế. Vì vậy từ năm 1960 đã có nhiều nghiên cứu nhằm kiểm nghiệm lại
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nhưng những nghiên cứu ban
đầu (những năm 60) không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê nào. Cho
đến giai đoạn sau khủng hoảng dầu hỏa 1973-1974, tìm thấy quan hệ âm giữa lạm
phát và tăng trưởng.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 10
SVTH : nhóm 1
3.3 Nghiên cứu “Ngưỡng tác động trong mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng” của Mohsin S. Khan và Abdelhak S. Senhadji [7-11]
Khan & Senhadji (2001) đã phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng riêng cho các nước công nghiệp và các nước đang phát triển. Điều đã làm
điều tra này đặc biệt thú vị từ một quan điểm phương pháp luận của
xem là việc sử dụng các công cụ mới của kinh tế. Các tác giả kiểm tra lại
vấn đề về sự tồn tại của hiệu ứng "ngưỡng" trong quan hệ giữa
lạm phát và tăng trưởng, bằng cách sử dụng các kỹ thuật kinh tế được phát triển
bởi Chan và Tsay (1998), và Hansen (1999, 2000). Nghiên cứu đặc biệt tập trung
vào các câu hỏi sau đây:
Có một mức ngưỡng có ý nghĩa thống kê của lạm phát có ảnh hưởng đến
tăng trưởng khác biệt so với một tỷ lệ thấp hơn?
Là “hiệu ứng ngưỡng” tương tự giữa các nước phát triển và các nước công
nghiệp?
Những ngưỡng giá trị có khác nhau?
Phát hiện Bruno-Easterly về mối quan hệ tiêu cực giữa lạm phát và tăng
trưởng chỉ tồn tại cho quan sát lạm phát cao và tần số dữ liệu cao có tác dụng
mạnh mẽ như thế nào?
Nghiên cứu của Khan & Senhadji (2001) được thực hiên trên 140 quốc gia
(bao gồm cả các nước công nghiệp và các nước đang phát triển) ở giai đoạn 1960-
1998.
Các kết quả thực nghiệm được trình bày trong bài nghiên cứu, đã đề nghị
xa hơn nữa là sự tồn tại của một ngưỡng lạm phát tác động ảnh hưởng tiêu cực
tăng trưởng. Mức lạm phát dưới mức ngưỡng của lạm phát không có
ảnh hưởng đến tăng trưởng, trong khi tỷ lệ lạm phát ở trên ngưỡng có một
tác động tiêu cực đáng kể vào tăng trưởng.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 11
SVTH : nhóm 1
Kết quả của các tác giả thấy rằng “ngưỡng” tại các nước công nghiệp thấp
hơn các nước đang phát triển (dự toán là 1-3% và 11-12% tương ứng cho các
nước công nghiệp và các nước đang phát triển, tùy thuộc vào phương pháp ước
lượng được sử dụng).
Bằng nghiên cứu này họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó
nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tắc động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng
trưởng.
Như vậy, quan điểm của Khan & Senhadji (2001) cho rằng: giữa lạm phát
và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ phi tuyến tính. Lạm phát chỉ tác động tiêu
cực lên tăng trưởng khi đạt ngưỡng nhất định nào đó. Ở mức dưới ngưỡng, lạm
phát không nhất thiết tác động tiêu cực lên tăng trưởng, thậm chí có thể tác động
dương như lý thuyết Keynes đề cập. Vượt qua ngưỡng đó, mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng truởng kinh tế là âm.
4. Đánh giá các lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
kinh tế
4.1 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của J.M.Keynes
Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái lạm phát lưu thông tiền tệ là không
lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm
phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt logíc là đem kết quả của lạm phát quy vào bản
chất của lạm phát.
Khái niệm của Keynes vẫn chưa nên được đúng bản chất kinh tế - xã hội
của lạm phát. Lý thuyết của Keynes về vai trò chi phối của nhà nước bằng ngân
sách chi cho rằng có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp, tức là muốn tạo
nhiều việc làm hay là nhằm đạt tốc độ phát triển kinh tế cao thì cái giá phải trả là
lạm phát cao. Ngược lại, muốn giữ lạm phát thấp, thất nghiệp sẽ cao. Tại sao giá
tăng cao lại có thể đưa đến phát triển, ít nhất là trong ngắn hạn? Đó là vì giá tăng
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 12
SVTH : nhóm 1
cao, tiền lương không tăng hoặc không tăng kịp do đó đưa đến lợi nhuận cao và có
tác dụng khuyến khích tăng sản xuất. Nhưng trên thực tế khi lạm phát cao và kéo
dài, người dân sẽ kỳ vọng là lạm phát tiếp tục cao, đòi hỏi lương cao, do đó về dài
lâu không có sự đánh đổi này, mà sẽ tạo ra hiện tượng đình lạm (vừa lạm phát cao
vừa suy thoái). Điều này làm cho kinh tế ngày càng lún sâu vào suy thoái, cuộc
sống người dân gặp nhiều khó khăn.
4.2 Lý thuyết tiền tệ và thu nhập quốc dân của M. Friedman
Với cách lập luận này về lạm phát là quá đơn giản vì đặt nền kinh tế vào
trong một trạng thái tĩnh tại, đó là khi tăng cung tiền thì sẽ dẫn đến một khối lượng
tiền nhiều hơn dùng để mua một khối lượng hàng hoá như cũ, do đó sẽ làm cho
giá cả tăng lên. Điều này sẽ không lý giải được tại sao giá cả không thay đổi trong
trường hợp vẫn tăng cung tiền.
Quan điểm về lạm phát tiền tệ gặp phải một trở ngại là việc xác định khối
lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông là không khả thi, vì thực tế tổng lượng hàng
hoá, dịch vụ luân chuyển trong nền kinh tế luôn biến động. Ngoài ra, vòng quay
tiền cũng không ổn định và mục đích sử dụng tiền cũng luôn thay đổi. Do vậy,
chúng ta chỉ có thể nhận diện ra lạm phát qua dấu hiệu hàng hoá, dịch vụ tăng giá.
Vì những nguyên nhân này mà đa số các nhà kinh tế học đã đồng nhất tỷ lệ lạm
phát với tỷ lệ tăng giá.
Tuy sự nhìn nhận về lạm phát còn đơn giản, nhưng quan điểm trên cũng đã
tạo ra một tiền đề cho việc nhận thức về lạm phát sau này của các nhà kinh tế.
4.3 Nghiên cứu “Ngưỡng tác động trong mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng” của Mohsin S. Khan và Abdelhak S. Senhadji
Các ngưỡng cùng với các phân tích của Khan & Senhadji có thể cung cấp
một mức chuẩn cho việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế đối với những
nước có nền kinh tế phát triển hoặc đang phát triển, giúp các quốc gia điều chỉnh
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 13
SVTH : nhóm 1
các chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm giúp tăng trưởng kinh tế đạt được như
mong đợi.
Tuy vậy, một thực tế rằng, các kết quả nghiên cứu về ngưỡng lạm phát tốt
cho tăng trưởng đều không đưa ra với mức tăng trưởng kinh tế là bao nhiêu. Đây
là câu hỏi quan trọng, bởi vì lạm phát mục tiêu được đưa ra trong mối quan hệ với
tăng trưởng kinh tế
5. Nhận định về các lý thuyết và nghiên cứu thông qua tình hình về tăng
trưởng và lạm phát tại Việt Nam những năm qua .
5.1 Tăng trưởng kinh tế [6]
Giai đoạn 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,2%/năm, GDP theo giá hiện hành đạt 838
nghìn tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người/năm đạt trên 10 triệu đồng, tương
đương với 640 USD.
Giai đoạn 2005-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân 7,33%, dù khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn thu hút vốn đầu tư
nước ngoài cao, GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD.
Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 5,89%; giảm sút chủ yếu do giảm
sút của khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
5.2 Lạm phát [6]
Giai đoạn 1996-2003: được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp; mặc dù
năm 1998 tăng cao 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực. Nhìn chung, cả
thời kỳ này có 3 năm, trong đó có 1 năm giảm, 2 năm tăng thấp.
Giai đoạn 2004-2010: là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại,
cứ 2 năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn: năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005
tăng 8,4%, thì năm 2006 chỉ tăng 6,6%; năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 14
SVTH : nhóm 1
19,89%, năm 2009 chỉ tăng 6,52%; đến năm 2010 tăng 11,75%; năm 2011, tỷ lệ
lạm phát 18,13%.
Như vậy, từ năm 2007 đến nay, lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn
và biểu hiện tính chu kì. Chu kì này vào khoảng 3 năm khi tỷ lệ lạm phát đã lên
đến đỉnh điểm vào tháng 8/2008 (28,23% ) và tháng 8/2011 (23,02%).
Năm 2011, tỷ lệ lạm phát là 18,13%. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế
học thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và có tác động tiêu cực
đến tăng trưởng. Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính phủ đã
khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của
việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu
cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu
kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng những hạn chế trong quản lý điều
hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”.
5.3 Nhận định và lựa chọn lý thuyết phù hợp trong điều kiện kinh tế Việt
Nam
Như vậy, qua việc phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế, cũng như tình hình
lạm phát của từng giai đoạn khác nhau trong giai đoạn từ 2000 đến nay, ta có thể
nhận thấy rằng ở những năm có tỷ lệ lạm phát thấp ( dưới 12%/ năm) thì tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá cao, sản xuất phát triển, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu
tư của nước ngoài, đời sống người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Còn
vào năm 2008 và 2011 với tỷ lệ lạm phát 19,89% và 18,3% chúng ta có thể thấy
được nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng đình lạm, lạm phát cao nhưng nền kinh
tế của nước ta rơi vào tình trạng tăng trưởng kém, sản xuất ngưng trệ, giá cả hầu
hết các mặt hàng tăng cao, lực lượng thất nghiệp ngày càng gia tăng làm cho cuộc
sống của người dân gặp nhiều khó khăn, kéo theo đó là những bất ổn về kinh tế,
chính trị, hậu quả là làm tăng trưởng suy giảm.Trong dài hạn, Chính phủ lại lo
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 15
SVTH : nhóm 1
ngại khi tăng trưởng kinh tế bị suy giảm gây hậu quả giảm phát, làm cho đời sống
dân cư càng gặp khó khăn hơn, sức mua giảm dẫn đến kinh tế bị suy thoái.
Với những biểu hiện của nền kinh tế trên, có thể rút ra được rằng giữa lạm
phát và tăng trưởng có mối quan hệ phi tuyến tính. Với tỷ lệ lạm phát thấp ( dưới
ngưỡng 12%/ năm), thì lạm phát có tác động tốt đến nền kinh tế Việt Nam, lạm
phát tạo ra động lực giúp gia tăng nền sản xuất trong nước, lạm phát gắn liền với
tăng trưởng kinh tế. Như vậy, với tỷ lệ lạm phát thấp, các lý thuyết về mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong “lý thuyết tăng trưởng”của
J.M.Keynes, “lý thuyết tiền tệ và thu nhập quốc dân” của M. Friedman và nghiên
cứu “Ngưỡng tác động trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng” của
Mohsin S. Khan và Abdelhak S. Senhadji là hoàn toàn phù hợp.
Tuy nhiên, khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định, thì lạm phát bắt
đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng, tác động tiêu cực đến sản lượng sản xuất
của nền kinh tế thông qua các kênh như đầu tư, tín dụng, tiêu dùng; người cho vay
không có động lực để cho vay vì lãi suất cho vay thường âm trong thời kỳ này và
cho vay thời hạn càng dài càng bị lỗ, với chi phí huy động vốn cao, đẩy lãi suất
cho vay cao, các doanh nghiệp dù thiếu vốn cũng rất e ngại vay vốn vì làm chi phí
tăng cao, hệ quả là kênh tín dụng bị thu hẹp; tỉ lệ lạm phát cao làm cho thu nhập
hộ gia đình giảm. Mọi người phải tiết kiệm chi tiêu dẫn đến giảm tiêu dùng; các
nhà đầu tư tiềm năng sẽ giảm đầu tư vì độ rủi ro cao và hậu quả là làm giảm sản
lượng sản xuất của nền kinh tế, nếu tình trạng này kéo dài thì sẽ dẫn đến nền kinh
tế rơi vào suy thoái. Lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Do
đó các lý thuyết của J.M.Keynes, M. Friedman không còn phù hợp, vì họ cho rằng
lạm phát và tăng trưởng chỉ có tác dụng cùng chiều. Với nghiên cứu của S. Khan
và Abdelhak S. Senhadji đã đưa ra được ngưỡng của lạm phát, và tình hình tăng
trưởng và lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây đều phù hợp với
nghiên cứu trên.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 16
SVTH : nhóm 1
Tóm lại, qua việc phân tích các lý thuyết cũng như các nghiên cứu cụ thể
của các nhà kinh tế học thuộc các trường phái khác nhau, cũng như phân tích
được sự ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ năm
2000 đến 2011. Nhóm chúng tôi nhận thấy nghiên cứu “Ngưỡng tác động trong
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng” của Mohsin S. Khan và Abdelhak
S. Senhadji là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 17
SVTH : nhóm 1
Kết luận
Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ,phức
tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là tác nhân
kìm hãm sự phát triển kinh tế thậm chí . Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối quan
hệ hài hoà giữa hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững của
Viêt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định
về kinh tế đó cũng là nhờ một phần đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm
phát hợp lí. Tuy nhiên những bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát trong một số thời
gian là dấu hiệu để chúng ta cần điều chỉnh và đưa ra những chính sách có hiệu quả.
Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi
mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần chấp nhận đánh đổi giữa mục tiêu
kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nghĩa là “hy sinh” mục tiêu tăng trưởng
cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm được tăng trưởng
ở mức hợp lý, khi có điều kiện thuận lợi phấn đấu đạt mức tăng trưởng có hơn. Đây
là một quyết định khó khăn, nhưng lạm phát hiện tại đã đạt mức độ tiêu cực và ưu
tiên hàng đầu kiềm chế lạm phát là cần thiết và điều này phù hợp với quan điểm,
chủ trương của Chính phủ: "kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện
thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm
2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 18
SVTH : nhóm 1
Tài liệu tham khảo
1. Lý thuyết trọng tiền hiện tại của M.Friedman
tr%E1%BB%8Dng -ti%E1% BB%81n-hi%E1%BB%87n-t%E1%BA%A1i-
c%E1%BB%A7a-m-friedman
2. Ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế trong công cuộc đổi
mới kinh tế của Việt Nam. Một số giải pháp kiểm soát lạm phát để đảm bảo
tăng trưởng trong thời gian sắp tới.
huong-cua-lam-phat-doi-voi-tang-truong-kinh-te-trong-cong-cuoc-doi-moi-
kinh-te-cua-Viet-Nam-Mot-so-giai-phap-kiem-soat -lam-pha-152791
3. ueb.vnu.edu.vn/.../ly%20thuyet%20tang%20truong%20kinh%20te%20cua
%20keynes.pdf
4. Nhập môn Tài chính- Tiền tệ. Trường đại học kinh tế TP.HCM, 2008. NXB
Lao động xã hội
5. Kinh tế vĩ mô. Trường đại học kinh tế TP.HCM, 2009. NXB Thống kê
6. Trường bồi dưỡng cán bộ tài chính (2012) Tăng trưởng và lạm phát ở Việt
Nam
7. Vikesh Gokal and Subrina Hanif (04/2004), Relationship Between Inflation
And Economic Growth
8. Khan, M. S. and A. S. Senhadji. (2001). Threshold Effects in the
Relationship between Inflation and Growth, IMF Staff Papers Vol. 48 No.1.
2001/01a/khan.htm
Lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GVHD: Trương Minh Tuấn Trang 19
SVTH : nhóm 1
9. Chan, Kung-Sig, and Ruey S. Tsay, 1998, “Limiting Properties of the Least
Squares Estimator of a Continuous Threshold Autoregressive Model,”
Biometrica, Vol. 85, No. 2, pp. 413–26.
10.Hansen, Bruce, 1999, “Threshold Effects in Non-Dynamic Panels:
Estimation, Testing, and Inference,” Journal of Econometrics, Vol. 93, No.
2, pp. 345–68.
11.Hansen, Bruce, 2000, “Sample Splitting and Threshold Estimation,”
Econometrica, Vol. 68 (May),pp. 575–603.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_1_lam_phat_va_tang_truong_kinh_te_9978.pdf