Có thể nói trong thời đại cách mạng công nghệ, đại học có vai trò
chủđạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế
giới và khu vực, giáo dục đại học của ta còn quá yếu kém, tụt hậu.
Phát triển con người là vấn đề trọng tâm của mỗi quốc gia. Hầu hết
các nước trên thế giới đều giương cao khẩu hiệu "giáo dục là quốc sách
hàng đầu và dành nhiều tâm sức để xây dựng và phát triển giáo dục nhằm
đào tạo cho xã hội lực lượng lao động có năng lực chuyên môn và khả năng
thích ứng, thỏa mãn được yêu cầu của thị trường về tiêu chuẩn văn hóa,
chuyên môn - nghiệp vụ của thị trường.
22 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2682 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất vàý thức, liên hệ với việc học tập của sinh viên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận triết học
1
Tiểu luận triết học
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
vàý thức, liên hệ với việc học tập của
sinh viên hiện nay
Tiểu luận triết học
2
LỜI NÓI ĐẦU
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã
vàđang tạo ra một thế lực mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển
mới .Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc công nghiệp hoá và hiện đại
hoáđãđược tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng
được mở rộng .Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng
thế giới được tăng thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế
vàđời sống xã hội .
Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên,do ưu thế công nghệ và
thị trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nuớc chậm phát triển
đứng trước một thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao ,màđiểm
xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh
quyết liệt .
Trước tình hình đó ,cũng với xu thế phát triển của thời đại ,Đảng và
nhà nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước,trong đóđổi mới kinh tếđóng vai trò then chốt, giữ vai trò
chủđạo.Đồng thời đổi mới kinh tế là một vấn đề cấp bách,bởi giữa đổi mới
kinh tế vàđổi mới chính trị có mối quan hệ giữa vật chất vàý thức sẽ cho
phép chúng ta vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ,giúp cho
công cuộc đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh .
Với ý nghĩa đó em đã chọn đề tài "Mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất vàý thức, liên hệ với việc học tập của sinh viên hiện nay".
Tiểu luận triết học
3
NỘIDUNG
I. LÝLUẬNCHUNGVỀMỐIQUANHỆGIỮA
VẬTCHẤTVÀÝTHỨC
1.Vật chất
a. Định nghĩa vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác
nhau về nó .Nhưng theo Lênin định nghĩa :"vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác ".
Lênin chỉ rõ rằng, đểđịnh nghĩa vật chất không thể theo cách thông
thường vì khái niệm vật chất là khái niệm rộng nhất.Đểđịnh nghĩa vật chất
Lênin đãđối lập vật chất với ý thức ,hiểu vật chất là thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác ,vật chất tồn tại độc lập với
cảm giác ,ý thức, còn cảm giác ,ý thức phụ thuộc vào vật chất ,phản ánh
khách quan.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học ,Lênin một mặt muốn chỉ
rõ vật chất là khái niệm rộng nhất ,muốn phân biệt tư cách là phạm tù triết
học,là kết quả của sự khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ
thể,với những" hạt nhân cảm tính".Vật chất với tư cách là một phạm trù
triết học không có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụđược .Định nghĩa
vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa
duy vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có ,không thể tiêu diệt được ,nó tồn
tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác ,ý thức con người, vật chất là
một thực tại khách quan.Khác với quan niệm ý niêm tuyệt đối của
CNDTKQ ,"thượng đế"của tôn giáo …Vật chất không phải là lực lượng
siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ởđâu đó ,trái lại phạm trù vật chất là kết quả
của sự khái quát sự vật ,hiện tượng cụ thể ,và do đó các các đối tượng vật
chất có thật ,hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra
Tiểu luận triết học
4
cảm giác ,và nhờđó mà ta có thể biết được ,hiểu được và nắm bắt sự vật
này .Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt của
vấn đề cơ bản của triết học .
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại ,chụp lại ,phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.Khẳng định như vậy một mặt
muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật chất ,vai trò quyết định của nó với
vật chất ,và mặt khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới khách quan
của con người .Nó không chỉ phân biệt CNDV với CNDT, với thuyết
không thể biết mà còn phân biệt CNDV với nhị nguyên luận.
Như vậy ,chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hoàn toàn
triệt để,nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã
hội ,cóý nghĩa trực tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp
ngày càng đi sâu vào vào các dạng các dạng cụ thể của vật chất trong giới
vi mô .Nó giúp chúng ta có thái độ khách quan trong suy nghĩ và hành
động.
b. Các đặc tính của vật chất
*Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố
hữu của vật chất .
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ,vận động là sự biến
đổi nói chung chứ không phải là sự chuyển dịch trong không gian
.Ăngghen cho rằng vận động là một phương thức tồn tại vật chất ,là thuộc
tính cố hữu của vật chất,gồm tất cả mọi sự thay đổi trong moi quá trình
diễn ra trong vũ trụ.Vận động có 5 hình thức vận động chính là cơ -Hoá- lý
-sinh-xã hội.Các hình thức vận động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
,một hình thức vận động này thực hiện là tác động qua lại với những hình
thức vận động khác ,trong đó vận động cao bao gồm vận thấp nhưng không
thể coi hình thưc vận cao là tổng sốđơn giản các hình thức vận động thấp.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có
vật chất không vận động ,tức vật chất tồn tại .Vật chất thông qua vận động
mà biểu hiện sự tồn tại của mình .Ăngghen nhận định rằng các hình thức và
các dạng khác nhau của vật chất ,chỉ có thể nhận thức được thông qua vận
Tiểu luận triết học
5
động mới có thể thấy được thuộc tính của nó .Trong thế giới vật chất từ các
hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng lồ.
Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác
định gồm những bộ phận nhân tố khác nhau ,cùng tồn tại ảnh hưởng và tác
động lẫn nhau gây ra nhiều biến đổi .Nguồn gốc vận động do những
nguyên nhân bên trong ,vận động vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất ,không thể có vận động bên
ngoài vật chất .Nó không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do
đó nó dược bảo toàn cả số lượng lẫn chất lượng.Khoa học đã chứng minh
rằng nếu một hình thức vận động nào dó của sự vật mất đi thì tất yếu nó
nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế .Các hình thức vận động
chuyển hoá lẫn nhau còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại.
Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình không ngừng ,nhưng điều đó
không loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối ,không có
nó thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật ,hiện tượng
phong phú vàđa dạng .Ăngghen khẳng định rằng khả năng đứng im tượng
đối của các vật thể ,khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu
của sự phân hoá vật chất. Nếu vận động là biến đổi của các sự vật hiện
tượng thìđứng im là sựổn định ,là sự bảo toàn tính quy định sự vật hiện
tượng .Đứng im chỉ một trạng thái vận động ,vận động trong thăng bằng
,trong sựổn định tương đối .Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là
một quá trình vận động trong phạm vi sự vật ổn định ,chưa biến đổi ,chỉ là
tạm thời vì nó chỉ xẩy ra trong một thời gian nhất định .Vận động riêng biệt
có xu hương phá hoại sự cân bằng còn vận động toàn thể lại phá hoại sự
cân bằng riêng biệt làm cho các sự vật luôn biến đổi ,chuyển hoá nhau .
*Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí ,có
hình thức kết cấu ,cóđộ dài ngắn cao thấp .Không gian biểu hiện sự tồn tại
và tách biệt của các sự vật với nhau ,biểu hiện qua tính chất và trật tự của
chúng Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các qúa trình vật chất diễn ra
nhanh hay chậm ,kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định .Thời gian biểu
hiện trình độ tốc độ của quá trình vật chất ,tính tách biệt giữa các giai đoạn
Tiểu luận triết học
6
khác nhau của qúa trình đó ,trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiện
tượng.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang
vận động ,Lênin đã chỉ ra trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang
vận động .Không gian và thời gian tồn tại khách quan ,nó không phải bất
biến ,không thểđứng ngoài vật chất ,không có không gian trống rỗng ,mà
nó có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động .
Tính thống nhất vật chất của thế giới
CNDT coi ý thức,tinh thần có trước ,quyết đinh vật chất ,còn duy vật
thì ngược lại .Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng chỉ có một thế giới duy
nhất là thế giới vật chất đồng thời còn khẳng định rằng thế giới đều là
những dạng cụ thể của vật chất ,có liên hệ vật chất thống nhất với nhau
như liên hệ về cơ cấu tổ chức ,lịch sử phát triển vàđều phải tuân thủ theo
quy luật khách quan của thế giới vật chất ,do đó nó tồn tại vĩnh cửu ,không
do a sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới đó ,không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi là chuyển hoá lẫn nhau ,là nguyên
nhân và kết quả của nhau.
2. ý thức
a. kết cấu của ý thức
Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm vềý thưc theo các trường
phái khác nhau . Theo quan điểm của CNDVBC khẳng định rằng ý thức
làđặc tính và là sản phẩm của vật chất ,là sự phản ánh khách quan vào bộóc
con người thông qua lao động và ngôn ngữ .Mác nhấn mạnh rằng tinh thần
ý thức là chẳng qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào bộóc con người
vàđược cải biến trong đó .ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu
phức tạp gồm ý thức tri thức ,tình cảm ,ý chí trong đó tri thức là quan trọng
nhất ,là phương thức tồn tại của ý thức,vì sự hình thành và phát triển của ý
thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận thức và cải biến
giới tự nhiên.Tri thức càng được tích luỹ con người càng đi sâu vào bản
chất của sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn ,tính năng động của ý thức
nhờđó mà tăng hơn .Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng
Tiểu luận triết học
7
cóý nghĩa chống quan điểm đơn giản coi ý thức là tình cảm ,niềm
tin…Quan điểm đó chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù
quáng.Tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa
với việc phủ nhận coi nhẹ yếu tố vai trò tình cảm ý chí.
Tựý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà CNDT coi nó là một thực
thểđộc lập có sẵn trong cá nhân ,biểu hiện xu hướng về bản thân mình ,tự
khẳng định cái tôi riêng biệt tách rời xã hội .Trái lại CNDVBC tựý thức làý
thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên
ngoài .Khi phản ánh thế giới khách quan con người tự phân biệt mình ,đối
lập mình với thế giới đó là sự nhận thức mình như là một thực thể vận động
,có cảm giác ,tư duy có các hành vi đạo đức và vị trí xã hội .Mặt khác sự
giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người nhận rõ
bản thân mình và tựđiều chỉnh theo các quy tắc tiêu chuẩn mà xã hội đề ra
.Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò cái gương soi giúp cho con người tựý
thức bản thân .
Vô thức là một hiện tượng tâm lý ,nhưng có liên quan đến hoạt động
xảy ra ở ngoài phạm vi của ý thức .Có 2 loại vô thức: loại thứ nhất liên
quan đến các hành vi chưa được con người ý thức ,loại thứ hai liên quan
đến các hành vi trước kia đãđược ý thức nhưng do lặp lại nên trở thàmh
thói quen,có thể diễn ra tựđộng bên ngoài sự chỉđạo của ý thức.Vô thức
ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con người .Trong những hoàn
cảnh đó nó có thể giúp con người giảm bớt sự căng thẳng trong hoạt động
.Việc tăng cường rèn luyện để biến thành hành vi tích cực thành thói quen
,có vai trò quan trọng trong đời sống .
b. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho
tới khi xuất hiện con người và bộóc .Khoa học chứng minh rằng thế giới
vật chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất
hiện con người ,rằng hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở
hoạt động sinh lý thần kinh bộ não người .Không thể tách rời ý thức ra khỏi
bộ não vìý thức là chức năng bộ não ,bộ não là khí quản của ý thức .Sựphụ
Tiểu luận triết học
8
thuộc ý thức vào hoạt động bộ não thể hiện khi bộ não bị tổn thương thì
hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn .Tuy nhiên không thể quy một cách đơn giản
ý thức về quá trình sinh lý bởi vìóc chỉ là cơ quan phản ánh .Sự xuất hiện
của ý thức gắn liền sự phát triển đặc tính phản ánh ,nó phát triển cùng với
sự phát triển của tự nhiên .Sự xuất hiện của xã hộ loài người đưa lại hình
thức cao nhất của sự phản ánh ,đó là sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với
việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã hội.
Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với sự phát triển của bộóc con
người dưới ảnh hưởng của lao động và giao tiếp QHXH.
Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính xã hội nhằm cải
tạo tự nhiên ,thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích bản thân con
người.Nhờ nó mà con người và xã hội loài người mới hình thành và phát
triển.Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người ,đồng
thời ngay từđầu đã liên kết con người với nhau trong mối quan hệ khách
quan, tất yếu; mối quan hệ này đến lượt nó nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm và tổ chức lao động ,nhu cầu"cần phải nói với nhau một cái gì". Và
kết quả là ngôn ngữ ra đời.Ngôn ngữđược coi là cái vỏ vật chất của tư
duy,với sự xuất hiện của ngôn ngữ ,tư tưởng con người có khả năng biểu
hiện thành hiện thực trực tiếp ,trở thành tín hiệu vật chất tác động tới giác
quan của con người và gây ra cảm giác .Nhờ có nó mà con người có thể
giao tiếp ,trao đổi,truyền đạt kinh nghiệm cho nhau ,thông qua đó màý thức
cá nhân trở thành ý thức xã hội ,và ngược lại. Chính nhờ trừu tượng hoá và
khái quát hoá tức là quá trình hình thành thực hiện ý thức ,chính nhờ nó mà
con người có thểđi sâu vào bản chất của sự vật ,hiện tượng đồng thời tổng
kết hoạt động của mình trong toàn bộ quá trình phát triển lịch sử.
C. Bản chất của ý thức
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức ,có thể thấy rõý thức có bản tính
phản ánh ,sáng tạo và bản tính xã hội .
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài ,là biểu thị
nội dung được từ vật gây tác động vàđược truyền đi trong quá trình phản
Tiểu luận triết học
9
ánh . Bản tính của nó quy đinh mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy
kháh quan làm tiền đề ,bị nó quy định nội dung phản ánh là thế giới khách
quan.
ý thức ngay từđầu đã gắn liền với lao động ,trong hoạt động sáng tạo
cải biến và thống trị tự nhiên của con người vàđã trở thành mặt không thể
thiếu của hoạt động đó .Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không
chụp lại một cách thụđộng nguyên xi mà gắn liền với cải biến ,quá trình thu
nhập thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin .Tính sáng tạo của ý
thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp kháI quát thế giới khách quan ở quá
trình chủđộng ,tác động vào thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau ,không thể tách
rời,không có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh làđiểm xuất phát
là cơ sở của sáng tạo.Đó là MQHBC giữa thu nhận xử lý thông tin,là sự
thống nhất mặt khách quan chủ quan của ý thức.
Ý thức chỉđược nảy sinh trong lao động ,hoạt động cải tạo thế giới của
con người.Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã
hội. ý thức trước hết là thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và
những gìđang diễn ra ở thế giới khách quan về mối liên hệ giữa người và
người trong quan hệ xã hội.Do đóý thức xã hội hình thành và bị chi phối
bởi tồn tại xã hội và các quy luật của tồn tại xã hội đó …ý thức của mỗi cá
nhân mang trong lòng nóý thức xã hội ,Bản tính xã hội của ý thức cũng
thống nhất với bản tính phản ánh trong sáng tạo.Sự thống nhất đó thể hiện
ở tính năng động chủ quan của ý thức ,ở qaun hệ giữa nhân tố vật chất và
nhân tốý thức trong hoạt động cải tạo thế giới quan của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất vàý thức
Lênin đã chỉ ra rằng,sựđối lập giữa vật chất vàý thức chỉ cóý nghĩa
tuyệt đối trong phạm vi hạn chế:trong trường hợp này chỉ giới hạn trong
vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước ,cái gì là
cái có sau . Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sựđối lập
đó chỉ là tương đối .Như vậy để phân ranh giới giữa CNDV và CNDT ,để
xác định bản tính và sự thống nhất của thế giới cần có sựđối lập tuyệt đối
giữa vật chất vàý thức trong khi trả lời cái nào có trước cái nào quyết
Tiểu luận triết học
10
định.Không như vậy sẽ lẫn lộn 2 đường lối cơ bản trong triết học ,lẫn giữa
vật chất vàý thức và cuối cùng sẽ xa rời quan điểm duy vật .Song sựđối lập
giữa vật chất vàý thức chỉ là sự tương đối như là những nhân tố ,những mặt
không thể thiếu được trong hoạt động của con người ,đặc biệt là hoạt động
thực tiễn con người ,ý thức có thức có thể cải biến được tự nhiên ,thâm
nhập vào sự vật , không có khả năng tự biến thành hiện thực,nhưng thông
qua hoạt động thực tiễn của con người,ý thức có thể cải tiến được ,thâm
nhập vào sự vật ,hiện thực hoá những mục đích mà nóđề ra cho hoạt động
của mình.Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh,sáng tạo và
xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người cóý thức
mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên ,bắt nó phục vụ con người.
Như vậy tính tương đối trong sựđối lập giữa vật chất vàý thức thể hiện ở
tính độc lập tương đôí,tính năng động của ý thức. Mặt khác đời sống con
người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất vàđời
sôngs tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú
vàđa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá.Khẳng định tính
tương đối của sựđối lập giữa vật chất vàý thức không có nghĩa là khẳng
định cả hai yếu tố có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con
người .Trái lại, Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng,trong hoạt động của
con người những nhân tố vật chất vàý thức có tác động qua lại ,song sự tác
động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ
hai cuảý thức.
Trong hoạt động của con người ,những nhu cầu vật chất xét đến cùng
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định ,chi phối và quy định mục đích hoạt
động của con người vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh
thần có thể tham gia vào hoạt động của con người, tạo đIều kiện cho nhân
tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy
định mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của
mình bằng cách chọn lọc, sữa chữa bổ bổ sung cụ thể hoá mục đích chủ
trương biện pháp đó . Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng
hướng đến mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống . Hơn
nữa,cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ
thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất
Tiểu luận triết học
11
hiện có .khẳng định vai trò cơ sở ,quyết định trực tiếp nhân tố vật chất, triết
học Mác-Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh
thần,tính năng động chủ quan. Nhân tốý thức có tác động trở lại quan trọng
đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa ,trong hoạt động của mình ,con người
không thể tạo ra các đối tượng vật chất,cũng không thể thay đổi được
những quy luật vận động của nó. Do đó,trong quá trình hoạt động của mình
con người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ có thểđề ra những mục
đích,chủ trương trong phạm vi vật chất cho phép .
II.
VẬNDỤNGMỐIQUANHỆGIỮAVẬTCHẤTVÀÝTHỨCVỚIVIỆCHỌCVÀHÀN
HCỦASINHVIÊNHIỆNNAY
1. Những mặt tích cực
Người Việt ta cũng có tiếng là thông minh, hiếu học. Nền giáo dục
Việt Nam ta mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất trước,
trong và sau chiến tranh, đãđạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Ta đãđào
tạo được một đội ngũ nghiên cứu khoa học khá và cống hiến quan trọng
cho cộng đồng khoa học quốc tế có thể nói sinh viên Việt Nam khá thông
minh, sáng tạo, có khả năng tiếp nhận tri thức khá tốt.
2. Mặt hạn chế
Sinh viên ta mắc "bệnh" thụđộng trong học tập, sinh viên không chịu
tìm tòi sách, tài liệu phụ lục cho chuyên môn của mình, mặc dù trong
phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn vàđưa
ra những tư liệu đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo.
Phần lớn sinh viên Việt Nam thiếu khả năng sáng tạo. Một kết quả
nghiên cứu gần đây về tính sáng tạo của sinh viên ở một trường đại học lớn
của Việt Nam cho biết trong một mẫu điều tra khá lớn gồm hàng ngàn sinh
viên, chí có khoảng 20% sinh viên đặt hoặc vượt mức sáng tạo trung bình
của tụ giới. Như vậy có tới 80% sinh viên có tính sáng tạo thấp hơn mức
trung bình. Đây là một thông tin sét đánh, buộc các nhà giáo dục học phải
nghiêm túc xem lại phương pháp, chương trình, cách tổ chức dạy và học
trong các trường đại học của Việt Nam.
"Lười đọc…." là lời tự thú của nhiều sinh viên thời hiện đại. Khảo
sát ngẫu nhiên một số sinh viên các trường đại học, cao đẳng về việc đọc
Tiểu luận triết học
12
sách báo của họ, sốđồng đều ngắc ngứ rằng "cóđọc" nhưng chỉđọc một
sốcuốn theo phong trào và chỉ xem sách chuyên ngành khi bị thúc bách về
mặt bài vở, có sinh viên sắp ra trường vẫn chưa một lần ghé thăm thư viện.
Một sốđông sinh viên ít đọc có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
nhưng nói chung họ rất thụđộng trong việc học. Thụđộng bởi sinh viên
chỉđọc giảng viên yêu cầu thuyết trình một đề tài, viết một bài tiểu luận
hoặc khi được khuyến khích bởi một người khác về một cuốn sách hay nào
đó, tức chỉ khi bịáp chế hoặc được truyền cho niềm tin thì họ mới đổ xôđi
đọc.
Có quá nhiều sinh viên vừa học, vừa chơi và cũng có quả nhiều sinh
viên quên mọi thứ trên đời để học. Cả hai kiểu học như thểđều mang lại
những kết quả tiêu cực khác nhau. Một bên là sự hụt hẫng về kiến thức,
thường xuyên đối mặt với nguy cơ bịđuổi học còn bên kia lại là sự mệt
mỏi, căng thẳng, những lo âu chồng chất trong những năm học đại học
khiến sức khỏe bị suy sụp, lạc lõng với những diễn tiến xung quanh xã hội,
lạ lẫm với những điều đang tác động đến cuộc sống hàng ngày….
Theo báo Tuổi trẻ ngày 3/10/2000 đã mời các thầy giáo đại học, các
nhà quản lý, các sinh viên dự tọa đàm về "nâng cao chất lượng đào tạo đại
hạ" vàđã có nhiều ý kiến của sinh viên thẳng thắn bức xúc: sinh viên chúng
tôi như những cố máy rỉ sét, chúng tôi vào lớp chép chính tả và sau đó trả
bài thuộc lòng, lắp ghép các kiến thức rời rạc. Học đối phó và thi đối phóđể
lấy cho được mảnh bằng, thể thôi việc học với sinh viên là học, ghi, thì
phải thuộc.
Đa phần sinh viên mới chỉ học theo kiểu "học vẹt" thiếu tính thực
tiễn. Nhìn vào hiện trạng của các "sản phẩm" của nền giáo dục cao đẳng -
đại học hiện nay có thể thấy rằng, hình như xã hội "không mê" các sản
phẩm này. Sở dĩ có thể nói như vậy bởi vì qua một cuộc thống kê nho nhỏ
về trình độ của những người tìm việc làm ởmột tờ báo thành phố Hồ Chí
Minh trong 3/2003 thấy được những con số quá giật mình về trình độ học
vấn của những ứng viên tìm việc. Cụ thể là trong tổng 115 ứng viên tìm
việc, cóđến 62 người có trình độĐại học tức chiếm 54%; có 24 người trình
độ cao đẳng, tức 21% và số người có trình độ trung cấp là 29 người chiếm
25%.
Tiểu luận triết học
13
Thế nhưng những con sốđó muốn nói với chúng ta điều gì? Đó là sản
phẩm của nền giáo dục "khoa cử". Tại sao có nhiều người có trình độĐại
học - Cao đẳng phải đi tìm việc như thế: Theo lẽ thường tình người ta hay
nghĩ rằng, có học vấn càng cao càng có nhiều cơ hội có việc làm, thế nhưng
nay câu chuyện hoàn toàn ngược lại: học vấn càng cao càng phải đi tìm
việc nhiều, càng thất nghiệp. Tại sao vậy.
Có nhiều lý do nhưng có một lý do đó là chất lượng của các lao động
có trình độđại học chưa đáp ứng được các nhu cầu của nền sản xuất kinh tế
công nghiệp tiên tiến. Hiện nay, bởi họ chỉ là sản phẩm của nền giáo dục
"khoa cử rất mạnh về học để thi nhưng kém về "học để làm" và "học để
sáng tạo". Do đó mà từ lâu các "sản phẩm" của nền giáo dục đại học của ta
đã thường xuyên bị kêu ca là không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Xét về trình độ thực tế của sinh viên tốt nghiệp thì quả là còn yếu
kém, một số ngành rất yếu. Về kiến thức, kỹ năng thực hành, tính chủđộng
sáng tạo, về khả năng diễn đạt bằng nói hay viết sinh viên ta đều kém, tuy
cá biệt có những người rất xuất sắc, nhưng số này không nhiều cũng chẳng
có gì lạ, vì nhiều nơi coi đại học là "học đại".
3. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới nền giáo dục đại học
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định yêu cầu
mới của nền giáo dục là: chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người
sang chủ trương mọi người đều phải thực hiện việc học tập suốt đời. Vấn
đề mấu chốt trong đổi mới sự nghiệp giáo dục Việt Nam màĐại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định là "chuyển dần mô hình
giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với
hệ thống học tập suốt đời đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học,
ngành học, xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và
những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập
thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo
đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục. Đây là cách đặt vấn đề giáo dục
với yêu cầu mới: chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người sang chủ
trương mọi người đều phải thực hiện việc học tập suốt đời. Cách đặt vấn đề
trên căn cứ vào tư tưởng Hồ Chí Minh về sự học đồng thời căn cứ vào yêu
cầu đổi mới giáo dục của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Tiểu luận triết học
14
Đến thăm lớp nghiên cứu chính trị khóa I trường đại học nhân dân Việt
Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt
đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự
cho mình đã biết đủ rồi biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân
ta ngày càng tiến bộ, chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân
dân. Khái niệm học tập suốt đời phải được hiểu khác trước thì nó mới có
tác dụng như một chiếc chìa khóa để giải quyết những vấn đềđặt ra trong
những năm đầu của thế kỉ 21 như tăng trường kinh tế nhanh, phát triển xã
hội bền vững, xóa nghèo toàn diện, nghèo về tri thức, nhân văn, thu nhập.
Mô hình giáo dục mở trong văn kiện đại hội X của Đảng chính là mô
hình gắn kết giáo dục ban đầu và giáo dục liên tục thành một hệ thống
trong đó tại bất cứ thời điểm nào và bất cứ không gian nào, mỗi thành viên
trong xã hội không phân biệt tuổi tác, giới tính, thành phần xã hội, nghề
nghiệp vàđịa vị xã hội đều có thể tiến hành việc học tập theo nhu cầu của
cá nhân như nâng cao học vấn, hoàn thiện tay nghề, lấp những lỗ hổng
trong kiến thức quản lý, trau dồi văn hóa lãnh đạo, tư tưởng đạo đức.
Mô hình giáo dục lý tưởng ấy chính là mô hình xã hội học tập
màĐảng đãđề cập từĐại hội IX và khẳng định phải phát triển nó một cách
tích cực trong những năm trước mắt. Việc thực hiện được mô hình ấy hay
không tùy thuộc rất nhiều vào việc khắc phục thái độ và quan niệm lỗi thời
hiện nay về giáo dục thường xuyên. Trong xã hội hiện đại, việc tổ chức hệ
giáo dục thường xuyên làđể con người thực hiện việc học suốt đời. Giáo
dục thường xuyên đáp ứng những thách thức của một thế giới nhanh chóng
thay đổi, nó mở ra sựđa dạng hóa hết sức rộng rãi đối với các hình thức học
tập để mọi tài năng đều được phát huy, những thất bại học đường sẽ bị hạn
chế, giúp con người có nhu cầu học, đặc biệt là thế hệ trẻ loại bỏđược cảm
giác bị loại thản trong cuộc sống xã hội và luôn nhìn thấy viễn cảnh phát
triển của cá nhân mình.
Đểđáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển hệđại học màĐại hội X của
Đảng đãđề ra, chúng ta cần đánh giá cho đúng vai trò của trường đại học
trong thế giới hiện đại. Giáo dục đại học là một động lực mạnh để phát
triển kinh tế - một động lực mà giáo dục trung học không thể tạo ra được
song cũng phải thừa nhận rằng giáo dục đại học luôn là tiêu điểm của việc
Tiểu luận triết học
15
học trong xã hội. Trường đại học vừa lưu giữ, vừa sáng tạo những tri thức,
lại là một chuyển tải kinh nghiệm văn hóa và khoa học - công nghệ cho các
thế hệ theo học. Giáo dục thường xuyên phải gắn với cộng đồng, mục tiêu
của nó nhằm tạo nguồn nhân lực phục vụ những nhiệm vụ kinh tế - xã hội
của từng địa phương nên cách tổ chức của nó thường bám chắc trong từng
cộng đồng.
III. GIẢIPHÁP
1) Giải pháp nâng cao việc học và hành của sinh viên hiện nay.
Tạp chí Scien et vie (Pháp) đã viết: "Ai tự học mạnh nhất, người đó
tích lũy được một tiềm năng sáng tạo dồi dào nhất. Ngược lại, ai có nhu cầu
sáng tạo nhiều hơn, người ấy càng thôi thúc ý chí tự học cao hơn".
Tự học để tiếp cận với sáng tạo. Sinh viên phải luyện độ tìm tòi và
kỹ năng ứng biến. Đó là tiêu chí cần thiết để phân định sự thông thái của
một chủ thể nhận thức đồng thời là chủ thể sáng tạo. Trí thông minh vàóc
sáng tạo của mỗi người được thể hiện chủ yếu bằng hành động, thay vì chỉ
dừng lại ởý thức được thể hiện chủ yếu bằng sựđáp ứng những thử thách
trong quá trình vận dụng kiến thức thay vì chỉ quanh quẩn ở việc vun bồi
kiến thức. Bởi vậy các chuyên gia UNESCO đã có lý khi khẳng định:
"người hiểu biết ít mà vận dụng nhiều (có hiệu quả) biểu hiện một trí tuệ
hơn hẳn một người biết nhiều mà vận dụng ít". Sinh viên không chỉ dừng
lại ở mức độ lĩnh hội, mà phải chuyển sang thái độ tìm tòi cách cải biến và
cách ứng dụng sự lĩnh hội đó. Đối với những người có thái độ học sáng tạo
thì sự tìm tòi đó có thể là:
* Tìm hiểu nhu cầu xã hội hoặc nhu cầu khoa học đối với một sản
phẩm nào đó.
* Tìm hiểu những ưu điểm vượt trội cùng với những khuyết tật lớn
nhỏ của một sản phẩm.
* Tìm kiếm cách thức đi tới cải tiến sản phẩm, chủ yếu: hạn chế
những khuyết tật đó.
* Tìm kiểm những hiểu biết mới nhất kết hợp với những kinh
nghiệm cổ truyền cho việc giải quyết vấn đềđó.
* Tìm hiểu mọi ý tưởng giản đơn cho việc phân tích và giải quyết
một vấn đề phức tạp.
Tiểu luận triết học
16
* Tìm hiểu những điều kiện khả thi và cách vượt lên khó khăn để
thực hiện ý tưởng sáng tạo.
Như vậy thái độ tìm tòi trong khoa học và kỹ thuật tạo nên sự khai
phá nhận thức khi tiếp cận thông tin, giúp chủ thể nhận thức tự thể hiện và
làm nên những cá tính sắc sảo khi vận dụng kiến thức.
Để sinh viên dễ dàng hơn trong việc tiếp thu kiến thức, phương pháp
học thì phải đưa vào chương trình học của sinh viên, những bài học từ thực
tế. Thay đổi cách học theo kiểu trả bài, rồi lịch học và lịch thi cứ dày đặc,
đan xen lẫn nhau. Định hướng cho việc học của sinh viên là một yêu cầu
cực kỳ quan trọng, quan trọng không kém nữa là việc thiết lập một thời
gian biểu hợp lý cho sinh viên trong lúc học lẫn lúc thi.
Muốn học, muốn hiểu sâu một chủđề nào, điều quan trọng nhất là
phải tự mình chạm tới nó trước, phải tự mình khơi mở trước trong đầu, như
gieo mầm cho việc tiếp thu, thẩm thấu của mình. Bản chất của tự học là tự
làm việc với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè theo
cách học với nhóm vàđược thầy khởi gợi, hướng dẫn. Có thể nói viết lại là
cách tiếp thu tốt và truyền đạt lại cho người khác là một cách hiểu nắm vấn
đề tốt nhất. Điều này sinh viên trau dồi kỹ năng đọc và viết qua việc hướng
dẫn họđọc mau, nắm vững các ý chính và viết gãy gọn, có phân tích, có
chứng minh.
Một trong những vấn đề ta thường gặp ở Việt Nam là sinh viên học
sinh ra trường chưa đủ khả năng sẵn sàng đểđảm nhận được các công tác,
chức vụ màđáng lẽ họ phải có khả năng ứng xửđộc lập. Vì vậy mà sinh
viên phải phát triển cho mình khả năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn
đề cóóc thực tế, không định kiến, không câu nệ thành kiến. Muốn bắt kịp
đà tiến của khoa học kỹ thuật thì sinh mình cần thay đổi phương pháp học
tập lấy người học làm trung tâm. Muốn được như thế dĩ nhiên không chỉ
cần có sự thay đổi tư duy của người học mà còn phải có sự thay đổi phù
hợp trong hệ thống giáo dục vàđào tạo nước ta.
Ngày nay công nghệ thông tin được công nhân là một bộ phận không
thể thiếu được trong giáo dục. Sinh viên tích vực tiếp cận, truy cập Internet
để cóđược những thông tin khoa học mới nhất hay có cơ hội trao đổi ý kiến
với bạn bè thế giới.
Tiểu luận triết học
17
Phải biết vận dụng những tri thức lĩnh hội được vào thực tế, không
chỉ toàn là lý thuyết. Vận dụng chúng vào sản xuất,nghiên cứu…
2. Kiến nghị về phát triển giáo dục đại học
Trong thời đại cách mạng công nghệ, Đại học có vai trò chỉđạo trong
toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và trong
khu vực, giáo dục đại học của ta còn quá yếu kém, tụt hậu còn xa hơn giáo
dục phổ thông. Trước đây ta xây dựng đại học theo mô hình Liên xô cũ,
nay nền đại học đó không còn thích hợp với giai đoạn phát triển mới của
đất nước, song những biện pháp sửa đổi, chắp vá và thời gian qua đã phá
vỡ tính hệ thống của nó, rốt cuộc tạo ra cảnh tượng lộn xộn không còn
chuẩn mực, khôn theo quy củ,tùy tiện và kém hiệu quả. Muốn thoát ra khỏi
tình trạng này cần có thời gian và một lộ trình hiện đại hóa thích hợp.
Trước mắt để tạo điều kiện thuận lợi cho toàn bộ công cuộc hiện đại hóa,
nên tập trung chỉnh đốn một số khâu then chốt đang tác động tiêu cực đến
sự phát triển bình thường của đại học. Đồng thời xây dựng mới một đại
học thực sự hiện đại, làm hoa tiêu hướng dẫn và thúc đẩy sựđổi mới trong
toàn ngành.
Trước hết cần phải cải cách mạnh mẽ việc thi cử vàđánh giá, chuyển
toàn bộ việc học theo hệ thống tín chỉ, thi kiểm tra nghiêm túc từng chặng
trong suốt khoa học thay vì dồn hết vào một kì thi tốt nghiệp nặng nền màít
tác dụng. Về tuyển sinh đại học, cao đẳng nên bỏkỳ thi hiện nay, nặng nề,
căng thẳng, tốn kém mà hiệu quả thấp để thay vào đó một kỳ thi nhẹ nhàng
chỉ nhằm mục đích sơ tuyển để loại những học sinh chưa đủ trình độ tối
thiểu cần thiết theo học đại học. Sau đó, việc tuyển chọn vào đại học nào
do đại học ấy tự làm, chủ yếu dựa trên hồ sơ học THPT và thẩm vấn hoặc
thi nếu cần thiết.
Thứ hai là chấn chỉnh việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ
Bằng thạc sĩ và tiến sĩ phải theo yêu cầu quốc tế, không thể tùy tiện,
đào tạo cẩu thả, chạy theo số lượng mà phải theo chất lượng, trình độ làm
tiêu chí hàng đầu. Thạc sĩ và tiến sĩ là lực lượng lao động, khoa học cốt
cán, nếu đào tạo dối trá, trình độ quá thấp thì không chỉ tai hại cho giáo
dục, khoa học mà còn ảnh hưởng tiêu cực lâu dài đến nhiều lĩnh vực hoạt
động quan trọng khác, nhất là trong một xã hội còn quá chuộng bằng cấp
Tiểu luận triết học
18
như chúng ta. Vì vậy cần chỉnh đốn từ gốc, rà soát lại để hạn chế chặt chẽ
sốđơn vị, ngành được phép đào tạo, đơn vị nào, ngành nào còn yếu thì
cương quyết dừng lại việc đào tạo trong nước để gửi ra đào tạo ở nước
ngoài và chuẩn bị thêm điều kiện. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, lập lại
kỷ cương , trật tự chống gian dối và cẩu thả trong việc đào tạo và cấp bằng.
Đồng thời những cơ sởđại học nào được phép đào tạo cần cóđủ quyền
chủđộng từ việc tuyển nghiên cứu sinh lựa chọn chương trình, cửa người
hướng dẫn cho đến tổ chức phản biện bảo vệ và cấp bằng, để có thể tự chịu
trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội về chất lượng đào tạo.
Thứ 3 là chấn chỉnh công tác chức danh GS, PGS. Đây là một trong
những khâu then chốt đểđảm bảo chất lượng cho đại học, nhưng trong một
thời gian dài cho đến hiện nay, ở nước ta đã thực hiện khá tùy tiện và còn
quá nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân đóng góp vào sự trì trệ
kéo dài của Đại học chính làở công tác này, thể hiện khá tập trung những
chính sách nhân tài. Do đóđể mởđường hiện đại hóa đại học, cần sớm chấn
chỉnh công tác chức danh GS, PGS, trước hết cải tổ "Hội đồng chức danh
GS" thành một hội đồng không trực tiếp công nhận các chức danh mà chỉ
xét duyệt hàng năm, định kỳđể công nhận những người đủ tư cách ứng xử
vào các chức danh GS, PGS ở các đại học và viện nghiên cứu. Hàng năm
các Đại học và viện nghiên cứu công bố như cần tuyển GS, PGS để bất cứ
ai đãđược công nhận "đủ tư cách" đều có thể dự tuyển.
Thứ 4 là cải thiện chính sách sử dụng giảng viên đại học. Tình trạng
phổ biến hiện nay ở các Đại học là giảng viên dạy quá nhiều giờ (25 - 30
giờ mỗi tuần không phải là hiếm). Kể cả giờ dạy trong trường, ngoài
trường, dưới nhiều hình thức khác nhau, dạy "liên kết" ở các địa phương,
dạy tu, luyện thi… do đó ngay ở các đại học lớn, cũng rất ít nghiên cứu
khoa học và nhiều người đã lâu không có thói quen cập nhật kiến thức,
nâng cao trình độ nhưng lại sản xuất đều đều cử nhân, Thạc sĩ, thậm chí cả
tiến sĩ. Trình độ GS, PGS của ta nói chung khá thấp so với quốc tế, cả nước
số GS đãđược công nhận mới chiếm tỷ lệ chưa tới 0,1% số PGS chưa tới
5%, trong toàn bộ số giảng viên đã học. Nếu kể cả những người thực tế có
năng lực nhưng chưa được công nhận GS, PGS do cách tuyển chọn chưa
hợp lý, đội ngũ giảng viên đại học vẫn còn yếu kém về trình độ và số lượng
Tiểu luận triết học
19
mà tuổi tác lại khá cao đó là tình trạng không thể chấp nhận được cần có
biện pháp cải thiện nhanh.
Thứ 5 làđổi mới các trường sư phạm và chính sách đào tạo giáo viên
phổ thông. Cần nghiên cứu lại chủ trương xây dựng những trường sư phạm
trọng điểm vì theo kinh nghiệm các nước, chỉ giáo viên mẫu giáo, tiểu học
mới cần được đào tạo kỹ về nghiệp vụ sư phạm, còn giáo viên THCS và
THPT trở lên thì trước hết phải được đào tạo vững vàng về chuyên môn
khoa học rồi mới bổ túc kiến thức và kỹ năng sư phạm. Do đó, phải thay
đổi cách đào tạo ở các trường sư phạm, chú trọng nhiều hơn phần chuyên
môn khoa học, đồng thời phải mở rộng đối tượng tuyển dụng giáo viên
phổ thông từ cá cử nhân hay thạc sĩ sau một khóa bổ túc ngắn hạn về
nghiệp vụ sư phạm. Các Đại học sư phạm nên dần dần chuyển thành Đại
học đa ngành, trong đó có khoa sư phạm (giáo dục) chuyên lo về nghiệp vụ
giảng dạy và khoa học sư phạm.
Thứ 6 là xây dựng "mới' một Đại học đa ngành hiện đại làm "hoa
tiêu" cho cải cách Đại học sau này. Song song với những biện pháp cấp
bách kể trên, cần bắt tay xây dựng ngay một đại học đa ngành thật hiện đại,
theo chuẩn mực quốc tế và sánh kịp với các đại học tiên tiến nhất trong khu
vực, làm "hoa tiêu" cho toàn bộ công cuộc hiện đại hóa. Đại học cần xây
dựng hoàn toàn "mới" đại học này nghĩa là không phải ghép chung lại một
sốđại học đã có sẵn (theo kinh nghiệm không thành công nhưđã làm tới
nay) mà toàn bộ giảng viên và sinh viên tuyển vào đều là "mới". Lúc đầu
không nhất thiết đủ hết mọi ngành và quy mô có thể hạn chế trong số mấy
trăm sinh viên nhưng đại học mới này phải được xây dựng theo đúng các
chuẩn mực quốc tế về mọi mặt. Cơ sở vật chất thiết bị, điều kiện ăn ở học
tập của sinh viên, trình độ giảng viên.
Thứ 7 là tăng đầu tư cho đại học, đi đôi với chấn chỉnh việc sử dụng
đầu tư. Cần cải cách chếđộ lương và phụ cấp, bảo đảm cho giảng viên đại
học một mức thu nhập phù hợp và năng suất và trình độ từng người để họ
có thể dồn tâm lực vào nhiệm vụ chính trong giảng dạy và nghiên cứu khoa
học mà không phải lo toan, xoay xở cho đời sống quá nhiều, tạo mọi điều
kiện cho họ có thể cập nhật tri thức theo kịp khoa học công nghệthế giới và
khu vực.
Tiểu luận triết học
20
Tiểu luận triết học
21
KẾTLUẬN
Có thể nói trong thời đại cách mạng công nghệ, đại học có vai trò
chủđạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế
giới và khu vực, giáo dục đại học của ta còn quá yếu kém, tụt hậu.
Phát triển con người là vấn đề trọng tâm của mỗi quốc gia. Hầu hết
các nước trên thế giới đều giương cao khẩu hiệu "giáo dục là quốc sách
hàng đầu và dành nhiều tâm sức để xây dựng và phát triển giáo dục nhằm
đào tạo cho xã hội lực lượng lao động có năng lực chuyên môn và khả năng
thích ứng, thỏa mãn được yêu cầu của thị trường về tiêu chuẩn văn hóa,
chuyên môn - nghiệp vụ của thị trường.
Một nền giáo dục đại học chỉđược xem thành công khi nền giáo dục
ấy đóng góp cho xã hội những cá nhân cóđầy đủ trí và lực, đáp ứng được
những nhu cầu về lao động trình độ cao và nghiên cứu khoa học nhằm góp
phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đất nước.
Vì vậy mà việc nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa vật chất vàý
thức. Vận dụng thúc đẩy việc học và hành của sinh viên hiện nay mang một
ý nghĩa vô cùng to lớn cóý nghĩa thực tiễn cao. Sinh viên phải cóđược
phương pháp để tiếp thu tri thức thời đại, rồi vận dụng thật tốt những tri
thức đó vào thực tế góp phần xây dựng một xã hội ngày càng phồn vinh,
tươi đẹp.
Tiểu luận triết học
22
TÀILIỆUTHAMKHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin tập 2 CNXB chính trị quốc gia
1997
2. Văn kiện đại hội toàn quốc lần VII, VIII
3. Thời báo kinh tế Việt Nam
4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
5. Trang Web "chúng ta.com.vn"
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tr_38_vat_chat_y_thuc__7296.pdf