Tiểu luận Môn SNA hệ thống tài khoản quốc gia - Tỷ lệ IC/GO của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2006

- Xây dựng tài khoản sản xuất của Việt nam giai đoạn 2001 - 2005 (giá hiện hành) theo IC và GO. - Phân tích tỷ lệ IC/GO của VN trong giai đoạn 2001 - 2005 theo toàn bộ nền kinh tế và theo từng ngành: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ - Đưa ra giải pháp và dự báo tỷ lệ IC/GO theo toàn bộ nền kinh tế và theo ngành của VN giai đoạn 2006 - 2010

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2952 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Môn SNA hệ thống tài khoản quốc gia - Tỷ lệ IC/GO của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2006, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu biểu hiện kết quả của hoạt động sản xuất, nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh, phản ánh tương quan giữa kết quả đạt được so với hao phí lao động, vật tư, tài chính. Là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất, kinh doanh, nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu. Tùy theo mục đích đánh giá, có thể đánh giá hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau như năng suất lao động, hiệu suất sử dụng vốn, hàm lượng vật tư của sản phẩm, lợi nhận so với vốn, thời gian thu hồi vốn...Chỉ tiêu tổng hợp thường dùng nhất là doanh lợi thu được so với tổng số vốn bỏ ra. Trong phạm vi nền KTQD, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế là tỷ trọng thu nhập quốc dân trong tổng sản phẩm xã hội.Trong nhiều trường hợp,để phân tích các vấn đề kinh tế có quan hệ chặ chẽ với các vấn đề xã hội, khi tính hiệu quả kinh tế, phải coi trọng hiệu quả về mặt xã hội như tạo việc làm, giảm thất nghiệp, tăng cường an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội... Sau đây chúng ta sẽ cùng phân tích hiệu quả sản xuất của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Tài khoản sản xuất Việt Nam 2005(giá hiện hành) Đơn vị: nghìn tỷ đồng VA IC Phân loại nền kinh tế GO 837,858 890,3404 Toàn bộ nề kinh tế 1645,344 Phân loại theo khu vực SX 175,048 81,808 1.Nông nghiệp 256,856 343,807 647,2424 2.Công nghiệp 991,0494 319,003 161,290 3.Dịch vụ 80,293 ( Nguồn: Niên giám thống kê 2006) A- Phân tích chung Năm 2005 tỷ lệ IC/GO là 51,52 %, tỷ lệ VA/GO là 48,48 % Mục tiêu của quá trình sản xuất là tạo ra nhiều giá trị tăng thêm. VA/Go của năm 2005 là 48,48 % thấp chứng tỏ quá triònh sản xuất vẫn còn sử dụng nhiều yếu tố đầu vào để tạo ra đầu ra chứng tỏ hiệu quả của quá trình sản xuất thấp. Trong giai đoạn 2001-2005, tỷ lệ IC/Go tăng dần ( năm 2001 là 40,69 % , năm 2005 là 51,52 % trung bình mỗi năm tăng 6,1 % ), tỷ lệ VA/GO giảm dần ( năm 2001 là 59,31 %, năm 2005 là 48,48 %) chứng tỏ hiệu quả sản xuất vẫn còn thấp. Tuy nhiên tỷ lệ IC/GO biến động không giống nhau trong các ngành kinh tế. Chúng ta hãy cùng phân tích tỷ lệ này trong từng ngành kinh tế. B- Nông nghiệp I- Phân tích: Ở nước ta hiện nay, ngành nông nghiệp vẫn giữ một vị trí then chốt trong nền kinh tế. Ta có thể theo dõi tỉ lệ này trong bảng số liệu sau: Tỷ trọng IC/GO Đơn vị: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 40,69 43,47 47,11 50,43 51,52 Nông nghiệp 34,35 35,25 32,9 33,77 31,85 Công nghiệp-xây dựng 53,64 56,71 60,95 64,45 65,31 Dịch vụ 24,21 26,6 30,19 31,82 33,58 Ta có thể thấy trong giai đoạn này nhìn chung tỉ lệ IC/GO có xu hướng giảm nhẹ. Điều nay chứng tỏ tính hiệu quả của sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng. Giá trị sản xuất nông nghiệp giữ ở mức ổn định với tốc độ tăng bình quân 10,85%. Từng bước vươn lên một nền nông nghiệp hàng hóa với kỹ thuật tiên tiến và cơ cấu đa ngành. Sản xuất không những đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, mà còn tăng cường cung cấp hàng hóa cho xuất khẩu cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là các nông sản chủ lực như: gạo, cà phê, hạt điều và cao su. Tuy nhiên, do nhiều yếu tó mà tỷ trọng giá trị tăng thêm trong tổng giá trị sản xuất vẫn chưa ổn định, có sự biến động tăng giảm không đều trong thời kỳ. Trong khi các năm khác tỷ lệ này đều có xu hướng tăng thì năm 2002 nó lại giảm so với 2001 và 2004 giảm so với 2003. Nhìn chung, chi phí cung gian trong sản xuất nông nghiệp tương đối thấp do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Chi phí đó bao gồm chi phí về vật chất và chi phí về dịch vụ. Điều đó thể hiện chi phí các yếu tố đầu vào của ngành nông nghiệp là thấp. Nhưng phương thức sản xuất lạc hậu, lao động nông nghiệp vẫn còn hạn chế về mặt chất lượng phần lớn lao động chưa qua đào tạo, chỉ là lao động phổ thông, đơn giản, làm việc theo kinh nghiệm). Mặt khác, từ phía khách quan, thời tiết diẽn biến phức tạp ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả và hiệu quả sản xuất. Có thể kể đến ngập úng tại Đồng bằng sông Cửu Long 2 năm liên tiếp 2001 và 2002, nắng hạn nghiêm trọng trong mùa khô kéo dài từ 2002 đến 2005 tại các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ và Bắc Trung Bộ. Hay các trận mưa lũ quét tại các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Cùng với những khó khăn về thời tiết, dịch cúm gia cầm bùng phát trên hầu hết các tỉnh, thành phố đầu năm 2004 và tiếp tục tái phát ở nhiều địa phương vào đầu năm 2005 đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa năm 2003 và vụ kiện bán phá giá tôm năm 2004 cũng ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất thủy sản, nhất là thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp. Giá nhiên liệu, các yếu tố đầu vào khác như: cây con giống, phân bón, thức ăn gia súc… tăng cao theo biến động giá chung cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp trong thời kỳ này. Trên đây đã là những nguyên nhân căn bản dẫn đến năng suất lao động trong nông nghiệp tại nước ta còn hạn chế. Do đó tỷ lệ gia tăng vẫn chưa cao. Đó chính là cản trở, trở ngại trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay. Như vậy, có thể thấy rằng nhìn chung sản xuất nông nghiệp đã có những bước tiến quan trọng đang vượt lên một nền sản xuất hàng hóa lớn, sản phẩm đa dạng, có tính cạnh tranh và thị trường ổn định. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp trong những năm qua vấ đang tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn do sản xuất còn mang tính tự phát và việc phát triển mở rộng sản xuất nhiều nơi vẫn chưa gắn triệt để với qiải quyết các vấn đề môi trường. II- Giải pháp: Từ những tồn tại và hạn chế trong ngành nông nghiệp ta có thể đưa ra một số giải pháp trước mắt cũng như lâu dài cho ngành nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất sản xuất của ngành nông nghiệp: - Tận dụng nguồn nhiên liệu sẵn có để giảm thiểu chi phí mua ngoài. - Cần phải cải tiến, đưa cơ giới hóa vào trong sản xuất nông nghiệp giúp sản xuất nông nghiệp thoát ra khỏi tình trạng sản xuất lạc hậu, kém năng suất. Muốn vậy cần phải đầu tư, trang bị máy móc công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Bởi nền sản xuất nông nghiệp hiện tại của nước ta chủ yếu là sử dụng phương pháp kỹ thuật thô sơ thủ công, khoa học công nghệ đc áp dụng còn rất hạn chế. - Bên cạnh đó phải nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp. Lao động nông nghiệp phải được tiếp cận với những công nghệ sản xuất nâng cao hiệu quả sản xuất. Phát triển ngành chăn nuôi với qui mô lớn gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng cao hiệu quả sản xuất theo qui mô, nhanh chóng đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính. III- Dự báo: Trong tương lai với sự phát triển bùng nổ của khoa học kỹ thuật, nền sản xuất nông nghiệp sẽ có nhiều tiến bộ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào nhằm giảm giá trị chi phí trung gian, tạo ra giá trị tăng thêm ngày càng cao. Là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. C- Công nghiệp Chi phí trung gian là 1 bộ phận chủ yếu của chi phí sản xuất nói chung, tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhưng không bị mất đi về mặt giá trị mà được thu về nguyên vẹn sau khi kết thúc chu kỳ sản xuất và lại đựoc sử dụng tiếp tục cho chu kỳ tiếp theo. Chi phí trung gian có ý nghĩa duy trì sản xuất, bảo đảm cho tái sản xuất giản đơn, luôn được bảo toàn và không bị mất đi sau một chu kì sản xuất. Chi phí trung gian khác với chi phí sản xuất là không bao gồm những khoản chi phí không phải là chi phí vật hóa như: chi phí nhân công,chi nộp thuế, lệ phí như thuế và các khoản chi phí dưới dạng quà biếu, tặng... và khấu hao tài sản cố định I- Phân tích Ngành công nghiệp Đơn vị: nghìn tỷ đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 GO 395,8092 476,350 620,0677 808,9583 991,0494 VA 155,584 174,639 205,026 243,058 290,948 IC 240,2252 301,711 415,0417 565,9003 700,1014 IC/GO (%) 60,69 63,34 66,93 69,95 70,64 Trong 5 năm 2001-2005 tỷ trọng IC/GO của ngành công nghiệp đã tăng trung bình 3,88% / năm (IC/GO năm 2001 là 60,69% thì tới năm 2005 đã tăng lên70,64%). Do IC/GO tăng nên VA/GO giảm xuống (VA/GO năm 2001 là 39,31% thì tới năm 2005 đã giảm xuống còn 29,36%). Điều này cho thấy hiệu quả sản xuất của ngành công nghiệp có xu hướng ngày càng thấp đi. Sản xuất công nghiệp trong những năm qua của nước ta diễn ra 1 tình trạng có tính quy luật mà ta không mong muốn Tỷ trọng IC/GO Đơn vị: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Ngành công nghiệp 60,69 63,34 66,93 69,95 70,64 Công nghiệp khai thác 15,11 24,79 31,79 30,17 19,88 Công nghiệp chế biến 70,33 71,59 75,12 77,86 79,01 CN SX, phân phối điện, khí đốt, nước 29,3 31,98 29,81 47,75 47,77 - Ngành công ngiệp khai thác mỏ gồm khai thác than,dầu thô và khí tự nhiên,khai thác quặng kim loại, khai thác đá và các loại mỏ.Đây là ngành có tỷ trọng IC/GO thấp nhất và tương ứng với nó là tỷ trọng VA trong GO là cao nhất trong các ngành công nghiệp của nứớc ta hiện nay.Trong giai đoạn 2001-2003 tỷ trọng IC/GO của ngành này có xu hướng tăng lên nhưng tới năm 2004 thì giảm nhẹ và tới năm 2005 thì giảm mạnh. Trong giai đoạn 2001-2003 tỷ trọng IC/GO của ngành này đã tăng trung bình 46,15% / năm (IC/GO năm 2001 là 15,11% thì năm 2003 đã tăng lên 31,79%). Nhưng tới năm 2005 tỷ trọng này đã giảm mạnh chỉ còn 19,88%. Điều này dẫn tới kết cục tất yếu là phần giá trị tăng thêm VA đã tăng lên (năm 2004 là 69.83 % thì năm 2005 là 80.12% ). Đây là 1 dấu hiệu đáng mừng cho thấy hiệu quả sản xuất của ngành đã tăng lên. Nguyên nhân là do : ngành công nghiệp khai thác mỏ không đòi hỏi nguồn nguyên nhiên vật liệu đầu vào mà chỉ cần các chi phí liên quan tới việc phục vụ cho quá trình khai thác( như điện nước, vận tải, thông tin liên lạc, quần áo bảo hộ, đồng phục cho người lao động, công cụ sản xuất…) do đó chi phí trung gian của ngành này thường nhỏ. Trong giai đoạn đầu do kỹ thuật, công nghệ khai thác của chúng ta còn lạc hậu nên đòi hỏi nhiều chi phí trung gian.Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, kỹ thuật khai thác mỏ ngày càng dược cải tiến hiện đại hơn, đòi hỏi ít chi phí trung gian hơn. Do đó chi phí trung gian năm 2004, 2005 đã có xu hướng giảm. - Ngành công nghiệp chế biến hiện nay chiếm khoảng 83,2% giá trị sản xuất và khoảng 60% giá trị tăng thêm trong toàn bộ lĩnh vực công nghiệp của Việt Nam nên bất kỳ một sự thay đổi nào của ngành này đều ảnh hưởng rất nhiều tới sự biến động chung của toàn bộ khu vực công nghiệp.Nhìn chung công nghiệp chế biến của Việt Nam nằm trong tình trạng lấy công làm lãi, mà tiền công ở đây cũng quá rẻ so với các nước. Có thể thấy tốc độ tăng của IC > tốc độ tăng của GO dẫn đến tốc độ tăng của VA nhỏ hơn tốc độ tăng của GO.Tốc độ tăng trung bình của IC là 30,47 % / năm. Tốc độ tăng trung bình của GO là 26,67 % / năm ( tỷ lệ IC/GO năm 2001 là 70,33 %; năm 2005 là 79,01 % ). Đây là ngành đòi hỏi chi phí trung gian lớn nhất trong các ngành công nghiệp ( tỷ lệ IC/GO năm 2005 là 79,01 % vì ngành chế biến tiêu hao nguyên vật liệu nhiều, giá cả của các nguyên vật liệu cao và chủ yếu là nhập khẩu. Mặt khác do máy móc thiết bị cũ kĩ, công nghệ lạc hậu nên định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu lớn. Các ngành có chi phí trung gian lớn gồm chủ yếu là các ngành gia công lắp ráp như: sản xuất thiết bị máy móc, thiết bị điện, điện tử, thiết bị chính xác, máy tính, máy văn phòng, phương tiện vận tải… Ngành công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng của phần giá trị mới sáng tạo VA tăng lên chậm hơn GO. Mặt khác tỷ trọng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến ở nước ta quá nhỏ trong GO. Điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả sản xuất của công nghiệp chế biến chưa dược cải thiện, thậm chí còn suy giảm nhẹ. - Đối với các ngành công nghiệp sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước. Chi phí trung gian của ngành này bao gồm các chi phí vật chất như nguyên, nhiên vật liệu, điện, nước và các chi phí dịch vụ như chi phí vận tải, tiền thuê khách sạn, nhà trọ, chi phí bưu điện, chi phí quảng cáo, chi phí dịch vụ pháp lý, chi phí thuê phương tiện, dịch vụ phí ngân hàng được sử dụng trong quá trình sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước, Chi phí trung gian vẫn có tốc độ tăng lớn hơn tốc độ tăng GO trong giai đoạn 2001-2004 (tốc độ tăng của IC trung bình là 49,37% / năm; tốc độ tăng của GO trung bình là 25,84 % / năm ).Chi phí trung gian tăng là do chi phí nguyên nhiên vật liệu tăng cao đồng thời các chi phí dịch vụ cũng tăng. * Nhận xét: - Chi phí trung gian của ngành công nghiệp tăng nhanh hơn tốc độ tăng bình quân của giá trị sản xuất. Tỷ lệ chi phí trung gian tăng bình quân chung cho toàn ngành tăng liên tục qua các năm. Tăng chi phí trung gian do sử dụng định mức nguyên nhiên vật liệu, dịch vụ đầu vào chiếm một tỷ lệ đáng kể. - Trong số chi phí trung gian tăng lên thì phần tăng của ngành công nghiệp chế biến là quyết định vì là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất, có hệ số chi phí trung gian và tốc độ tăng lên cao nhất. - Phân tích trong tổng chi phí trung gian thì: chi phí nguyên vật liệu chiếm trên 81% tăng bình quân 25%/năm, chi phí dịch vụ chiếm trên 9%, tăng 27,3% (tăng cao hơn mức tăng chung của tổng chi phí), chi phí về nhiên liệu chiếm khoảng 6%, tăng bình quân 20%/năm chi phí năng lượng chiếm khoảng 3%,tăng bình quân 21%/năm II- Nguyên nhân: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng chi phí trung gian gia tăng: Các nguyên nhân tiêu cực: - Giá nguyên vật liệu tăng cao giá cả của nhiều chủng loại nguyên nhiên vật liệu đầu vào là hàng nhập khẩu và cước phí vận tải quốc tế tăng. Ở đây, chỉ đề cập đến giá nhập khẩu bình quân 10 tháng đầu của năm 2003 so với cùng kỳ 2002 tăng và làm cho kim ngạch tăng theo; giá xăng dầu tăng 22,9% làm tăng 372 triệu USD, giá sắt thép tăng 38,6% làm tăng 392 triệu USD, giá chất dẻo tăng 16,7% làm tăng 89 triệu USD, giá phân bón tăng 19,1% làm tăng 70 triệu USD, giá sợi dệt tăng 15,7% làm tăng 33 triệu USD, giá bông tăng 15,8% làm tăng 12 triệu USD. Chỉ với 6 mặt hàng trên đã làm tăng 968 triệu USD, chiếm 24,5% tổng kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ. - Giá nhiên liệu và năng lượng tăng cao - Công nghệ cũ, lạc hậu nên định mức tiêu hao nguyên vật liệu cao Ngay công nghiệp, mặc dù đạt được nhiều kết quả vượt trội, nhưng trình độ công nghệ cũng còn thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam thuộc nhóm ngành công nghệ cao chỉ đạt 20,6%, thấp hơn tỷ trọng tương ứng 29,1% của Philippin, 29,7% của Inđônêxia, 30,8% của Thái Lan, 51,1% của Malaixia, 73% của Singapore); thuộc nhóm ngành công nghệ trung bình đạt 20,7%; thuộc nhóm ngành công nghệ thấp chiếm tới 58,7% (Inđônêxia 47,7%, Philippin 45,7%, Thái Lan 42,7%, Malaixia 24,3%, Singapore 10,5%). Nếu tính theo giá trị sản xuất thì trong công nghiệp chế biến của Việt Nam, những ngành công nghệ cao chỉ chiếm 15,7%, công nghệ thấp chiếm tới 52,8%. Nếu tính theo giá trị tăng thêm thì tỷ trọng công nghệ cao của công nghiệp nước ta còn thấp hơn nữa, vì phần lớn những ngành công nghệ cao chủ yếu là lắp ráp. Trình độ kỹ thuật - công nghệ thấp chủ yếu do vốn sản xuất kinh doanh thấp. Mức trang bị tài sản cố định bình quân 1 lao động của các cơ sở kinh tế cá thể chỉ có 8,6 triệu đồng, của doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có 36,6 triệu đồng, của doanh nghiệp Nhà nước cao hơn cũng chỉ có 132,1 triệu đồng, còn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 191,6 triệu đồng. Hệ số đổi mới tài sản cố định hiện mới đạt 19%, thấp hơn so với 24 - 25% của mục tiêu đề ra - Chi phí thuê mặt bằng tăng cao: giá nhà đất tăng và đang ở mức rất cao, làm cho chi phí đầu tư xây dựng, chi phí thuê trụ sở, địa điểm sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất của các doanh  nghiệp, làm cho giá cả sản phẩm vật chất và dịch vụ dâng cao. Giá bất động sản đã qua 3 lần tăng. Lần thứ nhất (năm 1993-1994) tăng gấp 3-4 lần. Lần thứ hai (2001-2002) lại tăng gấp 3-4 lần. Lần thứ 3 (vào cuối năm 2004, đầu năm 2005) tuy bản thân giá bất động sản không tăng, nhưng giá tính thuế tăng gấp 3-4 lần, nên tiền thuê, mua, tiền đền bù giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi và giao cho các nhà đầu tư vẫn rất cao, làm cho chi phí thuê mua bất động sản làm địa điểm sản xuất kinh doanh vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những rào cản lớn đối với việc ra đời của các doanh nghiệp tư nhân cũng như sự mở rộng sản xuất kinh doanh của họ. - Chi phí ngoại giao tiếp khách: các chi phí tiếp khách cũng chiếm 1 tỷ lệ không nhỏ trong tổng chi phí trung gian. Để có thể có được các mối quan hệ với bên đối tác, ký được các hợp đồng kinh tế thì nhiều doanh nghiệp cũng đã phải mất khá nhiều chi phí. Các nguyên nhân tích cực: - Sử dụng nguyên vật liệu chất lượng cao nhiều doanh nghiệp ở nhiều ngành kinh tế đã thay đổi chủng loại nguyên vật liệu có chất lượng cao, có giá trị lớn hơn để phù hợp với thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu để tăng tính cạnh tranh - Chi phí bảo vệ môi trường: trong xu thế phát triển mới,việc phát triển phải đảm bảo bền vững theo cả 3 lĩnh vực kinh tế - xã hội – môi trường nên công tác bảo vệ môi trường hiện nay đang rất được chú trọng.Nhiều doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ về bảo vệ môi trường,chi phí di chuyển nhà máy, xử lí chất thải rắn, khí thải trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, điều đó cũng đã làm tăng thêm các khoản chi phí, nhất là khi luật bảo vệ môi trường đã có hiệu lực. - Chi phí dịch vụ tăng cao, nhất là các dịch vụ quảng cáo, tư vấn,bảo hiểm....Tuy mới bắt đầu phát triển nhưng các dịch vụ cũng đã được sử dụng khá nhiều trong ngành công nghiệp và có xu hướng sẽ tiếp tục tăng cao.Đây là dấu hiệu đáng mừng vì việc gia tăng chi phí trung gian về các chi phí dịch vụ này mang tính tích cực, thể hiện được sự đổi mới của ngành. Các dịch vụ quảng cáo, xúc tiến thương mại, marketing ... đã đem lại giá trị gia tăng cao hơn cho sản phẩm công nghiệp, tạo đầu ra cho sản phẩm và góp phần tích cực vào việc mở rộng thị trường tiêu thụ. Các công ty tư vấn hoạt động khá hiệu quả. Các dịch vụ ngân hàng đa dạng đã giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc huy động vốn, thanh toán... không chỉ trong nước mà còn cả phạm vi quốc tế. - Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến: những ngành công nghiệp có tỷ lệ chi phí trung gian cao lại là những ngành có tốc độ tăng trưởng sản xuất nhanh hơn, tạo nên tỷ trọng cũng tăng lên nhanh hơn những ngành có tỷ lệ chi phí trung gian thấp. Điều này phản ánh đúng thực tế phát triển công nghiệp Việt Nam những năm qua, các ngành gia công, lắp ráp có hệ số chi phí trung gian từ trên 70% trở lên có tốc độ tăng trưởng cao nhất và tăng liên tục qua các năm như: sản xuất thép, sản xuất các sản phẩm từ kim loại, lắp ráp ô tô, xa máy, sản xuất đồ dùng gia đình, lắp ráp điện tử, sản xuất hóa chất...Ngược lại, những ngành có tỷ lệ chi phí trung gian thấp thì sản xuất tăng chậm hoặc giảm, làm cho tỷ trọng có xu hướng giảm như: khai thác dầu khí, sản xuất rượu bia, thuốc lá, sản xuất phân bón, thủy tinh, gốm sứ, gạch ngói... III- Giải pháp: Các giải pháp để làm giảm tỷ lệ IC/GO của ngành công nghiệp là sự kết hợp đồng thời giữa việc giảm những chi phí trung gian mang tính tiêu cực, tăng những chi phí trung gian tích cực và nỗ lực thúc đẩy giá trị gia tăng cho sản phẩm. Nhóm giải pháp làm hạn chế các nguyên nhân tiêu cực: Giá nguyên vật liệu, nhiên liệu và năng lượng tăng cao: Chúng ta cần đẩy manh tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, chủ động về nguồn nguyên nhiên vật liệu.Tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ.Có chính sách khuyến khích sử dụng sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước như nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng nội địa, giảm tỷ lệ nhập khẩu, tạo điều kiện cho các odanh nghiệp mở rộng thị trường. Chi phí thuê mặt bằng tăng cao: Sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm mặt bằng.Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề về đất đai như hoàn thiện các khu công nghiệp, khu chế xuất với hệ thống cơ sở hạ tầng từng bước hiện đại, tạo sự ổn định và niềm tin đối với nhà đầu tư. Hiện nay, một số địa phương có sự cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi giá, thậm chí họ đưa ra các chính sách về thuế, giá thuê đất,... thấp hơn nhiều so với mức quy định chung của cả nước chỉ nhằm mục đích tăng trưởng về số lượng DN có vốn đầu tư nước ngoài và tăng tỷ trọng CN hoá trên địa bàn ngay cả khi các DN này không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế hay gây nên sự mất cân đối về sản xuất so với quy hoạch... Vì vậy, Nhà nước cần có thêm các biện pháp nhằm quản lý chặt chẽ hơn và xử lý nghiêm minh đối với các địa phương cố tình vi phạm các chính sách của Nhà nước trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Công nghệ cũ, lạc hậu nên định mức tiêu hao nguyên vật liệu cao Tích cực hiện đại hóa công nghệ, đổi mới công nghệ để giảm định mức sử dụng nguyên nhiên vật liệu,đặc biệt trong những ngành có điều kiện đổi mới nhanh như chế tạo linh kiện điện tử, điện tử công nghiệp, công nghiệp công nghệ thông tin, phần mềm phục vụ quản lí, giáo dục đào tạo, phục vụ phát triển thương mại điện tử.... Chi phí ngoại giao, tiếp khách gia tăng: Chủ động hoạt động tiết kiệm,giảm các chi phí ngoài sản xuất, chi phí quản lý gián tiếp không hiệu quả, thậm chí là bất hợp lệ, bất hợp pháp. Nhóm giải pháp về các chi phí trung gian tích cực: Sử dụng nguyên vật liệu chất lượng cao Đây là hướng chuyển biến tích cực, có tác dụng làm gia tăng giá trị cho sản phẩm công nghiệp.Khuyến khích các sản phẩm công nghiệp sạch từ khâu đầu vào, nguyên nhiên vật liệu, sạch trong quá trình sản xuất, đóng gói bao bì, nhãn mác...Các doanh nghiệp cần chủ động đổi mới, quản lý tốt kênh cung cấp nguyên vật liệu đầu vào có chất lượng cao để đảm bảo quá trình sản xuất được ổn định, thông suốt. Chi phí bảo vệ môi trường Nhà nước cần khuyến khích việc áp dụng các hệ thống quản lí chất lượng, quản lý môi trường tiên tiến như ISO 9000, 14000...nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm đồng thời đảm bảo về phát triển bền vững, có sự liên hệ chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và tích cực bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo không những cho thế hệ hiện tại mà cả các thế hệ trong tương lai, khi mà vấn đề môi trương, đặc biệt là sự biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả các quốc gia. Việt Nam cần nhanh chóng đẩy mạnh, hoàn thiện các pháp luật về bảo vệ môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có thể thực thi luật và đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp. Chi phí dịch vụ tăng cao,nhất là các dịch vụ quảng cáo, tư vấn,bảo hiểm Việc khuyến khích sử dụng dịch vụ trong công nghiệp không những góp phần làm tăng giá trị cho sản phẩm công nghiệp mà còn có tác dụng trong việc phát triển ngành dịch vụ Việt Nam theo đúng định hướng của nhà nước là tăng dần tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Các dịch vụ cần phải được hoàn thiện hóa, có tác dụng hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp như xúc tiến thương mại, tư vấn về luật pháp, đặc biệt là luật pháp quốc tế và các cam kết của Việt Nam với các nước, khu vực thương mại, quảng cáo sản phẩm đến thị trường trong và ngoài nước. Tuy phải chấp nhận tăng chi phí trung gian nhưng chúng ta có thể thu lại những giá trị gia tăng lớn hơn những chi phí bỏ ra và điều này là tích cực, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong thời kì hội nhập. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến: Để giảm CPTG ngành công nghiệp, trước hết cần phải khuyến khích phát triển các ngành có tỷ lệ CPTG thấp như các ngành khai thác mỏ, các ngành có hàm lượng chất xám cao... Tuy nhiên, đối với các ngành khai thác mỏ, như khai thác than, dầu, khí chúng ta không thể chỉ chú trọng đến việc phát triển về quy mô, số lượng doanh nghiệp hay sản phẩm khai thác vì nguồn tài nguyên của chúng ta có hạn, hơn nữa việc khai thác ngày càng gặp khó khăn hơn do nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Chúng ta cần chú trọng phát triển các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm khai thác đạt chất lượng cao như: lọc, tinh chế dầu mỏ và các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ, luyện than cốc. Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước là ngành có tỷ lệ CPTG thấp thứ hai sau CN khai thác mỏ. Hiện Chính phủ và ngành điện đang tích cực triển khai nhiều biện pháp hữu hiệu nhằm phát triển ngành điện. Đến năm 2010, các nhà máy điện sẽ có công suất 25.000-26.000 MW, với sản lượng khoảng 100 tỷ kWh điện. Nhóm giải pháp làm tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm công nghiệp - Đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao như công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông. Trong ngành dệt may, giày dép là ngành từng bước đã có uy tín trên thị trường, các doanh nghiệp phải phát triển sản phẩm của mình theo hướng sản phẩm có giá trị cao, hợp thời trang, tăng tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm xuất khẩu, ứng dụng phần mềm vào thiết kế..., chuyển hình thức gia công sang mua nguyên liệu, bán sản phẩm. - Tiếp tục gia tăng các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu có chất lượng sẽ mang lại giá trị gia tăng cao cũng như thu ngoại tệ về cho đất nước. Nhà nước cũng như các ngành cần hướng các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng mà chúng ta có lợi thế cạnh trạnh trên thị trường quốc tế, giữ vững và phát triển thị trường hiện có đồng thời tích cực tìm kiếm các sản phẩm mới, thị trường mới. - Áp dụng mạnh các công cụ để làm gia tăng giá trị cho sản phẩm như marketing, xúc tiến thương mại,tạo thương hiệu, quảng cáo cho sản phẩm công nghiệp Việt Nam để tạo chỗ đứng trên thị trường trong nước, từng bước giảm tỷ lệ nhập khẩu và tăng nhanh tỷ lệ sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Giảm chi phí trung gian còn đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ngành chức năng và những chính sách vĩ mô: giảm chi phí hạ tầng, các dịch vụ bưu chính viễn thông, điện nứoc, cước phí vận chuyển, bên bãi, thanh tra kiểm tra, chi phí hải quan, lãi suất tiền vay, các loại thuế… Không giảm dược chi phí trung gian, không những không nâng được mức tăng trưởng mà hàng Viẹt Nam chác chắn sẽ khó cạnh tranh khi mà lộ trình gia nhập WTO gần kề. IV- Dự báo: Giai đoạn 2006-2010, dự đoán Việt Nam sẽ kết thúc đàm phán với MỸ và gia nhập WTO đồng thời Việt Nam sẽ tham gia đầy đủ vào Chương trình Ưu đãi Thuế quan có hiệu lực chung( CEPTs) của AFTA Các cam kết trong khuôn khổ AFTA và WTO đảm bảo sẽ duy trì đà cải cách kinh tế. Việc xoá bỏ các rào cản thương mại thuế và phi thuế quan đối với FDI sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút công nghệ mới, tăng năng suất, dẫn tới việc phát triển một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh cao hơn. Hơn nữa, khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc từ các nước thành viên WTO và sẽ không phải chịu hạn ngạch. Điều này rất quan trọng đối với ngành công nghiệp dệt may cũng như công nghiệp da giày. Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới đã có dấu hiệu ổn định sau nhiều năm biến động nhưng vẫn ổn định ở mức cao. Giá nông sản, kim loại và khoáng sản dự báo sẽ giảm trong năm 2006 Cầu về các nguyên liệu cơ bản như sát, thép, hóa chất, chất dẻo cũng đã giảm do nhu cầu giảm và lượng tồn kho lớn từ những năm trước của các mặt hàng này khiến các công ty sẽ phải giảm giá và sản lượng. Đây là một nhân tố quan trọng cho phép dự báo nhioều mặt hàng trên thế giới giảm trong thời gian tới. Đối với dầu thô, nhìn chung các tổ chức quốc tế đều dự báo giá dầu thô sẽ giảm nhưng vẫn duy trì ở mức cao. Tuy nhiên, Giá dầu thế giới dao động ở mức cao sẽ tiếp tục có những ảnh hưởng không thuận vì giá xăng dầu trong năm tới không còn được Nhà nước trợ giá nhiều như trước và sẽ được điều chỉnh linh hoạt hơn. Với những điều kiện như vậy, tình hình giá cả trong năm 2006 có chiều hướng tăng mạnh, đặc biệt vẫn tập trung vào giá lương thực thực phẩm và giao thông. Trong những năm tới giá đất có khả năng bị các hoạt động đầu cơ đẩy lên rất cao. Một khó khăn khác là chính phủ có thể cố gắng đạt dược tăng trưởng bằng cách cho vay trực tiếp thông qua các ngân hàng thương mại nhà nước. Tăng trương tín dụng cao có thể làm tăng áp lực lạm phát. Ngoài ra khả năng thiếu điện do cầu về điện dự báo sẽ tăng cao. Việc phụ thuộc quá nhiều vào các nhà máy thủy điện khiến cho nguồn điện trở nên dễ bị tác động. Đợt hạn hán kéo dài năm 2005 làm cho 1 số nhà máy thủy điện chỉ hoạt động xấp xỉ 20% công suất, không đáp ứng được nhu cầu về điện và sự phụ thuộc quá nhiều vào thủy điện có thể làm tăng chi phí trung gian. Từ những dự báo về thuận lợi và khó khăn trong giai đoạn 2006-2010 ta thấy rằng : Chiều hướng tăng lên của tỷ trọng chi phí trung gian trong ngành công nghiệp là 1 thực tế. Tuy nhiên, chiều hướng này là bình thường và không đáng lo ngại. Trong giai đoạn 2006-2010, xu hướng tỷ lệ chi phí trung gian ngành công nghiệp có thể còn tiếp tục tăng, nhưng đó cũng chỉ là xu hướng bình thường phù hơp với một nước có nền kinh tế như Việt Nam. Những ngành có công nghệ cao, gia công lắp ráp, những ngành sử dụng nhiều nguyên vật liệu càng tăng nhanh, tỷ trọng càng cao là nguyên nhân chủ yếu làm cho CPTG chung của toàn ngành CN biến động theo xu hướng càng tăng lên, điều đó có nghĩa là giá trị tăng thêm của toàn ngành công nghiệp giảm tương đối, dẫn đến hiệu quả kinh tế chung giảm. Nhưng trong điều kiện khách quan tạm thời phải phát triển các ngành gia công lắp ráp, thì hiệu quả kinh tế chung giảm là điều hợp lý, để đạt được mục tiêu khác quan trọng hơn như giải quyết việc làm, tiếp thu và nâng cao năng lực về kỹ thuật công nghệ, năng lực quản lý, tiêu dùng xã hội, cân bằng xuất nhập khẩu,... D- Dịch vụ I- Nhận xét: - Tỷ trọng IC/GO của ngành dịch vụ (DV) giai đoạn 2001- 2005 có xu hướng tăng dần: Từ 24.21% năm 2001 lên 33.5% năm 2005, tức là gấp 1.38 lần so với năm 2001. - Tốc độ tăng của IC luôn lớn hơn tôc độ tăng của GO nhưng càng ngày càng có xu hướng giảm khoảng cách. Cụ thể: Năm 2001 tốc độ tốc độ gia tăng của IC so với tốc độ tăng của GO gấp 1.78 lần, ứng với 11.28% nhưng đến năm 2005 thì sự chênh lệch này giảm xuống còn 11.28% (ứng với 6.65%).Sự thay đổi này khiến cho tỷ lệ IC/GO trong giai đoạn này tăng chậm dần ở những năm sau. II- Nguyên nhân: Nguyên nhân chủ yếu làm IC/GO của khu vực dịch vụ tăng lên là do chất lượng cung cấp dịch vụ chưa tốt, đặc biệt trong những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như du lịch, ngân hàng, bảo hiểm....Ngành du lịch hiện nay ở Việt Nam được coi như một ngành kinh tế mũi nhọn. Chúng ta có tiềm năng về du lịch, có nhiều thắng cảnh đẹp,truyền thống văn hóa đặc sắc và có sức hấp dẫn lớn trên thị trường du lịch quốc tế nhưng thật sự vẫn chưa phát huy được hết khả năng của mình. Khâu yếu kém nhất chính là việc không đảm bảo về chất lượng. Sản phẩm du lịch chưa phong phú, việc đầu tư hạ tầng du lịch chưa được chú trọng. Các khách sạn mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là các khách sạn chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế.Nguồn nhân lực cho du lịch nói riêng và toàn ngành dịch vụ nói chung còn rất yếu. Chất lượng nguồn nhân lực trong ngành chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc hoạt động của ngành còn chưa hiệu quả. Về mặt cơ cấu của GO, GO chính là phần doanh thu mà hoạt động dịch vụ đó đem lại, IC của các ngành dịch vụ bao gồm: + Toàn bộ chi phí vật chất: Nguyên nhiên vật liệu, điện, nước, chi phí vật chất khác. + Toàn bộ chi phí dịch vụ: Chi phí vận tải, tiền thuê khách sạn, nhà trọ, chi phí bưu điện, chi phí quảng cáo, chi phí dịch vụ pháp lý, chi thuê phương tiện, dịch vụ ngân hàng… Dược sử dụng trong hoạt động kinh doanh của các ngành, lĩnh vực. Và để giải thích cho tình hình này, theo chúng em là do một số nguyên nhân sau: Về chi phí trung gian (IC): Hầu hết chi phí trung gian của ngành là mua ngoài và có giá trị lớn. Trong những năm qua, giá dầu thô dao động ở mức cao làm xáo trộn chi phí đầu vào của các ngành đều tăng khiến cho chi phí trung gian của ngành cũng tăng. VD: giá xăng dầu tăng => đầu vào ngành vận tải tăng mà ngành vận tải lại là ngành cung cấp dịch vụ cho nhiều ngành khác nên chi phí trung gian tăng. Giá đất, giá thuê đất tăng… Tình hình lạm phát tăng trong những năm qua cũng tác động vào giá cả của hàng hoá, dịch vụ làm cho chi phí trung gian của ngành tăng.Giá nông, lâm, thuỷ sản trong giai đoạn này tăng cũng làm cho chi phí trung gian một số ngành tăng cụ thể là ngành du lịch, nhà hàng, khách sạn tăng. Chi phí trung gian tăng trong giai đoạn này còn do chi phí dịch vụ tăng cao nhưng điều này là phù hợp với thực tế và không phải là vấn đề đáng lo ngại bởi lẽ sự gia tăng của chi phí dịch vụ kèm theo nó là sự gia tăng của giá trị sản xuất ngành dịch vụ. (2) Về giá trị sản xuất (GO): Đầu tiên theo chúng em, nguyên nhân làm cho tốc độ gia tăng của GO trong nhũng năm 2001- 2005 tăng đó là sự phát triển của bản thân ngành dịch vụ. Nhu cầu dịch vụ ngày càng tăng dẫn tới sự phát triển của nhiều ngành dịch vụ như: thương mại(bán lẻ), Bảo hiểm, ngân hàng, vận tải, du lịch… Tuy nhiên sự gia tăng của ngành chưa cao và tương xứng với tiềm năng hiện có, hoạt động của khu vực chưa thật hiệu quả, sau đây là một số lý do: - Do sự nhận thức chưa đầy đủ về lĩnh vực dịch vụ và nền kinh tế nước ta còn chậm phát triền nên mức độ sử dụng dịch vụ còn hạn chế. Nhiều khi triển khai các chính sách về dịch vụ vào đời sống còn gặp nhiều khó khăn, yếu kém. Ví dụ ở một số thị trường như: Thị trường KH- CN chậm hình thành vá chưa thật gắn kết với sản xuất kinh doanh. Thị trường Bảo hiểm, tài chính, ngân hàng chưa hoạt động thất sự hiệu quả. Thị trường Bất động sản chưa được quản lý chặt chẽ, lúc “ nóng”, lúc ”nguội ” chủ yếu do hoạt động đầu cơ. - Hầu hết các dịch vụ đều do Nhà nước cung cấp nên có tình trạng độc quyền cung ứng một số dịch vụ, sự bảo hộ hoặc kiểm soát chỉ cho một số ít khu vực tư nhân tham gia làm cho giá một số mặt hàng cao từ 30%- 50% so với các nước trong khu vực: Viễn thông, vận tải tàu thuyền… - Trong những năm qua, do ảnh hưởng của tình hình biến động KT- XH thế giới, dịch SARS, cúm gà ảnh hưởng tới ngành du lịch, vận tải hàng không, nhà hàng. - Ngành thương mại phát triển mạnh mẽ nhưng chủ yếu ở bán lẻ, số siêu thị còn it, các trung tâm mua bán còn nhỏ lẻ, hạn chế. III- Giải pháp: Để phát triển khu vực dịch vụ, cải thiện tỷ lệ IC/GO chúng em xin đưa ra một số giải pháp sau: - Giải pháp ưu tiên nhất trong khu vực dịch vụ là phải nâng cao chất lượng của toàn ngành,đặc biệt là nguồn nhân lực. Nhà nước và các cấp, các ngành cần có những chính sách tích cực để đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho ngành. Đây là nhân tố quyết định đến việc làm gia tăng hiệu quả của ngành do đặc thù của ngành dịch vụ là cần phải có sự tham gia trực tiếp của con người - Ưu tiên đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH, đảm bảo an ninh trật tự xã hội tạo tiền đề phát triển các ngành kinh tế nói chung và dịch vụ nói riêng và đi đến ổn định một môi trường KT-XH văn minh, hiện đại, an toàn cho các nhà đầu tư. - Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành theo hướng đa dạng hoá các loại hình, nâng cao chất lượng hoạt động, tập trung phát triển các ngành có tiềm năng như thương mại, dịch vụ bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, tài chính… - Khuyến khích và đàu tư phát triển một số ngành dịch vụ có sức cạnh tranh và mức tăng trưởng cao như: Thương mại, Khách sạn, nhà hàng, tài chính ngân hàng, kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn…Đặc biệt phải chú trọng đến việc nâng cao chất lượng của các ngành này. Đặc điểm của các ngành dịch vụ là lợi thế canh tranh có được chủ yếu là từ việc nâng cao chất lượng, cạnh tranh bằng chất lượng - Giảm bớt tình trạng độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, cho phép các doanh nghiệp tư nhân trong nước được quyền kinh doanh một số lĩnh vực. - Đẩy mạnh xã hội hoá để phát triển các dịch vụ như văn hoá, thể dục thể thao, y tế, giáo dục…Đây là những ngành tăng trưởng không cao. - Tiếp tục tận dụng những lợi thế, khai thác những tiềm năng của từng vùng, từng tỉnh và cả nước để phát triển dịch vụ nhất là du lịch. - Cải cách thủ tục hành chính, luật pháp như công tác hành chính ở các cảng biển, hàng không, có chính sách về visa, mở thẳng đường bay nhằm phát triển ngành du lịch .... IV- Xu hướng: Do xu thế giá xăng dầu, nguyên liệu đầu vào quan trọng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhiều ngành và giá nông sản tăng nên chi phí trung gian của ngành sẽ tăng. Mặt khác, với xu hướng chung của tất cả các quốc gia, khu vực dịch vụ ngày càng phát triẻn và đóng vai trò lớn trong tổng giá trị sản xuất nên giá trị sản xuất của ngành dịch vụ trong những năm tới còn tiếp tục tăng cao so với hai khu vục còn lại.Tỷ lệ gia tăng của phần chi phí dịch vụ cũng sẽ lớn hơn chi phí vật chất. E- Kết luận Tỷ lệ IC/GO của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam còn ở mức cao và phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ này ở ngành công nghiệp vì đây là ngành có tỷ lệ IC/GO lớn nhất. Để nâng cao hiệu quả kinh tế tiến tới phát triển kinh tế chúng ta cần chấp nhận những yếu tố khách quan, tuy nhiên xu hướng chung vẫn là cố gắng giảm tỷ lệ IC/GO của mỗi ngành và hướng tới giảm tỷ lệ này trong toàn bộ nền kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận môn SNA hệ thống tài khoản quốc gia - tỷ lệ IC-GO của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2006.doc
Luận văn liên quan