Tiểu luận Lý thuyết “phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh” của Ngân hàng phát triển Châu Á – Vận dụng vào việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đối với Việt Nam
Đối với các tỉnh bao gồm các Thành phố thuộc tỉnh, Thị xã, huyện;
trong thành phố thuộc tỉnh và thị xã bao gồm các xã, phường; trong huyện bao
gồm các xã và Thị trấn như hiện nay.
Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm các xã, phường
(hiện nay cấp dưới trực tiếp thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm Quận,
huyện, đề nghị bỏ cấp này).
Chức năng, nhiệm vụ của Chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã)
cần phải được quy định rõ ràng trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng
Nhân dân và Ủy ban nhân dân, tránh chồng chéo, trùng lắp và chưa rõ ràng
như hiện nay.
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3123 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lý thuyết “phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh” của Ngân hàng phát triển Châu Á – Vận dụng vào việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
KHOA TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ NHÂN SỰ
*****
TIỂU LUẬN
Lý thuyết “phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính
công trong một thế giới cạnh tranh” của Ngân hàng phát
triển Châu Á – Vận dụng vào việc tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước đối với Việt Nam.
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Võ Kim Sơn
Học viên thực hiện : Nguyễn Quốc Cường
Lớp : Cao học HCC 16M
Huế, tháng 8/2012
2
Sau khi nghiên cứu toàn bộ Chương 3, 4 của cuốn sách phục vụ và duy
trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh” của Ngân hàng
Ngân hàng Phát triển Châu Á, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành
năm 2003, em rút ra một số nội dung chính việc tổ chức chính quyền trung
ương và tổ chức chính quyền cấp dưới, chính quyền địa phương như sau:
1. Lý thuyết về cơ cấu tổ chức của chính quyền trung ương.
Chính phủ trung ương ở tất cả các nước được tổ chức thành các bộ khác
nhau (còn gọi là các ban) và rất nhiều đơn vị khác trong và ngoài phạm vi cơ
cấu của bộ.
Có bốn nguyên tắc phân chia công việc của chính quyền gồm: Lĩnh vực
quản lý; đối tượng liên quan; quy trình áp dụng; và chức năng được thực hiện.
Trong đó chức năng đã trở thành nguyên tắc chủ đạo để thành lập các bộ và tổ
chức công việc của chính phủ.
Trong phạm vi của nguyên tắc chức năng có bốn tiêu chí đánh giá hiệu
quả của việc nhóm các nhiệm vụ đó là: Không phân mảng, không chồng chéo,
tầm kiểm soát, và tính thuần nhất. Những tiêu chuẩn này cũng xác định cơ sở
hợp lý của việc thành lập các bộ mới để đảm đương các chức năng mới.
Việc phân bổ chức năng cho các bộ và việc lựa chọn số lượng các bộ
liên quan đến ba vấn đề có quan hệ với nhau: Chức năng đó quan trọng như
thể nào, làm thế nào để nhóm các chức năng, nên có hình thức kiểm soát nào
của chính quyền trung ương.
Số lượng và phân định các bộ giữa các nước là khác nhau. Có sự khác
biệt giữa các nước trong việc sắp xếp các lĩnh vực đan xen như phát triển của
phụ nữ, phúc lợi xã hội, môi trường, ngoại thương, nhà ở, chính quyền địa
phương và quyền của người tiêu dùng.
Theo một nguyên tắc chung, số lượng các bộ không thể quá lớn đến
mức ảnh hưởng điều phối công việc cũng không quá ít để làm tăng khối lượng
quá mức cho một bộ và làm giảm trách nhiệm của các bộ khác. Trên thế giới,
tính trung bình số lượng các bộ của chính quyền trung ương là 16.
3
Việc sáp nhập và bãi bỏ một số bộ, quan trọng là phải trả lời được nó có
thực sự tạo nên một sự khác biệt tổng số nhân viên chính phủ và chi tiêu công,
hay chỉ là sự phân bổ lại số nhân viên và chi tiêu công theo một cách khác mà
thôi.
Trong các nền kinh tế chuyển đổi, những nổ lực cơ cấu lại hệ thống
kinh tế và chính trị tất yếu dẫn đến việc cơ cấu lại chính quyền trung ương.
Xem xét tính đa dạng của các nước, không thể đề xuất một con số cụ thể các
bộ của chính quyền trung ương thích hợp, mỗi nước phải chọn cho mình cách
làm phù hợp với truyền thống hành chính, các yếu tố văn hóa và thực tiễn
chính trị của nước mình.
Trên cơ sở kinh nghiệm và lịch sử của các nước khác nhau, cơ cấu
khoảng 11 bộ là đủ và thích hợp cho đa số các nước đang phát triển gồm:
1. Tài chính và lập kế hoạch (gồm cả việc quản lý các nguồn viện trợ);
2. Công tác đối ngoại (gồm cả ngoại thương);
3. Thông tin và truyền thông (gồm cả dịch vụ bưu điện, xuất bản và
công nghệ thông tin);
4. Nội vụ (bao gồm cảnh sát và quan hệ với chính quyền địa phương);
5. Pháp luật và tư pháp;
6. Nguồn nhân lực (gồm cả giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học và
công nghệ);
7. Môi trường và định cư (gồm cả phát triển đô thị và nông thôn, nhà ở
và dịch vụ liên quan đến cơ sở hạ tầng, nguồn nước, nông nghiệp và
môi trường);
8. Các vấn đề xã hội và lao động (gồm cả lao động, các nhóm thiệt thòi
về mặt xã hội và kinh tế, phụ nữ và phúc lợi xã hội);
9. Y tế và dân số (gồm cả kế hoạch hóa gia đình và kiểm soát bệnh tật);
10. Cơ sở hạ tầng (gồm năng lượng, đường sá và các hình thức giao
thông khác);
11. Quốc phòng.
4
Số lượng các bộ của chính quyền trung ương là điều có ý nghĩa quan
trọng, không chỉ vì mục đích điều phối, mà còn để giảm bớt chi phí của chính
phủ và duy trì áp lực đối việc mở rộng bộ máy hành chính. Đa số các nước có
thể vận hành hiệu quả khoảng 12 đến 18 bộ ở cấp trung ương.
Tổ chức các cơ quan điều tiết có ảnh hưởng quan trọng đối với hiệu lực
của chức năng điều tiết, là chức năng cơ bản của chính phủ ở mọi quốc gia.
Việc điều tiết đã mở rộng quá mức trong thế kỷ XX do lo ngại ngày càng tăng
về an toàn, y tế cộng đồng, môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, ổn định tài
chính và ngân hàng…nhưng vào cuối những năm 1980 phong trào phi điều
tiết đã diễn ra trên khắp thế giới, tiến hành xóa bỏ hoặc hợp nhất một số cơ
quan điều tiết.
* Liên hệ và khuyến nghị đối với Việt Nam:
Bước vào thời kỳ đổi mới (1986), số đầu mối cơ quan của Chính phủ
của Việt Nam là 70, đến Nhiệm kỳ 1999-2004 còn 48, nhiệm kỳ 2004 - 2011
còn 38, nhiệm kỳ 2011-2016 hiện nay còn 30, trong đó gồm có 22 bộ và cơ
quan ngang bộ (giảm 4 so với nhiệm kỳ 2004 – 2011) và 8 cơ quan thuộc
Chính phủ.
Giảm 4 bộ và cơ quan ngang bộ cụ thể: Hợp nhất bộ Thủy sản với Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn; hợp nhất bộ Công nghiệp và Bộ Thương
mại thành Bộ Công thương; Giải thể Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em,
chuyển chức năng quản lý nhà nước về dân số sang Bộ Y tế; chuyển chức
chức năng quản lý nhà nước về gia đình sang Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch; chuyển chức chức năng quản lý nhà nước về trẻ em sang Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội; Hợp nhất Ủy ban Thể dục Thể thao với Bộ Văn hóa
Thông tin, giao Bộ này quản lý Tổng cục Du lịch và đổi tên thành Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch
22 bộ và cơ quan ngang bộ hiện nay bao gồm:
1. Bộ Quốc phòng;
2. Bộ Công an;
3. Bộ Ngoại giao;
5
4. Bộ Nội vụ;
5. Bộ Tư pháp;
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
7. Bộ Tài chính;
8. Bộ Công thương;
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
10. Bộ Giao thông Vận tải;
11. Bộ Xây dựng;
12. Bộ Tài nguyên và Môi trường;
13. Bộ Thông tin và Truyền thông;
14. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;
15. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
16. Bộ Khoa học và Công nghệ;
17. Bộ Giáo dục và Đào tạo;
18. Bộ Y tế;
19. Ủy ban Dân tộc;
20. Thanh tra Chính phủ;
21. Văn phòng Chính phủ;
22. Ngân hàng Nhà nước;
Đây là một nổ lực, cố gắng rất lớn của Đảng, Nhà nước ta trong tiến
trình tái cơ cấu các bộ theo xu thế toàn cầu hóa và để đảm bảo thực hiện tốt
chức năng của Chính phủ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính
quốc gia. Tuy nhiên, so với xu thế trên thế giới và khuyến nghị của Ngân hàng
phát triển Châu Á, số lượng các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ Việt
Nam hiện nay là chưa phù hợp, nhiều trên mức cần thiết.
Theo quan điểm cá nhân, em đề nghị nên giảm xuống còn khoảng 16
bộ và cơ quan ngang bộ là hợp lý để từng bước đạt tới mô hình “Nhà nước
nhỏ nhưng mạnh và xã hội to”. Ngoài các bộ thuộc khối đối ngoại và an ninh
quốc phòng mà nước nào cũng có, thì các bộ thuộc khối kinh tế - xã hội cần
6
được tổ chức, sắp xếp lại vừa thích hợp với thực tế Việt Nam, vừa có sự tương
thích với các nước đối tác để phù hợp với điều kiện hội nhập. Cụ thể:
Sáp nhập Bộ Kế hoạch và Đầu tư với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà
nước thành Bộ Tài chính – Kế hoạch; Sáp nhập Bộ Giao thông Vận tải với Bộ
Xây dựng thành Bộ cơ sở hạ tầng; Sáp nhập Bộ Khoa học Công nghệ với Bộ
Giáo dục và Đào tạo thành Bộ quản lý nguồn nhân lực; Sáp nhập Ủy ban Dân
tộc với Bộ Lao động – Thương binh và xã hội thành Bộ Lao động - Thương
binh và các vấn đề xã hội; hợp nhất Bộ Công an với Bộ Nội vụ. Số bộ và cơ
quan ngang bộ sau khi tái cơ cấu gồm:
1. Bộ Quốc phòng;
2. Bộ Ngoại giao;
3. Bộ Nội vụ;
4. Bộ Tư pháp;
5. Bộ Tài chính - Kế hoạch;
6. Bộ Công thương;
7. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn;
8. Bộ Cơ sở hạ tầng;
9. Bộ Tài nguyên và Môi trường;
10. Bộ Thông tin và Truyền thông;
11. Bộ Lao động - Thương binh và các vấn đề xã hội;
12. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
13. Bộ quản lý nguồn nhân lực
14. Bộ Y tế;
15. Thanh tra Chính phủ;
16. Văn phòng Chính phủ.
2. Lý thuyết về cơ cấu tổ chức của chính quyền cấp dưới và chính quyền
địa phương.
Mỗi nước đều có các cấp chính quyền dưới chính quyền trung ương.
Các cơ quan chính quyền cấp dưới có các quyền lực, nguồn lực và cơ cấu tổ
chức khác nhau, phụ thuộc vào việc nước đó theo cơ cấu nhà nước liên ban
7
hay đơn nhất, có từng là thuộc địa hay không, mức độ duy trì các hình thức
quản lý địa phương theo tập tục như thế nào và tính chất của các phong trào
độc lập ra sao. Tuy nhiên, nhìn chung các chính quyền cấp dưới lại được chia
thành chính quyền cấp trung gian (“vùng”, “tỉnh” hay “quận”) và chính quyền
địa phương (cấp thành phố tự quản và phường, xã).
Trong một số hệ thống hành chính, các chính quyền cấp dưới chỉ có
một số thẩm quyền được chính quyền trung ương quy định cụ thể; trong khi ở
các hệ thống khác, các chính quyền cấp dưới lại hoạt động theo nguyên tắc
“thẩm quyền chung”.
Tại rất nhiều nước, quyền hạn và thẩm quyền của chính quyền địa
phương được quy định rõ trong hiến pháp hay văn bản luật; tại một số nước
khác, các quyền hạn và thẩm quyền này không được quy định cụ thể và nhìn
chung phụ thuộc vào thái độ của chính quyền trung ương tại từng thời điểm cụ
thể. Ngoài ra, tại hầu hết các nước đang phát triển, hoạt động trên thực tế của
hệ thống hành chính địa phương chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tập quán và
chuẩn mực văn hóa.
Có sự khác biệt đáng kể giữa chính quyền địa phương ở khu vực nông
thôn, các thành phố và các “thành phố quy mô lớn” có số dân trên 10 triệu
người. Tại các khu vực nông thôn của các nước đang phát triển, cấu trúc
thường thấy của chính quyền địa phương là hội đồng phường, xã cấp cơ sở,
gồm các thành viên cho dân bầu ra, cấp cao hơn là chính quyền đại diện cho
một nhóm làng, xã và cấp trên nữa là cấp quận với các thành viên chính quyền
được bầu gián tiếp. Tại các thành phố, cơ cấu tổ chức của chính quyền thành
phố phụ thuộc vào các chức năng và dịch vụ mà chính quyền đó cung cấp.
Tại Nhật bản, Hoa Kỳ và một số nước đang phát triển ở Châu Á, Đông
Âu và Mỹ Latinh, Thị trưởng được người dân bầu trực tiếp. Hội đồng không
thể miễn nhiệm thị trưởng; tại một số ít nước Châu Á và Châu Phi, thị trưởng
do chính quyền trung ương bổ nhiệm; một số nước khác thị trưởng do một hội
đồng bầu ra. Trong các chính quyền địa phương do bổ nhiệm, nhìn chung việc
quản lý ít căn cứ vào nhu cầu và các cá nhân thường bị chia rẽ. Trong chính
8
quyền địa phương được hội đồng bầu, vấn đề thường gặp phải là sự phân tán
quyền lực, đặc biệt là thị trưởng. Dù việc bầu thị trưởng được tiến hành theo
cách thức nào, thì các tổ chức chính trị địa phương cũng có thể hưởng lợi từ
sự ủng hộ của một cơ quan hành chính mạnh ở địa phương.
Việc mở rộng các thành phố quy mô lớn là một trong những đặc điểm
nổi bật nhất của quá trình đô thị hóa. Tới năm 2025, chỉ riêng các thành phố
quy mô lớn ở Châu Á như Jakarta, Bangkok, Manila, Seoul và Culcutta sẽ có
số dân khoảng 400 triệu người. Các thành phố quy mô lớn thường có khu vực
trung tâm, khu vực vành đai và các khu vực ngoại vi. Do đó, mô hình chính
quyền thành phố đơn nhất truyền thống trở nên không phù hợp vì trách nhiệm
cung cấp dịch vụ tại các thành phố quy mô lớn đang trong tình trạng manh
mún một cách tồi tệ và không thể căn cứ vào ranh giới hành chính của các
thành phố tự quản. Các thành phố quy mô lớn rất cần có sự quản lý phối hợp
tốt trong việc quy hoạch, xử lý vấn đề môi trường xuống cấp và tình trạng
nghèo khổ cùng cực. Sự phối hợp hoạt động liên ngành là điều cốt yếu và các
chính quyền trung ương và các cấp chính quyền địa phương trung gian phải
đóng vai trò chủ chốt.
* Liên hệ và khuyến nghị đối với Việt Nam:
Khác với chế độ tự quản địa phương của một số nước, chính quyền địa
phương của Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước
thống nhất, bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân
dân địa phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức khác được thành lập
trên cơ sở các cơ quan quyền lực nhà nước này theo quy định của pháp luật
nhằm quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, trên cơ sở
nguyên tắc tập trung dân chủ và kết hợp hài hoà giữa lợi ích nhân dân địa
phương với lợi ích chung của cả nước.
Chính quyền địa phương Việt Nam hiện nay được chia thành 3 cấp:
Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân nên thực
hiện theo mô hình chính quyền địa phương và chính quyền cấp cấp dưới
tương tự như Philippin đang thực hiện đó là:
9
Đối với các tỉnh bao gồm các Thành phố thuộc tỉnh, Thị xã, huyện;
trong thành phố thuộc tỉnh và thị xã bao gồm các xã, phường; trong huyện bao
gồm các xã và Thị trấn như hiện nay.
Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm các xã, phường
(hiện nay cấp dưới trực tiếp thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm Quận,
huyện, đề nghị bỏ cấp này).
Chức năng, nhiệm vụ của Chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã)
cần phải được quy định rõ ràng trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng
Nhân dân và Ủy ban nhân dân, tránh chồng chéo, trùng lắp và chưa rõ ràng
như hiện nay.
Cần tiếp tục thực hiện cơ quan dân cử địa phương (Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân) ở cả thành thị và nông thôn. Không nên bỏ Hội đồng nhân
dân cấp Quận, huyện, phường như chúng ta đang thực hiện thí điểm hiện nay
vì nó không phù hợp với xu thế của thế giới và thực tiễn hành chính của nước
ta, từng bước thực hiện thí điểm người dân trực tiếp bầu Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân các cấp.
Đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa phương, nâng cao năng lực
để chính quyền địa phương đáp ứng được yêu cầu của công việc; tăng cường
các cơ chế trách nhiệm và khả năng đáp ứng của chính quyền địa phương đối
với người dân và cho phép người dân tham gia quản lý ở mức độ phù hợp.
Thực hiện kiểm toán có hiệu quả đối với các hoạt động của chính
quyền địa phương và bảo đảm các kênh giải quyết khiếu nại tố cáo của công
dân.
Tiến hành thí điểm mô hình chính quyền đô thị đối với các Thành phố
lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hà Nội, Thành phố Đà Nẵng,
Thành Phố Hải phòng, Thành phố Cần Thơ./.
10
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_quoc_cuong_758.pdf