- Phục hồi lòng tin vào hệ thông ngân hàng (thông qua bảo lãnh tiền gửi, củng
cố cơ cấu thể chế, thi hành các chuẩn mực kiểm toán và kế toán quốc tế, nhất là chi tiêu phân
loại tài sản, thắt chặt công tác giám sát tuân thủ luật lệ, đào tạo cán bộ thanh tra giám sát của
Chính phủ và nhân lực kiểm toán).
- Thiết lập một khuôn khổ pháp lý cho can thiệ p của Chính phủ nhằm đảm
bảo rằng hệ thống bảo hiểm tiền gửi có đủ vốn để xử lý khủng hoảng và có thể được sử
dụng một cách nhanh chóng và hiệu quả, và Chính phủ có được một quy trình toàn diện về
theo dõi và đánh giá liên tục tình trạng nợ xấu và mất thanh khoản trong hệ thống ngân hàng,
tránh được tình trạng bị động.
- Thiết lập một khuôn khổ pháp lý cho can thiệ p của Chính phủ vào ngân
hàng mất khả năng thanh toán. Quá trình can thiệp của Chính phủ sẽ làm nảy sinh một số
vấn đề về pháp lý liên quan đến việc nắm giữ cổ phần của các cổ đông hiện tại và vì thế cần
có luật tương ứng để điều chỉnh. Ví dụ, khi Chính phủ bơm vốn vào cho một ngân hàng và
nếu muốn các cổ đông hiện tại phải rút bớt cổ phần tương ứng để Chính phủ trở thành cổ
đông chính có quyền bổ nhiệm người của mình vào các vị trí quản lý thì cần phải có một luật
cho phép Chính phủ làm như vậy nếu họ không tự nguyện xin rút.
28 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2460 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y ra nếu ít nhất 1 tiêu chí xảy ra:
+ Tỷ lệ nợ xấu NPLs so với tổng vốn cho vay trong hệ thống ngân hàng vượt quá
10%
+ Chi phí cho hoạt động cứu trợ ngân hàng tối thiểu bằng 2% GDP.
+ Giai đoạn cứu trợ kéo theo hoặc là quốc hữu hóa các ngân hàng ở quy mô lớn,
hoặc là hiện tượng rút tiền gửi ồ ạt khỏi ngân hàng, hoặc các biện pháp khẩn cấp khác như
đóng băng tiền gửi, cho phép ngân hàng nghỉ giao dịch, phát hành bảo lãnh Chính phủ.
2.3 Khủng hoảng nợ: là tình trạng một quốc gia không có khả năng chi trả các
khoản nợ vay đến hạn.
2.4 Khủng hoảng kép.
+ Khủng hoảng kép loại 1: là một cuộc khủng hoảng tiền tệ theo sau khủng
hoảng ngân hàng.
+ Khủng hoảng kép loại 2: là khủng hoảng nợ đi kèm với khủng hoảng tiền tệ.
3. Các mô hình khủng hoảng cơ bản
3.1 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được xây dựng bởi P. Krugman (1979), mô
hình này chủ yếu đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai trong điều kện tỷ giá
cố định bị các hoạt động đầu cơ tấn công.
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
3
3.2 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld (1994 và 1995) xây dựng.Mô
hình này đề cập về kỳ vọng của các nhà đầu tư về chính sách tỷ giá của Chính phủ là thả nổi
hay cố định từ đó đưa ra các cuộc tấn công tiền tệ.
3.3 Các mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999) xây dựng,
đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Việc tự
do hóa tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc
khủng hoảng kép:
+ Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai: đ iều này dẫn
đến sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong nước quá mức và kém hiệu quả
+ Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng quá lớn.
I. Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam
1. Mô hình giám sát tài chính hiện hành của Việt Nam
Hiện nay mô hình giám sát tài chính Việt Nam theo mô hình phân tán dựa trên cơ
sở thể chế. Theo đó NHNN thực hiện hoạt động thanh tra giám sát hoạt động các TCTD, Bộ
Tài chính thực hiện giám sát hoạt động chứng khoán và Bảo hiểm (chịu sự giám sát trực tiếp
của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước và Cục Bảo hiểm).
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
4
2. Định hướng cấu trúc hệ thống tài chính Việt Nam
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hơn 4.000 năm, nhưng có thể nói rằng hệ thống tài
chính Việt Nam - hệ thống tài chính do các ngân hàng đóng vai trò chủ đạo (theo trường phái
Đức – Nhật, các trung gian tài chính, nhất là các ngân hàng đóng vai trò chính) bắt đầu hình
thành rõ nét từ năm 1858, năm Việt Nam trở thành một nước phong kiến nửa thuộc địa của
Pháp. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là
một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị
trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển dần sang hoạt
động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho
tới ngày nay. Sau sự đổ bể của hệ thống các quỹ tín dụng trong giai đoạn 1986-1990, hai pháp
lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp
tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng
Việt Nam từ 1cấp sang 2 cấp – trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động
của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi:
Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh
doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của một Ngân
hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và
là Ngân hàng của Nhà nước.
Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán,
ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tếquốc dân do các Định chế tài chính Ngân
hàng và phi ngân hàng thực hiện.
3. Bức tranh thị trường tài chính Việt Nam năm 2011 và những triển vọng tài
chính năm 2012
3.1 Bức tranh thị trường tài chính Việt Nam 2011
Bước vào năm 2011, khó khăn và thách thức đều lớn hơn so với dự báo. Giá
lương thực thực phẩm, giá dầu thô và nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng cao; thị
trường chứng khoán sụt giảm mạnh; khủng hoảng nợ công ở nhiều nước; tăng trưởng kinh tế
thế giới chậm lại, lạm phát cao tại hầu hết các quốc gia... tác động tiêu cực vào nền kinh tế
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
5
nước ta. Ở trong nước, lạm phát và mặt bằng lãi suất tăng cao; nhập siêu lớn, cán cân thanh
toán quốc tế thâm hụt, dự trữ ngoại hối giảm mạnh gây áp lực lên thị trường tiền tệ và tỷ giá;
giá vàng trên thị trường biến động bất thường. Sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn.
Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở thành thách thức lớn...
Trước bối cảnh đó, Chính phủ đã nhất quán điều hành chính sách tài chính-tiền tệ thắt chặt
- Tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, cắt giảm đầu tư công;
đồng thời, miễn, giảm nhiều loại thuế cho doanh nghiệp và cá nhân. Kết quả là, bội chi ngân
sách nhà nước cả năm 2011 giảm xuống còn 4,9% GDP (kế hoạch là 5,3%), thu ngân sách
tăng, đáp ứng nhu cầu chi và dành một phần để tăng chi trả nợ.
- Chính sách tiền tệ được xử lý chặt chẽ, linh hoạt và có nhiều quyết đoán mạnh mẽ
hơn: ước cả năm, tổng dư nợ tín dụng tăng 12%, lãi suất tín dụng đã có xu hướng giảm.
- Thị trường ngoại hối chuyển biến tích cực, tỷ giá dần ổn định, trạng thái ngoại hối
của hệ thống ngân hàng, dự trữ ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện. Mua
bán ngoại tệ và kinh doanh vàng được kiểm soát khá chặt chẽ và có kết quả bước đầu.
- Nợ công được giữ ở mức an toàn (cuối năm 2011 ước khoảng 54,6% GDP).
- Xuất khẩu tăng cao, nhập khẩu được kiểm soát. Nhập siêu giảm mạnh, cả năm dự kiến
khoảng 10 tỷ USD, bằng 10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch (không
quá 18%), đã góp phần tích cực cải thiện cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá...
Tuy nhiên, năm 2011 vẫn ghi nhận những cú ”sốc” kinh tế trên nhiều lĩnh vực
- Điển hình là việc dồn dập điều chỉnh tỷ giá và tăng giá xăng, dầu, điện.
- Sự chênh lệch kéo dài giá vàng trong và ngoài nước gây khá nhiều tranh cãi và tạo
lúng túng cho ngân hàng
- Những nghi ngại của người dân về cố gắng kiểm soát thị trường ngoại hối theo tinh
thần Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 23/2/2011 của Chính phủ đặc biệt là các động thái cố gắng
khống chế trần lãi suất huy động và hạn mức t ín dụng, hạn chế đối tượng được tiếp cận giao
dịch tín dụng ngoại tệ, thậm chí tịch thu ngoại tệ buôn bán ”ngoài luồng”; lập rào cản hành
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
6
chính „tiêu chuẩn hóa” nhằm giảm thiểu đối tượng đủ chuẩn được phép thực hiện nhiệm vụ
độc quyền Nhà nước về nhập khẩu, sản xuất và buôn bán vàng miếng.
- Sự gia tăng nợ khó đòi ngân hàng & đổ vỡ tín dụng đen. Dù được tiên liệu từ đầu
năm, song dư luận cũng không tránh khỏi sốc khi nghe tin nợ xấu của khối ngân hàng thương
mại tăng vọt tính đến cuối tháng 10/2011 lên 76000 tỷ đồng, tức tới trên 3,5% tổng dư nợ
(trong khi có tổ chức nước ngoài cho rằng con số thực là 13,5%), trong đó 47% là nợ khó đòi.
Đặc biệt, dư luận càng sốc hơn khi biết các DNNN chiếm tới 60% tổng dư nợ và 70% nợ xấu
của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, những vụ đổ vỡ tín dụng đen bùng nổ trên nhiều địa
phương cả nước, nhất là ở các đô thị lớn vào những tháng cuối năm 2011 làm tăng sự e ngại
về độ lành mạnh và nguy cơ tạo sốc đổ vỡ đômino của thị trường tín dụng trong nước...
- Sự bùng nổ những đợt đại hạ giá các bất động sản và chứng khoán vốn trong tình
trạng ế dài trước đó.
- Sốc giảm giá trên thị trường chứng khoán còn thê thảm hơn, khi mà có những chứng
khoán rớt giá thê thảm, còn không đến 900 đ/cổ phiếu, trong khi tuyệt đại đa số hàng hóa và
dịch vụ khác đều đồng loạt tăng giá theo mức lạm phát....
3.2 Triển vọng tài chính năm 2012
Việt Nam tiếp tục phải xử lý các tồn tại và vấn đề tài chính đã, đang và sẽ tiếp
tục đặt ra. Kinh tế tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu và biến động chính trị ở nhiều nước trên thế giới có thể đột biến, kéo dài và
nặng nề. Trong năm 2012, do độ mở cửa cao, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác
động tiêu cực mạnh từ xu hướng nói trên của kinh tế thế giới.
Một số khó khăn và thách thức tài chính và thị trường có thể lớn hơn và khó
lường hơn so với dự báo: Giá nhiều mặt hàng tiêu dùng điện và điện tử sẽ có xu hướng giảm,
giá lương thực thực phẩm, giá dầu thô và nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế có thể tăng
cao dần; thị trường chứng khoán tiếp tục trầm lắng, trì trệ. Tuy nhiên, những cú sốc hạ giá
trên thị trường bất động sản và chứng khoán sẽ còn tiếp diễn chưa có điểm dừng. Đặc biệt,
lạm phát và mặt bằng lãi suất có thể vẫn khá cao; nợ xấu của hệ thống ngân hàng sẽ tiếp tục
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
7
gia tăng áp lực; thanh khoản của một số ngân hàng thương mại sẽ thêm khó khăn; nhập siêu,
cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ ngoại hối, tỷ giá, cũng như giá vàng trên thị trường có
nhiều khả năng lớn là sẽ vẫn biến động bất thường. Sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp nhiều
lực cản chưa dễ tháo gỡ, dù có dấu hiệu nới lỏng tín dụng từ ngân hàng. Nguy cơ mất ổn định
kinh tế vĩ mô có thể trở thành thách thức lớn hơn nếu không có giải pháp quyết liệt, hiệu quả.
4. Việt Nam đang trải qua giai đoạn khủng hoảng kép?
4.1 Khủng hoảng Ngân hàng
Trong thời gian gần đây, các chuyên gia kinh tế đã bày tỏ lo ngại về sự lành mạnh
của hệ thống ngân hàng Việt Nam sau khi lạm phát tăng vọt và giá nhà đất sụt mạnh. Có
những lời đồn đoán trong nhiều tháng nay cho rằng một số ngân hàng nhỏ đã vỡ nợ trên lý
thuyết, nhưng chưa có ngân hàng nào sụp đổ một cách công khai và ngân hàng trung ương đã
cam kết ngăn chặn những vụ phá sản của ngân hàng. Ngoài ra, nợ xấu tăng nhanh trong thời
gian gần đây và giới hữu trách đề ra các kế hoạch để tái cơ cấu khu vực gặp khó khăn này đã
làm tăng thêm sự lo ngại về hệ thống tài chính Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại trực tuyến với nhân dân, do Cổng thông tin điện
tử Chính phủ tổ chức sáng ngày 12/1/2012 vừa rồi, thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Nguyễn
Văn Bình đã khẳng định, “chúng ta không có khủng hoảng ngân hàng”. Thống đốc Nguyễn
Văn Bình thừa nhận “nợ xấu đã tăng, và với tốc độ nhanh trong thời gian gần đây, nhưng tình
hình nợ xấu vẫn nằm trong tầm kiểm soát”.
Hiện nay, chúng ta đặt vấn đề tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng không phải là
do hệ thống ngân hàng của chúng ta yếu kém đến mức độ không tái cấu trúc nó thì nó đổ vỡ
ngay lập tức. Việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hiện nay xuất phát từ nhu cầu của đất nước
trong bối cảnh thay đổi lại mô hình phát triển kinh tế. Mỗi nền kinh tế có hệ thống huyết
mạch của nó, cơ thể như thế này thì cần huyết mạch tương ứng. Chúng ta nếu muốn xây dựng
cơ thể khác, thì nội dung cơ bản của cơ thể đó là trái tim và huyết mạch cũng phải có điều
chỉnh khác đi.
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
8
Như vậy, nhu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trước tiên xuất phát từ nhu cầu
tái cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng chuyển từ kinh tế phát triển theo chiều rộng sang kinh
tế phát triển có chiều sâu, theo hướng từ số lượng sang chất lượng. Để đáp ứng nhu cầu đó,
chúng ta cũng kèm theo là giải quyết những yếu kém đang tồn tại trong hệ thống ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng của chúng ta về cơ bản vẫn đáp ứng được những yêu cầu của
cuộc sống đặt ra và trên thực tế những năm vừa qua, ví dụ như năm 2008, lạm phát cao, rất
nhiều khó khăn, hệ thống ngân hàng của chúng ta vẫn đứng vững. Sau đó, năm 2009, khi có
khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngân hàng thế giới, kinh tế thế giới chao đảo, hệ thống ngân
hàng của chúng ta vẫn đứng vững.
4.2 Khủng hoảng tiền tệ
Dường như thị trường đã trở nên ngày càng quan ngại về khả năng Việt nam có
thể đối mặt với một cuộc khủng hoảng tiền tệ tương tự như khủng hoảng tiền tệ châu Á năm
1997 sau việc Fitch Rating chỉnh sửa triển vọng của Việt nam xuống mức thấp hơn. Công ty
Chứng khoán Nomura, Tokyo, trong Nghiên cứu Châu Á và các thị trường đang nổi của mình
đã kiểm tra khả năng xảy ra khủng hoảng tiền tệ tại Việt Nam từ 3 khía cạnh (1) cung cầu
ngoại hối dựa trên cán cân thanh toán quốc tế, (2) khả năng của trụ vững Việt nam nếu luồng
vốn chảy ra dựa trên cơ sở dự trữ ngoại hối và nợ nước ngoài, và (3) chính sách ngoại hối
nhằm giữ tỷ giá hiệu lực ổn định.
Về cán cân thanh toán quốc tế: các luồng vốn của Việt nam chủ yếu là vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các luồng vốn dài hạn
khác, các luồng “tiền nóng” ngắn hạn là hạn chế. Thâm hụt cán cân vãng lai nhanh chóng mở
rộng cũng đáng lo, nhưng ít rủi ro xảy ra khủng hoảng tiền tệ do luồng vốn chảy ra trên quy
mô lớn là nguồn vốn ngắn hạn.
Về khả năng trụ vững nếu các luồng vốn chảy ra: Theo Ngân hàng Phát triển
châu Á, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng mạnh trở lại trong thời gian qua. Trong quý
I/2012, theo ước tính của ADB, con số này đã đạt khoảng 17 tỷ USD, tăng khoảng 3,5 tỷ
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
9
USD so với con số được Quỹ Tiền tệ quốc tế công bố vào giữa năm 2011. Trong khi đó, năm
2011, nợ nước ngoài bằng 41,5% GDP, vẫn nằm trong phạm vi an toàn 50%.
Về chính sách ngoại hối: Chính phủ đang chuyển dần trọng tâm của chính sách
kinh tế tổng thể từ tăng trưởng kinh tế sang kiểm soát lạm phát. Bài phát biểu của IMF đánh
giá rằng Chính phủ Việt Nam đã có những tiến bộ rất đáng hoan nghênh trong việc ổn định
thị trường ngoại hối.
Như vậy, đồng Việt Nam có ít rủi ro giảm giá mạnh do nhiều luồng vốn ngắn hạn
rút khỏi Việt Nam, thay vì đó, đồng Việt Nam có lẽ sẽ chỉ chịu một sức ép khiêm tốn do nhu
cầu thực tế bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại. Và do đó có thể nói trong giai đoạn
hiện nay Việt Nam chưa xảy ra khủng hoảng tiền tệ.
4.3 Khủng hoảng nợ công
Trước những dư luận trái chiều về vấn đề nợ công tại Việt Nam, Bộ Tài chính đã
khẳng định “Chỉ số nợ của Việt Nam hiện ở mức trung bình và nằm trong phạm vi an
toàn. Trong cơ cấu nợ của Việt Nam, chủ yếu là nợ vay dài hạn và lãi suất ưu đãi”.
Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, tính đến ngày 31/12/2011, nợ nước ngoài
của quốc gia ước tính ở mức khoảng 1.042 nghìn tỷ đồng, bằng 41,5% GDP năm 2011. Đây
là mức nằm trong phạm vi giới hạn an toàn. Bởi, theo Nghị quyết của Quốc hội, kiểm soát dư
nợ công đến năm 2015 dưới 65% GDP, nợ Chính phủ, nợ quốc gia dưới 50% GDP.
Kết luận này cũng phù hợp với đánh giá của các tổ chức tài chính quốc tế như
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Các tổ chức này nhận định, Việt
Nam là nước có mức nợ nằm trong tầm kiểm soát và không nằm trong nhóm các nước có
gánh nặng về nợ (HIPCs).
Nếu xét về khía cạnh bền vững nợ cho thấy, nợ vay dài hạn, lãi suất ưu đãi là chủ
yếu trong cơ cấu nợ của Việt Nam. Trong tổng số nợ của nước ta, số vốn vay ODA chiếm
75% và phần lớn số vốn này có lãi suất thấp.
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
10
Theo Phạm Thế Anh (Trung tâm nghiên cứu chính sách phát triển bền vững) -
Nợ công Việt Nam: Rủi ro và thách thức, ông nghiên cứu các chỉ tiêu cơ bản về nợ công và
hiện trạng vĩ mô và so sánh với các ngưỡng an toàn gợi ý trong nghiên cứu của Manasse và
Roubini (2005) nhằm có cái nhìn chính xác hơn về thực trạng nợ công và kinh tế vĩ mô của
Việt Nam
Khả năng thanh toán
Các thước đo khả năng thanh toán nợ của Việt Nam cho thấy, ước tính cho tới hết năm
2010, tỷ lệ nợ công/GDP, nợ nước ngoài/GDP, và nợ công nước ngoài/GDP của Việt Nam
lần lượt ở mức trên 55%, 40%, và 30%. Rất khó có thể đưa ra được ngưỡng an toàn với các
chỉ tiêu này bởi mỗi nghiên cứu thường đưa ra các khuyến cáo khác nhau với từng quốc gia
cụ thể. Ví dụ như nghiên cứu của Li và cộng sự (2010) chỉ ra rằng, các nước Đông Âu và
Trung Á rơi vào khủng hoảng nợ với tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP tăng vọt từ 42 lên tới 88%.
Ngược lại, các nước thu nhập thấp và trung bình thấp lại rơi vào khủng hoảng nợ với các tỷ lệ
nợ nước ngoài thấp hơn nhiều. Tổng nợ nước ngoài và nợ công nước ngoài ở các nước này
khi rơi vào khủng hoảng chỉ chưa đến 40% GDP. Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy rằng
khả năng thanh toán nợ của Việt Nam đang giảm nhanh trong những năm gần đây. Theo số
liệu của MoF, chỉ trong vòng hai năm từ 2008-2010, tỷ lệ nợ công/GDP đã tăng khoảng trên
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
11
20 điểm phần trăm, từ 36,2% lên 57,3%. Trong khi đó tỷ lệ nợ công nước ngoài/GDP cũng
tăng hơn 6 điểm phần trăm, từ 25,1% lên tới hơn 31,1%. Xu hướng này rõ ràng đang ảnh
hưởng nghiêm trọng đến an toàn tài chính và Việt Nam cần phải có những định hướng điều
chỉnh kịp thời.
Tương tự như vậy, tỷ lệ nợ công/tổng thu ngân sách nhà nước cũng tăng nhanh. Ước
tính đến hết năm 2010, tổng nợ công đã gấp hơn 2 lần tổng thu ngân sách nhà nước, tăng
nhanh so với con số 1,6 lần của năm 2008. Trong khi đó, cán cân ngân sách liên tục thâm hụt
cao trong những năm gần đây và chưa có dấu hiệu được cải thiện trong những năm tới. Kế
hoạch ngân sách cho thấy Chính phủ đang tiếp tục theo đuổi chính sách tài khóa lỏng với
mức thâm hụt ngân sách hàng năm vào khoảng 5% GDP. Nếu điều này xảy ra, con số nợ
công sẽ không dừng ở mức trên 57% như hiện nay.
Khả năng thanh khoản
Khả năng thanh khoản phản ánh khả năng trả nợ nhanh của Việt Nam đối với các
khoản nợ nước ngoài. Do có tới trên 80% nợ nước ngoài là nợ dài hạn và với lãi suất ưu đãi
nên khả năng thanh khoản nợ nước ngoài của Việt Nam là khá an toàn. Tỷ lệ nợ nước
ngoài/dự trữ ngoại hối chỉ xấp xỉ 20% trong khi nghĩa vụ trả nợ nước ngoài/dự trữ ngoại hối
hàng năm cũng ở mức thấp, dưới 10%. So với ngưỡng an toàn được khuyến cáo thì các chỉ
tiêu này còn thấp hơn khá nhiều.
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
12
Có thể thấy rằng, từ năm 2011 đến 2013, nghĩa vụ nợ của Chính phủ chủ yếu là từ nợ
trong nước. Tổng nghĩa vụ nợ trong nước vào khoảng 215 ngàn tỷ đồng (hơn 10 tỷ USD)
trong vòng 3 năm tới. Con số này tương đương với hơn 40% tổng thu NSNN trong năm 2010
và xấp xỉ bằng với dự trữ ngoại hối hiện nay của Việt Nam. Nghĩa vụ nợ trong nước lớn cộng
với thâm hụt ngân sách có thể sẽ gây sức ép tiêu cực đối với kế hoạch phát hành trái phiếu
Chính phủ, chính sách tiền tệ, và lạm phát trong thời gian tới.
Nghĩa vụ nợ nước ngoài tương đối ổn định trong những năm tới. Trong vòng 3 năm
tới, trung bình mỗi năm Việt Nam phải trả nợ gốc và lãi nợ gốc khoảng 32 ngàn tỷ đồng (1,5
tỷ USD). Con số này chỉ tương đương khoảng trên 10% dự trữ ngoại hối hiện nay. Tuy nhiên,
thâm hụt thương mại kéo dài đang là nguy cơ làm thâm thủng dự trữ ngoại hối và đe dọa đến
an toàn nợ nước ngoài ngắn hạn của Việt Nam trong dài hạn.
KẾT LUẬN: Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam vẫn chưa xảy ra khủng hoảng ngân hàng,
khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng nợ. Do đó Việt Nam chưa có khủng hoảng kép . Hệ
thống quản lý tài chính của Việt Nam đang thay đổi để hệ thống tài chính tốt hơn, tạo môi
trường lành mạnh hơn cho toàn bộ dòng vốn chuyển động trong nền kinh tế trong tương lai.
Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể rơi vào vòng xoáy của
khủng hoảng kép. Do đó bên cạnh việc khắc phục các bất cập, điểm yếu vốn có trong nền
kinh tế, chúng ta cũng cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống phòng ngừa rủi ro cho hệ
thống tài chính.
III. Các mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính trên thế giới
1. Các phương pháp chính để theo dõi và cảnh báo khủng hoảng tài chính
Kỹ thuật theo dõi và cảnh báo đã được phát triển từ hơn 40 năm nay. Chúng đa
dạng và áp dụng toán học khá phức tạp. Người ta có thể chia ra hai phương pháp chính để
theo dõi và cảnh báo là phương pháp tham số và phi tham số.
1.1 Phương pháp tham số
Phương pháp tham số dựa trên cơ sở thống kê phân tích, có thể dùng phân tích
biệt số (discriminant) hoặc sử dụng mô hình định tính kiểu “logit” hay “probit” để ước
lượng xác suất xảy ra khủng hoảng. Các biến giải thích có thể là định tính hay định lượng và
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
13
mang giá trị bất kỳ, trong khi đó kết quả của mô hình sẽ là 0 hay 1, nghĩa là khả năng xảy ra
hoặc không xảy ra của một sự kiện nào đó.
Trong phương pháp tham số còn có 4 nhóm chính: hệ thống đánh giá cho điểm
ngân hàng (supervisory bank rating systems), hệ thống phân tích các nhóm tương đồng và các
tỷ số tài chính (financial ratio and peer group analysis system), hệ thống đánh giá một cách
toàn diện rủi ro ngân hàng (comprehensive bank risk assessment system), phương pháp cảnh
báo sớm có khủng hoảng (Early Warning System).
Mô hình này được phát triển tiên phong bởi Frankel và Rose (1996). Theo các
ông thì khủng hoảng tiền tệ chiếm một vị trí trung tâm trong mô hình dự báo theo phương
pháp tham số. Các ông cũng cho rằng khủng hoảng tiền tệ thường diễn ra cùng lúc hoặc kéo
theo các dạng khủng hoảng khác như khủng hoảng ngân hàng (hay còn gọi là khủng hoảng
kép loại 1).
Dermirgç-Kunt và Detragiache (1997) khi nghiên cứu mô hình theo phương
pháp này thì cho rằng khủng hoảng ngân hàng là một biến thể nghiêm trọng của tình trạng
kiệt quệ ngân hàng.
Kaminsky và Reinhart (1999) thì cho rằng khủng hoảng ngân hàng bắt đầu khi
tháo chạy tiền khỏi ngân hàng dẫn đến việc chính phủ phải đóng cửa, thâu tóm hoặc sáp nhập
các ngân hàng hoặc chính phủ phải can thiệp với qui mô lớn để giúp đỡ một hoặc nhiều tổ
chức tài chính, nhưng sau đó lại phải can thiệp giúp đỡ càng nhiều hơn.
1.2 Phương pháp phi tham số
Trong khi đó phương pháp phi tham số (trait recognition analysis, TRA, hay còn
gọi là trait recognition model, TRM) không sử dụng giả thuyết thống kê như mô hình tham số
mà xây dựng những chỉ số kinh tế với các mức giới hạn cho phép. Khi những chỉ số này vượt
khỏi giới hạn thì chúng trở thành tín hiệu cảnh báo.
Các tác giả điển hình của những mô hình này là Kaminsky và đồng sự (1998),
mô hình của các ông định nghĩa về khủng hoảng tiền tệ là việc giảm giá mạnh của đồng tiền
hoặc sự giảm mạnh của dự trữ ngoại hối vượt khỏi mức trung bình trên 3 phân phối chuẩn.
2. Giới thiệu các mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính trên thế giới
2.1 Mô hình Probit
Mô hình Probit được phát triển tiên phong bởi Frankel và Rose (1996) , xây
dựng dựa trên việc tính mức độ ảnh hưởng của các biến số kinh tế vĩ mô (được đại diện bằng
một ma trận X đóng vai trò biến giải thích trong mô hình) lên xác suất xảy ra khủng hoảng tài
chính.
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
14
Mô hình xem xét khủng hoảng tài chính theo lý thuyết ( theo 3 loại ):
+ Khủng hoảng tiền tệ.
+ Khủng hoảng NH.
+ Khủng hoảng nợ.
Phải xây dựng 3 phương trình theo mô hình Probit khác nhau _ để mô tả sự tương tác của
từng biến số kinh tế ứng với từng loại khủng hoảng
Dưới đây, trường hợp của khủng hoảng tiền tệ. Thiết lập phương trình tương tự với 2 loại
khủng hoảng còn lại.
Trong mô hình khủng hoảng tiền tệ, biến số phụ thuộc là một biến số nhị phân
( nhận giá trị 1 hoặc 0 _ nghĩa là khủng hoảng tiền tệ có diễn ra hay không trong một khoảng
thời gian cụ thể ).
Ta có phương trình hồi quy: CCt = α + β X
Theo mô hình Probit, chúng ta có mô hình xác suất như sau:
Pt = F(CCt) = F (α + β X)
Với: Pt là xác suất,
CCt nhận giá trị,
X là ma trận tập hợp các biến kinh tế từ X1, X2, X3 … Xn . Các giá trị X phải ứng với
thời điểm t – 1 (nghĩa là dùng biến số kinh tế thời điểm t – 1 dự báo cho xác suất khủng
hoảng thời điểm t)
F(Ii) là hàm số phân phối chuẩn tích lũy thể hiện như sau :
F ( Ii) là hàm mật độ phân phối xác suất giúp ta tính được giá trị xác suất xảy ra khủng hoảng.
Thực hiện biến đổi xác suất, ta có phương trình hồi quy sau:
F–1 (Pt) = α + β X = CC
với F-1(Ii) là hàm số nghịch đảo của hàm số F(Ii), chính là hàm số:
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
15
Theo PP hồi quy
+ Thực hiện hồi quy với biến phụ thuộc là CCt và các biến độc lập là X,
-> Xác định được ma trận hệ số α và β.
+ Với α và β đã biết, từ mô hình sẽ cho thấy ứng với một mức giá trị X nào đó thì
Xác suất xảy ra khủng hoảng là bao nhiêu
Một thay đổi trong X sẽ đem lại bao nhiêu thay đổi trong Pt
Tương tự đối với khủng hoảng NH và khủng hoảng nợ ta có các phương trình hồi quy.
DCt = F-1(Pt) = α+β
BCt = F-1(Pt) = α + β X
2.2 Mô hình Logit
Mô hình hàm Logit với thời g ian dự báo 12 tháng đến 24 tháng được sử dụng.
Với khung thời gian cảnh báo trong vòng 12-24 tháng, dùng hàm Logit ta có mô hình cảnh
báo sớm rủi ro khủng hoảng tiền tệ như sau:
Gọi Crisisi,t là xác suất xảy ra rủi ro khủng hoảng tiền tệ trong vòng 24 tháng tới,
mô hình sẽ là:
)...(, ,,22,1101
1
tkiktiti XXXti e
Crisis
Crisisi,t = 1, nếu tỷ giá thực lệch khỏi mức xu thế trong vòng 24 tháng;
= 0, nếu không có dấu hiệu vượt khỏi mức xu thế trong vòng 24 tháng;
Mô hình có 1 biến phụ thuộc và các biến độc lập (các biến độc lập thể hiện các chỉ số cảnh
báo về khủng hoảng tiền tệ).
Các biến sử dụng trong mô hình
Biến phụ thuộc: Crisisi,t lấy giá trị 1 hay 0 tùy theo chỉ số RER có vượt ngưỡng cảnh báo
trong vòng 24 tháng.
Biến độc lập: Việc lựa chọn các biến độc lập (chỉ số cảnh báo tiền tệ) dựa trên các chỉ số của
Kaminsky và các cộng sự của ông, các biến này phản ánh các yếu tố kinh tế gây ra rủi ro
khủng hoảng tiền tệ. Việc đưa các chỉ số cảnh báo tiền tệ vào mô hình phải đảm báo ý nghĩa
thống kê và có được các gợi ý chính sách để giảm thiểu và hạn chế khủng hoảng trong tương
lai.
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
16
Nguồn dữ liệu
Dữ liệu với quan sát theo tháng từ 01/1996-12/2009 được thu thập từ Tổng cục Thống kê,
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới
(WB).
Bảng 1: Giải thích các chỉ số cảnh báo ảnh hưởng đến xác suất xảy ra khủng hoảng
Biến độc lập Viết tắt trong mô hình Giá trị Tác động dự kiến
tới khủng hoảng
Nguồn
Biến kinh tế trong nước
Tỷ giá thực RER Tăng IMF
Thâm hụt tài khoản vãng
lai/GDP
CURENTAC % Tăng IMF
Tỷ lệ tăng dự trữ ngoại
hối
RESERVE % Giảm IMF
Tỷ lệ xuất khẩu EXGROWTH % Giảm IMF
Nợ nước ngoài ngắn
hạn/Dự trữ ngoại hối
SHORTDEPT % Tăng IMF
Tốc độ tăng trưởng tín
dụng nội địa
CREDGROWTH % Tăng IMF
Cung tiền M2/dự trữ M2RESERVE Tăng/giảm IMF
Tăng trưởng kinh tế trong
nước
GROWTH % Tăng/giảm GSO
Biến kinh tế quốc tế
Tốc độ tăng giá dầu thế
giới
OIL_PG % Tăng IMF
Tăng trưởng kinh tế Mỹ USGROWTH % Tăng/giảm IMF
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
17
Đánh giá chất lượng cảnh báo
Dấu hiệu cảnh báo có rủi ro khủng hoảng hay không có rủi ro khủng hoảng trong vòng 12 đến
24 tháng được chia thành các dấu hiệu cảnh báo theo ma trận như sau: (xem Bảng 2)
Bảng 2: Các dấu hiệu cảnh báo rủi ro
Rủi ro tỷ giá trong vòng 24
tháng
Không có rủi ro về tỷ giá trong
vòng 24 tháng
Dấu hiệu cảnh báo A B
Không có dấu hiệu cảnh báo C D
Sai lầm loại I: C/A+C
Sai lầm loại II: B/B+D
Tỷ lệ cảnh báo đúng: A+D/A+B+C+D
Mức độ gây nhiễu: (B/B+D)/(A/A+C)
2.3 Mô hình Signal Approach
Mô hình Signal Approach được phát triển bởi Kaminsky và đồng sự (1998). Mô
hình xây dựng dựa trên sự biến động của các biến kinh tế. Trong đó một tập hợp các biến số
kinh tế có tần số xuất hiện lớn trong một giai đoạn cụ thể được so sánh với một chỉ số khủng
hoảng. Khi một trong các biến này thay đổi lệch so với mức bình thường vượt ra khỏi một
ngưỡng giá trị cụ thể, nó phát đi các tín hiệu nhị phân về khả năng xảy ra một cuộc khủng
hoảng.
Chỉ số khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính được tính dựa theo công thức:
Với Stj là tín hiệu phát ra của biến thứ j tại thời điểm t
ωj là độ nhiễu của biến dự báo thứ j
n là số biến được theo dõi.
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
18
* Giải thích Stj
Mục tiêu ở đây là thu thập được tín hiệu từ các biến chỉ số. Mỗi chỉ số được phân
tích một cách riêng biệt để dự báo khủng hoảng. Sau đó mỗi chỉ số được theo dõi để xác đ ịnh
khi nào nó chệnh hướng khỏi tình trạng bình thường và vượt qua ngưỡng. Nếu một chỉ số
vượt qua ngưỡng ta nói nó đã phát ra một tín h iệu và nó được tính dựa vào 12 tháng tăng
trưởng của chỉ số đó và sự thay đổi với mức độ lớn vượt qua ngưỡng cho phép. Chúng ta định
nghĩa một tín hiệu như sau. Để S biểu thị vector của n chỉ số . Ví dụ St,j biểu thị cho giá trị
của chỉ số j ở kỳ t.Vì vậy, tín hiệu của chỉ số j ở kỳ t được quy ước như sau:
St,j = 1 ( có khủng hoảng ) nếu St,j vượt qua ngưỡng khả thi.
St,j = 0 ( không có khủng hoảng ) trong trường hợp còn lại.
Chú ý là một vài chỉ số càng vượt qua ngưỡng càng làm thể hiện khả năng khủng
hoảng tăng cao trong khi một số chỉ số là ngược lại, càng giảm vượt ngưỡng lại càng làm tăng
nguy cơ khủng hoảng.
Bảng 1 : Ngưỡng liên hệ của các chỉ số dự báo
Chỉ số Liên hệ với ngưỡng
Tỷ giá hối đoái thực Thấp hơn
Xuất khẩu Thấp hơn
M2/dự trữ ngoại hối Cao hơn
Sản lượng công nghiệp Thấp hơn
Lượng vượt quá M1 Cao hơn
Dự trữ ngoại hối Thấp hơn
Số nhân tiền M2 Cao hơn
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
19
Tín dụng nội địa/GDP danh nghĩa Cao hơn
Giá trị xuất khẩu / nhập khẩu Thấp hơn
Tỷ suất sinh lợi thực của tiền gửi Cao hơn
Nhập khẩu Cao hơn
Chênh lệch lãi suất trong và ngoài nước Cao hơn
Tỷ số lãi suất vay trên lãi suất tiền gửi Cao hơn
Tiền gửi ngân hàng Thấp hơn
Để xác định ngưỡng giá trị của từng chỉ số và tính được tín hiệu của chỉ số ta cần
một vài định nghĩa sau đây.
Cửa sổ tín hiệu là khoảng thời gian mà mỗi chỉ số được trông đợi sẽ thể hiện khả năng
dự báo khủng hoảng. Kaminsky, Lizondo và Reinhart (1998) đặt cửa sổ tín hiệu cho một cuộc
khủng hoảng là khoảng 24 tháng trước cuộc khủng hoảng. Khái niệm về cửa sổ tín hiệu có vẻ
trừu tượng nhưng nó hoàn toàn thống nhất với những công trình nghiên cứu khác và đã thể
hiện vai trò quan trọng trong các nghiên cứu của Kaminsky và Reinhart (1999), Kaminsky,
Lizondo và Reinhart (1998) và Golds tein, Kaminsky và Reinhart (2000). Phân tích độ nhạy
với Goldstein, Kaminsky và Reinhart (2000) đã thể hiện một kết quả tương tự cho một cửa sổ
tín hiệu 18 tháng và chứng minh một cửa sổ tín hiệu 12 tháng là có quá nhiều giới hạn.
Trong thực tế, một cửa sổ tín hiệu ngắn hơn thường được thấy trong một vài lĩnh vực
riêng biệt, ví dụ như với các NH đầu tư (Berg, Borensztein và Patillo 2004). Tuy nhiên, một
cửa sổ tín hiệu dài hơn có ích hơn cho những nhà hoạch định vì nó giúp họ điều chỉnh chính
sách và có những bước đi đúng theo thứ tự để tránh xảy ra khủng hoảng – đã được dự báo –
từ ban đầu.
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
20
* Giải thích ωj
Với định nghĩa cửa sổ tín hiệu như trên, ta có thể ước tính được sự thể hiện của các chỉ
số. Nếu một chỉ số phát ra tín hiệu trong thời gian còn hiệu lực của cửa sổ tín hiệu, thì ta nói
rằng, nó đã phát một “tín hiệu tốt”. Nếu không có cuộc khủng hoảng nào xảy ra sau 24 tháng
thì nó là một “tín hiệu sai” hay “nhiễu”. Tỷ số của “tín hiệu sai” trên “tín hiệu tốt” gọi là “độ
nhiễu” và có vai trò rất quan trọng.
Ta có ma trận sau :
Khủng hoảng
Không khủng hoảng
Tín hiệu được phát (S=1) A B
Không có tín hiệu (S=0) C D
Với mỗi chỉ số ta sẽ tính một ma trận. A,B,C,D có ý nghĩa như sau:
A = Số tháng mà chỉ số phát ra tín hiệu tốt vượt lên trên hay đi xuống dưới ngưỡng (dự
báo khủng hoảng và có khủng hoảng xảy ra trên thực tế.
B = Số tháng chỉ số phát ra tín hiệu sai hay nhiễu (dự báo có khủng hoảng và không
xảy ra khủng hoảng trên thực tế)
C = Số tháng chỉ số không phát ra được tín hiệu tốt (dự báo không khủng hoảng và có
khủng hoảng xảy ra trên thực tế)
D = Số tháng mà chỉ số không phát ra tín hiệu xấu ( dự báo không khủng hoảng và
không có khủng hoảng xảy ra trên thực tế)
Một chỉ số lý tưởng chỉ phát sinh A và D. Vì vậy với ma trận này ta có thể tính sự thể
hiện của từng chỉ số. Tư tưởng chính được phát triển bởi Golds tein, Kaminsky và Reinhart
(2000) là khả năng xảy ra khủng hoảng không điều kiện:
P(khủng hoảng)=(A+C)/(A+B+C+D), khả năng xảy ra khủng hoảng có điều kiện quy
định bởi tín hiệu là, P( khủng hoảng/S )=A/(A+B).
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
21
Độ nhiễu của tín hiệu là:
IV. Mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính cho Việt Nam
1. Đề xuất mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính cho Việt Nam
Hệ quả nghiêm trọng của mỗi lần khủng hoảng đã cho ra đời nhiều nghiên cứu mang
tính lý thuyết cũng như thực tiễn về dự báo khủng hoảng tài chính khá đa dạng. Theo thời
gian, chúng phát triển đa dạng với kỹ thuật phức tạp do tính đa dạng của các loại khủng
hoảng tài chính nên có nhiều mô hình dự báo khác nhau, mỗi mô hình dành cho một thể loại.
Tuy nhiên dù đa dạng, việc xây dựng các mô hình hệ thống dự báo đều dựa trên một số
nguyên tắc chính: xuất phát từ định nghĩa, tức tiêu chí cụ thể về loại hình khủng hoảng mà
chúng ta muốn cảnh báo.
Trong hai phương pháp chúng tôi đã trình bày, tùy theo mỗi phương pháp sẽ có mô
hình cụ thể. Tuy nhiên thì việc ứng dụng mô hình Probit hay mô h ình Logit để cảnh báo
khủng hoảng tài chính cho Việt Nam hiện nay là không khả thi. Vì hồi quy mô hình Probit
hay Logit để cảnh báo khủng hoảng có hiệu quả cần một lượng mẫu quan sát đủ lớn. Trong
khi đó, nền kinh tế Việt Nam chỉ mới phát triển trong khoảng thời gian gần đây do đó chúng
tôi loại bỏ mô hình này.
Trong mô hình Signal Approach, thực nghiệm đã cho thấy mô hình này hoạt động
khá tốt tại các quốc gia được xem xét. Tuy nhiên, chúng tôi lựa chọn mô hình Signal
Approach để xây dựng mô hình cảnh báo khủng hoảng cho Việt Nam vì :
- Thứ nhất, Mô hình Signal Approach được Kaminsky and Reinhart thử nghiệm
với một lượng mẫu lớn và đã được kiểm chứng tại nhiều quốc gia và nhiều khu vực kinh tế
khác nhau ( bao gồm 5 quốc gia công nghiệp phát triển và 15 quốc gia đang phát triển xuyên
suốt từ 1970 đến 1995). Cùng với đó, họ đã phân tích 76 cuộc khủng hoảng (những quốc gia
nào không có khủng hoảng đã được loại khỏi mẫu).
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
22
- Thứ hai, Xét về tính linh hoạt thì mô hình Signal Approach hơn do nó có thể đưa ra
một dự báo tại bất kỳ thời điểm nào mà không đòi hỏi quá nhiều mẫu số liệu quá khứ. Như
vậy, mô hình Signal Approach sẽ phù hợp hơn với mục đích xây dựng mô hình cảnh báo
khủng hoảng để truyền tải thông tin đến những nhà điều hành chính sách vĩ mô của chúng tôi.
Từ kết quả có được, chúng ta sẽ biết tình trạng của nền kinh tế Việt Nam, để từ đó, các nhà
hoạch định có những chính sách điều chỉnh đúng đắn và kịp thời.
2. Ứng dụng mô hình Signal Approach vào cảnh báo khủng hoảng tài chính
cho Việt Nam
2.1 Lựa chọn biến số cho mô hình
Như chúng đã biết, VN chưa xảy ra bất kỳ cuộc khủng hoảng tài chính nào nên
việc áp dụng các bước để tính độ nhiễu và ngưỡng khả thi (như các nước đã xảy ra khủng
hoảng) để dự báo khủng hoảng cho VN là không phù hợp. Một phần vì ma trận trên chỉ xảy ra
các tình huống B và D. Do đó, trong bài nghiên cứu này chúng tôi đề xuất sử dụng các
ngưỡng dự báo khả thi (Treshold ) và độ nhiễu ( Noise - to - signal ) đã được kiểm nghiệm
trong các công trình nghiên cứu của Kaminsky, Reinhart ( KR 1999); Edison (2000); và
Goldstein, Kaminsky, Reinhart ( GKR 2000). Những nghiên cứu này thực nghiệm trên nhiều
quốc gia công nghiệp và các quốc gia đang phát triển từ năm 1979 – 1995, trong đó những
quốc gia nào không xảy ra khủng hoảng đã được loại khỏi mẫu.
Với VN, các biến được đề xuất đó là : Tỷ giá hối đoái thực; Xuất khẩu; Nhập
khẩu; M2 / Dự trữ ngoại hối; Sản lượng thực tế (real output ); Dự trữ ngoại hối; Mức cung
tiền M2 ; Tín dụng nội địa / GDP, Giá đơn vị xuất khẩu/nhập khẩu (Term of Trade); Lãi suất
tiền gửi thực; Chênh lệch lãi suất tiền gửi trong nước và ngoài nước; Lãi suất cho vay / Lãi
suất tiền gửi thực; Tổng tiền gửi NH.
2.2 Giải thích sự tác động của từng biến
Tỷ giá hối đoái. Đánh giá sự thay đổi trong cạnh tranh quốc tế của một quốc gia và
việc gia tăng tỷ giá hối đoái quá cao thì khả năng xảy khủng hoảng tài chính được trông
đợi cũng cao hơn.
Xuất khẩu. Đánh giá tiềm lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một quốc gia . Một sự
sụt giảm trong xuất khẩu có thể do sự định giá quá cao của đồng nội tệ hoặc cũng có thể do
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
23
một nguyên nhân khác không liên quan đến tỷ giá đó là áp lực phá giá đồng tiền . tóm lại
một sự suy sảm trong xuất khẩu là nhân tố hàng đầu dẫn tới một cuộc phá giá mạnh đồng
nội tệ.
Nhập khẩu. Sự yếu kém của khu vực này cũng là một phần trong những cuộc khủng hoảng
tiền tệ . Khi nhập khẩu gia tăng bất thường sẽ làm cho cán cân tài khoản vãng lai trở nên
xấu đi và vấn đê này thường lien quan mật thiết đến những cuộc khủng hoảng tiền tệ.
M2 / Dự trữ ngoại hối. Tỷ số của M2 trên dự trữ ngoại hối thể hiện quy mô bao nhiêu
khoản nợ của hệ thống tài chính được đảm bảo bởi ngoại hối. Trong trường hợp xảy ra
một cuộc khủng hoảng tiền tệ, các cá thể có thể chuyển đổi từ tiền nội tệ sang ngoại tệ. Vì
vậy, tỷ số này thể hiện khả năng của các ngân hang trung ương đáp ứng nhu cậu ngoại hối.
Sản lượng công nghiệp thực tế. Sự sụt giảm nghiêm trọng trong sản lượng công nghiệp
cũng báo trước về một cuộc khủng hoảng.
Dự trữ ngoại hối. Sự suy giảm trong dự trữ ngoại hối là một trong những nhân tố hàng đầu
cho biết đồng tiền của quốc gia đó đang chịu một áp lực phải phá giá .Một sự sụt giảm
trong dự trữ ngoại hối không nhất thiết theo sau nó là việc phá giá đồng tiền vì NHTW có
thể thành công trong việc bảo vệ tỷ giá bằng cách chi tiêu các khoản dự trữ này . Nhưng
mặt khác, hầu hết các cuộc sụp đổ tiền tệ đã xảy ra là do nỗ lực bảo vệ tỷ giá của các
quốc gia được theo sau bởi những khoản thâm hụt dự trữ ngoại hối . dự trữ ngoại hối
cũng là một nhân tố giúp cho các quốc gia gặp khó khăn về tài chính đáp ứng các nhu cầu
về chi trả nợ.
Số nhân tiền M2. Liên quan mật thiết đến sự tự do hóa tài chính của một quốc gia . Một sự
gia tăng mạnh mẽ của số nhân tiền tệ có thể được giải thích bằng sự sụt giảm nghiêm trọng
trong mức dự trữ yêu cầu.
Tín dụng nội địa / GDP. Một sự tăng trưởng nhanh trong tín dụng nội địa được coi như là
nhân tố chính dẫn đến sự dễ đổ vỡ của hệ thống NH . Tỷ số này thường xuất hiện sớm
trong giai đoạn hệ thống NH bị khủng hoảng . khi cuôc khủng hoảng xảy ra thì NHTW
buộc phả bơm tiền cho các NH này để cải thiện tình hình tài chính của họ.
Giá đơn vị xuất khẩu / nhập khẩu. Sự gia tăng trong tỷ số này sẽ giúp cho cán cân thanh
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
24
toán của một quốc gia sẽ vững mạnh hơn và vì thế cũng sẽ giảm bớt khả năng bị khủng
hoảng . Một sự sụt giảm trong tỷ số này có thể dự báo trước cho một cuộc khủng hoảng
tiền tệ trong tương lai.
Lãi suất tiền gửi thực. Khi lãi suất tiền gửi quá cao báo hiệu một khó khăn trong tính
thanh khoản của hệ thống NH sẽ dẫn đến sự suy giảm và dễ đổ bể của hệ thống NH.
Chênh lệch lãi suất trong nước và nước ngoài. Lãi suất cao trên thế giới có thể dự báo
trước một cuộc khủng hoảng vì chúng có thể dẫn đến sự rút lui của các dòng vốn ra khỏi
một quốc gia . Cán cân tài khoản vốn sẽ trở nên ngày càng xấu và các khoản nợ quốc gia
ngày càng gia tăng kèm theo đó là sự đảo chiều của các dòng vốn từ đó dẫn đến sự gia
tăng các khoản nợ không thể chống đỡ được. Việc gia gia tỷ số này quá ngưỡng cho phép
sẽ cho thấy nguy cơ khủng hoảng tín dụng của hệ thống NH trở nên trầm trọng hơn khi
mà các NH phải miễn cưỡng cho vay hoặc cắt giảm các khoản cho vay.
Tổng tiền gửi NH. Sự đổ vỡ của hệ thống ngân và sự đảo chiều của dòng vốn xảy ra kh i
khủng hoảng được báo hiệu xảy ra. Khi các khoản tiền gửi được rút ra li ên tục trong 2
quí liên tiếp cần phải cảnh giác vì có thể xảy ra khủng hoảng.
Lãi suất cho vay / Lãi suất tiền gửi thực. Việc gia tăng tỷ số này quá ngưỡng cho phép sẽ
cho thấy nguy cơ khủng hoảng tín dụng của hệ thống NH trở nên trầm trọng hơn khi mà
các NH phải miễn cưỡng cho vay hoặc cắt giảm các khoản cho vay.
3. Kết luận
Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập thị trường tài chính quốc tế nói
riêng đã và sẽ đem đến nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước; khai thác,
huy động các luồng vốn mới phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước. Tuy nhiên song hành với những lợi thế đó sẽ là những thách thức lớn về khả năng cạnh
tranh, rủi ro ,… và để có thể hưởng đầy đủ lợi ích từ hội nhập, nhất thiết cần phải duy trì các
chính sách quản lý kinh tế vĩ mô đủ mạnh và thận trọng.
Bên cạnh đó tùy theo định hướng hệ thống tài chính của Việt Nam theo hướng
nào sẽ có các giải pháp phù hợp khi khủng hoảng diễn ra. Ở đây theo nhận định của nhóm thì
hệ thống tài chính Việt Nam sẽ theo định hướng ngân hàng đa năng giống như Đức, Nhật. Vì
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
25
vậy giải pháp nhóm hướng đến chính là làm thế nào khi khủng hoảng diễn ra, lợi ích của
khách hàng sẽ luôn được đảm bảo.
4. Giải pháp
- Phục hồi lòng tin vào hệ thông ngân hàng (thông qua bảo lãnh tiền gửi, củng
cố cơ cấu thể chế, thi hành các chuẩn mực kiểm toán và kế toán quốc tế, nhất là chi tiêu phân
loại tài sản, thắt chặt công tác giám sát tuân thủ luật lệ, đào tạo cán bộ thanh tra giám sát của
Chính phủ và nhân lực kiểm toán).
- Thiết lập một khuôn khổ pháp lý cho can thiệp của Chính phủ nhằm đảm
bảo rằng hệ thống bảo hiểm tiền gửi có đủ vốn để xử lý khủng hoảng và có thể được sử
dụng một cách nhanh chóng và hiệu quả, và Chính phủ có được một quy trình toàn diện về
theo dõi và đánh giá liên tục tình trạng nợ xấu và mất thanh khoản trong hệ thống ngân hàng,
tránh được tình trạng bị động.
- Thiết lập một khuôn khổ pháp lý cho can thiệp của Chính phủ vào ngân
hàng mất khả năng thanh toán. Quá trình can thiệp của Chính phủ sẽ làm nảy sinh một số
vấn đề về pháp lý liên quan đến việc nắm giữ cổ phần của các cổ đông hiện tại và vì thế cần
có luật tương ứng để điều chỉnh. Ví dụ, khi Chính phủ bơm vốn vào cho một ngân hàng và
nếu muốn các cổ đông hiện tại phải rút bớt cổ phần tương ứng để Chính phủ trở thành cổ
đông chính có quyền bổ nhiệm người của mình vào các vị trí quản lý thì cần phải có một luật
cho phép Chính phủ làm như vậy nếu họ không tự nguyện xin rút.
- Thiết lập một cơ cấu để phục hồi tối đa các khoản nợ xấu. Phần nợ xấu
(đáng kể) sau khi đã được phân loại thì chuyển giao xử lý cho một bộ phận độc lập trong
ngân hàng, chuyên trách về việc phục hồi tài sản; hoặc một cơ quan chuyên trách của Chính
phủ như công ty quản lý tài sản (ACM) chuyên tiếp nhận, quản lý và thanh lý tài sản xấu.
- Đưa khái niệm tập đoàn tài chính – ngân hàng vào trong Luật Các TCTD
nhằm:
+ Về mặt thực tiễn: Việc đưa khái niệm Tập đoàn Tài chính – ngân hàng vào
trong Luật TCTD sẽ đáp ứng được nhu cầu phát triển nội tại của chính các định chế tài chính,
các ngân hàng, đồng thời phù hợp xu thế hội nhập và phát triển trên thế giới. Mặt khác, theo
quy luật phát triển tự thân của các ngân hàng, việc hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng
trở thành một xu thế khách quan. Do đó, đã trong thời gian vừa qua, một số ngân hàng cũng
đã tự tuyên bố hình thành tập đoàn ngân hàng hoặc thành lập bộ phận nghiên cứu cơ chế hoạt
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
26
động của tập đoàn khi quy mô Ngân hàng đã phát triển với số lượng Công ty trực thuộc,
Công ty liên kết hoạt động cả trong lĩnh vực tài chính và phi tài chính.
+ Về mặt pháp lý: Luật Doanh nghiệp 2005 là luật gốc cho các loại hình doanh
nghiệp hoạt động, một khi luật doanh nghiệp đã quy định cụ thể vấn đề tập đoàn kinh tế thì
việc đưa vào khái niệm Tập đoàn Tài chính – ngân hàng là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng được
sự phát triển của ngành ngân hàng, sự lớn mạnh và tính cạnh tranh của ngân hàng trong nước
trước trước các Tập đoàn Tài chính – ngân hàng trên thế giới đã và đang kinh doanh trên thị
trường Việt Nam và khu vực. Bên cạnh đó, với các quy định của Luật TCTD và các văn bản
hướng dẫn thi hành cho phép các ngân hàng thương mại được thành lập các công ty trực
thuộc để kinh doanh trong lĩnh vực cho thuê tài chính, tài chính, bảo hiểm, kiều hối, quản lý
tài sản, chứng khoán, quỹ đầu tư, góp vốn, liên doanh liên kết với các định chế tài chính, công
ty hoạt động phi tài chính khác để tạo ra hàng loạt công ty con, công ty cháu, công ty liên kết.
Bên cạnh đó, các quy định trong Luật Cạnh tranh (cơ chế tập trung kinh tế, kiểm soát độc
quyền), Luật Chứng khoán (cơ chế góp vốn, mua cổ phần), Luật Đầu tư (cơ chế đầu tư dưới
hình thức sáp nhập, hợp nhất…) đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng
được góp vốn, mua bán, sáp nhập, hợp nhất với các ngân hàng khác, được đầu tư, góp vốn
vào trong các tổ chức phi tài chính khác.
- Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa các ngân
hàng. Quá trình này không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng yếu với ngân hàng mạnh hay giữa
các ngân hàng yếu với nhau mà bản thân giữa các ngân hàng mạnh cũng cần có sự liên kết,
sáp nhập, hợp nhất để tạo ra những ngân hàng lớn mạnh hơn, đủ sức cạnh tranh với các ngân
hàng trong khu vực và trên thế giới. Nhất là khi sự hiện diện của các ngân hàng 100% vốn
nước ngoài tại Việt Nam gia tăng.
- Hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính theo hướng xây dựng những quy định
về quyền hạn và chức năng xử lý của từng bộ phận một cách rõ ràng và tăng cường hiệu quả
giám sát của cơ quan thanh tra giám sát.
- Hoàn thiện mô hình cảnh báo đối với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Hệ
thống tài chính chỉ là một bộ phận trong nền kinh tế. Một quốc gia lâm vào khủng hoảng tài
chính không chỉ bắt nguồn từ khu vực tài chính mà còn chịu tác động của các nhân tố bên
trong có thể gây ra khủng hoảng trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và nguồn lực lao động ...
Do đó, để có thể “bảo vệ” tốt cho nền kinh tế cần xây dựng một hệ thống cảnh báo tổng hợp
chung cho toàn bộ nền kinh tế VN .
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
27
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hương Võ (số 04/2012_TTTC); ECB và cuộc khủng hoảng nợ công.
- TS. Phan Thị Bích Nguyệt (29/09/2011_ Viện Chiến Lược và Chính Sách và Khoa
Học Công Nghệ); Xây dựng mô hình dự báo khủng hoảng tài chính.
- Nguyễn Phi Lân (số 3+4/2011_Tạp chí Ngân Hàng); Mô hình cảnh báo sớm và chính
sách hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nguyễn Tấn Thắng (số 1:6/2009_Tạp chí ABC của trường Đại học mở TPHCM);
Hiệu quả mô hình dự báo_Vì sao cuộc khủng không tránh được.
- TS. Nguyễn Trọng Hậu (số 03/2009_Thông Tin Khoa Học Thống Kê); Xây dựng mô
hình cảnh bá sớm khủng hoảng kinh tế: kinh nghiệm thế giới và khả năng vận dụng ở Việt
Nam.
- Huỳnh Ngọc Huy, Nguyễn Ngọc Duy (2009); Xây dựng mô hình cảnh báo khủng
hoảng tài chính và khuyến nghị cho Việt Nam_Công trình dự thi Giải thưởng nghiên cứu
khoa học sinh viên “Nhà kinh tế trẻ-năm 2009” thuộc nhóm ngành kinh tế của trường Đại
học kinh tế_GVHD: TS.Nguyễn Khắc Quốc Bảo.
- Dr Mario Arturo Ruiz Estrada -Univers ity of Malaya (2009); Alerting or
Forcasting Economic Crisis?
- Andrea Cipollini and George Kapetanios (03/2008); Forecasting financial crises
and contagion in Asia us ing dynamic factor analysis.
- Lê Vân Anh (2008_Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24); Khủng hoảng
tài chính-mô hình lý thuyết.
- Nhóm nghiên cứu NHNN (2008); Đánh giá, dự báo và các biện pháp phòng ngừa
khủng hoảng tiền tệ và hệ thống ngân hàng.
-
-
-
DFxNLczdTEwN_Uz8DA09PjwB_JwszIwM_I_2CbEdFACRA0Ag!/?WCM_GLOBAL_C
ONTEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv_vn/sbv.vn.vienchienluoc/sbv.vn.chienluoc.2/8db
93e0045f8c7b48536f70e2e016350
-
t.aspx
MÔ HÌNH CẢNH BÁO KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM GV: TS. THÂN THỊ THU THỦY
NHÓM 1-ĐÊM 6-NH-CHK20
28
-
-
-
97&item_id=54855429&p_details=1 (Viện chiến lược và Chính sách tài chính-Bộ tài chính)
-
(Báo Thanh niên Online)
- (TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG)
-
central-banker-says-1-13-12-137269278.ht ml
-
khung-hoang-no-chau-au-tan-cong.htm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tttc_n1d6k20_he_thong_phong_ngua_khtc_cho_vn_8328.pdf