Là một Công ty với hơn 100 năm hình thành phát triển, sản phẩm Rượu của
Công ty đã đi vào lòng người dân cả nước. chất lượng Rượu ngày càng được nâng cao
phần nào thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Tuy nhiên để tiếp tục nâng cao chất lượng
sản phẩm, Công ty phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát chất lượng. Vì công
tác kiểm tra chất lượng là hoạt động gắn liền với quá trình sản xuất nhằm hạn chế và
ngăn ngừa những khuyết tật, sai sót xảy ra đố với chất lượng sản phẩm nhằm phát hiện
và loại bỏ những sản phẩm không đạt yêu cầu về chất lượng mà Công ty đã đặt ra.
Với đặc điểm của Công ty là sản xuất sản phẩm có số lượng lớn quy trình công
nghệ dài, trải qua nhiều quá trình liên quan với nhau, chất lượng sản phẩm của khâu
này sẽ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm của khâu tiếp theo, có thể người công nhân
cũng đã nhận thức được vai trò của chất lượng, song không phải tất cả mọi người đều
tự giác trong công việc của mình. Vì vậy việc tổ chức tốt công tác kiểm tra, giám sát
chất lượng ở mọi khâu, mọi công đoạn là biện pháp rất cần thiết đối với Công ty hiện
nay.
94 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3646 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, hiệu quả cung cấp".
Là một sản phẩm thực phẩm mà chất lượng có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người
tiêu dùng và làm giảm uy tín của Công ty nên Công ty rất coi trọng việc kiểm soát quá
trình sản xuất rượu. Phòng kỹ thuật công nghệ KCS có trách nhiệm quản lý và kiểm
soát cao quá trình, ngoài ra từng cá nhân tham gia vào quá trình đều được giáo dục,
đào tạo về chất lượng sản phẩm để có thể tự kiểm tra và đánh giá chất lượng công việc
của mình, mọi quá trình sản xuất đều được phân tích để xác định chất các điểm kiểm
soát trọng yếu góp phần tạo nên chất lượng sản phẩm cuối cùng đảm bảo an toàn, vệ
sinh cung cấp tới khách hàng theo qui định của Nhà nước.
Quá trình sản xuất rượu đều được quản lý và kiểm soát liên tục nhằm tăng
cường khả năng quá trình và giảm khả năng biến động, tối thiểu hóa chi phí sửa chữa
khuyết tật. Công ty cũng thường xuyên so sánh kết quả thực hiện với các tiêu chuẩn để
có thể cải tiến các thuộc tính của quá trình, thường xuyên tổ chức tham quan các
doanh nghiệp trong ngành có mô hình quản lý quá trình để học tập và rút kinh nghiệm.
Công ty ngày càng củng cố và tăng cường các mối quan hệ với khách hàng nội bộ và
bên ngoài. Mọi thông tin từ khách hàng kể cả khách hàng nội bộ đều được bộ phận
Marketing phản hồi tới phòng kỹ thuật công nghệ KCS để có sự lựa chọn và điều chỉnh
kịp thời.
Yêu cầu của hoạt động sản xuất, phân phối sản phẩm là chủ đạo, mọi dịch vụ
hỗ trợ đều nhằm vào phục vụ các yêu cầu đó. Lãnh đạo Công ty, phòng kế hoạch tiêu
thụ, phòng vật tư đảm bảo sự phối hợp giữa các lĩnh vực, các bên cung cấp, khách
hàng ... để đảm bảo cung cấp đầu vào chính xác, kịp thời ...
Các quá trình sử dụng trong các bộ phận dịch vụ hỗ trợ tương ứng như trong
các bộ phận sản xuất sản phẩm dịch vụ. Các quá trình đều được lập thành hồ sơ so
sánh với các quá trình tương tự và được lập thành văn bản đầy đủ.
VD: Nhân viên phòng vật tư nguyên liệu gặp gỡ nhà cung cấp và bộ phận KCS
thông qua mẫu hàng có ý kiến phản hồi, để có kết quả kiểm tra nhanh và chính xác,
tránh phiền hà cho cả hai bên khi giao nhận hàng. Việc thanh toán cũng được thiết lập
như một quá trình, tạo thuận lợi cho những bên cung cấp đòi hỏi tiền mặt.
Định kỳ hàng năm, Công ty mời cơ quan hiệu chuẩn cấp trên đến hiệu chuẩn
các dụng cụ đo lường theo qui định của Pháp lệnh đo lường. Ngoài ra, bộ phận KCS
của Công ty cũng được đào tạo về đảm bảo tiêu chuẩn dung tích, khối lượng, hàng bao
gói sẵn, đã được ủy quyền của Trung tâm đo lường, luôn đảm bảo quyền lợi người tiêu
dùng.
Công ty không ngừng củng cố và tăng cường các mối quan hệ chặt chẽ với
khách hàng nội bộ, khách hàng bên ngoài. Với mục tiêu chiến lược. chất lượng sản
phẩm định hướng khách hàng nên Công ty luôn xác định khách hàng là người kiểm tra
sau cùng, thông tin phản hồi từ họ là cơ sở để phát hiện, điều chỉnh, ngăn ngừa và
nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm thỏa mãn khách hàng. Những yêu cầu và qui định
của khách hàng đều được Công ty cam kết thực hiện. Lãnh đạo Công ty luôn tiến hành
đánh giá công tác chất lượng theo các nhóm chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam.
- Chỉ tiêu chất lượng theo tiêu chuẩn Công ty
- Thông tin từ khách hàng
Tiêu chuẩn chất lượng quan trọng nhất của Công ty là thỏa mãn được yêu cầu
của khách hàng. Các chỉ tiêu thể hiện chất lượng được đánh giá theo các yêu cầu cơ
bản:
- Khả năng phân giải các ý kiến khiếu nại của khách hàng.
- Khả năng loại bỏ khuyết tật của khách hàng.
- Khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng.
- Tỷ lệ phế phẩm, khối lượng nguyên vật liệu tiết kiệm được.
- Doanh thu tiêu thụ
Sau mỗi mẻ, mỗi lô sản phẩm đều được phòng kỹ thuật công nghệ KCS lẫy
mẫu, thử nếm, đánh giá chất lượng sản phẩm ngoài các chỉ tiêu đã phân tích kiểm tra.
Các nhóm kỹ thuật công nghệ KCS định kỳ và đột xuất có các cuộc họp chuyên đề xác
định các vấn đề cần cải tiến. Vào ngày 15 hàng tháng, hội đồng thử nếm của Công ty
họp đánh giá chất lượng sản phẩm trong tháng, với sự so sánh với sản phẩm của các
hãng cạnh tranh khác trên thị trường, đặc biệt là các sản phẩm mới.
b. Đầu tư đổi mới công nghệ:
Đây là biện pháp được Công ty sử dụng thường xuyên và rất được chú trọng
trong thời gian qua. Để phục vụ cho mục tiêu đảm bảo và nâng cao chất lượng Công ty
đã đầu tư đổi mới từng bước. Với điều kiện nguồn vốn không cho phép nên Công ty
phải đi vay để mua sắm thiết bị mới theo phương châm đầu tư trọng điểm, dần dần
hiện đại và đồng bộ hóa sản xuất.
Công ty ký hợp đồng với các bạn hàng nước ngoài để mua các máy móc, thiết
bị mới. Máy móc thiết bị Công ty mua phải qua thẩm định, tránh mua phải hàng cũ, lạc
hậu nhưng cần phù hợp với điều kiện, khả năng kinh tế kỹ thuật của Công ty. Để chào
mừng 100 năm thành lập (1898 - 1998) Công ty đã có một số cải tiến:
- Đưa công nghệ Enzime vào sản xuất thay cho phương pháp Mocomalte, lò đốt
dầu F0 thay cho lò đốt than.
- Chương trình INOX hóa với dãy thùng INOX 20.000 lít thay thế các bể pha
chế rượu xi măng phải tráng Farafin.
- Máy lọc rượu của Đức thay thế cho máy lọc rượu của Liên Xô (cũ) sử dụng 20
25 năm.
- Máy dập nút, chiết chai của Đức được đưa vào sử dụng.
- Cải tiến hệ thống thiết bị nấu đường hóa, xay bột sắn.
Với sự đổi mới chiều sâu về công nghệ và thiết bị, chất lượng sản phẩm của
Công ty rượu Hà Nội sẽ không ngừng được nâng cao, đây là yếu tố tiên quyết để duy
trì và mở rộng thị trường, cùng với sự chăm lo cải tiến mẫu mã, chỉ trong một thời gian
không xa nữa sản phẩm của Công ty rượu sẽ đứng vững trên thị trường trong nước và
dần dần thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
c. Phát triển nguồn nhân lực:
Con người đóng vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh và phát triển của
Công ty, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy Công ty rất coi
trọng công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực từ khi nhận xét, đánh giá, phát
hiện khả năng để bố trí, sắp xếp phù hợp nhằm phát huy năng lực của mọi cán bộ
công nhân viên, đến việc tạo điều kiện làm việc, học tập và phát huy sáng kiến trong
môi trường bình đẳng. Với phương châm "đoàn kết là sức mạnh" nhằm tạo ra một khối
thống nhất của Công ty hướng tới hoàn thành tốt những mục tiêu chất lượng đề ra.
Hiện nay Công ty đã xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực theo hướng
"Xây dựng một lực lượng lao động đủ năng lực, trình độ, năng động sáng tạo, thích
nghi với sự thay đổi của môi trường nhằm đáp ứng các yêu cầu của kế hoạch và tiêu
thụ".
Bảng 10: kế hoạch nguồn nhân lực
của Công ty rượu Hà Nội
Kế hoạch Biện pháp Triển khai
Đối với đội ngũ lãnh đạo :
- Đào tạo toàn diện, có
chuyên môn, có trình độ
chính trị.
- Nâng cao khả năng nhạy
bén thời cơ và ra các quyết
định kinh doanh có hiệu
quả.
- Bồi dưỡng các kiến thức
- Xây dựng quy hoạch, đào
tạo cán bộ nguồn, dự định
khung cho 5 15 năm sau.
- Kinh nghiệm thực tế
- Nghiên cứu tình huống.
- Nghiên cứu và áp dụng
các hệ thống chất lượng.
- Đào tạo các khóa học dài
hạn chính quy và thử
thách.
về chất lượng.
Đối với cán bộ công nhân
viên:
- Nâng cao trình độ tay
nghề.
- Đào tạo kiến thức và
nâng cao ý thức về chất
lượng.
- Phát huy tối đa khả năng
sáng tạo.
- Nâng cao tính quan hệ
hợp tác, hỗ trợ sức mạnh
tập thể.
- Đào tạo thông qua công
việc.
- Các khóa đào tạo về
nghiệp vụ.
- Khen thưởng
- Hội thảo, hội nghị
- Kèm cặp lẫn nhau, tự học
hỏi.
- Tổ chức khóa đào tạo: An
toàn vệ sinh thực phẩm, an
toàn lao động, đào tạo lại.
- Thi nâng bậc.
- Tặng thưởng: năng suất,
chất lượng, biểu dương,
thưởng hoàn thành kế
hoạch.
Theo định kỳ, việc xem xét đánh giá nguồn nhân lực do ban lãnh đạo trực tiếp
chỉ đạo và phòng tổ chức hành chính thực hiện.
Tại Công ty rượu Hà Nội, giữa lãnh đạo và nhân viên không có rào ngăn cách,
lãnh đạo Công ty luôn tôn trọng và tạo mọi điều kiện để mỗi cán bộ công nhân viên
phát huy quyền làm chủ tập thể, tạo sự bình đẳng trong Công ty. Công ty cũng khuyến
khích đồng thời ràng buộc việc tự học tập, đào tạo của cán bộ công nhân viên.
VD: Việc nâng lương của cán bộ quản lý, kỹ sư được gắn với một trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ, tin học nhất định. Việc giáo dục, đào tạo định kỳ hàng năm về
an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn lao động ... được tổ chức đều đặn.
Trong nhiều năm qua, lãnh đạo Công ty đã cố gắng tạo lập môi trường làm việc
thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của cán bộ công nhân viên nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất cho Công ty. VD các chế độ về ưu đãi, lương thưởng hợp lý. Cán bộ công nhân
viên có việc làm ổn định, có điều kiện để học tập và nâng cao trình độ, nghiệp vụ.
Ngoài ra Công ty luôn chú ý đến việc tạo không khí trong lành, cảm quan trong từng
khu vực thoáng mát, đảm bảo mọi điều kiện làm việc. Xác định được yếu tố tinh thần
là một trong các yếu tố quyết định chất lượng của hệ thống, ban lãnh đạo Công ty đã
tạo dựng được môi trường làm việc bình đẳng, tôn trọng pháp luật. Công ty có những
hình thức khen, chê kịp thời, khuyến khích, tạo mọi điều kiện để nâng cao trình độ
nghiệp vụ cho người lao động.
d. Về chiến lược và phát triển sản phẩm:
Theo định hướng chiến lược và phát triển nền kinh tế của đất nước, trong từng
giai đoạn cụ thể, Công ty đã có những phương án trình độ, Chính phủ phê duyệt chọn
phương án tối ưu phù hợp với phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước. Ngoài ra Công ty
cũng phân tích các yếu tố chủ quan, khách quan, những yêu cầu của khách hàng để
hoạch định chiến lược, sản xuất kinh doanh cũng như kế hoạch từng giai đoạn cụ thể.
Quá trình hoạch định chiến lược của Công ty được thực hiện như một chu trình khép
kín, tập trung vào cải tiến liên tục với mục tiêu chiến lược là "đáp ứng ở mức cao nhất
các yêu cầu của khách hàng - kết hợp hài hòa các lợi ích: nhân viên, Công ty, các bên
cung cấp và xã hội. Công ty đã kết hợp hướng hợp tác, thông tin dữ liệu về khách
hàng, đánh giá nội bộ, đối chiếu với chuẩn, phân tích cạnh tranh, phân tích môi trường
để hình thành kế hoạch ngắn và dài hạn.
Bảng 11: chiến lược phát triển sản phẩm
của Công ty đến năm 2001
Kế hoạch Biện pháp Triển khai
1. Thị trường và khách
hàng.
- Mở rộng thị trường hiện
tại.
- Mở rộng thị trường tương
lai
- Nghiên cứu thị trường
- Củng cố, tăng cường mối
quan hệ với khách hàng.
- Kiểm soát các quá trình
sản xuất
- Cải tiến và thiết kế mới
các sản phẩm và dịch vụ.
- Mở rộng các kênh phân
phối, đặc biệt là mạng lưới
các cửa hàng bán lẻ.
Thực hiện các hinh thức
khuyến mại giảm giá ...
- Dầu tư trang thiết bị,
công nghệ hiện đại.
- Thỏa mãn tốt nhất các
yêu cầu của khách hàng.
- Thu nhập và giải quyết
các ý kiến khiếu nại của
khách hàng
- Đào tạo, nâng cao trình
độ cán bộ công nhân viên.
- Xây dựng các quy trình
kiểm soát.
- Tiến hành khảo sát khách
hàng, điều tra thị hiếu.
- Tổ chức hội nghị khách
hàng.
2. Sản phẩm và chất lượng
sản phẩm.
- Đa dạng hóa mẫu mã và
chủng loại sản phẩm.
- chất lượng sản phẩm định
hướng theo khách hàng.
- Hiện đại hóa dây chuyền
sản xuất.
- Kiểm soát quá trình sản
xuất theo HACCP.
- Nghiên cứu nhu cầu
khách hàng.
- Xây dựng hệ thống chất
lượng theo tiêu chuẩn ISO
9000.
- Kiểm soát các bên cung
cấp
- Luận chứng kinh tế kỹ
thuật, xin giấy phép đầu tư
mở rộng sản xuất.
- Đầu tư trang thiết bị kỹ
thuật đổi mới.
- Khảo sát, điều tra thị hiếu
khách hàng.
- Xây dựng quy trình kiểm
soát chất lượng theo
HACCP.
2.3.4. Đánh giá tình hình thực hiện chất lượng sản phẩm của Công ty rượu
Hà Nội.
Trên cơ sở phân tích tình hình chất lượng sản phẩm ở Công ty rượu Hà Nội
trong thời gian qua, có một số ưu nhược điểm và tồn tại như sau:
2.3.4.1. Ưu điểm:
Nhờ sự cố gắng, nỗ lực của toàn thể các cán bộ công nhân viên trong Công ty,
so với thời kỳ trước đây, chất lượng sản phẩm của Công ty đã có nhiều tiến bộ. Về chỉ
tiêu lý hóa, vệ sinh: Tất cả 22 loại mặt hàng: Rượu Lúa Mới, Nếp Mới, Cam, Chanh,
Thanh Mai ... đều đạt các tiêu chuẩn đã đăng ký. Hơn nữa, rượu Hà Nội đã tạo cho
mình một hương vị đặc trưng riêng có khác hẳn với các đối thủ cạnh tranh khác, do
vậy được người tiêu dùng, nhất là những khách hàng bình dân rất mến mộ.
Về chỉ tiêu dinh dưỡng: Rượu Hà Nội có một hàm lượng cao các chất gạo,
đường, hoa quả ... và những chất bổ cho sức khỏe của con người. Rượu Hà Nội kích
thích tiêu hóa và không chứa độc tố ảnh hưởng đến đường tiêu hóa.
Trong thời gian qua, Công ty đã có nhiều cố gắng để cải tiến và nâng cao chất
lượng sản phẩm, cụ thể là:
- Về thiết bị công nghệ: Từ 1990 đến nay, trước tình hình sản xuất kinh doanh
có nhiều thay đổi, bằng vốn ngân sách cấp, vốn tự có, vốn vay, Công ty đã thường
xuyên đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị. Một mặt nhằm nâng cao chất lượng, một
mặt nhằm làm giảm bớt những chi phí không đáng có do sử dụng công nghệ cũ, lạc
hậu. Nhờ đó mà công suất, năng suất và chất lượng sản phẩm của Công ty đã tăng một
cách đáng kể, hao phí sản xuất giảm. Không chỉ có vậy, trong cơ cấu sản phẩm, Công
ty còn có thêm sản phẩm mới là Rượu Vang ... và giảm bớt một số sản phẩm có khả
năng cạnh tranh kém như bia, nước giải khát để đầu tư vào những sản phẩm có ưu thế
trên thị trường như rượu Lúa Mới, Nếp Cẩm, Rượu Chanh ...
- Trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm: ở Công ty, công tác quản lý và
kiểm tra chất lượng đã trở thành một nề nếp từ lâu. Tất cả các khâu trong quá trình sản
xuất đều được kiểm tra nghiêm ngặt theo những yêu cầu kỹ thuật qui định. Đó là điều
kiện thuận lợi cho công tác đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Trong công tác quản lý lao động, trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và công
nhân ngày càng được nâng cao qua các khóa đào tạo và thi thợ giỏi ở Công ty. ý thức
trách nhiệm của từng công nhân đối với từng phần việc của họ được phân định rõ ràng
và được hưởng lương, thưởng theo đúng với kết quả và hiệu quả lao động. Để đảm bảo
an toàn cho người lao động, Công ty đã phát tận tay tới họ đầy đủ các trang thiết bị
bảo hộ như găng tay, khẩu trang, ủng, nút lỗ tai chống ồn ...
Nhờ khả năng tiêu thụ sản phẩm rất tốt mà trong thời gian qua, Công ty luôn đạt
mức tăng trưởng khá. Doanh thu từ năm 1997 đến nay có xu hướng tăng rất nhanh, thể
hiện: năm 1998 tăng 42% so với năm 1997; năm 1999 tăng 32% so với năm 1998; năm
2000 tăng 35% so với năm 1999; năm 2001 tăng 30% so với năm 2000. Điều này
khẳng định tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty diễn ra đều đặn, tiến triển ngày
càng tốt ... Những kết quả khả quan đó tạo điều kiện để Công ty trích một phần vốn để
đầu tư mở rộng sản xuất cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Sản xuất phát triển
góp phần đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời tăng thu nhập cho
mỗi người, tạo động lực vật chất khiến họ quan tâm hơn nữa tới chất lượng sản phẩm
và hiệu quả lao động. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cũng đã góp vào ngân
sách Nhà nước một nguồn thu đáng kể, năm 2001: 1.975.917.245 đồng. Cũng nhờ sản
phẩm của Công ty có ưu thế trên thị trường, nhất là thị trường miền Nam nên Công ty
không phải sử dụng nhiều phương thức thanh toán để thu khách hàng mà khách hàng
luôn thanh toán tiền ngay, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn, tránh tình
trạng ứ đọng hay bị chiếm dụng vốn.
2.3.4.2. Nhược điểm:
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, trong quá trình cải tiến và nâng
cao chất lượng sản phẩm, Công ty vẫn còn có một số tồn tại sau:
- Công ty Rượu Hà Nội có đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý, có kinh nghiệm,
nhiệt tình công tác nhưng hiệu quả còn chưa đồng đều. Nhất là những cán bộ từ thời
bao cấp, họ chưa thành thạo với phương pháp quản lý và nghệ thuật quản lý theo cơ
chế mới. Hơn nữa, hơn 10 năm nay, Công ty đã thực hiện chính sách giảm biên chế
nên số cán bộ trẻ không có do vậy các ý tưởng mới, các phương pháp mới ... thường
không được quan tâm chú ý.
Số lượng công nhân thực sự giỏi còn rất hạn chế, không có tác phong công
nghiệp, thiếu ý thức chấp hành kỷ luật công nghệ ... dẫn đến năng suất lao động giảm,
không tận dụng được tối đa công suất máy móc.
- Trình độ trang thiết bị đã được cải tiến nhưng vẫn còn thiếu đồng bộ. Ngoài
những thiết bị mới thay thế còn lại phần lớn là những máy móc thiết bị cũ kỹ, hoạt
động không ăn khớp, lạc hậu rất nhiều so với trình độ của những Công ty mới tham gia
cạnh tranh. Đầu tư mới từ năm 1989 đến nay chỉ mang tính chất chắp vá. Do vậy chất
lượng sản phẩm bị hạn chế, công suất và khả năng thâm nhập thị trường chưa cao.
- chất lượng sản phẩm của Công ty thiếu tính ổn định, nhiều khi có những chai
rượu bị đục do lọc không kỹ hoặc rửa chai không sạch ... tỷ lệ phế phẩm còn quá lớn.
Cụ thể, năm 2001 trị giá của số hàng kém phẩm chất ở mức 430 triệu đồng, nếu những
sản phẩm chất lượng kém này được tiêu thụ trên thị trường thì sẽ gây ảnh hưởng rất
xấu tới những khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của Công ty. Nguyên nhân chính
của tình trạng trên là sự yếu kém về hệ thống máy móc thiết bị, dẫn đến nồng độ rượu
không chuẩn xác, dung dịch thường bị mất mầu, đóng nút chai và dán nhãn không
đúng quy cách ... Về kiểu đóng mẫu bao bì, tuy có nhiều cải tiến song vẫn chưa đáng
kể, Công ty cần khắc phục điểm yếu là độ sốc của rượu quá mạnh gây cảm giác khó
uống và đau đầu.
- Công tác quản lý chất lượng sản phẩm tại Công ty rượu Hà Nội hoạt động rời
rạc, tách rời với sản xuất mang nặng tính phát hiện và sửa chữa lỗi trong sản xuất và
không chú trọng tới việc ngăn ngừa những sai hỏng đó. Quản lý chất lượng mang tính
cục bộ, không quán triệt cho toàn bộ cán bộ công nhân viên tham gi. Vì vậy chi phí
cho sản phẩm sai hỏng, sửa chữa những sản phẩm sai hỏng đó là rất cao. Bộ phận KCS
trực thuộc sự quản lý của phòng kỹ thuật nên nhiều khi còn có sự giấu giếm, bao che
những lỗi trong sản xuất.
- Về cơ cấu tổ chức: Công ty đã thay đổi đúng lúc nhưng vẫn còn chưa phát huy
được hiệu quả. Là một Công ty khá lớn và có bề dầy lịch sử nhưng Công ty vẫn chưa
có phòng quản lý chất lượng, chưa có phó giám đốc phụ trách về tình hình quản lý chất
lượng trong Công ty. Trong điều hành quản lý vẫn còn bộc lộ điểm yếu như chồng
chéo hoặc trông chờ ỷ lại. Cần phải có quy chuẩn cán bộ quản lý với chức năng, nhiệm
vụ và quyền lợi cụ thể đẻ bộ máy hoạt động nhịp nhàng, phát huy cao độ hiệu lực quản
lý.
* Nguyên nhân:
Trong điều kiện hiện nay, việc gặp những khó khăn trên là điều khó tránh khỏi
được ở Công ty. Muốn tồn tại và phát triển phải biết phát huy những ưu điểm, thế
mạnh của mình, đồng thời phải tìm ra nguyên nhân để khắc phục kịp thời.
Công ty chưa thực sự thích nghi được với sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấo sang
cơ chế thị trường của nền kinh tế. Do vậy phương pháp và phong cách làm việc của
một số cán bộ, công nhân trong Công ty chưa theo kịp được những đòi hỏi khách quan
của nền kinh tế thị trường. ý thức trách nhiệm đối với vấn đề quản lý chất lượng của
người công nhân còn hạn chế. Do vậy không thể có một sản phẩm chất lượng tốt nếu
có người công nhân không chú trọng tới công tác quản lý chất lượng.
Công ty đã có những quy về đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng
chưa mang tính tổng hợp, việc thực hiện chủ yếu vẫn là kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Công ty chưa huy động được các phòng ban tham gia vào công tác nâng cao chất
lượng sản phẩm, chưa chủ đọng thâu tóm tất cả các nhân tố tác động đến chất lượng.
Kỹ thuật công nghệ, máy móc, thiết bị lạc hậu là khó khăn hàng đầu mà Công ty
phải đối mặt và giải quyết. Cơ sở vật chất, đặc biệt là khu nhà xưởng chiết chai chưa
có hệ thống thoát nước hợp lý nên điều kiện vệ sinh nơi làm việc chưa được đảm bảo,
gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
Ban lãnh đạo không kịp thời nắm bắt được cơ hội đầu tư, đa dạng hóa sản
phẩm, chưa chú trọng tới việc nghiên cứu thị hiếu, yêu cầu về chất lượng, mẫu mã ....
của người tiêu dùng đến sản phẩm của Công ty nên nhiều khi chưa đáp ứng đủ, đúng
yêu cầu của thị trường ... nguyên nhân chủ yếu là do công tác Marketing chưa được
chú trọng, không có phòng Marketing độc lập, cán bộ Marketing chưa có nhiều kinh
nghiệm...
Nguyên nhân nguyên liệu và vấn đề đảm bảo chất lượng nguyên liệu trước sản
xuất cũng ảnh hưởng lớn đến công tác đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nguyên liệu có vai trò tiên quyết đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra, mọi sai hỏng
hay kém chất lượng của nguyên liệu đều dẫn đến sản xuất chất lượng thấp.
Chương III
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà nội.
Công ty rượu Hà nội là một trong những Công ty coa truyền thống lâu đời trong
nghành sản xuất rượu nói riêng cũng như nghành công nghiệp Việt nam nói chung với
hơn 1000 năm lịc sử. Những năm gần đây Công ty rượu Hà nội đã gặt hái được rất
nhiều thành công trong lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm của Công ty rất được nhiều
người dùng và ưa thích như Lúa Mới, Nếp Mới, Riệu Chanh... chuyển ra cơ chế thị
trường, với sự xuất hiện ngày càng nhiều đối thủ cạnh tranh, Công ty rượu Hà nội đã
gặp phải không ít khó khăn. Từ thực trạng về tình hình chất lượng sản phẩm ở Công ty
và qua những đánh giá về ưu nhược điểm, xem xét các nguyên nhân, có thể đưa ra một
vài phương hướng và biện pháp để công tác đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm
ở Công ty rượu Hà nội đạt được hiệu quả cao.
3.1. Một số phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở
Công ty rượu Hà nội.
- Kế từa và phát huy những thành tựu mà Công ty đã đạt được để lấy nó làm cơ
sở cho những hoạt động và nâng cao chất lượng sản phẩm trong tương lai.
- Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm theo phương hướng: Giải quyết
công ăn việc làm một cách thường xuyên, liên tục, tăng dần mức thu nhập cho cán bộ
công nhân viên trong toàn Công ty. Tạo sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm so với các
đối thủ khác, mở rộng thị trường, tạo ưu thế cho Công ty ... thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ.
- Tập trung sản xuất những sản phẩm có giá tị cao mà các doanh nghiệp cùng
nghành khác không bắt chước được, tận dụng các điều kiện hiện có nghiên cứu, nấu
thử những sản phẩm có chất lượng cao, giá trị xuát khẩu lớn.
- Đưa ra sản phẩm của Công ty xâm nhập, sử dụng rộng rãi ở khắp các tỉnh
trong cả nước.
- Đưa công tác quản lý chất lượng là trách nhiệm của mọi phòng ban và của tất
cả mọi thành viên trong Công ty. Nâng cấp chất lượng trên cơ sở tình hình và khả năng
cuae Công ty về cải tiến máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ, tiên tiến hiện đại hoá
snr xuất.
Trước mắt những phướng đó nhằm thực hiện tốt chỉ tiêu về sản xuất kinh doanh
trong năm 2000.
Bảng 12 - Các mục tiêu phấn đấu năm 2002
STT Các chỉ tiêu ĐV tính 2001
2002 %KH20002
1 Doanh thu
2 Chi phí
3 Lợi nhuận
4 Tổng sản phẩm sản
xuất
5 Thu nhập bình
quân
3.2. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty rượu
Hà nội.
3.2.1. Thiết lập chính sách chất lượng và cam kết thực hiện
a. Cơ sở đề xuất.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ một Công ty nào cũng đều có
những ý đồ, xu hướng theo nguyên tắc nào đó để tiến hành công việc của mình. Đối
với một Công ty có nhiều người, nhiều đơn vị trực thuộc ý đồ chủ yếu và định hướng
cơ bản trong kinh doanh không chỉ nằm trong ý thức của ban lãnh đạo, hoặc của người
lãnh đạo cao nhất. Chúng càn được ghi thành văn bản để truyền đạt cho mọi người,
mọi đơn vị trong Công ty để hiểu thống nhất và cùng thực hiện. ý đồ và định hướng
chung về chất lượng của mọi tổ chức do lãnh đạo co nhất chính thức đề ra, đó là chính
sách chất lượng.
Chính sách chất lượng cung cấp cho mọi người, mọi đơn vị bên trong cũng như
bên ngoài Công ty những thông tin quan trọng về mục tiêu và định hướng phấn đấu về
chất lượng của Công ty. Qua đố thấy được xu thế phát triển của Công ty và xác định
cho Công ty mục tiêu, mức phấn đấu cụ thể phù hợp với chính sách chất lượng với các
tổ chức bên ngoài Công ty.
Có được chính sách chất lượng đúng đắn, lãnh đạo Công ty có thể xây
dựngđược hệ thống chất lượng thích hợp, thực hiện các phương pháp quản lý tiên tiến,
nhất quán trong Công ty, tạo lập phong trào quần chúng làm chất lượng, sáng tạo tìm
ra những giải pháp thích hợp để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình.
Việc xây dựng và thực hiện chính sách chất lượng buộc ban lãnh đạo phải tập
trung suy nghĩ sâu sắc và toàn diện đối với chất lượng hàng hoá hoặc dịch vụ của Công
ty, đánh giá thực trạng một cách cụ thể và chính xác, thấy được điểm mạnh và điểm
yếu của mình so với đối thủ cạnh tranh. Từ đó xác định hướng chiến lược, đề ra những
mục tiêu và định hướng cơ bản để giải quyết vấn đề chất lượng một cách tối ưu, mang
lại hiệu quả lớn trong kinh doanh và tranh thủ được sự tín nhiệm lâu dài của khách
hàng.
Tuỳ theo quy mô, mức độ đề ra trong mục tiêu chất lượng của Công ty, chính
sách chất lượng và hệ chất lượng là nhân tố cơ bản đảm bảo tăng sức cạnh tranh của
Công ty, tăng lợi nhuận và tăng sức thu hút, hấp dẫn đối với khách hàng, từ đó xác lập
vị trí của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước.
b) Phương hướng thực hiện.
Chính sách chất lượng phải được các nhà lãnh đạo cấp cao trong Công ty thông
qua. Việc soạn thảo có thể giao cho một nhóm hoặc một người có khả năng thực hiện
với sự tham gia của lãnh đạo chủ chốt.
Trong quá trình thực hiện chính sách chất lượng, Công ty cần thường xuyên
theo dõi, thẩm định, kiểm tra sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong từng thời kỳ nhất định.
Đối với Công ty Rượu Hà nội thì trước đây, Công ty đã có những quy chế về bảo đảm
và nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng chưa mang tính tổng hợp, việc thực hiện chủ
yếu vẫn là kiểm tra chất lượng sản phẩm. Qua nghiên cứu thực trạng của Công ty và
đòi hỏi của thị trường thì mục tiêu chất lượng và chính sách chất lượng của Công ty
Rượu Hà nội có thể được xây dựng như sau: "Mục tiêu tổng quan của Công ty là đạt
được và thể hiện được uy tín về chất lượng trên thị trường trong và ngoài nước. Công
ty sẽ cố gắng hết sức mình để thoả mãn các nhu cầu của khách hàng bằng cách cung
cấp sản phẩm luôn có chất lượng cao, có khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách
hàng với giá cả có sức cạnh tranh và bằng cách tiến hành có hiệu quả các dịch vụ sau
khi bán".
Muốn thực hiện tốt các mục tiêu, yêu cầu về chính sách chất lượng thì Công ty
có thể làm như sau:
- Xây dựng quy chế chất lượng, quy chế kiểm tra, kiểm soát chất lượng xác định
trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân trong Công ty, đề ra quy chế thưởng, phạt chất
lượng.
- Tuyên truyền vận động: La biện pháp phải làm trước tiên. Trước đây Công ty
chưa chú trọng đến biện pháp này, song Công ty phải xác định đó là biện pháp rất
quan trọng vì gốc rễ vấn đề chất lượng đối với tình hình thực trạng của Công ty chính
là ở công nhân. Công nhân do chưa ý thức được vai trò của chất lượng, chưa nghiêm
túc trong vấn đề này nên chưa cố gắng, tự giác rèn luyện mình để làm ra sản phẩm chất
lượng cao, chưa có trách nhiệm với chất lượng của phần công việc mình làm.
Thực hiện biện pháp này là phải tìm đến gốc rễ của vấn đề cần xử lý. Trước
đây, Công ty chỉ tìm cách tăng cường công tác kiểm tra chất lượng, bắt họ phải thực
hiện tốt công tác kiểm tra để loại bỏ sản phẩm hỏng nhưng như thế không làm tăng
được chất lượng sản phẩm vì những người kiểm tra không phải là người trực tiếp làm
ra sản phẩm.
Sau các biện pháp tuyên truyền, để khuyến khích việc thiết lập một ý thức tự
giác về chất lượng, Công ty phải có các biện pháp khuyến khích vật chất thông qua
quy chế thưởng, phạt, bổ sung chất lượng. Thưởng đối với cá nhân, đơn vị có thành
tích tốt, phạt đối với cá nhân, đơn vị có nhiều sản phẩm sai hỏng...
c) Hiệu quả mang lại của giải pháp.
Với điều kiện hiện nay, Công ty muốn chất lượng sản phẩm được nâng cao,
phải chú ý đến thực hiện biện pháp này. Thiết lập chính sách chất lượng và cam kết
thực hiện đem lại lợi ích rất to lớn, đó là thiết lập một ý thức vươn lên của cán bộ công
nhân viên, quản lý chất lượng tạo ra một sức mạnh tổng hợp để cải tiến, nâng cao chất
lượng về mọi mặt, chính sách chất lượng sẽ giúp cải thiện các mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với các tổ chức cung ứng vật tư, ... thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các
nhà doanh nghiệp, hạn chế được những tiêu cực do tình trạng mơ hồ, không rõ ràng
gây ra, tạo nên sự thông hiểu theo chiều hướng tích cực trong xã hội... Ban lãnh đạo
chất lượng phải tuỳ vào từng giai đoạn mà ra những chính sách bổ sung cho thích hợp,
không ngừng khuyến khích cán bộ công nhân viên trong công tác cải tiến chất lượng
sản phẩm.
3.2.2. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên.
a) Căn cứ đề xuất.
Lao động - đối tượng lao động - công cụ lao động là 3 yếu tố cơ bản của quá
trình sản xuất. Vì vậy quá trình sản xuất có đạt hiệu quả hay không là do yếu tố con
người quyết định.
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì người công nhân không phải nghĩ
đến hiệu quả sản xuất, đến việc nâng cao trình độ, tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ
của mình, họ chỉ cần làm đạt chỉ tiêu do cấp trên đưa xuống là hoàn thành nhiệm vụ.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi dù bất cứ một doanh
nghiệp nào cũng phải đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Điều này phụ thuộc vào
trình độ, kiến thức, kinh nghiệm của người lao động. Có nghĩa là những người không
đủ khả năng làm những công việc hiện tại của mình thì hoặc sẽ phải chuyển sang làm
công tác thích hợp hoặc có thể phải thôi việc.
Hơn nữa, hiệu quả kinh tế phụ thuộc vào lợi nhuận thực có cao hay không. Nếu
có thêm một người công nhân thì chi phí cho tiền lương, bảo hiểm, thu nhập lại tăng
lên. Trong trường hợp người công nhân đó làm việc không hiệu quả thì chi phí đã tăng
lại càng tăng. Tuy nhiên việc tinh giảm biên chế, không đơn giản vì nó liên quan đến
nhiều vấn đề khác như chính trị, xã hội... Do vậy để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh cũng như để duy trì và mở rộng thị trường, Công ty Rượu Hà nội còn chú trọng
đến công tác quản lý và sử dụng lao động cho đạt hiệu qủa nhất.
b) Nội dung giải pháp.
Thực tế tình hình hiện nay của Công ty là sự dư thừa về đội ngũ công nhân sản
xuất. Song lại thiếu những cán bộ quản lý có trình độ và khả năng nhạy bén với những
thay đổi của thị trường ngoài những cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm hiện tại ở Công
ty.
Trong tổng số 646 cán bộ công nhân viên toàn Công ty có 70 người trình độ Đại
học, 14 người trình độ cao đẳng, Trung cấp, còn lại là 562 người là công nhân viên,
đảm nhiệm các công việc khác nhau, trong đó công nhân sản xuất chiếm 66% (371
người). Vì vậy để có đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế có trình độ và năng lực, Công ty
cần phân loại cán bộ theo trình độ chuyên môn:
+ Trình độ khá
+ Trình độ trung bình
+ Trình độ yếu.
+ Mới vào Công ty
Từ đó có kế hoạch nâng cao trình độ cho đội ngũ này theo các hướng sau:
- Công ty có liên hệ với các trung tâm đào tạo về quản lý kinh tế để mở các lớp
học bồi dưỡng và cập nhất các kiến thức về kinh doanh cho các cán bộ hiện tại của
mình.
- Gửi đi đào tạo những cán bộ có triển vọng để kế tục lãnh đạo Công ty.
- Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm về các khu vực quản lý, lĩnh vực kỹ thuật
nghiệp vụ trong Công ty.
- Hơn 10 năm qua, Công ty không tuyển thêm người mà tuổi bình quân toàn
Công ty là 43. Do vậy Công ty cần tuyển chọn những cán bộ trẻ, có năng lực để kế tục.
Để khuyến khích đội ngũ cán bộ phát huy hết tài năng, sáng tạo trong chuyên
môn, trong sản xuất kinh doanh, Công ty cần có những biện pháp khuyến khích, khen
thưởng hay biện pháp hành chính sau:
- Chỉ đề bạt vào vị trí lãnh đạo những người có đức, có tài, thể hiện tinh thần
trách nhiệm, trình độ chuyên môn, nhân cách, trình độ quản lý... phù hợp với cơ chế
thị trường.
- Thưởng bằng vật chất, lên lương trước thời hạn cho những người đóng góp
nhiều trí tuệ sáng tạo trong sự phát triển của Công ty.
- Có biện pháp xử lý thoả đáng đối với cán bộ không đảm nhận được công việc,
không có chuyên môn bằng hình thức bố trí công việc khác.
Bên cạnh đó, Công ty cần nâng cao hơn nữa trình độ tay nghề của công nhân
sản xuất và đội ngũ kỹ thuật của Công ty. Công nhân và đội ngũ kỹ thuật sản xuất là
người trực tiếp sản xuất, đối với công nhân trực tiếp vận hành máy móc thiết bị thì
ngay cả trong điều kiện sản xuất tự động hoá thì máy móc thiết bị vẫn chịu sự chi phối
của người điều hành nó. Trong điều kiện sản xuất, cả đội ngũ công nhân lẫn nhân viên
kỹ thuật muốn cho các sản phẩm đạt tiêu chuẩn phải luôn chú trọng đến trình độ, năng
lực của họ. Để thực hiện công việc này, Công ty có thể áp dụng nhiều hình thức khác
nhau:
- Cử nhân viên kỹ thuật đi học ở trình độ cao hơn
- Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kỹ thuật ngắn hạn ngay tại Công ty
do các chuyên viên đảm nhiệm.
- Huấn luyện kỹ sư, công nhân đúc rút kinh nghiệm ngay trên dây truyền sản
xuất.
- Tổ chức hội thi tay nghề giỏi cho công nhân, tổ chức các cuộc thi sáng tạo như
cuộc thi về tài nưang phát minh sáng chế ứng dụng trẻ nhằm tạo môi trường hăng hái
trong nghiên cứu sản xuất.
c) Hiệu quả mang lại của giải pháp.
Trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên được nâng cao sẽ có tác động rõ rệt đến
duy trì và mở rộng thị trường. Qua quá trình đào tạo, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
được bồi dưỡng những kiến thức phù hợp với nền kinh tế thị trường, tư duy sáng tạo
được phát huy sẽ kích thích tinh thần làm việc, cống hiến vì mục tiêu phát triển của
Công ty. Bên cạnh đó, ty nghề của đội ngũ công nhân, nhân viên kỹ thuật được nâng
cao sẽ giảm bớt những thao tác thừa, tiết kiệm được thời gian, nguyên vật liệu. Từ các
yếu tố đó, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm ngày càng tăng lên, giá thành hạ
một cách tương đối, uy tín của Công ty khẳng định trên thị trường, sản lượng sản phẩm
tiêu thụ ổn định, có chiều hướng gia tăng. thị trường được duy trì và mở rộng lại có tác
động ngược trở lại: Công ty có nhiều đơn hàng hơn, cán bộ công nhân viên có việc làm
thường xuyên, dẫn đến ổn định về tâm lý, hăng say sản xuất ...
3.2.3. Đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, nâng cấp, sửa chữa, hoàn thiện hệ
thống phục vụ sản xuất.
a) Căn cứ đề xuất.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường, đòi hỏi Công ty Rượu Hà nội phải đổi mới máy móc thiết bị
cũng như phương pháp tổ chức quản lý. Mặt khác, quá trình đổi mới công nghệ là một
tất yếu khách quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do khoa
học công nghệ luôn phát triển và hoàn thiện dần theo thời gian, các máy móc thiết bị
công nghệ mới thay nhau xuất hiện đặt Công ty trước áp lực đổi mới hệ thống hiện đại
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm một cách rõ rệt.
Song khả năng tài chính của Công ty vốn hạn chế nên Công ty cần đổi mới có
trọng điểm, xác định được trình độ loại công nghệ mà Công ty cần thay thế và dự đoán
xu hướng phát triển của các loại công nghệ đó trong tương lai.
b) Nội dung của giải pháp.
* Xác định khâu trọng điểm để đầu tư đổi mới công nghệ.
Bộ phận sản xuất chính của Công ty Rượu Hà nội gồm:
- Dây chuyền sản xuất cồn
- Dây chuyền sản xuất rượu mùi
- Dây chuyền sản xuất rượu vang
- Dây chuyền sản xuất bia.
Trong đó dây chuyền sản xuất bia đã ngừng hoạt động bởi bia không phải là
mặt hàng truyền thống của Công ty nên Công ty chưa đủ kinh nghiệm duy trì, dẫn đến
thua lỗ. Vấn đề đặt ra ở đây là trong phạm vi tài chính có hạn, Công ty phải xác định
dây chuyền sản xuất cần đổi mới công nghệ đầu tiên và lựa chọn loại công nghệ nào để
chuyển giao.
Dây chuyền sản xuất cồn của Công ty đã được trang bị tháp chưng cất cồn
sodecial của Pháp năm 1995. Đến nay, dây chuyền này vẫn hoạt động có hiệu quả, tỷ
lệ cặn trong cồn tinh chế đạt tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam. Vì vậy dây chuyền sản
xuất cồn không phải là vấn đề cấp thiết cần phải đổi mới ngay.
Dây chuyền sản xuất Rượu vang cũng chưa phải là trọng điểm để đầu tư đổi
mới công nghệ bởi đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của Công ty trên thị trường rượu vang
là Công ty rượu, nước giải khát Thăng Long. Họ có một dây chuyền sản xuất vang
hiện đại của Pháp, và tiếp tục đầu tư để chuyên môn hoá các sản phẩm vang trong
tương lai. Nếu Công ty Rượu Hà nội đầu tư cho dây chuyền sản xuất vang nghĩa là
Công ty phải cạnh tranh với một doanh nghiệp mạnh bằng chính các sản phẩm của họ.
Từ các lý do nêu trên và từ đặc điểm rượu mùi là sản phẩm truyền thống là thế
mạnh của Công ty. Người tiêu dùng biết đến Công ty chủ yếu nhờ các sản phẩm Lúa
Mới, Nếp Mới, Rượu Chanh, Rượu Thanh Mai, ... sản phẩm rượu mùi chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong cơ chế sản phẩm của Công ty (trên 60% tổng sản lượng hàng năm). Vì
vậy đổi mới công nghệ cho dây chuyền sản xuất rượu mùi là điều cần thiết để nâng cao
chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của rượu mùi nói riêng của Công ty
Rượu Hà nội nói chung.
* Tiến hành lập và phân tích về kinh tế kỹ thuật do dự án đầu tư đổi mới công
nghệ sản xuất Rượu mùi.
Để thực hiện đổi mới công nghệ một cách có hiệu quả, tránh những rủi ro có thể
xảy ra,Công ty cần phải tiến hành lập và phân tích dự án tiền khả thi. Do vậy cần phải
xác định được một số vấn đề chủ yếu sau:
+ Mua dây chuyền công nghệ loại này ?
+ Hình thức và cách thức mua dây chuyền công nghệ.
+ Tổng mức vốn đầu tư là bao nhiêu. Có thể huy động từ những nguồn nào ?
Sau khi lập dự án tiền khả thi, Công ty tiến hành lập dự án chi tiết, trong đó
phải xác định được một số chỉ tiêu như: Thời gian hoạt động của công nghệ, hiệu quả
kinh tế mang lại của dự án.
* Tiến hành việc huy động nguồn vốn cần thiết cho dự án.
Để có đủ vốn cho việc thực hiện đổi mới dây chuyển sản xuất Rượu mùi Công
ty có thể huy động từ các nguồn:
+ Nguồn vốn tự có của Công ty
+ Nguồn vốn vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác.
+ Nguồn vốn vay của cán bộ công nhân viên trong Công ty.
+ Vốn do Tổng công ty hỗ trợ.
Dựa trên những điều kiện cụ thể của mình Công ty cần có những biện pháp
thích hợp để huy động đủ số vốn cho quá trình thực hiện đổi mới công nghệ.
c) Hiệu quả mang lại của giải pháp.
Việc đầu tư đổi mới công nghệ là một biểu hiện thực tế trong việc nâng cao
trình độ sản xuất của Công ty tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến
trên thế giới.
- Hiệu quả mang lại thiết thực của đầu tư công nghệ cho dây chuyền sản xuất
Rượu mì thể hiện quyết tâm giữ vững vị trí hàng đầu đối với các sản phẩm truyền
thống của mình.
Trong số các sản phẩm Rượu mùi, Nếp Mới là sản phẩm có sản lượng sản xuất
và tiêu thụ lớn nhất. Năm 1999 sản lượng sản xuất của Rượu Nếp Mới là 1327685 lít
trong tổng số 326.097 lít rượu mùi các loại. Như vậy, nếu lấy Rượu Nếp Mới làm đại
diện cho các sản phẩm Rượu mùi ta có thể dự kiến được mức tăng lợi nhuận đối với
Rượu Nếp Mới do đổi mới dây chuyền sản xuất Rượu Mùi qua công thức sau:
P = { (G1 - Z1) x Q1 } - } (G0 - Z0 ) x Q0}
Trong đó:
P: Mức tăng lợi nhuận do áp dụng công nghệ mới.
G0: Giá bán một đơn vị sản phẩm trước khi đổi mới công nghệ.
Z0: Giá thành một đơn vị sản phẩm trước khi đổi mới công nghệ.
Q0: Sản lượng sản xuất trước khi đổi mới công nghệ.
G1: Giá bán một đơn vị sản phẩm sau khi đổi mới công nghệ.
Z1: Giá thành một đơn vị sản phẩm sau khi đổi mới công nghệ.
Q1: Sản lượng sản xuất sau khi đổi mới công nghệ.
Dự kiến mức tăng lợi nhuận của sản phẩm nếp mới do đổi mới công nghệ
Trước khi đổi mới công nghệ Sau khi đổi mới công nghệ
G0 Z0 Q0 G1 Z1 Q1
4700đ/lit 2600đ/lit 1327685/lit 4900đ/lit 2400đ/lit 2000000lit
P = (4900 - 2400) x 2.000.000 - (4700 - 2600) x 1327685
= 1411861500đ.
Như vậy mức tăng lợi nhuận đối với sản phẩm Nếp Mới dự kiến sẽ là 1,4 tỷ
đồng nếu đổi mới dây chuyền sản xuất Rượu mùi.
Tóm lại, đổi mới dây chuyền công nghệ Rượu mùi sẽ khẳng định chất lượng
mặt hàng truyền thống của Công ty. Sự đổi mới công nghệ có trọng điểm làm tăng
năng lực sản xuất của Công ty. Các hao phí về nguyên liệu, các chi phí nhân công
giảm, làm hạ giá thành sản phẩm. Do vậy sẽ ảnh hưởng tích cực đến khả năng duy trì
và mở rộng thị trường của Công ty.
3.2.4. Thành lập phòng marketing.
a) Cơ sở đề xuất.
Đối với hoàn cảnh và điều kiện của nển kinh tế hiện nay, khi tồn tại nhiều đối
thủ cạnh tranh thì vai trò của chất lượng hàng hoá cũng như vai trò của hoạt động
Marketing ngày càng quan trọng. Công tác Marketing tốt sẽ xác định được đúng tiêu
chuẩn sản phẩm cần sản xuất để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, từ đó có chính
sách cải tiến chất lượng thích hợp.
Hơn nữa, đã đến lúc Công ty không chỉ củng cố công tác chất lượng bằng cách
hoàn thành tốt tiêu chuẩn chất lượng đề ra mà phải đi tìm mẫu mã sản phẩm mới, tiêu
chuẩn mới theo thị hiếu trong tương lai của khách hàng. Để làm được việc này Công ty
phải có một đội ngũ cán bộ Marketing, nhưng hiện nay đó chỉ là một bộ phận nhỏ
trong phòng thị trường với nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra việc tiêu thụ của các đại lý,
nghiên cứu thị trường mới. Họ chưa chú trọng đến việc nghiên cứu thị hiếu, yêu cầu về
chất lượng, mẫu mã... của người tiêu dùng đối với sản phẩm của Công ty nên nhiều khi
chưa đáp ứng đủ và đúng yêu cầu của thị trường. Vì thế bộ phận Marketing hiện nay
của Công ty chưa được thực hiện và phát huy đầy đủ vai trò chức năng của công tác
marketing. Do vậy thành lập phòng marketing độc lập là biện pháp cần thiết để giúp
Công ty trong mọi lĩnh vực đặc biệt là công tác cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm.
b) Nội dung giải pháp.
Phòng marketing cần phải tổng hợp thông tin về chất lượng, mẫu mã sản phẩm,
yêu cầu thị hiếu, bao bì... sản phẩm, đưa ra các thông sỗ kỹ thuật cải tiến cho sản phẩm
để sản xuất sản phẩm mẫu thăm dò thị trường. Bộ phận marketing phải được hoạt động
độc lập, đem hết trí lực và công tác nghiên cứu thăm dò thị trường, có như thế mới
mang lại hiệu quả cao cho công tác này. Trong thời gian tới, Công ty nên thành lập
phòng Marketing với một cơ cấu như sau:
Theo mô hình trên, Phòng Marketing của Công ty bao gồm 3 bộ phận:
- Bộ phận nghiên cứu thị trường truyền thống: Mục đích giữ vững và mở rộng
thị trường cho Công ty. Bộ phận này nghiên cứu về nhu cầu, sở thích quy mô và cách
xâm nhập thị trường mới.
- Bộ phận marketing nghiên cứu những vấn đề chung:
Hình thức tổ chức này thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược khai thá và mở
rộng thị trường, đi sâu vào những đặc điểm mang tính đặc thù của khu vực thị trường
riêng.
Nghiên cứu thị trường bằng cách dựa trên cơ sở các tài liệu nghiên cứu như các
bảng tin kinh tế và giá cả thông tấn xã, các bảng tin thương mại do Trung tâm Thông
tin kinh tế đối ngoại xuất bản, Tạp chí Thương mại, Tạp chí Công nghiệp,... và đặc
biệt quan trọng là bằng những thông tin thu nhập từ việc nghiên cứu thăm dò thực tế.
Căn cứ vào nhu cầu thị trường, thị hiếu khách hàng, căn cứ vào các mẫu rượu
đang được thị trường tiêu dùng mà phòng Marketing rút ra thông tin cần thiết cho
Công ty mình.
Sản xuất một lượng nhỏ sản phẩm mẫu để quảng cáo, thăm dò thị trường.
Nghiên cứu đề xuất biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng và năng lực sản
xuất, đổi mới hình thức, mẫm mã, bao bì sản phẩm...
Thu nhập thông tin phản ánh thị trường về những sản phẩm của Công ty, xử lý
thông tin để đưa vào sản xuất. Nghiên cứu xây dựng chiến lược khuyến mại hợp lý, áp
dụng cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn phát triển sản phẩm của Công ty, đặc biệt
Marketing
nghiên cứu thị
trường mới
Marketing
nghiên cứu
chung
Marketing
nghiên cứu thị
trường
Phòng marketing
chú ý đến chiến lược quảng cáo và xúc tiến bán hàng thông qua mạng lưới thông tin
đại chúng như đài, vô tuyến, báo chí... Công ty nên thực hiện quảng cáo từng đợt để
tìm kiếm bạn hàng, đồng thời học hỏi kinh nghiệm.
Hoạt động Marketing thực hiện các dịch vụ sau khi bán hàng để qua đó bảo đảm
duy trì chất lượng sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất.
Marketing lấy việc thoả mãn tối đa nhu cầu người tiêu dùng, lấy hiệu quả kinh
tế làm thước đo giá trị cho mọi hoạt động. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ đánh giá
đúng chất lượng sản phẩm của Công ty.
Công ty cần đảm bảo rằng nhân viên Marketing phải có kiến thức về Marketing,
khả năng thu nhập và xử lý thông tin, đã qua đào tạo các lớp về nghiệp vụ Marketing
có khả năng sáng tạo, năng động trong công việc, có kinh nghiệm trong ngành chế biến
thực phẩm, biết xử lý các thông tin thu thập được để sáng tạo các kiểu dáng, mẫu mã,
chất lượng sản phẩm mới... cùng với phòng kỹ thuật hình thành sản phẩm đẻ khi tung
sản phẩm ra thị trường mới giành được sự mến mộ, ưa chuộng của người tiêu dùng.
Hơn nữa trang thiết bị phải được trang bị đầy đủ để có điều kiện tốt cho công tác thu
thập, xử lý lựa chọn thông tin.
c) Hiệu quả mang lại của giải pháp.
Việc tăng cường hoạt động Marketing đem lại hiệu quả đáng kể cho Công ty.
Công ty sẽ đạt được các tiêu chuẩn như quản lý chất lượng, công nghệ hiện đại, khắc
phục tình trạng sản phẩm phế phẩm và thứ phẩm... Nhưng nếu như chính phẩm đó lại
không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì khả năng tiêu thụ sản phẩm rất thấp và
không đạt yêu cầu của chất lượng tối ưu. Đạt chất lượng tối ưu là mục tiêu lâu dài cần
phấn đấu của Công ty. Vì vậy việc thành lập phòng Marketing sẽ giải quyết cho Công
ty tình trạng đi lệch hướng yêu cầu của thị trường. Công ty sẽ tiến hnhf nghiên cứu thị
trường trước khi sản xuất, sản xuất cái mà thị trường cần chứ không phải sản xuất cái
mà mình có. Các mẫu mã qua sàng lọc của phòng Marketing sẽ phù hợp với yêu cầu
của khách hàng, sẽ tìm cho Công ty thị trường mới và xác định mỗi loại thị trường cần
sản phẩm nào.
Hoạt động Marketing có ý nghĩa nhiều mặt, riêng về chất lượng sản phẩm thì
phòng Marketing đã hỗ trợ trong việc đảm bảo cho Công ty phấn đấu chất lượng tối
ưu.
2.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng ở mọi khâu, mọi công đoạn
của quá trình sản xuất.
a) Cơ sở đề xuất
Là một Công ty với hơn 100 năm hình thành phát triển, sản phẩm Rượu của
Công ty đã đi vào lòng người dân cả nước. chất lượng Rượu ngày càng được nâng cao
phần nào thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Tuy nhiên để tiếp tục nâng cao chất lượng
sản phẩm, Công ty phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát chất lượng. Vì công
tác kiểm tra chất lượng là hoạt động gắn liền với quá trình sản xuất nhằm hạn chế và
ngăn ngừa những khuyết tật, sai sót xảy ra đố với chất lượng sản phẩm nhằm phát hiện
và loại bỏ những sản phẩm không đạt yêu cầu về chất lượng mà Công ty đã đặt ra...
Với đặc điểm của Công ty là sản xuất sản phẩm có số lượng lớn quy trình công
nghệ dài, trải qua nhiều quá trình liên quan với nhau, chất lượng sản phẩm của khâu
này sẽ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm của khâu tiếp theo, có thể người công nhân
cũng đã nhận thức được vai trò của chất lượng, song không phải tất cả mọi người đều
tự giác trong công việc của mình. Vì vậy việc tổ chức tốt công tác kiểm tra, giám sát
chất lượng ở mọi khâu, mọi công đoạn là biện pháp rất cần thiết đối với Công ty hiện
nay.
b) Nội dung của giải pháp.
Để thực hiện biện pháp này có hiệu quả, Công ty cần thực hiện tốt các hoạt
động sau:
* Công ty nên tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm,
đặc biệt là đối với đơn hàng của các Công ty không có chuyên gia giám sát.
Quá trình sản xuất Rượu gồm nhiều khâu nhiều giai đoạn, nếu chỉ cần lơ là
không thực hiện đúng quy trình công nghệ hoặc việc so sánh dựa trên mẫu đối không
chính xác là có thể gây ra sai sót hàng loạt, mang lại hiệu quả nghiêm trọng, đặc biệt là
đối với rượu xuất khẩu đòi hỏi chất lượng cao và khắt khe hơn. Bởi vậy Công ty cần
tăng cường thực hiện kiểm tra, giám sát ở 3 cấp: cấp Công ty, cấp phân xưởng, tổ sản
xuất.
- ở cấp Công ty, việc thực hiện kiểm tra do phòng KCS trực tiếp tiến hành và
đưa ra kết luận về sản phẩm.
- cán bộ kỹ thuật ở từng phân xưởng có nhiệm vụ:
+ Kiểm tra thường xuyên trên dây chuyền.
+ Giải quyết các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
+ Ghi nhận các kết quả của từng cá nhân trong phân xưởng.
- Tổ sản xuất tự kiểm tra trong phần công việc của mình. Hơn nữa Công ty cần
phát huy vai trò quản lý, tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm vật chất đối với các
tổ trưởng sản xuất các quản đốc phân xưởng. Trưởng các bộ phận sản xuất phải có
trách nhiệm nhắc nhở và cùng với công nhân viên kiểm tra chất lượng thường xuyên
từng công đoạn sản xuất. Cần thiết lập một chế độ thưởng phạt nghiêm ngặt đố với
công nhân sản xuất cũng như cán bộ quản lý trực tiếp trong việc đảm bảo chất lượng
sản phẩm.
Kết luận
======================
Trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, để đứng vững và tiếp tục phát triển,
mỗi doanh nghiệp cần nâng cao công tác quản trị, phát huy các mặt mạnh vốn có của
mình và hoàn thiện các điểm yếu. Thực tế cho thấy, đối với doanh nghiệp trực tiếp sản
xuất kinh doanh thì công tác quản lýchất lượng sản phẩm đóng vai trò hết sức quan
trọng trong khả năng cạnh tranh và cơ hội phát triển của doanh ngiệp.
Tài liệu tham khảo
1. Quản lý chất lượng đồng bộ - NXB Thống kê - 1994.
2. Đổi mới quản lý chất lượng sản phẩm trong thời kỳ mới
Hoàng Mạnh Tuấn.
3. Những vấn đề về quản lý chất lượng- Viện thông tin khoa học
-Học viện hành chích quốc gia - Hà Nội.
4. Khôi phục doanh nghiệp cần thiết - NXB Thống Kê.
5. Những biện pháp hoàn thiện quản lý chất lượng chong một số
doanh nghiệp Việt nam - GS - TS Nguyễn Đình Phan.
6. 100 năm công ty bia rượu Hà Nội - NXB Thống kê - 1998.
7. Văn hoá rượu -NXB Vă hóa thông tin 1998.
8. Chiến lược phát triển ngành rượu - bia nước rải khát năm 2000
- Bộ công ngiệp nhẹ.
9. Luật văn hoá trước.
10. Các tài liệu khác.
Đề tài:
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2_8647.pdf