Ảnh hưởng đến tốc độ đ ầu tư các dự án mới. Trong thực tế, việc cân đối luồng tiền cho hoạt động
của DN làm đau đầu các nhà quản trị. Khi dự án đầu tư mới phát sinh và cần triển khai ngay thì DN cần
một lượng tiền mặt rất lớn và DN chưa có kế hoạch cho luồng tiền đầu tư p hát sinh này. Trong khi việc
chi trả cổ tức lại căn cứ vào kế hoạch chi trả đã được thông qua của ĐHĐCĐ hay Hội đồng quản trị. Vì
vậy, việc chi trả cổ tức cao trùng với thời điểm giải ngân của dự án sẽ ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân,
tiến độ hoàn thành của các dự án.
- Khi lượng tiền mặt không đáp ứng cho nhu cầu hoạt động, DN có thể tăng các khoản vay ngân
hàng và như vậy tổng số tiền lãi vay phải trả tăng lên kết quả làm giảm lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên, sử
dụng vốn tín dụng cũng có 2 mặt của nó, một mặt nó là tấm chắn thuế cho DN nhưng mặt khá c có thể làm
tăng rủi ro trong các dự án đầu tư khi tỷ trọng tiền vay ở mức lớn làm phát sinh chi phí kiệt quệ tài chính.
56 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3446 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Môn tài chính doanh nghiệp chính sách cổ tức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền mặt ở mức cao. Cuối cùng nó có thể giữ chân các cổ đông trung thành, nhất là các cổ đông
lớn, đồng thời tạo nguồn cổ tức để có thêm nhiều cơ hội đầu tư cho các cổ đông lớn.
- Lãi suất ngân hàng tăng cao cộng thêm biến động rủi ro tăng cao của đầu tư bất động sản, đầu tư
vàng đã thu hút lượng vốn tiền gửi tiết kiệm thay vì đầu tư vào chứng khoán như trước đây. Tâm lý nhà
đầu tư không còn chuộng trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng do giá chứng khoán giảm sâu và có
thể tiếp tục giảm trong tương lai. Khi thông tin công ty nào phát hành thêm và chia CP, giá CP này thường
có xu hướng giảm, hoàn toàn trái ngược so với trước đây. Do đó, các công ty sử dụng chính sách cổ tức
38
“tiền tươi thóc thật” thay cho chính sách cổ tức “ảo” nhằm đáp ứng sự mong đợi của nhà đầu tư. Chính
sách cổ tức cao bằng tiền mặt hỗ trợ đắc lực cho những nhà quản lý của DN đang nắm giữ lượng cổ phiếu
lớn của DN. Chúng ta thường thấy một số nhân vật nòng cốt trong DN như Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám
đốc....nắm giữ nhiều cổ phần, trong thời điểm này họ càng không thể bán số cổ phần mà họ nắm giữ, vì
làm như vậy là hạ sách, không thuận lợi cho hình ảnh DN mà họ cũng khó giải quyết được nhu cầu cần tài
chính của mình. Trả cổ tức cao sẽ giúp cho họ có lượng tiền mặt lớn và nguồn tiền này có thể giúp họ đầu
tư vào bất động sản, cổ phiếu hoặc gia tăng luợng cổ phần mà họ nắm giữ. Trong thời điểm này rõ ràng
những nhân vật chủ chốt trong DN đang nắm giữ nhiều cổ phiếu sẽ nhận thấy việc nhận nhiều tiền mặt sẽ
ý nghĩa hơn nhiều lần so với nhận thêm cổ phiếu thưởng, vì nếu nhận cổ phiếu thưởng thì sẽ khó giải
quyết vấn đề tài chính cho họ.
- Chính sách thuế của Việt Nam từ trước đến nay chưa thu thuế TNCN đối với cổ tức. Nhưng khi
Luật thuế TNCN sẽ chính thức có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 2009 thì cổ tức được đưa vào diện chịu
thuế và thuế TNCN được tính trên thu nhập và thời gian thực nhận. Các công ty các công ty cổ phần tất
bật với việc trả cổ tức sớm cho cổ đông và thực hiện kết thúc trước 31 tháng 12 năm 2008 để né thuế
TNCN. Ước tính có đến vài ngàn tỉ đồng được chia cho cổ đông. Chỉ riêng bảy công ty có vốn hóa lớn tại
sàn chứng khoán TP.HCM là Vinamilk (VNM), Đạm Phú Mỹ (DPM), Chứng khoán Sài Gòn (SSI), FPT,
thủy điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh (VHS), Khoan và dịch vụ dầu khí (PVD), Hòa Phát (HPG), tổng số tiền
trả cổ tức cuối năm 2008 là 1.550 tỉ đồng. Còn tại sàn chứng khoán Hà Nội, bốn đơn vị niêm yết lớn gồm
Ngân hàng Á Châu (ACB), Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam (VCG), Tổng công ty
CP Dịch vụ kỹ thuật dầu khí (PVS), Tổng công ty CP Bảo hiểm dầu khí (PVI) đã chi gần 1.600 tỉ đồng cổ
tức. Như vậy, chỉ với 11 công ty có vốn hóa lớn ở hai sàn chứng khoán, số tiền trả cổ tức là hơn 3.100 tỉ
đồng. Các khoản chia này không chỉ từ lợi nhuận của năm 2008 mà từ lợi nhuận lũy kế các năm trước để
lại và thặng dư bán cổ phần nên nhìn chung mặc dù chia cổ tức tiền mặt cao đột biến nhưng các công ty
vẫn đảm bảo được tình hình tài chính. Bên cạnh chính sách cổ tức cao bằng tiền mặt thì các CTNY cũng
đã thực hiện mua lại cổ phiếu quỹ. Mục đích của hầu hết các công ty nhằm bình ổn giá thị trường. Số
lượng các công ty thực hiện mua cổ phiếu quỹ trong năm là 83 công ty chiếm tỷ trọng đến 25%. Tuy nhiên
số lượng cổ phiếu quỹ thực hiện mua còn thấp so với vốn chủ sở hữu nên mục tiêu trên chưa đạt được.
Năm 2009
Sang năm 2009, tình hình kinh tế vĩ mô đã có nhiều khởi sắc. Việt Nam trở thành một trong những thị
trường hoạt động tốt nhất trên thế giới trong những tháng đầu năm nay. Lạm phát đã trở về một con số và
TTCK VN là một trong những thị trường hồi phục mạnh mẽ nhất.
Tình hình hoạt động của các CTNY đã có dấu hiệu phục hồi so với quý 4 năm trước. Nếu nhìn vào kế
hoạch lợi nhuận năm 2009 của các DN, có thể thấy đa số các DN đều đặt mục tiêu cao hơn so với kết quả
đã đạt được trong năm 2008, ngoại trừ 2 ngành vật liệu cơ bản và dầu khí có kế hoạch lợi nhuận năm 2009
39
thấp hơn so với kết quả đã đạt được trong năm 2008 do trong năm 2008 các DN thuộc 2 nhóm ngành này
được hưởng lợi khá lớn từ việc giá các mặt hàng cơ bản trên thế giới tăng mạnh, giúp cho lợi nhuận năm
2008 có sự tăng trưởng khá cao.
Tỷ lệ cổ tức/mệnh giá vẫn duy trì ở mức trung bình của toàn thị trường các năm qua là 15% giảm 1%
so với năm 2008 với mức giảm 6.25%. Trong đó số lượng các công ty giữ mức cổ tức không đổi là 82
công ty chiếm tỷ trọng 34%, số công ty giảm tỷ lệ cổ tức/mệnh giá là 90 chiếm 37%, số lượng công ty gia
tăng là 69 chiếm tỷ trọng 29%. Điều đó cho thấy các công ty đã có xu hướng giảm chi cổ tức trong năm
2009. Hầu hết các công ty tăng cổ tức kế hoạch năm 2009 dưới 10%. Những công ty có mức cổ tức gia
tăng cao trên 10% đa số là các công ty không trả cổ tức trong năm 2008.
Nếu kết quả kinh doanh của các công ty đạt được kế hoạch đề ra năm 2009, thì theo ước tính tỷ suất lợi
nhuận trả cổ tức của thị trường giảm xuống so với năm 2008 nhưng vẫn ở mức cao từ t rên 40%, 50%.
Tóm lại, chính sách cổ tức được thực hiện thời gian qua của các công ty cổ phần niêm yết trải qua các
giai đoạn biến động nhất định. Đánh giá chung chính sách cổ tức đã phản ánh được tình hình hoạt động
của các DN, phản ảnh được biến động thị trường, động thái của nhà đầu tư, chủ trương của Nhà
nước,…Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số vấn đề bất cập về chính sách cổ tức của các công ty mà
chúng ta sẽ bàn thêm vào phần sau.
3. Phân tích những bất cập trong chính sách cổ tức của các công ty niêm yết trong thời gian qua
Các vấn đề bất cập xung quanh chính sách cổ tức của các CTNY thời gian qua là rất nhiều. Dưới đây là
các vấn đề nổi bật cần quan tâm:
3.1. Sử dụng chính sách cổ tức như một công cụ đánh bóng hình ảnh công ty quá mức
Khi đồng vốn của DN ngày càng được xã hội hóa, áp lực của công chúng cổ đông đối với thành tích của
DN ngày càng tăng. Và đối với phần lớn cổ đông đại chúng thì thành tích hoạt động của DN cuối cùng
được đo lường bằng mức cổ tức được chia cho mỗi cổ phần hoặc là sự tăng giá của cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán.
Xu hướng chia cổ tức cao của nhiều DN Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy họ đã bị cuốn theo
chiều ngọn gió đòi hỏi của công chúng với một mục tiêu kép, vừa quảng cáo hiệu quả của DN, vừa nâng
giá cổ phiếu. Mức cổ tức cao được hiểu đồng nghĩa với mức lợi nhuận cao. DN trả cổ tức cao cũng được
coi là DN “ăn nên làm ra” và Hội đồng quản trị có năng lực. Do đó, cổ phiếu có mức cổ tức không cao
thường bị thị trường đánh giá thấp và tính thanh khoản kém.
Thậm chí, cổ tức đang trở thành công cụ để đánh bóng hình ảnh quá mức của công ty. Có một thời gian,
khi công ty công bố trả cổ tức mức cao, trả bằng cổ phiếu, cổ phiếu thưởng thì giá của của cổ phiếu này
liên tục tăng. Việc chia cổ phiếu thưởng sẽ tác động đến tâm lý được mua “rẻ” của số đông nhà đầu tư,
dẫn đến các nhà đầu tư t ìm cách mua cổ phiếu trước khi chia cổ phiếu thưởng đã làm cho cầu về cổ phiếu
40
tăng cao. Bên cạnh đó, do sức ép về thanh toán cổ tức bằng tiền mặt cho cổ đông, nhiều DN cổ phần kinh
doanh kém hiệu quả, thua lỗ vẫn thanh toán cổ tức cho cổ đông nhằm xoa dịu và giữ vị trí quản lý của
những người lãnh đạo. Việc thanh toán cổ tức bằng tiền mặt cao đối với những DN làm ăn kém hiệu quả
sẽ làm giảm giá trị DN, giảm khả năng huy động vốn từ các cổ đông hiện hữu, giảm tốc độ tăng trưởng
của DN.
Nguyên nhân chính của vấn đề này là do DN đã tận dụng được hạn chế do thông tin bất cân xứng trong
thời gian vừa qua. Mức độ tuân thủ pháp luật về công bố thông tin của tổ chức phát hành chưa cao. Các
quy định pháp luật về công bố thông tin trên TTCK đã được quy định tương đối đầy đủ, song ở nước ta,
các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin không phải là không công bố thông tin mà công bố thông tin
không kịp thời. Thứ hai là tâm lý đầu tư bầy đàn, đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư t rong nước.
Chơi chứng khoán đã được nói tới như một thứ “mốt”, một “phong trào” lan truyền với tốc độ cực nhanh.
Thứ 3 là trình độ của nhà đầu tư chưa cao, chưa mang tính chuyên nghiệp và chưa có được các kỹ năng để
phân tích thông tin. Để có được cái nhìn toàn cảnh về TTCK thì nhà đầu tư không chỉ am hiểu lĩnh vực
kinh tế vĩ mô mà cả kinh tế vi mô cũng như kỹ năng phân tích diễn biến thị trường trong ngắn hạn và dài
hạn dựa trên nhiều công cụ khác nhau.
Việc căn cứ mức cổ tức cao để đánh giá giá trị cổ phiếu thời gian qua chỉ mang tính nhất thời. Sau thời
gian tăng nóng, thị trường đi vào giai đoạn trầm lắng và suy giảm, nhà đầu tư đã “bừng t ỉnh”, khi đó việc
thông tin cổ tức cao cũng không thể cứu được giá chứng khoán.
3.2. Chưa có quan điểm dài hạn trong xây dựng chính sách cổ tức
Xem xét Bản cáo bạch của các CTNY có thể thấy các công ty hầu như chưa có định hướng dài hạn xây
dựng trong xây dựng chính sách cổ tức, các công ty xây dựng kế hoạch kinh doanh và chính sách cổ tức
trong vòng 3 năm. Nội dung về chính sách cổ tức đều là: “Chính sách cổ tức căn cứ kết quả kinh doanh
của công ty và được Đại hội đồng cổ đông thông qua”.
Đa phần các công ty cổ phân hoạt động hiệu quả đều có chính sách trả cổ tức bằng tiền mặt ở mức cao
trong những năm qua, phổ biến từ 12%-30%/vốn điều lệ và chiếm khoảng từ 30%- 80% của lợi nhuận sau
thuế. Trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển thì mức cổ tức nói trên đã làm cho các cổ
đông tăng lòng tin và sự phấn khởi vào Ban Quản lý, cổ phiếu có tính thanh khoản cao và đi kèm với việc
gia tăng giá trị cổ phiếu.
Tuy nhiên việc thanh toán cổ tức bằng tiền mặt ở mức cao sẽ có những hạn chế:
- Chia cổ tức bằng tiền mặt cao sẽ làm giảm việc tích luỹ nguồn vốn lưu động do đó công ty có thể
gặp khó khăn trong quá trình đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn lưu động cho quá trình sản xuất và khả năng
thanh toán của DN cũng giảm sút. Vốn tích luỹ bị giảm và về mặt tương đối do dùng lượng tiền mặt để
41
phân phối cho các cổ đông do đó trong tương lai công ty có thể không có đủ nguồn vốn cho đầu tư tài sản
cố định, mở rộng qui mô sản xuất.
- Ảnh hưởng đến tốc độ đầu tư các dự án mới. Trong thực tế, việc cân đối luồng tiền cho hoạt động
của DN làm đau đầu các nhà quản trị. Khi dự án đầu tư mới phát sinh và cần triển khai ngay thì DN cần
một lượng tiền mặt rất lớn và DN chưa có kế hoạch cho luồng tiền đầu tư phát sinh này. Trong khi việc
chi trả cổ tức lại căn cứ vào kế hoạch chi trả đã được thông qua của ĐHĐCĐ hay Hội đồng quản trị. Vì
vậy, việc chi trả cổ tức cao trùng với thời điểm giải ngân của dự án sẽ ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân,
tiến độ hoàn thành của các dự án.
- Khi lượng tiền mặt không đáp ứng cho nhu cầu hoạt động, DN có thể tăng các khoản vay ngân
hàng và như vậy tổng số tiền lãi vay phải trả tăng lên kết quả làm giảm lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên, sử
dụng vốn tín dụng cũng có 2 mặt của nó, một mặt nó là tấm chắn thuế cho DN nhưng mặt khác có thể làm
tăng rủi ro trong các dự án đầu tư khi tỷ trọng tiền vay ở mức lớn làm phát sinh chi phí kiệt quệ tài chính.
- DN càng lớn thì tổng số tiền thanh toán cổ tức càng lớn, hiện số DN hàng năm thanh toán cổ tức
trên 50 tỷ đồng/năm ngày càng tăng lên, đây là số tiền không nhỏ nếu như có biện pháp thích hợp để
chuyển lượng vốn này tái đầu tư thì sẽ có ý nghĩa hơn nhiều. Khi lợi nhuận được tích lũy thay vì mang đi
chia, phần giá trị tăng thêm cho cổ phiếu vẫn còn đó. Quan trọng hơn, phần tích lũy đó lại có thể sinh sôi,
không chỉ dưới dạng tài sản vật chất mà còn phi vật chất. Việc cải tiến quy trình công nghệ sẽ nâng cao
chất lượng sản phẩm, giảm giá thành và mở rộng thị phần cho sản phẩm. Nhiều người tiêu dùng hơn,
trong nước cũng như ngoài nước, sẽ nhận biết sản phẩm của DN. Năng lực cạnh tranh của DN gia tăng và
giá trị thương hiệu của DN cũng gia tăng. Do đó, ai cũng sẽ nhận ra rằng, một đồng tiền tích lũy cho tái
đầu tư sẽ có hiệu quả làm tăng giá cổ phiếu cao gấp nhiều lần đồng tiền được mang ra chia.
Trong bối cảnh thị trưòng chứng khoán đang phát triển như hiện nay thì việc chi trả cổ tức bằng tiền ở
mức cao sẽ còn ít ý nghĩa với các cổ đông và các nhà đầu tư.
DN Việt Nam, trước làn sóng cạnh tranh của hội nhập, cần có một tầm nhìn và một chiến lược dài hạn
hơn. Từ một xuất phát điểm thấp, họ có thuận lợi là có thể phát triển nhanh hơn trong giai đoạn đầu. Sự
tăng trưởng nhanh chóng của nhiều DN Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh như ngân hàng,
công nghệ thông tin, công nghiệp nặng (cement, sắt thép), phân phối, dịch vụ… với tốc độ phát triển hai
chữ số mỗi năm minh chứng điều này. Tuy nhiên, xét về đồng vốn, về quy mô hoạt động, về thị phần của
sản phẩm, về danh tiếng thương hiệu, họ vẫn còn quá bé nhỏ so với những quốc gia khác trong khu vực và
trên thế giới. Các công ty của Việt Nam cần phải mạnh mẽ hơn, được trang bị tốt hơn về các mặt khi ra
đấu trường quốc tế. Để làm được điều này, chính sách phân chia lợi nhuận của DN cần thay đổi. Tích lũy
để tái đầu tư mở rộng sản xuất và thị trường cho sản phẩm phải là một sự lựa chọn ưu t iên hơn thay vì chia
cổ tức với một tỷ lệ cao.
42
Đây không phải là một sự chọn lựa dễ dàng. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt trong nội bộ cổ đông giữa lợi
ích trước mắt và lợi ích lâu dài và không phải lúc nào những người có tầm nhìn xa đều thắng. Đầu tư cho
tương lai là một quyết định khó khăn vì đầu tư cho tương lai đòi hỏi không những sự chấp nhận hy sinh
lợi ích hiện tại mà còn phải có một niềm tin vào sự thành công lớn hơn trong tương lai, một niềm tin chắn
chắn rằng đó không phải là một việc thả mồi bắt bóng. Khi đa số các cổ đông sẽ biểu quyết cho một chiến
lược tích lũy dài hạn thay vì biểu quyết cho việc phân chia cổ tức theo một tỷ lệ cao. Nền văn hóa “ăn xổi
ở thì” sẽ chấm dứt để nhường chỗ cho một nền văn hóa mới được hình thành. Đó là nền văn hóa hướng về
tương lai, với một sự tự tin mãnh liệt rằng Việt Nam cũng sẽ xây dựng được những DN hùng mạnh như
những nước công nghiệp phát triển khác và trở thành cường quốc kinh tế như họ, bằng cách tích lũy tái
đầu tư ngay từ lúc này.
3.3. Chưa có phương án sử dụng hiệu quả vốn tăng quá mức do chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, cổ
phiếu thưởng
Nhìn chung, từ năm 2006, tỷ lệ các công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu tăng đáng kể, nhất là ở các công
ty mới niêm yết, và nhiều công ty đã thành công khi áp dụng phương thức này để huy động vốn. Nhưng
việc áp dụng hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn còn một số điểm cần lưu ý như sau:
- Việc chi trả này ở nhiều công ty là chưa diễn ra thường xuyên và liên tục (trừ các công ty đã có
truyền thống chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, đồng thời vẫn phải thường đi kèm với việc trả cổ tức bằng tiền
mặt).
- Tỷ lệ chi trả cổ tức bằng cổ phiếu thường ở tỷ lệ cao, phổ biến ở mức từ 30%/- 100% /vốn điều lệ
và sau đó tiếp tục chính sách trả bằng tiền mặt ở mức cao.
Việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu ở tỷ lệ cao sẽ dẫn tới chi phí cổ tức ở các năm sau tăng lên buộc công ty
phải sử dụng vốn huy động một cách có hiệu quả. Đó là chưa kể nếu chi ở tỷ lệ cao như vậy thì công ty sẽ
khó áp dụng một cách liên tục, nhất quán trong nhiều năm.
Ở thị trường nước ngoài, khi DN công bố dự án tốt, giá cổ phiếu sẽ tăng. Nếu DN phát hành trái phiếu thì
nhà đầu tư thường tăng mua cổ phiếu trên thị trường, ngược lại nếu phát hành cổ phiếu huy động vốn thì
nhà đầu tư thường tăng cường bán ra. Ở thị trường Việt Nam, xu hướng thời gian qua diễn ra ngược lại.
Thời gian qua nhiều DN bám theo “cơn mê” huy động vốn nên quên áp lực đảm bảo mức cổ tức hấp dẫn
trên lượng cổ phiếu tăng thêm. Việc chớp cơ hội phát hành cổ phiếu tăng vốn đã được hầu hết các CTNY
áp dụng để xác lập vị thế tài chính. Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán đem lại cơ hội cho DN Việt
Nam khả năng chuyển từ quy mô nhỏ thành các tập đoàn kinh tế đa ngành. Tuy nhiên do số lượng cổ
phiếu lưu hành tăng thêm làm xấu đi chỉ số EPS, khiến cổ phiếu kém sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
43
Trong khi việc huy động vốn đại chúng phải tuân theo điều kiện rất khắt khe là phải sử vốn huy động cho
dự án được công bố trước. Một điểm đặc biệt, khả năng huy động nguồn vốn lớn và khá dễ dàng thông
qua chia cổ tức bằng cổ phiếu trong thời gian qua là lợi bất cập hại với DN:
- Việc phát hành cổ phiếu không tăng vốn chủ sở hữu như chia cổ tức, thưởng bằng cổ phiếu là làm
loãng giá cổ phiếu.
- Việc sử dụng vốn chủ sở hữu để đầu tư có chi phí sử dụng vốn cao nhất, bởi nếu kết quả kinh
doanh không đáp ứng được kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường. Khi
khoản thặng dư vốn thu về lớn hơn số vốn huy động dự kiến, DN rơi vào tình trạng sử dụng đồng vốn
không hiệu quả. Nhiều DN mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực nhiều rủi ro nhưng có lợi nhuận cao trước
mắt như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng. Kết quả khi thị trường bất động sản đóng băng, thị trường
chứng khoán sụt giảm thì nhiều DN đứng trước nguy cơ thua lỗ, giá chứng khoán sụt giảm.
Thị trường chứng khoán đang được coi là mất cân đối cung – cầu nhưng vẫn sẽ là kênh huy động vốn
dài hạn lý tưởng cho DN, dù huy động vốn sẽ không còn quá dễ dàng và đạt kỳ vọng cao như thời gian
qua. Vì thế, mặc dù việc chuyển từ trả cổ tức toàn bộ bằng tiền mặt sang trả một phần bằng cổ phiếu là rất
phù hợp trong thời điểm này nhưng các công ty không nên chỉ vì thị trường chứng khoán đang tăng trưởng
mà cần phải có chiến lược phát triển kinh doanh trong dài hạn, phát huy hiệu quả sử dụng vốn huy động
một cách tốt nhất.
3.4. Phát hành cổ phiếu thưởng quá nhiều
Cơ cấu sở hữu trong công ty cổ phần tương ứng với một cơ cấu quyền lực và quyền lợi. Nguyên lý quản
trị trong công ty cổ phần được chấp nhận trên toàn thế giới và cũng được quy định trong Luật Doanh
nghiệp đó là các cổ đông đều được đối xử bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, với chính sách thưởng cổ phiếu
tràn lan như ở một số công ty cổ phần hiện nay thì cơ cấu quyền lực, quyền lợi sẽ thay đổi hay còn gọi là
loãng giá.
Vấn đề này đã được nêu ra, song với hàng loạt vụ việc cụ thể trong thời gian qua, dường như vẫn chưa có
một dấu hiệu cải thiện nào trong việc bảo vệ cổ đông thiểu số. Trong cuộc đua tăng vốn điều lệ của các
DN cả niêm yết, dư luận đã lên tiếng chuyện một số DN như Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu VIPCO,
Công ty Bê tông và Xây dựng Vinaconex Xuân Mai, Công ty Cổ phần Vận tải xăng dầu VITACO,…. Cụ
thể, các DN này đã có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ về giá phát hành và tỷ lệ
quyền mua cổ phiếu. Mặc dù vậy, phương án phát hành cổ phiếu mới vẫn được thông qua tại Đại hội đồng
cổ đông, do cổ đông thiểu số "thấp cổ, bé họng" không có đủ tỷ lệ biểu quyết để bác bỏ.
Quan niệm cho rằng, các cổ đông sáng lập, cổ đông nhà nước có đóng góp nhiều hơn trong công ty nên
được quyền mua nhiều hơn hoặc với giá thấp hơn là trái luật. Giá phải là giá thị trường.
44
Huy động vốn là quyền của DN được cổ đông thông qua, hiệu quả dự án thì phải sau một thời gian mới rõ
trong khi UBCKNN lại không có thẩm quyền cũng như chức năng kiểm tra. Các nhà quản lý thị trường thì
quá thờ ơ trước những thông tin phát hành cổ phiếu thưởng, họ liên tục chấp thuận cho các DN phát hành
cổ phiếu tăng vốn, mà không đưa ra những quy chuẩn cho thị trường để đảm bảo sự phát triển có chất
lượng của các hàng hóa trên thị trường. Như vậy, vấn đề nằm ở việc quản trị. Nhưng hiện khả năng quản
trị của các công ty quá yếu, đã không kiểm soát được
quá trình phát hành cũng như việc sử dụng vốn sau phát hành. Trong khi đó, điều bất cập là cổ đông chiếm
tỉ trọng vốn lớn, có quyền quyết định đến các hoạt động của công ty chỉ có một số đối tượng, còn cổ đông
số đông lại chiếm tỉ trọng vốn ít nên không có tiếng nói quyết định.
Để tránh gây thiệt hại cho cổ đông, khi phát hành thêm, trước hết các thành viên hội đồng quản trị phải
nhận thức được vai trò quan trọng của mình trong việc quyết định: vay vốn ngân hàng, phát hành trái
phiếu hay phát hành cổ phiếu để tăng vốn. Các cổ đông nhỏ cần phải tự bảo vệ mình thông qua kiểm soát
các hoạt động của công ty.
3.5. Các vấn đề phát sinh khác
Chính sách thuế chưa khuyến khích công ty giữ lại lợi nhuận
Thuế là nguồn thu chính của Chính phủ và là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô thị trường. Chính
sách thuế giai đoạn hiện nay như sau:
- Đối với tổ chức có đăng ký kinh doanh thì thuế suất thuế TNDN đối với hoạt động đầu tư vốn
trước ngày 01 tháng 01 năm 2009 là 28%, sau ngày này là 25%.
- Đối với cá nhân thuế suất thuế TNCN đối với thu nhập từ đầu tư vốn và thu nhập từ chuyển
nhượng vốn tạm thời miễn thuế đến 31 tháng 12 năm 2009, sau thời điểm này thì thuế suất thuế TNCN đối
với cổ tức bằng tiền mặt là 5%; thuế suất thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn, cổ tức bằng
cổ phiếu, cổ phiếu thưởng là 20%.
Khi DN có lợi nhuận, họ sẽ có hai lựa chọn, hoặc là chia cổ tức cho các cổ đông nếu không có nhiều cơ
hội kinh doanh, hoặc là giữ lại khoản lợi nhuận để tái đầu tư. Do đó việc áp dụng một chính sách thuế cổ
tức hợp lý cũng sẽ góp phần làm gia tăng giá trị doanh nghiệp, cũng là làm gia tăng giá trị cho nền kinh tế.
Mức thuế chuyển nhượng vốn cao để tránh tình trạng đầu cơ và mua bán chứng khoán trong ngắn hạn tác
động không tốt với thị trường chứng khoán. Nhưng đối với nhà đầu tư thì yêu cầu đặt ra là đảm bảo an
toàn cho nhà đầu tư bằng chất
lượng hoạt động của DN chứ không hẳn là ưu đãi về thuế. Chính sách thuế TNCN trong thời gian qua đưa
ra mức thuế suất khác biệt quá lớn giữa thuế suất của cổ tức bằng tiền mặt và thuế suất trên lãi vốn là
không hợp lý, vô hình chung đã đánh mất nguyên tắc công bằng về thuế và không định hướng cho DN
trong hoạch định cấu trúc vốn tối ưu, do đó:
45
- Tạo sức ép tâm lý cho các công ty phải xây dựng một chính sách chi trả cổ tức bằng tiền mặt cao
để tạo lập và cố duy trì vị thế của mình trên thị trường, không định hướng cho các công ty thấy được tầm
quan trọng của tích lũy vốn qua thu nhập giữ lại để mở rộng quy mô và gia tăng khả năng cạnh tranh trong
xu thế hội nhập kinh tế.
- Không định hướng cho nhà đầu tư thấy được TTCK là một thị trường “đầu tư” vốn chứ không
phải là nơi để thực hiện “đầu cơ”, thông qua tạo lập cho họ nhận thức về tầm quan trọng của việc nâng cao
giá trị doanh nghiệp, đảm bảo giá trị cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Khi chứng kiến sự tụt dốc và suy sụp
của TTCK trong thời điểm những tháng đầu năm 2008 là một bằng chứng cho thấy sự thiếu chuyên
nghiệp, sự yếu kém kiến thức cơ bản về chứng khoán, về lý thuyết tài chính và khả năng phân tích giá trị
doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư Việt Nam tham gia trên TTCK hiện nay.
Trong thời gian tới cần xây dựng chính sách thuế hiệu quả và công bằng hơn đồng thời phù hợp với xu thế
chung của thế giới.
Tính minh bạch trong công bố về tình hình tài chính của DN:
Theo thống kê báo cáo tài chính có kiểm toán năm 2007 do stox.vn thực hiện của 314 DN niêm yết trên
hai sàn HOSE và HASTC đến hết ngày 31 tháng 8 năm 2008, có 50 Báo cáo tài chính có ý kiến ngoại trừ
của kiểm toán viên (KTV), gần 1/3 trong số 50 báo cáo này KTV có ý kiến không đồng ý với cách tính
của DN và khoảng 10% báo cáo có ý kiến ngoại trừ của KTV do cả hai nguyên nhân trên.
Điều này có nghĩa là gần 16% BCTC kiểm toán đã được công bố hoàn toàn có thể thay đổi nội dung, nếu
một trong số các khoản ngoại trừ mà KTV đưa ra bị thay đổi trong kỳ kế toán tới, mà một ví dụ dễ thấy
trong quá khứ là trường hợp của CTCP.
Bông Bạch Tuyết (BBT). Những khoản ngoại trừ đã khiến kết quả kinh doanh của công ty này từ trạng
thái lãi chuyển sang lỗ. Hay như một số công ty công bố "BCTC đã kiểm toán" mà không đưa kèm ý kiến
của KTV. Suốt một thời gian dài nhà đầu tư rất khó khăn để có thể xác minh được tính đúng đắn của
những số liệu đã công bố. Và hành vi công bố thông tin không đầy đủ, có thể dẫn đến hiểu lầm cho nhà
đầu tư khi xem xét và phân tích nội dung của BCTC. Trên thực tế, kể cả việc đưa một BCTC có kiểm toán
với đầy đủ ý kiến của KTV cũng chưa hẳn đã giúp nhà đầu tư nhận thức đầy đủ về tính tin cậy và hợp lý
trong các khoản mục của báo cáo.
Ngày 6/1/2009, UBCK đã có Công văn số 13/UBCK-QLPH gửi các công ty đại chúng về việc thực hiện
kiểm toán BCTC năm 2008, công bố thông tin, phát hành và sử dụng vốn, quản trị công ty. Một trong
những nội dung được cơ quan này nhấn mạnh là đề nghị các DN khẩn trương lựa chọn, ký hợp đồng kiểm
toán với các công ty kiểm toán, nhằm hạn chế tối đa các khoản bị ngoại trừ. Trường hợp có các khoản
mục trên, các công ty phải phối hợp với công ty kiểm toán để lượng hóa các ảnh hưởng của khoản ngoại
trừ đến tình hình tài chính của công ty và công bố rộng rãi cho nhà đầu tư biết.
46
Đây là một tín hiệu đáng mừng từ phía cơ quan quản lý nhằm tăng cường tính minh bạch trên TTCK. Nếu
các DN nghiêm túc và thực hiện đầy đủ các quy định của cơ quan quản lý, những vụ việc đáng tiếc như tại
BBT chắc khó xảy ra hơn. Tuy nhiên, trong thực tế việc cố trì hoãn công bố thông tin, báo cáo tài chính
vẫn xảy ra. Các chế tài linh hoạt và đủ sức răn đe, phòng ngừa vi phạm trên thị trường chưa hiệu quả, vì
vậy mà tình trạng vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK không những không giảm mà ngày càng có
chiều hướng gia tăng. Đó là chưa kể đến việc lượng hóa một số thông tin trên Báo cáo tài chính không
phải dễ dàng. Do đó, các cổ đông và nhà đầu tư cần ý thức được quyền lợi của mình để quan tâm sát sao
hơn tới các BCTC của DN đưa ra.
4. Ảnh hưởng của thuế thu nhập các nhân đến chính sách cổ tức:
4.1. Chính sách thuế 2009 tác động như thế nào đến cổ tức và lãi vốn:
(Luật thuế TNCN số 04/2007/QH 12 ngày 21/11/2007: thuế từ thu nhập kinh doanh; từ tiền lương, tiền
công; từ đầu tư vốn; từ chuyển nhượng vốn; từ chuyển nhượng bất động sản……)
Giới thiệu thuế TNCN đánh trên cổ tức và lãi vốn:
Quy định chung về đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt
Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.
a/ Cá nhân cư trú là người đáp ứng một số điều kiện sau đây:
- Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục
kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam.
- Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt
Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
b/ Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng các điều kiện nêu trên.
Thuế suất, cách tính thuế trên cổ tức và lãi vốn:
a/ Đối với thu nhập từ đầu tư vốn (cổ tức):
Thuế thu nhập cá nhân phải nộp = Thu nhập tính thuế x Thuế suất (5%)
(Áp dụng cho cá nhân cư trú và không cư trú)
Trong đó:
Thu nhập tính thuế: cổ tức mà cổ đông nhận được từ việc đầu tư vốn.
b/ Đối với lãi vốn:
Thuế thu nhập cá nhân phải nộp = Thu nhập tính thuế x Thuế suất (20%)
(Chỉ đối với cá nhân là cư trú)
47
Hoặc: (Đối với cá nhân cư trú và không cư trú)
Thuế thu nhập cá nhân phải nộp =Giá chuyển nhượng x Thuế suất (0.1%)
Cách xác định lãi vốn
Đối với thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp
Thu nhập tính thuế: Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng phần vốn góp là thu nhập chịu thuế được xác
định bằng giá chuyển nhượng trừ giá mua của phần vốn góp và các chi phí liên quan đến việc tạo ra thu
nhập từ chuyển nhượng vốn.
a/Giá chuyển nhượng
Giá chuyển nhượng là số tiền mà cá nhân nhận được theo hợp đồng chuyển nhượng vốn.
Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng không quy định giá thanh toán hoặc giá thanh toán trên hợp đồng
không phù hợp với giá thị trường thì cơ quan thuế có quyền ấn định giá chuyển nhượng. Căn cứ ấn định
giá chuyển nhượng dựa vào tài liệu điều tra của cơ quan thuế hoặc căn cứ giá chuyển nhượng vốn của các
trường hợp khác ở cùng thời gian, cùng tổ chức kinh tế hoặc các hợp đồng chuyển nhượng tương tự.
b/ Giá mua
Giá mua của phần vốn góp được xác định đối với từng trường hợp như sau:
- Nếu là chuyển nhượng vốn góp thành lập doanh nghiệp là trị giá phần vốn tại thời điểm góp vốn. Trị giá
vốn góp được xác định trên cơ sở sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ.
- Nếu là phần vốn do mua lại thì giá mua là giá trị phần vốn đó tại thời điểm mua. Giá mua được xác định
căn cứ vào hợp đồng mua lại phần vốn góp.
c/ Các chi phí liên quan :được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của hoạt động chuyển nhượng vốn: là
những chi phí hợp lý thực tế phát sinh liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn, có hoá
đơn, chứng từ hợp lệ theo chế độ quy định. Cụ thể như sau:
- Chi phí để làm các thủ tục pháp lý cần thiết cho việc chuyển nhượng;
- Các khoản phí và lệ phí người chuyển nhượng nộp ngân sách khi làm thủ tục chuyển nhượng;
- Các khoản chi phí khác có liên quan trực tiếp đến việc chuyển nhượng vốn có hoá đơn, chứng từ hợp lệ.
d/ Thời điểm xác định thu nhập tính thuế
Thời điểm xác định thu nhập tính thuế là thời điểm giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành theo quy
định của pháp luật.
Thời điểm giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành quy định tại khoản này là thời điểm các bên tham gia
chuyển nhượng làm thủ tục khai báo, chuyển quyền sở hữu với cơ quan cấp đăng ký kinh doanh hoặc
doanh nghiệp quản lý vốn góp.
48
Đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán
Thu nhập tính thuế: Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng chứng khoán được xác định bằng giá bán chứng
khoán trừ giá mua, các chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng.
a/ Giá bán chứng khoán được xác định như sau:
- Đối với chứng khoán niêm yết: giá bán chứng khoán là giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường chứng
khoán tại thời điểm bán. Giá thị trường tại thời điểm bán là giá khớp lệnh do Sở giao dịch chứng khoán
hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố.
- Đối với chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết nhưng đã thực hiện đăng ký giao dịch tại
Trung tâm giao dịch chứng khoán thì giá bán chứng khoán là giá chuyển nhượng thực tế tại Trung tâm
giao dịch chứng khoán.
- Đối với chứng khoán của các công ty không thuộc các trường hợp nêu trên thì giá bán chứng khoán là
giá chuyển nhượng ghi trên hợp đồng chuyển nhượng hoặc giá theo sổ sách kế toán của đơn vị có chứng
khoán được chuyển nhượng tại thời điểm bán.
Trường hợp trên hợp đồng không ghi giá chuyển nhượng hoặc ghi giá chuyển nhượng thấp hơn giá theo
sổ sách kế toán của đơn vị có chứng khoán được chuyển nhượng tại thời điểm bán thì giá chuyển nhượng
chứng khoán được xác định theo sổ sách kế toán của công ty phát hành chứng khoán tại thời điểm bán.
b/ Giá mua chứng khoán được xác định như sau:
- Đối với chứng khoán niêm yết: giá mua chứng khoán là giá thực mua tại Sở giao dịch chứng khoán,
Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- Đối với chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết nhưng đã thực hiện đăng ký giao dịch tại
Trung tâm giao dịch chứng khoán thì giá mua chứng khoán là giá thực tế mua tại Trung tâm giao dịch
chứng khoán.
- Đối với chứng khoán mua thông qua đấu giá thì giá mua là giá trúng đấu giá.
- Đối với chứng khoán không thuộc các trường hợp nêu trên: Giá mua chứng khoán là giá ghi trên hợp
đồng chuyển nhượng hoặc giá theo sổ sách kế toán của đơn vị có chứng khoán tại thời điểm mua.
Trường hợp giá mua trên hợp đồng ghi cao hơn giá theo sổ sách kế toán của đơn vị có chứng khoán tại
thời điểm mua thì giá mua được xác định căn cứ giá theo sổ sách kế toán của đơn vị có chứng khoán tại
thời điểm mua.
c/Các chi phí để làm các thủ tục pháp lý cần thiết cho việc chuyển nhượng;
- Các khoản phí và lệ phí người chuyển nhượng nộp ngân sách nhà nước khi làm thủ tục chuyển nhượng;
- Phí lưu ký chứng khoán theo quy định của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và chứng từ thu của công ty
chứng khoán;
49
- Phí uỷ thác chứng khoán căn cứ vào chứng từ thu của đơn vị nhận uỷ thác;
- Các khoản chi phí khác có chứng từ chứng minh.
d/ Thuế suất và cách tính thuế :
* Trường hợp cá nhân chuyển nhượng chứng khoán đăng ký nộp thuế theo biểu thuế toàn phần với thuế
suất là 20%, phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Đăng ký phương pháp nộp thuế theo mẫu số 15/ĐK-TNCN với cơ quan thuế trực tiếp quản lý công ty
chứng khoán mà cá nhân đăng ký giao dịch hoặc Chi cục Thuế nơi cá nhân cư trú. Thời hạn đăng ký được
thực hiện như sau:
+ Năm 2009: cá nhân kinh doanh chứng khoán phải đăng ký ngay từ đầu năm, thời hạn đăng ký chậm
nhất là ngày 31 tháng 3 năm 2009.
+ Từ năm 2010 trở đi cá nhân kinh doanh chứng khoán phải đăng ký chậm nhất là ngày 31 tháng 12 của
năm trước.
- Thực hiện đăng ký thuế và có mã số thuế.
- Thực hiện chế độ kế toán hoá đơn chứng từ, xác định được thu nhập tính thuế từ việc chuyển nhượng
chứng khoán theo quy định.
- Việc áp dụng thuế suất 20% phải tính trên tổng các loại chứng khoán đã giao dịch trong năm dương lịch.
* Cá nhân chuyển nhượng chứng khoán đã đăng ký nộp thuế theo thuế suất 20% vẫn phải tạm nộp thuế
theo thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần.
* Trường hợp cá nhân chuyển nhượng chứng khoán không đăng ký nộp thuế theo biểu thuế toàn phần với
thuế suất là 20% thì áp dụng thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần.
e/ Thời điểm xác định thu nhập tính thuế
Thời điểm xác định thu nhập tính thuế từ hoạt động chuyển nhượng chứng khoán được xác định như sau:
- Đối với chứng khoán niêm yết là thời điểm Trung tâm giao dịch hoặc Sở giao dịch chứng khoán công bố
giá thực hiện.
- Đối với chứng khoán chưa niêm yết nhưng đã thực hiện đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng
khoán là thời điểm Trung tâm giao dịch công bố giá thực hiện.
- Đối với chứng khoán không thuộc trường hợp nêu trên là thời điểm hợp đồng chuyển nhượng chứng
khoán có hiệu lực. Trường hợp không có hợp đồng chuyển nhượng chứng khoản thì thời điểm tính thuế là
thời điểm đăng ký chuyển tên sở hữu chứng khoán.
Những bất cập trong việc xác định lãi vốn:
Trên sàn giao dịch chứng khoán, nhiều cổ phiếu có giá thấp hơn mệnh giá, ngoài OTC cũng vậy. Lấy giá
sổ sách kế toán để làm căn cứ là không hiện thực, bởi giá này cũng xê dịch, phụ thuộc vào hiệu quả làm ăn
50
của công ty (có doanh nghiệp lỗ, mất hết cả vốn,…) thì việc xác định được giá trị sổ sách là hết sức khó
khăn.
Thí dụ cổ phiếu ngân hàng X đang được mua bán OTC với giá 9.000 đồng/cổ phiếu, trong khi giá trị sổ
sách là 12.000 đồng. Nhà đầu tư ghi giá mua bán trên hợp đồng là 9.000 đồng/cổ phiếu, sẽ không được cơ
quan hành thu chấp nhận. Giá áp để tính thuế sẽ là 12.000 đồng/cổ phiếu, hoàn toàn không thực tế.
Hơn nữa việc cơ quan thuế được quyền ấn định giá chuyển nhượng phần vốn góp trong hợp đồng không
phù hợp, sẽ dễ làm phát sinh tiêu cực. Ai dám đảm bảo cán bộ thu thuế 100% liêm khiết và không xảy ra
trường hợp cán bộ thuế thông đồng với nhà đầu tư để đưa ra một mức giá chuyển nhượng có lợi cho cả đôi
bên, mà chỉ ngân sách nhà nước thiệt?
Thông tư đưa ra quy định này để tránh việc nhà đầu tư khai thấp giá bán, khai cao giá mua chứng khoán
để giảm bớt mức thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên việc chống thất thu thuế như thế nào đều phải dựa trên
thực tế cuộc sống, nếu không nó sẽ không khả thi.
Đối với chi phí môi giới CK, nếu mua bán CK niêm yết còn có chứng từ pháp lý, nhưng nếu mua bán trên
thị trường phi tập trung thì không thể có. Các khoản chi phí mua thông tin, chi phí đào tạo, chi phí vay
vốn, đi lại ăn ở trong quá trình đầu tư,... đều là những khoản không thể xác định bằng chứng từ.
Trong việc thu thuế từ chuyển nhượng chứng khoán, đây đó các quan chức ngành thuế bày tỏ quan điểm
khuyến khích NĐT nộp thuế với thuế suất 0,1% trên mỗi lần giao dịch. Tuy nhiên, đây chính là cách nộp
thuế thiệt thòi nhất vì khi lỗ NĐT vẫn phải nộp thuế thu nhập. Điều này vi phạm nguyên tắc tối thượng
của chính sách thuế: chỉ thu thuế khi phát sinh thu nhập. Trong khi đó, nếu nộp thuế 20% trên lợi nhuận
thu được, NĐT sẽ đối mặt với hai khó khăn: một là, thuế suất cao; hai là, có quá nhiều thủ tục dễ làm nản
lòng NĐT. Hơn nữa, họ cũng bị khấu trừ ngay 0,1% trong mỗi lần giao dịch. Đến hết năm (trong vòng 90
ngày đầu năm sau), cơ quan thuế mới quyết toán thuế và hoàn lại nếu NĐT nộp thừa. Vấn đề là số tiền
NĐT nộp thừa cũng không được hưởng lãi suất. Với NĐT có giá trị giao dịch lớn, con số này không phải
là nhỏ.
Ảnh hưởng của thuế TNCN đến cổ tức và lãi vốn:
Theo chính sách thuế TNCN có hiệu lực từ ngày 01.01.2009 thì các khoản chi trả cổ tức bằng tiền hay chi
trả cổ tức bằng cổ phiếu đều là đối tượng chịu thuế TNCN, do vậy việc xây dựng cơ chế tổ chức hợp lý là
nội dung mà các doanh nghiệp (DN) phải nghiên cứu. Điều quan trọng là phải kết hợp chính sách phân
phối cố tức với quyết định đầu tư và quyết định tài trợ trên cơ sở một cấu trúc vốn thích hợp. Bên cạnh đó
các khoản thu nhập giữ lại không bị tính thuế sẽ là cơ hội cho các DN sử dụng khoản thu nhập này để tái
đầu tư.
DN có thể thực hiện các hình thức chi trả cổ tức như:
- Chi trả cổ tức bằng tiền mặt;
51
- Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu;
- Chi trả cổ tức vừa bằng tiền mặt vừa bằng cổ phiếu.
Với thuế suất đánh trên cổ tức là 5%, đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn thuế suất là 0,1% trên giá
bán, thuế suất trên lãi vốn là 20% và thuế suất thuế thu nhập DN là 25%. Đây là những vấn đề mà các DN
cần quan tâm trong thời gian tới khi thực hiện chính sách cổ tức của mình, làm sao để tối đa hoá giá trị
doanh nghiệp đồng thời làm gia tăng lợi ích của cổ đông.
Ta xét thu nhập hoạt động DN 1$ (USD)
DN CÓ VAY NỢ DN KHÔNG VAY
EBIT
LÃI VAY
EBT
THUẾ TNDN
EAT
THUẾ TNCN
1
R
1 – R
Tc
(EBIT – R)(1– Tc)
Tp và Tpe
1
0
1
Tc
EBIT(1 – Tc)
Tpe
TN:CĐ + TC R(1 – Tp)+(EBIT – R)(1 – Tc)(1 – Tpe) EBIT(1 – Tc)(1 – Tpe)
Trường hợp tất cả lợi nhuận từ vốn cổ phần đều là cổ tức nghĩa là DN sẽ dùng tất cả lợi nhuận
chia cho cổ đông
Ta xét v í dụ 1: DN A có số cổ phần là 1.000, giá 1 cổ phiếu là 10 $, giá trị thị trường là 10.000 $. Giả sử
DN A có vay từ chứng khoán nợ: 5.000 $.
DN CÓ VAY NỢ DN KHÔNG VAY
EBIT
LÃI VAY (10%)
EBT
THUẾ TNDN (25%)
EAT
THUẾ TNCN
(Tp = Tpe = 5%)
1.500
5.000*0,1 = 500
1.000
1.000 * 0,25 = 250
750
(500 + 750 ) * 0.05 = 62,5
1.500
0
1.500
1.500 * 0,25 = 375
1.125
1.125 * 0,05 = 56,25
52
TN:CĐ + TC (500 + 750) – 62,5 = 1.187,5 1.125 – 56,25 = 1.068,75
Theo ví dụ 1 thì cấu trúc DN vay nợ sẽ có lợi hơn cho trái chủ và cổ đông. Và đây là chính sách DN chia
cổ tức bằng tiền mặt, cổ tức này chuyển giao giá trị kinh tế từ DN cho các cổ đông thay vì DN sử dụng số
tiền đó cho hoạt động tái đầu tư của mình. Tuy nhiên, điều này gây ra một sự giảm mạnh trong giá cổ
phần của DN một lượng đúng bằng cổ tức được chia. Nhưng ưu điểm của chi trả cổ tức bằng tiền mặt là
tính thanh khoản cao và khi nhận được tiền mặt thì cổ đông có thể dùng nó để tái đầu tư vào công ty thông
qua các dự án tái đầu tư từ cổ tức.
Đối với chính sách DN không chia cổ tức và lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư hoặc mua lại cổ phần.
Vẫn sử dụng số liệu ở ví dụ 1, thì trường hợp này lợi nhuận là lãi vốn và Tpe = 20%; Tp = 5% ; Tc = 25%
DN CÓ VAY NỢ DN KHÔNG VAY
EBIT
LÃI VAY (10%)
EBT
THUẾ TNDN (25%)
EAT
THUẾ TNCN
(Tp=5%;Tpe=20%)
1.500
500
1.000
1.000 * 0,25 = 250
750
(500*0,05)+(750*0,2 ) = 175
1.500
0
1.500
1.500 * 0,25 = 375
1.125
1.125 * 0,2 = 225
TN:CĐ + TC (500 + 750) – 175 = 1.075 1.125 – 225 = 900
Ở đây đề tài giả dụ là lợi nhuận của DN nếu không chia cổ tức thì lợi nhuận DN giữ lại chính là lãi vốn mà
cổ đông sẽ nhận được. Với chính sách DN không chia cổ tức và lợi nhuận giữ lại thì DN có sử dụng vay
nợ vẫn tốt hơn DN không vay nợ, nhưng so với chính sách chia cổ tức bằng tiền mặt từ ví dụ 1 ta thấy
chính sách này nhà đầu tư thu được lợi nhuận ít hơn vì thuế suất đánh trên lãi vốn cao hơn so với thuế suất
đánh trên cổ tức.
DN sử dụng chính sách chia cổ tức bằng cổ phiếu:
Cũng giống như chi cổ tức bằng tiền mặt, chi trả cổ tức bằng cổ phần không làm tăng giá trị của DN. Mà
cổ tức bằng cổ phần là một sự gia tăng một lượng cổ phần của DN với các cổ phần mới được chia cho các
cổ đông.
Ví dụ 2: một DN quyết định chính sách chi trả cổ tức 5% nó sẽ gia tăng số lượng cổ phần lên 5%. Nếu DN
có 1 triệu cổ phần có nghĩa là DN sẽ có thêm 50.000 cổ phần nữa. Nếu giá của một cổ phần lúc đầu là 10
$ thì giá trị DN sẽ là: 10 triệu $. Sau khi cổ tức bằng cổ phần được chia thì giá trị DN vẫn như cũ, nhưng
giá trị mỗi cổ phần giảm xuống còn 9,524 $ (10 triệu $/1.050.000cp) để điều chỉnh cho khoản cổ tức mới
53
được chia.
Theo quy định tại khoản 2 điều 6, Luật thuế TNCN thì cổ tức nhận được bằng cổ phiếu phải quy đổi ra
tiền theo giá trị thị trường của cổ phiếu tại thời điểm cổ đông nhận chi trả. Giả định nếu cổ đông không
thực hiện bán cổ phiếu mà giữ lại thì việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm giảm lợi ích của cổ đông, cụ
thể là sẽ chịu 5% thuế suất trên cổ tức đó và sau này khi bán số cổ tức đó vẫn phải đóng thêm thuế suất
20% trên lãi vốn đó hoặc 0,1% trên giá chuyển nhượng.
Các công ty có nên chi trả cổ tức nhiều hơn để giảm thuế mà các cổ đông chịu hay không?
Ở hầu hết các doanh nghiệp, hội đồng quản trị triệu tập các cuộc họp hàng quý hay hàng nửa năm để thẩm
định thành quả vừa qua của doanh nghiệp và quyết định mức cổ tức chi trả cho kỳ tới. Các thay đổi trong
mức cổ tức chi trả không xảy ra thường xuyên, nhất là ở các doanh nghiệp theo đuổi một chính sách cổ tức
ổn định, và chỉ có sau khi có chứng cứ rõ ràng là lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp sẽ hoặc là thường
xuyên cao hơn hay thường xuyên thấp hơn các mức báo cáo trước đây.
Về mặt lý thuyết, với giả định là một thị trường hoàn hảo, thì câu trả lời là chính sách cổ tức chẳng có tác
động gì lên giá trị của công ty cả, đại diện cho lập luận này là kết quả nghiên cứu của hai ông Miller và
Modigliani được công bố lần đầu vào năm 1961. Nhưng thực tế thị trường không hoàn hảo như lý thuyết
đã giả định, vì tồn tại chi phí giao dịch, thuế, thông tin thiên lệch… cho nên câu trả lời sẽ là : trong thực
tế, chính sách cổ tức có tác động không nhỏ đến giá trị của công ty và vì vậy sẽ có những tác động, không
tốt thì xấu, lên lợi ích của các cổ đông. Do đó, cần thận trọng trong việc đưa ra các quyết định liên quan
đến chính sách cổ tức. Chính vì vậy, câu hỏi: “ các công ty có nên chi trả mức cổ tức nhiều hơn để giảm
mức thuế mà cổ đông chịu hay không?” cũng cần được xem xét và tùy vào từng trường hợp cụ thể để đưa
ra các quyết định cụ thể.
Về góc độ DN: theo chính sách thuế TNCN có hiệu lực từ ngày 01.01.2009 thì các khoản cổ tức chi trả
bằng tiền hay chi trả bằng cổ phiếu đều là đối tượng chịu thuế TNCN, do vậy việc xây dựng cơ chế cổ tức
hợp lý là nội dung mà các CTCP phải nghiên cứu ngay từ bây giờ. Điều quan trọng là phải kết hợp chính
sách phân phối cổ tức với quyết định đầu tư và quyết định tài trợ trên cơ sở một cấu trúc vốn thích hợp.
Với quy định của luật thuế TNCN không tính thuế thu nhập đối với khoản thu nhập giữ lại, sẽ là cơ hội
cho các CTCP sử dụng khoản thu nhập sau thuế để tái đầu tư, vừa giảm chi phí sử dụng vốn trong tình
hình lãi suất vay ngân hàng thương mại đang tăng cao và không ổn định, vừa gia tăng giá trị công ty và
đem lại lợi ích cho cổ đông qua trì hoãn được khoản thuế TNCN phải nộp.
Bên cạnh những tác động tích cực, việc áp dụng phương pháp chi trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng có thể
đem lại những tác động không tốt, nhà đầu tư sẽ cho rằng CTCP kinh doanh kém hiệu quả, không đảm
bảo khả năng tạo ra tiền, quay vòng vốn không linh hoạt, từ đó sẽ làm dao động lòng tin của nhà đầu tư và
làm giá cổ phiểu giảm mạnh.
54
Chính sách thuế năm 2010:
Hiện nay, trong bối cảnh thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động chưa lâu, các chính sách thuế áp
dụng trên thị trường được xây dựng và thực hiện theo hướng khuyến khích sự tham gia của các đối tượng
khác nhau vào thị trường, trong đó có cả đối tượng là các nhà đầu tư.
Theo Thông tư 100/2004/TT-BTC ngày 20/10/2004 hướng dẫn về thuế Giá trị gia
tăng (GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với lĩnh vực chứng khoán và
Thông tư số 72/2006/TT-BTC ngày 10/8/2006 của Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ
sung Thông tư số 100/2004/TT-BTC ngày 20/10/2004 đều quy định không đánh thuế
đối với thu nhập từ chứng khoán.
Tuy nhiên, sau một thời gian trì hoãn, kể từ ngày 1/1/2010, ngành thuế sẽ chính thức triển khai việc thu
thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán
Tại công văn số 5050/TCT-TNCN ngày 08 tháng 12 năm 2009 Thu thuế TNCN đối với thu
nhậptừchuyểnnhượngchứngkhoán được thực hiên như sau:
Theo hướng dẫn tại Điều 1 của Thông tư số 160/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009 của Bộ Tài chính hướng
dẫn miễn thuế TNCN năm 2009 theo Nghị quyết số 32/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc Hội thì cá
nhân chuyển nhượng chứng khoán được miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 01/01/2009 đến hết ngày
31/12/2009. Từ ngày 01/01/2010, cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán thực hiện nộp thuế
TNCN theo qui định tại Luật Thuế TNCN và Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ qui định chi tiết
một số điều của Luật Thuế TNCN và công văn số 42/BTC-TCT ngày 02/01/2009 của Bộ Tài chính hướng
dẫn khấu trừ thuế TNCN đối với chuyển nhượng chứng khoán. Căn cứ hướng dẫn tại các văn bản nêu
trên, Tổng cục Thuế lưu ý các Cục thuế một số vấn đề sau:
- Đối tượng áp dụng: đối tượng áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng
khoán là cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán.
- Thời điểm tính thuế, khấu trừ thuế là thời điểm hoàn thành các giao dịch chuyển nhượng chứng khoán
tính từ ngày 01/01/2010, cụ thể như sau:
+ Đối với chứng khoán niêm yết: là thời điểm Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng
khoán công bố giá thực hiện.
+ Đối với chứng khoán chưa niêm yết nhưng đã thực hiện đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch
chứng khoán là thời điểm Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố giá thực hiện.
55
+ Đối với chuyển nhượng chứng khoán không thuộc các trường hợp nêu trên là thời điểm hợp đồng
chuyển nhượng chứng khoán có hiệu lực. Trường hợp không có hợp đồng chuyển nhượng chứng khoán
thì thời điểm tính thuế là thời điểm đăng ký chuyển tên sở hữu chứng khoán.
Công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán nơi nhà đầu tư
mở tài khoản giao dịch có trách nhiệm khấu trừ thuế TNCN theo mức thuế suất 0,1% tính trên giá trị
chứng khoán từng lần chuyển nhượng của nhà đầu tư theo từng trường hợp nêu trên và thông báo số thuế
phải nộp cho người chuyển nhượng biết.
- Phương pháp nộp thuế:
+ Công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán từ ngày
01/01/2010 có trách nhiệm khấu trừ thuế, khai thuế TNCN và nộp tờ khai cho cơ quan thuế trực tiếp quản
lý chậm nhất là ngày 20 của tháng sau đồng thời thực hiện nộp số thuế đã khấu trừ vào Ngân sách Nhà
nước.
+ Cá nhân chuyển nhượng chứng khoán nếu áp dụng nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ
chuyển nhượng chứng khoán theo thuế suất 20% thì phải thoả mãn điều kiện qui định tại khoản 2.2.2, tiết
2.2, điểm 2 Mục II Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC và phải thực hiện đăng ký phương pháp nộp
thuế với cơ quan thuế trực tiếp quản lý công ty chứng khoán mà cá nhân đăng ký giao dịch hoặc Chi cục
Thuế nơi cá nhân cư trú, chậm nhất là 31/12/2009.
Việc triển khai thu thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán từ
1.1.2010 tới, theo nhận định chung là có ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán nhưng không quá lớn. Nhà
đầu tư hy vọng, chính sách thuế trên cũng là một cơ hội để các công ty chứng khoán cạnh tranh, tăng thị
phần môi giới. Nếu thực hiện giảm một phần phí nhất định, ngoài chia sẻ với nhà đầu tư, công ty chứng
khoán cũng tạo thêm sự hấp dẫn để gọi thêm tài khoản mới. Nếu triển vọng dòng tiền vào thị trường sáng
sủa, giao dịch chứng khoán đạt mức khả quan, thì mức nộp 0,1% trên tổng giá trị bán sẽ không là trở ngại
của nhà đầu tư khi mua bán cổ phiếu.
5. Kết luận
Đến nay, TTCK VN đã thực sự là kênh huy động vốn trung dài hạn cho nền kinh tế. Đồng thời cho thấy
tiềm năng phát triển trong tương lai của thị trường chứng khoán còn dồi dào.
Tiếp theo luận văn nêu lên thực trạng chính sách cổ tức thông qua nêu lên các chính sách hiện hành ảnh
hưởng đến cổ tức, thống kê tình hình chi trả cổ tức trong 8 năm qua và các hình thức chi trả cổ tức đã
được áp dụng của các công ty cổ phần niêm yết. Hiện nay chưa có văn bản cụ thể nào chi phối chính sách
cổ tức của DN, vẫn trên nguyên tắc tuân thủ quyền tự quyết của DN. Theo đánh giá là mức cổ tức của các
công ty cổ phần niêm yết trong thời gian qua ở mức cao, không đảm bảo cho quá trình đầu tư mở rộng sản
xuất. Hầu hết các công ty khi có dự án mới đều phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường. Về các
56
hình thức trả cổ tức được áp dụng đa dạng, nhưng phương thức và mức độ áp dụng chạy theo thị trường
quá mức. Phương pháp phân tích chính sách cổ tức theo chiều ngang về số liệu thực tế về cổ tức, đồng
thời đi sâu vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến cổ tức của các công ty cổ phần niêm yết theo chiều
dọc qua các giai đoạn biến động. Cuối cùng phân tích các bất cập nổi bật cần lưu ý bao gồm: sử dụng
chính sách cổ tức như một công cụ đánh bóng hình ảnh công ty quá mức; chưa có quan điểm dài hạn trong
xây dựng chính sách cổ tức; chưa có phương án sử dụng hiệu quả vốn tăng quá mức do chi trả cổ tức bằng
cổ phiếu, cổ phiếu thưởng kết quả đều tư dàn trãi; phát hành cổ phiếu thưởng quá nhiều gây loãng giá;
chính sách thuế chưa khuyến khích công ty giữ lại lợi nhuận, minh bạch trong công bố về tình hình tài
chính của DN chưa cao;…để làm cơ sở cho xây dựng chính sách cổ tức trong chương sau.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_suatonghop_chuong13_all_3264.pdf