Tiểu luận Một số giải pháp nhằm nâng cao khảnăng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam

Thứ ba, nhà nước cần phải có các chính sách kịp thời và đủ mạnh để bảo hộ và tạo điều kiện cho ngành cơ khí trong nớc phát triển. Đó là các chính sách bảo hộ sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm, hạn chế nhập khẩu những sản phẩm cơ khí mà trong nước ta đã có năng lực sản xuất tốt, bổ sung hoàn chỉnh các quy chế đấu thầu, chỉ định thầu đối với việc chế tạo trong nước các dây chuyền thiết bị toàn bộ để tạo thị trường cho sản phẩm cơ khí, khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng thiết bị trong nước đạt hiệu quả kinh tế cao.

pdf26 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2584 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số giải pháp nhằm nâng cao khảnăng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không có khả năng dáp ứng đầu vào cho ngành cơ khí. Cha có công nghiệp luyện nhôm và đồng. Tơng tự nh vậy, cung ứng các loại nguyên liệu chuyên dùng khác cũng bị hạn chế và các doanh nghiệp dựa vào các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nớc đang gặp phải biến động thờng xuyên do việc cung ứng không ổn định II. Phân tích và đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam. 1.Thực trạng khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay. 1.1. Đánh giá tổng quan khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành cơ khí Việt Nam hiện nay. Hiện nay, ngành cơ khí có 1599 doanh nghiệp trong nớc và gần 30000 hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp cơ khí với giá trị tài sản gần 500 triệu USD sản xuất khoảng 7000 tỷ đồng giá trị sản lợng với hơn 500 chủng loại sản phẩm nh các máy công cụ, động cơ diesel, động cơ điện, động cơ xăng. xe vận tải và máy kéo nhỏ ( 12 CV )... Nhiều sản phẩm mới cha bao giờ nớc ta tự sản xuất trong thời kỳ trớc năm 1990 nh xe máy, thiết bị kết cấu khối lợng siêu trờng, siêu trọng, thiết bị tham gia vào các công trình lớn nh xi măng, đờng mía, thuỷ điện, nhiệt điện, luyện kim, khai thác dầu khí... đã lần lợt ra đời. Có thể nói, trong hơn 10 năm đổi mới vừa qua, ngành cơ khí đã có rất nhiều nỗ lực. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là quá trình thích nghi để không bị tụt lùi, để tồn tại nên đến nay ngành chỉ đáp ứng đợc 8- 9% nhu cầu của nền kinh tế quốc dân và trên tổng thể ngành vẫn ở bên bờ của khủng hoảng. Hầu hết các doanh nghiệp cơ khí đang ở trạng thái hoạt động yếu và không có tính cạnh tranh quốc tế. Trớc hết, sức sản xuất của ngành công nghiệp cơ khí hiện nay vẫn còn quá nhỏ bé cha đáp ứng đợc nhu cầu của thị trờng, kể cả thị trờng trong nớc và thị trờng nớc ngoài. Thị trờng trong nớc : Đất nớc ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá nên nhu cầu về các sản phẩm của ngành cơ khí rất cao, đặc biệt là nhu cầu về các thiết bị cho các ngành sản xuất công nghiệp, nhu cầu về máy móc phục vụ giao thông vận tải, nông nghiệp... Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, nhu cầu về các sản phẩm cơ khí lại càng tăng nhanh và đa dạng đặc biệt là nhu cầu về thiết bị đồng bộ để cải tạo đầu t chiều sâu, xây dựng các nhà máy mới và các loại hàng tiêu dùng cao cấp. Các mặt hàng này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch nhập khẩu của nớc ta trong thời kỳ dổi mới. Theo số liệu của các cơ quan có thẩm quyền hàng năm nớc ta nhập khẩu khoảng 3,5 tỷ thiết bị máy móc, phơng tiện vận tải, phụ tùng... trong đó một nửa là thiết bị lẻ, dịch vụ, phụ tùng và một nửa là thiết bị toàn bộ cho các ngành công nghiệp khác nhau. Nếu coi lợng nhập khẩu này cộng với khối lợng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong nớc là nhu cầu thực tế của thị trờng thì nhu cầu hàng năm về sản phẩm cơ khí trong cả nớc là vào khoảng 3,8 đến 4 tỷ USD. Đó là một nhu cầu rất lớn, là cơ hội cho các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam. Tuy nhiên, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam rất yếu kém, cha đáp ứng đợc nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Trớc hết, phải thừa nhận rằng trong mời năm đổi mới vừa qua, ngành cơ khí cũng đã có những bớc phát triển nhất định nh : Năm 2000 giá trị tổng sản lợng của toàn ngành cơ khí đạt trên 19115 tỷ đồng, tăng gấp gần 2,26 lần chỉ tiêu này của năm 1995, đạt tốc độ tăng trởng bình quân hàng năm trong giai đoạn 1996-2000 là 17,7%. Tuy nhiên so với nhu cầu thì con số đó còn quá nhỏ bé. Năm 1996, ngành cơ khí mới chỉ đáp ứng đợc khoảng 8% nhu cầu trong nớc. Còn hiện nay, mặc dù có sự tăng trởng đáng kể, song ngành cơ khí cũng mới chỉ đáp ứng đợc khoảng 10% nhu cầu đó. Và giá trị sản lợng của toàn ngành cơ khí chỉ chiếm khoảng 9% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành công nghiệp trong khi đó vốn đầu t chiếm hơn 10% và số lao động chiếm khoảng 8,4% ( hơn 224000 ngời lao động). Vì vậy, chúng ta phải nhập khẩu phần lớn máy móc-thiết bị phục vụ cho các ngành sản xuất cũng nh các sản phẩm tiêu dùng cao cấp mà ngành cơ khí không đáp ứng đợc nhu cầu. Đây là một vấn đề lớn mà ngành cơ khí Việt Nam cần phải xem xét và có chiến lợc khắc phục tình trạng này. Thị trờng Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị 3 năm trở lại đây. Đơn vị : tỷ đồng Thời gian 1997 1998 1999 Tổng kim ngạch nhập khẩu trong cả nớc 15592,3 11499,6 11636 Kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị 3511,5 3511,3 2749 Tỷ lệ phần nhập máy móc thiết bị cơ khí trong tổng kim ngạch nhập khẩu 30,3% 30,55% 23,6% Từ thực trạng khả năng sản xuất nh trên, thị phần của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam rất khiêm tốn. Phần lớn thị phần của các sản phẩm cơ khí của nớc ta bị Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản... chiếm giữ. Các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ bé. Một số sản phẩm của ngành cơ khí đang bị mất dần thị trờng tiêu thụ ngay trong nớc, đặc biệt trong việc sản xuất và cung cấp thiết bị toàn bộ. Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam thời gian qua đã nhập hàng tỷ USD thiết bị, máy móc nh chơng trình các nhà máy xi măng lò đứng, lò quay, thiết bị mía đờng, thiết bị nhà máy bia, thiết bị dầu khí... trong khi các đơn đặt hàng của ngành cơ khí Việt Nam vẫn ở “ bên ngoài” hoặc nếu có tham gia thì chỉ ở dạng nhà thầu phụ với khối lợng rất ít ỏi và rẻ mạt. Thí dụ nh công trình xây dựng nhà máy điện Phả Lại, cần khoảng 25000 tấn thiết bị cơ khí phi tiêu chuẩn trị giá khoảng 30 triệu USD, tuy nhiên sự tham gia của các tổng công ty lớn nh Tổng công ty Coma, Tổng công ty lắp máy Việt Nam LILAMA... chỉ với t cách là nhà thầu phụ, thậm chí phụ của thầu phụ. Với t cách này phần mà các doanh nghiệp Việt Nam đợc hởng chỉ bằng khoảng gần 40% giá trị các nhà thầu chính có đợc. Hay trên thị trờng máy động lực và nông nghiệp : Theo con số thống kê hàng năm, thị trờng nớc ta tiêu thụ khoảng 100000 máy động cơ diesel và 30000 máy kéo hai bánh loại nhỏ. Trong đó, hàng Trung Quốc chiếm khoảng 65% thị phần, 20% của các nớc Nhật Bản, Hàn Quốc... còn lại 15% thị phần là của hàng Việt Nam. Nh vậy, thị trờng thì rộng lớn nhng thị phần lại quá nhỏ bé. Một ví dụ nữa là thị trờng máy bơm: Hiện nay nhu cầu về máy bơm nớc của ngời dân rất cao, đặc biệt là ở các đô thị. Nhng trên thị trờng cung cấp máy bơm hầu nh không thấy sản phẩm của Việt Nam. Theo số liệu điều tra, trên thị trờng máy bơm hiện nay, máy bơm Trung Quốc chiếm tới 48%, Hàn Quốc chiếm 30%, ngoài ra là sản phẩm của Nhật Bản, Italia... Máy bơm Việt Nam chỉ chiếm số thị phần nhỏ bé còn lại. Thị trờng ngoài nớc : Xuất khẩu sản phẩm cơ khí là mong muốn từ lâu của những ngời công tác trong ngành cơ khí vì nó là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển ngành này. Nhiều năm qua, ngành cơ khí đã xuất khẩu nhiều sản phẩm của mình sang các nớc Đông Âu, nhng đó là những sản phẩm có trình độ công nghệ thấp nh các loại kìm, cờ lê, mỏ lết... theo sự phân công của khối SEV nên giá trị xuất khẩu thấp. Mấy năm gần đây, ngành đã xuất khẩu một số sản phẩm có trình độ cao, tuy nhiên giá trị xuất khẩu rất nhỏ bé chỉ chiếm khoảng 0,1% tổng giá trị xuất khẩu của cả nớc. Tỷ lệ này quá nhỏ bé so với các nớc công nghiệp phát triển, tỷ lệ này là 35% đến 40%. Trong những năm gần đây, giá trị xuất khẩu có tăng lên song rất chậm chạp. Qua đó, có thể thấy các sản phẩm cơ khí của nớc ta yếu tính cạnh tranh quốc tế. 1.2. Phân tích khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam. Trong hơn 10 năm đổi mới vừa qua, đặc biệt là trong 5 năm gần đây ( 1995-2000) ngành cơ khí Việt Nam đã có tốc độ tăng trởng khá, nhiều dấu hiệu đáng mừng song trên thực tế do năng lực sản xuất còn yếu kém lại phải đơng đầu với những đối thủ cạnh tranh lớn, đặc biệt là Trung Quốc, nên khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí nớc ta còn rất thấp kém. Để thấy rõ khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam, ta phân tích ở một số điểm chủ yếu sau : 1.2.1. Cạnh tranh bằng chất lợng sản phẩm. Ngành cơ khí Việt Nam cung cấp một phạm vi sản phẩm khá rộng. Các sản phẩm của ngành cơ khí bao gồm các máy công cụ, động cơ diesel, động cơ điện, động cơ xăng, xe vận tải và máy kéo nhỏ, tàu sông và tàu biển, các thiết bị phục vụ sản xuất, xây dựng... Song nhìn chung thì chỉ có một số lợng nhỏ các sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trờng trong nớc, còn lại phần lớn các sản phẩm là không có tính cạnh tranh và rất ít sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trờng quốc tế. Trớc hết, phải khẳng định rằng, trong những năm đổi mới vừa qua ngành cơ khí cũng đã có rất nhiều nỗ lực trong việc đổi mới thiết bị, mở rộng chủng loại sản phẩm, nâng cao chất lợng sản phẩm để ngày càng đáp ứng nhu cầu thị trờng song trên thực tế chất lợng sản phẩm nói chung của cả ngành cơ khí còn cha phù hợp với yêu cầu của thị trờng . Từ đó dẫn đến sản phẩm có khả năng tiêu thụ kém và khó có khả năng xuất khẩu. Đối với thiết bị toàn bộ : Thiết bị toàn bộ đợc hiểu là một dây chuyền công nghệ hoàn chỉnh liên hoàn nhằm sản xuất ra một hoặc là một số loại sản phẩm nhất định hoặc thực hiện một chức năng nhất định có giá trị lớn ( một vài triệu đồng ). Thiết bị toàn bộ nào cũng bao gồm nhiều chi tiết, cụm chi tiết cấu thành, trong đó thiết bị đơn giản, thiết bị đồng dạng mà dây chuyền nào cũng có nh : bồn, bệ, tháp, băng tải, đờng ống.... chiếm một tỷ trọng không nhỏ. Trong thời gian gần đây, ngành cơ khí Việt Nam đã cung cấp đợc khá nhiều thiết bị đồng bộ cho các ngành sản xuất vật chất trong nớc. Trong lĩnh vực điện khí hoá, ngành cơ khí Việt Nam đã có thể tham gia chế tạo các công trình thuỷ điện lớn với công suất tổ máy đến 300MW, có thể chế tạo đợc các loại kết cấu thép, hệ thống cấp nớc, hệ thống ngng tụ, các máy nghiền than, băng tải, hệ thống lọc bụi... tơng đơng 35% tổng giá trị thiết bị toàn bộ của công trình. Trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, hiện ngành cơ khí đã chế tạo đợc toàn bộ dây chuyền xi măng lò đứng có công suất 60 nghìn tấn / năm, trạm trộn bê tông 100m³ / giờ... Đối với thiết bị giao thông vận tải, ngành cơ khí có khả năng đáp ứng yêu cầu trong nớc về các trạm nghiền sàng đá, trộn đá cấp phối, trạm trộn bê tông nhựa nóng... Đối với thiết bị chế biến nông sản ngành cơ khí có thể chế tạo phần lớn thiết bị cho nhà máy đờng công suất 300 tấn mía/ ngày ; thiết bị cho các dây chuyền chế biến cà phê, chè, mủ cao su, xay xát gạo, sản xuất mỳ ăn liền, bánh kẹo... và một phần thiết bị cho nhà máy bia công suất 50triệu lít/ năm. Nh vậy, có thể nói trong lĩnh vực sản xuất, cung cấp thiết bị toàn bộ, ngành cơ khí đã có những nỗ lực lớn để cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nớc. Tuỳ theo từng loại thiết bị toàn bộ cơ khí trong nớc có thể làm đợc thấp khoảng 35%-40%, cao là 60%-70% giá trị thiết bị toàn bộ và giá thấp hơn giá nhập từ 15%-20% tuỳ theo xuất xứ thiết bị. Tuy nhiên trên thực tế, phần lớn các máy móc thiết bị toàn bộ ở nớc ta đều là các thiết bị nhập khẩu, kể cả những thiết bị mà trong nớc đã sản xuất đợc. Trong thời gian vừa qua, ngành cơ khí mới chỉ cung cấp đợc một số dây chuyền cỡ nhỏ, giá trị không lớn cho ngành xây dựng, sơ chế nông sản và làm thầu phụ cho các công trình công nghiệp đầu t lớn. Ngay cả chơng trình lớn về chế biến nông sản là mía đờng, sản xuất lại rất phù hợp với khả năng ngành cơ khí trong nớc nhng trong số 25 công trình mía đờng xây dựng mới bằng vốn trong nớc trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 chỉ có hai công trình của tỉnh Khánh Hoà đợc tỉnh giao cho công ty đờng của tỉnh làm chủ thầu. Nh vậy, máy móc thiết bị toàn bộ của Việt Nam cha có đủ khả năng cạnh tranh bằng chất lợng sản phẩm đối với thiết bị ngoại nhập. Chính vì vậy mà nớc ta phải nhập hầu hết các thiết bị toàn bộ, chiếm khoảng 1/ 3 kim ngạch nhập khẩu của toàn ngành cơ khí. Dự đoán kế hoạch 5 năm này sẽ nhập khoảng 9-10 tỷ USD và kế hoạch 5 năm tiếp theo sẽ nhập khoảng 15-17 tỷ USD. Lý do chính của tình trạng này là do thiết bị toàn bộ của Việt Nam ít về chủng loại, nhỏ bé về khối lợng cung cấp hơn nữa, các nhà đầu t cha tin tởng vào chất lợng của thiết bị toàn bộ trong nớc. Đối với thiết bị lẻ, dụng cụ, phụ tùng : Đây là các sản phẩm mà sau khi sản xuất xong có thể đợc sử dụng một cách độc lập hoặc đợc bán ngay ra thị trờng mà không nhất thiết phải gắn kết với các sản phẩm cơ khí khác. Đặc điểm thứ hai của nhóm sản phẩm này là giá trị một sản phẩm không quá lớn ( tối đa 400-500 ngàn USD ). Nhóm này có thể bao gồm phơng tiện vận tải bộ, động cơ diezel, thiết bị nông nghiệp, thiết bị điện, thiết bị cơ điện, điện tử, hàng tiêu dùng ( quạt, điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, máy giặt...), máy gia công kim loại, các dụng cụ, phụ tùng cầm tay... So với thiết bị toàn bộ, nhóm này có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Một số sản phẩm đã có thị trờng ổn định ở trong nớc, một số sản phẩm đã có thể vơn ra xuất khẩu. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam về chất lợng sản phẩm vẫn còn rất yếu kém. Đó chính là nguyên nhân khiến các sản phẩm cơ khí của Trung Quốc chiếm lĩnh hầu hết thị trờng trong cả nớc. Chúng ta sẽ phân tích một số mặt hàng và một số công ty để thấy rõ điều đó. Trên thị trờng động cơ diesel : Theo những nhà quản lý của VINAPRO ( nhà sản xuất động cơ diesel hàng đầu của Việt Nam ) thì công ty của họ có thị phần chỉ khoảng 5% trong khi đó động cơ của Đài Loan, Trung Quốc và động cơ cũ nhập khẩu ( chủ yếu của Nhật Bản ) chiếm lĩnh hầu nh 95% thị phần còn lại. Công ty cơ khí Trần Hng Đạo cũng sản xuất động cơ diesel . Sản phẩm chủ yếu của công ty là D12 – là loại động cơ nhỏ sản xuất theo mẫu của Trung Quốc. Theo những nhà quản lý, động cơ đã bị hỏng thờng xuyên, có một hệ thống nhiên liệu không hoàn hảo, chảy dầu, quá ồn và khó khởi động. Những nhà quản lý cho rằng, động cơ Trung Quốc nhìn chung là rẻ hơn, đợc thiết kế tốt hơn và nói chung là chất lợng cao hơn. Có ba doanh nghiệp sản xuất máy kéo ở Việt Nam. Một trong những máy kéo phù hợp nhất với vận tải trong nông nghiệp là máy kéo nhỏ Bông Sen ( 12CV ). Tuy nhiên, việc tiêu thụ sản phẩm này rất chậm vì chất lợng của máy kéo thấp mà giá cả lại cao hơn hàng ngoại nhập. Đối với xe đạp : Xe đạp đã đợc chế tạo ở Việt Nam từ những năm 1940 và ngành đã phát triển rất nhanh cho đến cuối những năm 1980. Trong thập kỷ gần đây, công nghiệp xe đạp đã giảm mạnh về sản lợng, cả xe hoàn chỉnh và khung xe vào năm 1996 chỉ bằng khoảng 50% khối lợng sản xuất của năm 1985. Nhiều ngời tiêu dùng cho rằng xe đạp Việt Nam chất lợng thấp, thiết kế xấu, không phù hợp. Bên cạnh đó cũng có một số nhóm sản phẩm đợc đánh giá có khả năng cạnh tranh cao nh : máy nổ, máy xay xát, nồi chảo inox... Các chuyên gia đã xếp nhóm này vào nhóm những sản phẩm có khả năng cạnh tranh với các nớc ASEAN. Các sản phẩm này thực tế trong những năm qua đã từng bớc cạnh tranh đợc với hàng của Trung Quốc và hàng máy cũ của Nhật Bản trên thị trờng nội địa và đã xuất khẩu sang nhiều nớc trong và ngoài khu vực; tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm 2000 trung bình đạt 5,5%. Nói tóm lại khả năng cạnh tranh bằng chất lợng sản phẩm của ngành cơ khí hiện nay rất thấp. Bên cạnh một số ít sản phẩm, một số ít doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao trong thị trờng nội địa và vơn ra xuất khẩu thì hầu hết các doanh nghiệp cơ khí không cạnh tranh nổi với sản phẩm ngoại nhập, đánh mất dần thị trờng trong nớc. Vì vậy, nâng cao chất lợng sản phẩm, cải tiến mẫu mã là một yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay. 1.2.2. Cạnh tranh bằng giá cả Các sản phẩm cơ khí của Việt Nam hiện nay nhìn chung sức cạnh tranh về giá cả rất thấp. Hầu hết các sản phẩm cơ khí Việt Nam đều có giá cao hơn so với Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh chính trên thị trờng. Theo số liệu của Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam ( VEAM), thị trờng máy nông nghiệp Việt Nam đang bị máy Trung Quốc thao túng. Lý do máy Việt Nam phải rút khỏi sân nhà là hàng của ta không đủ sức cạnh tranh về giá cả so với hàng của Trung Quốc. Thông thờng, máy nông nghiệp Trung Quốc rẻ hơn máy Việt Nam từ 15%-30%. Ví dụ, động cơ 15 mã lực của Trung Quốc hiện bán trên thị trờng Việt Nam là 4,5-4,7 triệu đồng một chiếc; cùng loại động cơ này do Việt Nam sản xuất bán với giá 500-600USD trong khi động cơ chính hiệu của Nhật Bản có giá 1300USD. Hay trên thị trờng máy nổ, máy nổ của Trung Quốc giá thấp chiếm 80% thị phần. Giá một máy nổ của Trung Quốc công suất 12 mã lực là 4 triệu đồng nhng máy nổ của Việt Nam là 6,6 triệu đồng. Máy sát gạo của Việt Nam giá 1,7-1,9 triệu đồng một chiếc trong khi đó giá một chiếc máy sát gạo của Trung Quốc chỉ bằng một nửa. Máy Trung Quốc không chỉ rẻ hơn mà còn dễ thay thế phụ tùng hơn với chi phí rẻ hơn so với máy của Việt Nam. Ví dụ, một bộ Visai của Trung Quốc giá chỉ có 7 triệu, thay một bánh răng chỉ khoảng 90000- 100000 đồng. Trong khi đó, một bộ Visai của Việt Nam giá 8 triệu đồng, thay một bánh răng hết tới 150000 đồng, mà theo đánh giá của ngời tiêu dùng thì độ bền của 2 sản phẩm là nh nhau. Một ví dụ khác là sản phẩm máy bơm nớc. Máy bơm nớc của Việt Nam hiện nay vẫn cha hấp dẫn đợc ngời tiêu dùng. Một lý do chính là do giá cao. Hiện nay trên thị trờng Việt Nam, một máy bơm nớc của Trung Quốc chỉ khoảng 200-300 ngàn đồng một chiếc. Trong khi đó, máy bơm của Việt Nam từ 700-800 ngàn đến hơn 1 triệu đồng một chiếc. Máy của Hàn Quốc chất lợng cao hơn cũng chỉ từ 800000 đồng đến 2 triệu đồng một chiếc. Chính vì vậy mà máy bơm của Việt Nam cha cạnh tranh đợc với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Sở dĩ các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam không có khả năng cạnh tranh về giá cả là do chi phí sản xuất cao. Đó là do 3 nguyên nhân sau : Thứ nhất, lợi thế giá công nhân rẻ của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đang mất dần đi, do tiền lơng trung bình tăng lên và do năng suất lao động thấp tơng đối so với các nớc khác trong khu vực. Thứ hai, do các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu làm cho chi phí sản xuất sản phẩm tăng lên. Thứ ba, công nghệ cũ lạc hậu cùng với trình độ quản lý kém làm cho mức chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, năng lợng, các chi phí trung gian khác cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Có thể nói tất cả những nguyên nhân trên làm cho cạnh tranh bằng giá bị hạn chế. Đó cũng là yếu tố chính dẫn đến tình trạng cạnh tranh yếu kém của ngành công nghiệp cơ khí. II. Thực trạng hoạt động nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay. 1. Lĩnh vực sản xuất Lĩnh vực sản xuất có vai trò rất quan trọng. Tổ chức sản xuất hợp lý sẽ góp phần to lớn vào việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực : nguyên, nhiên, vật liệu, thiết bị công nghệ và ngời lao động để sản xuất đợc những sản phẩm có chất lợng cao, giá thành hạ từ đó nâng cao sức cạnh tranh trên thị trờng. Tuy nhiên tình hình sản xuất của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay còn rất nhiều điểm yếu kém, thể hiện ở những điểm sau đây : Thứ nhất,việc cung ứng nguyên vật liệu cha đảm bảo yêu cầu : Việt Nam có một số các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho việc sản xuất các sản phẩm của ngành cơ khí, đặc biệt là các loại quặng và bôxit. Tuy nhiên ngành công nghiệp kim loại cơ bản trong nớc lại kém phát triển và vì vậy phần lớn các vật t cần thiết cho ngành cơ khí phải nhập khẩu từ nớc ngoài. Tơng tự nh vậy, việc cung ứng các loại nguyên vật liệu chuyên dùng khác cũng bị hạn chế và các doanh nghiệp dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có trong nớc đang gặp phải biến động thờng xuyên do việc cung ứng không ổn đinh. Tình hình trên đã làm cho giá thành sản phẩm của cơ khí Việt Nam rất cao. Các doanh nghiệp trong ngành cơ khí Việt Nam đều muốn hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh song cha thể thực hiện đợc. Theo Tổng công ty động lực và máy nông nghiệp Việt Nam ( VEAM ), trong thời gian qua công ty đã nghĩ nhiều đến việc hạ giá thành nhng gặp rất nhiều khó khăn vì nguyên liệu đầu vào từ kim loại đen, kim loại màu đến chất dẻo, sơn, hoá chất... để làm ra động cơ đều phải nhập khẩu. Do đó, phải chịu thuế nhập khẩu, chi phí lu thông... nên giá thành càng cao. Thứ hai, năng lực công nghệ hạn chế : Việc sản xuất trong ngành cơ khí bị hạn chế bởi máy móc cũ kỹ và các hệ thống sản xuất lỗi thời. Theo Bộ trởng Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trờng, trình độ công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam chỉ tơng đơng với thời kỳ cách đây 30-50 năm của các nớc trung bình trên thế giới, lạc hậu hơn các nớc tiên tiến từ 50-100 năm. Dựa trên các tiến bộ của công nghệ thông tin hiện đại, trong những năm gần đây, các phơng pháp chế tác trên toàn thế giới đã không ngừng đợc cải tiến. Các công cụ máy móc điều khiển bằng máy điện toán kỹ thuật số CNC, việc thiết kế và chế tác có trợ giúp của máy tính ( CAD/CAM ), tự động hoá các chức năng với các bộ điều khiển chơng trình lôgic ( PLC ) là những phát minh đã làm thay đổi một cách mạnh mẽ phơng pháp sản xuất ra các loại sản phẩm của thời đại ngày nay. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất cơ khí ở Việt Nam hiện nay hoạt động ở quy mô khá nhỏ theo tiêu chuẩn quốc tế và với các phơng tiện sản xuất rất cũ kỹ, lạc hậu. Mặc dù có một số lợng khá lớn máy công cụ đợc vận hành trong ngành cơ khí nhng chỉ có một số lợng nhỏ là máy CNC. Phụ tùng và linh kiện thông thờng đang đợc chế tạo bằng những máy vạn năng, không có khả năng đảm bảo tiêu chuẩn về độ chính xác cao. Các hệ thống CAD/CAM dùng cho mục tiêu thiết kế sản phẩm vẫn còn hiếm, và hệ thống phân tích, kiểm soát vật liệu hiện đại cũng thiếu. Nói chung, trình độ công nghệ thực tế ở tất cả các giai đoạn chủ yếu của quá trình sản xuất cơ khí từ thiết kế mẫu, tạo khuân, rèn, đúc, tạo hình xử lý hoàn tất và lắp ráp không phù hợp để sản xuất các sản phẩm có chất lợng cao và hiệu suất cao. Thứ ba, tổ chức quản lý sản xuất trong ngành cơ khí nhìn chung còn khép kín, thiếu chuyên môn hoá và mức độ hiệp tác hoá còn thấp. Cơ cấu sản phẩm không đợc điều chỉnh, tự phát, sản phẩm đơn giản đua nhau làm đến mức thừa, những sản phẩm yêun cầu kỹ thuật cao thì không đủ sức sản xuất. Thêm vào đó, là công tác quản lý còn nhiều yếu kém và bất cập. Có thể nói, cung ứng nguyên vật liệu không đảm bảo, trình độ công nghệ lạc hậu cộng với các biện pháp tổ chức quản lý sản xuất kém hiệu quả đã làm cho tình hình sản xuất ở các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam cha đáp ứng đợc yêu cầu ngày càng cao của thị trờng cạnh tranh khốc liệt. 2. Lĩnh vực nhân sự Nguồn nhân lực luôn là một nguồn lực quan trọng đối với mọi ngành sản xuất. Đối với ngành cơ khí, vai trò của nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng hơn vì lao động trong ngành cơ khí phần lớn đều đòi hỏi có trình độ kỹ thuật, có tay nghề. Và trình độ của ngời lao động trong công nghiệp cơ khí có ảnh hởng rất lớn đến chất lợng sản phẩm. Tuy nhiên trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay công tác quản trị lĩnh vực nhân sự đang có nhiều bất cập từ khâu tuyển chọn nguồn nhân lực cho đến sử dụng cũng nh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Về công tác tuyển chọn nguồn nhân lực cho ngành cơ khí : Mặc dù lực lợng lao động nớc ta rất dồi dào, song lao động có trình độ kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu làm việc trong ngành cơ khí với các máy móc, thiết bị hiện đại không nhiều. Vì vậy, việc tuyển chọn đợc một lực lợng lao động có tay nghề cao đáp ứng yêu cầu của sản xuất vẫn là một nhiệm vụ khó khăn đối với ngành cơ khí. Một bất lợi nữa đối với việc tuyển chọn nguồn nhân lực cho ngành cơ khí là số lợng sinh viên theo học các ngành cơ khí ít, sau khi ra trờng lại thờng không muốn làm việc trong ngành cơ khí vì điều kiện làm việc thấp. Bên cạnh đó, các công nhân kỹ thuật đợc đào tạo cũng rất hạn chế. Mấy năm gần đây, số lợng các học viên theo học các trờng công nhân kỹ thuật có tăng lên đáng kể song vẫn cha đáp ứng đợc nhu cầu của ngành.’ Về việc sử dụng nguồn nhân lực : Nguồn nhân lực có chất lợng không cao nhng lại đợc sử dụng không hợp lý. Trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nớc, số lợng lao động gián tiếp chiếm tỷ lệ cao gây mất hiệu quả trong quá trình sản xuất và tăng chi phí. Hơn nữa, quá trình tổ chức sản xuất không hơp lý dẫn đến năng suất lao động của công nhân ngành cơ khí Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nớc trong khu vực. Về việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực : Hiện nay chi phí đào tạo của các công ty thuộc ngành cơ khí đã sút giảm nghiêm trọng trong thập kỷ vừa qua nhất là sau khi các chơng trình hợp tác kỹ thuật với các nớc khối Đông Âu bị ngừng trệ thì ngành cơ khí Việt Nam hầu nh mất nguồn đầu vào về bí quyết công nghệ. Mặt khác, các kỹ s và kỹ thuật viên lành nghề ( khoảng 10000 ) ngời đợc đào tạo ở Liên Xô và Đông Âu trớc đây đến nay kiến thức của họ cũng cần phải đợc cập nhật. Hơn nữa, một lực lợng lớn ngời lao động trong các doanh nghiệp không có tay nghề hoặc tay nghề kém cũng cần phải đợc đào tạo. Trong điều kiện ngày nay, khi máy móc và thiết bị thay đổi thờng xuyên, công nghệ chế tạo phát triển nhanh chóng thì yêu cầu về đào tạo, nâng cao tay nghề thờng xuyên cho kỹ s, kỹ thuật viên trong ngành cơ khí là một yêu cầu bức bách. Khó khăn chính của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam trong lĩnh vực này là chi phí đào tạo và chơng trình đào tạo. Một thực tế hiện nay trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam là chơng trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực hầu nh không có hoặc ít đợc chú trọng. Thực tế đó đã dẫn đến chất lợng lao động yếu kém, không có điều kiện nâng cao chất lợng sản phẩm do đó giảm khả năng cạnh tranh trên thị trờng. 3. Lĩnh vực tài chính. Lĩnh vực tài chính luôn là lĩnh vực quan trọng trong hoạt động quản trị doanh nghiệp. Chất lợng hoạt động của lĩnh vực này có ảnh hởng lớn đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng nh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong phạm vi đề tài này, do không có các số liệu về tình hình tài chính của các doanh nghiệp cơ khí, nên em chỉ phân tích vấn đề này ở khía cạnh huy động vốn đầu t. Đặc điểm của sản xuất cơ khí là vốn đầu t ban đầu lớn, vòng quay vốn chậm, khả năng rủi ro cao, lợi nhuận thấp hơn các ngành khác, do đó vấn đề thu hút vốn đầu t của ngành cơ khí càng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp cơ khí nớc ta đều là những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ ( dới 1 triệu USD ). Để phát triển mạnh ngành cơ khí nhất là trong điều kiện trang thiết bị cho ngành cơ khí còn lạc hậu thì vốn đầu t để đổi mới trang thiết bị là một đòi hỏi tất yếu đặt ra với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu t cho toàn ngành cơ khí hiện nay rất hạn hẹp. Trong giai đoạn 1995-1999 đầu t mới cho các doanh nghiệp cơ khí thuộc Bộ Công nghiệp chỉ chiếm 0,6% trong tổng vốn đầu t. Hơn nữa, việc giải ngân cho các dự án đầu t cơ khí rất chậm, sau gần 3 năm mới chỉ đợc 2,27% tổng vốn. Trong tình hình hiện nay, các nguồn vốn mà các doanh nghiệp cơ khí có thể thu hút đợc là : vốn ODA, vốn FDI, vốn vay nớc ngoài, vốn từ ngân sách nhà nớc và nguồn vốn huy động trong nớc ( vốn vay từ ngân hàng và vốn huy động trong dân ). - Nguồn vốn từ ODA : Vốn ODA thờng chỉ cấp cho các công trình, các dự án hạ tầng cơ sở mà ít cấp cho các dự án phát triển công nghiệp sản xuất. Tính cho đến nay, trong toàn ngành cơ khí cũng đã có vài dự án vay đợc vốn ODA. Nhng tiền vay thờng đợc sử dụng để nhập công nghệ lạc hậu của nớc cho vay. Vì thế, dù có đợc nguồn vốn, có đợc công nghệ nhng các doanh nghiệp cũng khó phát huy đợc vì sản phẩm làm ra chất lợng thấp, giá thành cao, mẫu mã không hợp thị hiếu của ngời tiêu dùng do đó không có sức mạnh cạnh tranh ngay cả trên thị trờng nội địa. - Nguồn vốn FDI : Kể từ khi ban hành Luật đầu t nớc ngoài, vốn FDI đầu t vào ngành cơ khí đạt gần 2 tỷ USD chủ yếu thông qua các liên doanh. Nguồn vốn FDI đã đem lại sinh lực mới cho nền công nghiệp Việt Nam nói chung và ngành cơ khí nói riêng. Tuy nhiên, về lâu dài, việc sử dụng vốn FDI sẽ làm cho ngành cơ khí nớc ta luôn bị lệ thuộc vào nớc ngoài kể cả về công nghệ thiết bị và về thị trờng. Do đó, khó có thể phát triển một cách độc lập đợc. - Nguồn vốn vay nớc ngoài : Sử dụng vốn vay nớc ngoài chúng ta có thể chủ động trong việc lựa chọn công nghệ cũng nh dây chuyền thiết bị... theo đúng mục đích, kế hoạch đề ra. Song việc sử dụng có hiệu quả vốn vay đòi hỏi chúng ta phải có một cơ quan t vấn và tạo dựng đợc hệ thống cơ chế thật hữu hiệu của ngân hàng. Nếu việc quản lý vốn vay nớc ngoài của Việt Nam thật sự đúng đẵn và có hiệu quả thì chúng ta có thể làm chủ trong việc phát triển sản xuất của mình. - Nguồn vốn trong nớc : Về lâu dài, cơ khí Việt Nam chỉ có thể phát triển có hiệu quả và bền vững nếu đợc xây dựng chủ yếu từ vốn của bản thân. Đó là các nguồn vốn đợc huy động từ ngân sách nhà nớc, vốn vay ngân hàng, vốn huy động từ tiền tiết kiệm của cán bộ công nhân viên chức trong các cơ sở sản xuất, tiền của dân thông qua các biện pháp cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, cổ phiếu... cũng nh thông qua các hình thức góp vốn liên doanh, liên kết giữa các cơ sở sản xuất trong nớc. 4. Lĩnh vực Marketing. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đều rất ít quan tâm đến lĩnh vực Marketing. Trong khi đối với các ngành sản xuất khác nh : hoá mỹ phẩm, hàng tiêu dùng, thực phẩm, vật liệu xây dựng ... các hoạt động Marketing nh : tuyên truyền, quảng cáo, các dịch vụ sau bán... rất phổ biến thì đối với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đây gần nh là một lĩnh vực mới mẻ. Điều này đã gây ra nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam. Ngời tiêu dùng do thiếu các thông tin cần thiết nên nhiều khi không biết đến các sản phẩm để mua. Nhất là trong trờng hợp các sản phẩm cơ khí của Việt Nam thờng có giá cao hơn các sản phẩm của Trung Quốc nhng có chất lợng tốt hơn, nhiều tính năng tác dụng hơn song hầu hết ngời tiêu dùng không đợc biết các thông tin đó. Đó là một nguyên nhân khiến cho các sản phẩm của Trung Quốc do chiếm u thế về giá đã chiếm lĩnh thị trờng trong thời gian qua. Điểm yếu kém thứ hai trong lĩnh vực Marketing của các doanh nghiệp cơ khí Việt nam đó là hệ thống phân phối bán hàng không rộng khắp, không bao quát đợc thị trờng. Do đó, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh tràn ngập chiếm lĩnh thị trờng. Thứ ba, về chính sách hỗ trợ tiêu thụ : Bao gồm các hoạt động hỗ trợ trong quá trình mua hàng và các dịch vụ sau khi bán : bảo hành, sửa chữa, lắp đặt ... Trong thời gian qua, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đã có chú trọng đến hoạt động này và đã đạt đợc một số thành công nhất định. Nhờ vào một số chính sách hỗ trợ nh : mua hàng trả chậm, hay các doanh nghiệp cơ khí kết hợp với ngân hàng ở các địa phơng hỗ trợ, tạo điều kiện cho nông dân mua sản phẩm thông qua các chơng trình cho vay với lãi suất u đãi.... các doanh nghiệp cơ khí đã tăng đợc lợng sản phẩm tiêu thụ. Ví dụ nh ở Nghệ An sau hai năm thực hiện chơng trình hỗ trợ lãi suất cho nông dân, Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam ( VEAM ) đã bán đợc 592 máy cày đa chức năng với giá 13697000 đồng /máy. Trong đó nông dân đợc vay 10000000 đồng, tỉnh hỗ trợ lãi suất 3 năm. Nh vậy, để mua đợc một chiếc máy cày đa chức năng nông dân Việt Nam lúc đầu chỉ phải bỏ ra 4 triệu đồng, phần còn lại sẽ đợc trả góp trong ba năm. Tuy có một số mặt tích cực nh vậy, nhng nhìn một cách tổng quát, hoạt động Marketing trong các doanh nghiệp cơ khí hiện nay còn rất yếu kém. Để phát triển mạnh ngành cơ khí, trong thời gian tới, cần đẩy mạnh hoạt động này. IV. Tồn tại và nguyên nhân. Có thể nói, trong những năm đổi mới vừa qua, ngành cơ khí Việt Nam cũng đã đạt đợc một số thành tựu nhất định. Ngành công nghiệp cơ khí đã duy trì đợc tốc độ tăng trởng ở mức 13%-14%/ năm. Một số doanh nghiệp cơ khí đã vơn lên tìm kiếm nguồn vốn, đầu t thêm công nghệ-thiết bị mới, tiên tiến, mở rộng mặt hàng, tìm kiếm và mở rộng thị trờng. Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà nghiên cứu đã sắp xếp các loại hàng hoá theo khả năng cạnh tranh và chia làm ba nhóm : nhóm có khả năng cạnh tranh, nhóm có khả năng cạnh tranh nhng cần có điểu kiện và nhóm không có khả năng cạnh tranh. Ngành cơ khí đã đợc xếp thứ 6 trong 19 ngành thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện; riêng động cơ nhỏ đợc xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh tranh. Nh vậy, so với tiềm năng và cơ sở vật chất hiện còn quá nhỏ bé của ngành cơ khí thì sự phát triển và thành quả của ngành cơ khí trong những năm đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây là rất đáng khích lệ ; tuy nhiên vẫn là rất nhỏ bé trớc nhu cầu to lớn của đất nớc trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc đặc biệt là nhu cầu về máy móc thiết bị cho nhà máy và hàng tiêu dùng cao cấp. Nhìn chung, khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay vẫn còn rất yếu kém. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên bao gồm những nguyên nhân chủ quan và những nguyên nhân khách quan - Nguyên nhân chủ quan ( từ phía các doanh nghiệp ) : + Thứ nhất, do quy mô các nhà máy không hợp lý. Phần lớn là quy mô nhỏ do đó ít có điều kiện để đổi mới thiết bị hiện đại, đầu t công nghệ cao... + Thứ hai, trình độ công nghệ lạc hậu, tỷ lệ máy móc thiết bị quá hạn sử dụng cao. + Thứ ba, sử dụng lãng phí nguyên liệu và năng lợng. + Thứ t, do tổ chức sản xuất không hợp lý. Chủ yếu là sản xuất phụ tụng và linh kiện khép kín, ít liên kết với các ngành công nghiệp khác. + Thứ năm, cha quan tâm đến đào tạo, nâng cao chất lợng nguồn nhân lực + Thứ sáu, ít quan tâm đến quản lý chất lợng + Thứ bảy. thiếu những kỹ năng tiếp thị và quản lý + Thứ tám, quản lý tài chính còn yếu kém - Nguyên nhân khách quan : + Thứ nhất, do cơ cấu ngành không hợp lý : Cơ cấu ngành thay đổi rất chậm trong hai đến ba thập kỷ vừa qua. Ngành cơ khí chủ yếu vẫn dựa trên cơ sở các doanh nghiệp hớng vào mục tiêu có tỷ lệ tự cung tự cấp cao, sản xuất khép kín các loại phụ tùng và linh kiện cần thiết để lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Kết quả là có ít các hợp đồng gia công, không hiệu quả kinh tế theo quy mô, và ít các nhà chế tạo chuyên môn hoá và có công nghệ tiên tiến. Các kinh nghiệm quốc tế đã chỉ rõ rằng tỷ lệ tự cung tự cấp cao sẽ dẫn đến chi phí cao hơn va năng suất thấp hơn. Vì tổ chức ngành có xu hớng chú trọng theo những quan hệ dọc, từ những nhà cung cấp nguyên liệu thô đến lắp ráp hoàn chỉnh, nên ít tồn tại những quan hệ ngang, ngoại trừ giữa những doanh nghiệp đã đợc nhóm lại với nhau trong các tổng công ty hoặc các liên hiệp. Nói chung, ngành cơ khí chuyển đổi chậm và còn mang đậm đặc điểm của hệ thống quản lý kinh tế kế hoạch từ trớc năm 1989, phải một thời gian dài nữa ngành cơ khí mới có khả năng vận hành theo cơ chế cơ bản của nền kinh tế thị trờng. Thứ hai, đó là do hệ thống quản lý phối hợp giữa các doanh nghiệp trong ngành cơ khí yếu kém. Vì thế, các doanh nghiệp cơ khí thiếu sự phối kết hợp với nhau, mạnh ai nấy làm. Kết quả là không đủ năng lực sản xuất các sản phẩm có giá trị lớn, còn các sản phẩm nhỏ thì trùng lặp và cạnh tranh lẫn nhau. Điều này đã làm suy yếu khả năng cạnh tranh của ngành so với các đối thủ nớc ngoài. Thứ ba, do thiếu các chính sách và quyết định kịp thời và đủ sức mạnh để bảo hộ và tạo thị trờng cho ngành cơ khí trong nớc. Đặc trng thiết sót lớn nhất trong những năm qua đã gây khó khăn cho ngành cơ khí là : chính sách mở cửa không kèm theo các chính sách bảo hộ tích cực, chính sách gọi vốn đầu t, thiếu cơ chế xét thầu bảo vệ sản xuất trong nớc đã làm cho ngành cơ khí bị mất thị trờng ngay trên đất nớc mình. Có thể thấy trong thời gian qua, các ngành công nghiệp Việt Nam đã nhập hàng tỷ USD máy móc thiết bị : nh chơng trình làm các nhà máy xi măng lò đứng, lò quay, thiết bị mía đờng, thiết bị nhà máy bia... là những sản phẩm mà với năng lực cơ khí nh hiện nay, ngành có thể sản xuất và cung cấp đợc phần lớn nhng ngành cơ khí vẫn đứng ngoài cuộc và nếu có đợc tham gia thì thờng là thầu phụ với khối lợng ít, giá thành rẻ mạt. PHẦN III CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CƠ KHÍ VIỆT NAM HIỆN NAY. 1. Phơng hớng nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay. Nh vậy, qua các phần phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rõ thực trạnh năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí, những điểm đã đạt đợc cũng nh những tồn tại và nguyên nhân của chúng. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là khi đất nớc ta đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc và hội nhập kinh tế với các nớc trong khu vực và trên thế giới ngành cơ khí tất yếu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Nếu không, các doanh nghiệp trong ngành cơ khí sẽ bị thất bại trong cạnh tranh và sẽ bị loại bỏ khỏi thị trờng bởi cạnh tranh luôn luôn là quy luật khắc nghiệt nhất trong cơ chế thị trờng. Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình từ đó, có thể tồn tại và phát triển, theo em các doanh nghiệp cơ khí cần tập trung vào những phơng hớng sau : Thứ nhất, phải nâng cao chất lợng sản phẩm : Đây là yếu tố quan trọng nhất bởi chỉ có nâng cao chất lợng sản phẩm các doanh nghiệp mới có thể duy trì và mở rộng thị phần, tăng uy tín của doanh nghiệp... từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh, chiến thắng các đối thủ khác trên thị trờng. Nâng cao chất lợng sản phẩm phải hiểu theo nghĩa rộng : tức là phải cung cấp đợc ngày càng nhiều những sản phẩm phù hợp với nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng. Các doanh nghiệp phải sản xuất những sản phẩm mà khách hàng cần chứ không phải sản xuất những gì mà doanh nghiệp có thể sản xuất đợc. Thứ hai, phải có giá cả phù hợp : Bên cạnh chất lợng sản phẩm, giá cả cũng là một yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp cung cấp đợc những sản phẩm có chất lợng cao với giá cả rẻ tơng đối so với các doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trờng. Các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam phải đặc biệt chú ý tới vấn đề này vì phần lớn các sản phẩm cuả chúng ta hiện nay đều có giá cả cao tơng đối so với giá cả hàng nhập, đặc biệt là hàng Trung Quốc. Thứ ba, nâng cao chất lợng các dịch vụ hỗ trợ bán hàng : Đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quyết định mua của khách hàng và uy tín của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam trong những năm vừa qua đã bắt đầu chú ý tới lĩnh vực này song vẫn cha đạt yêu cầu. Trong thời gian tới, cần phải nâng cao chất lợng của các dịch vụ này. Thứ t, nâng cao năng lực về tài chính : Tiềm năng mạnh về tài chính sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng vững vàng trong những điều kiện thay đổi của thị trờng, cũng nh có khả năng đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất... từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là mặt rất yếu của các doanh nghiệp cơ khí trong thời gian qua. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới, tất yếu phải nâng cao năng lực về tài chính. 2. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay. Để thực hiện các phơng hớng trên cần phải có sự nỗ lực không chỉ của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam mà còn là sự nỗ lực của các cơ quan quản lý Nhà nớc. Vì vậy, cần phải có các giải pháp từ phía các doanh nghiệp và các giải pháp từ phía Nhà nớc. 2.1. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp. 2.1.1. Các giải pháp về công nghệ. Theo nh phân tích ở trên, trình độ công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay rất lạc hậu. So với các nớc khu vực chúng ta lạc hậu từ 30-40 năm, so với các nớc trên thế giới chúng ta lạc hậu từ 50-60 năm. Để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh nhất là khi nớc ta đang tiến tới hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, tất yếu ngành cơ khí phải đổi mới thiết bị, công nghệ... để năng cao khả năng sản xuất cũng nh chất lợng sản phẩm. Tuy nhiên, để hoạt động đổi mới công nghệ trong ngành cơ khí đạt hiệu quả cao cần phải có một chiến lợc lâu dài. Không phải cứ đổi mới công nghệ ồ ạt, hàng loạt là có lợi... Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay vốn để đầu t đổi mới công nghệ trong ngành cơ khí rất nhỏ hẹp không cho phép đổi mới công nghệ ở tất cả các khâu, các bộ phận của quá trình sản xuất mà phải có sự u tiên. Vì vậy, các doanh nghiệp khi quyết định đầu t đổi mới công nghệ cần chú ý các vấn đề sau : Đối với một số sản phẩm mà không đòi hỏi trình độ sản xuất hiện đại, độ chính xác cao... các giải pháp về công nghệ cần tiến hành theo hớng khai thác, tận dụng hết tiềm năng công nghệ hiện có để nâng cao năng lực sản xuất. Nên sử dụng các công nghệ cần nhiều lao động để sử dụng lực lợng lao động hiện có trong ngành. Đối với một số sản phẩm đòi hỏi trình độ sản xuất cao, cần phải đầu t ngay công nghệ hiện đại để tránh lạc hậu với khu vực và thế giới. Trong quá trình đầu t đổi mới công nghệ cần chú ý công tác điều tra, nghiên cứu... để chọn đợc công nghệ phù hợp, tránh tình trạng nhập công nghệ cũ kỹ lạc hậu từ nớc ngoài. Đổi mới công nghệ phải đi đôi với đào tạo, nâng cao trình độ của cán bộ kỹ thuật cũng nh công nhân sản xuất để có thể làm chủ đợc công nghệ, khai thác triệt để công nghệ mới Đẩy mạnh công tác nghiên cứu triển khai trong doanh nghiệp để không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lợng sản phẩm cũng nh cho ra đời những sản phẩm mới và những công nghệ mới. 2.1.2. Các giải pháp về vốn Một vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay là năng lực hạn chế về vốn. Không chỉ quy mô vốn nhỏ bé mà vốn đầu t mới cũng rất nhỏ giọt. Điều này đã gây rất nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lợng sản phẩm. Vì vậy, các giải pháp về vốn đối với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay cần tập trung vào việc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trớc hết, cần tăng cờng các hoạt động liên doanh, liên kết với nớc ngoài để thu hút vốn đầu t trực tiếp FDI. Để làm tốt việc này, một mặt các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam phải năng động, sáng tạo trong việc tìm kiếm đối tác, mặt khác phải không ngừng nâng cao năng lực sản xuất của mình để đáp ứng các yêu cầu thành lập các công ty liên doanh. Thứ hai, tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp cơ khí để thu hút nguồn vốn đầu t trong nớc. Có thể nói, cổ phần hoá là một xu thế tất yếu không chỉ đối với các doanh nghiệp cơ khí mà đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam còn phải tranh thủ mọi cơ hội để có thể vay đợc vốn của các tổ chức tài chính trong và ngoài nớc. 2.1.3. Các giải pháp về nguồn nhân lực Có thể nói, chất lợng nguồn nhân lực cha cao là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu kém của ngành cơ khí. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh, ngành cơ khí tất yếu phải nâng cao chất lợng nguồn nhân lực. Để làm đợc điều này, các doanh nghiệp cơ khí cần tập trung vào những việc sau đây : Tăng cờng công tác đào tạo trong doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau nh : Gửi đi hoc hay tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp... Cần lập một quỹ tài chính trong doanh nghiệp để chi cho đào tạo. Có các chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng để ngời lao động không ngừng tự nâng cao trình độ, tay nghề của mình. Có các chính sách liên kết, hợp tác với các trờng đại học, với các trung tâm dạy nghề để đào tạo nguồn nhân lực cho ngành cơ khí. 2.1.4. Các giải pháp vềMarketing Có thể nói, nâng cao chất lợng hoạt động Marketing là một hoạt động tất yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam thì các giải pháp này càng có vai trò quan trọng. Trớc hết, các doanh nghiệp cơ khí cần tăng cờng công tác điều tra, nghiên cứu thị trờng. Qua hoạt động này, các doanh nghiệp cần phải xác định đợc thị trờng cần những sản phẩm gì, với giá cả bao nhiêu, chất lợng nh thế nào... để từ đó có chính sách sản phẩm phù hợp. Không chỉ điều tra, nghiên cứu thị trờng mà các doanh nghiệp cơ khí còn cần phải phân tích các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là Trung Quốc, đối thủ lớn nhất hiện nay. Cần phân tích rõ mặt mạnh, mặt yếu của đối thủ cạnh tranh để có đối sách cạnh tranh hữu hiệu nhằm giành thắng lợi trên thị trờng. Thứ hai, cần xây dựng một mạng lới cung cấp sản phẩm rộng khắp, có thể bao quát đợc thị trờng tránh tình trạng sản phẩm của nớc ngoài tràn ngập thị trờng. Thứ ba, cần tăng cờng các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo xây dựng thơng hiệu sản phẩm Thứ t, cần tăng cờng các hoạt động hỗ trợ sau bán. Đặc trng của sản phẩm cơ khí là trong quá trình sử dụng hay phát sinh các vấn đề cần đợc bảo hành, sửa chữa... Vì vậy, nâng cao chất lợng hoạt động này sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trờng. Để làm tốt các hoạt động này, các doanh nghiệp cần lập một phòng Marketing để phụ trách các hoạt động trên. 2.2. Các giải pháp ở tầm vĩ mô ( Từ phía Nhà nớc ) Để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí, nếu chỉ dựa vào những nỗ lực của doanh nghiệp thôi thì cha đủ mà cần phải có các giải pháp ở tầm vĩ mô, tức là phải có sự can thiệp của Nhà nớc. Thứ nhất, phải tiến hành cơ cấu lại ngành cơ khí. Nh phân tích ở trên, một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu kém của ngành cơ khí là do cơ cấu ngành không hợp lý. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nớc phải có các giải pháp quy hoạch, tổ chức lại hệ thống các nhà máy cơ khí trên phạm vi toàn quốc và trong từng vùng theo hớng hiện đại hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá. Lựa chọn trên bình diện quốc gia các sản phẩm, nhóm sản phẩm cơ khí chế tạo máy, sản phẩm cơ khí trọng điểm để cung cấp máy móc trang thiết bị cho các công trình đầu t xây dựng những nhà máy mới của các ngành kinh tế, những sản phẩm mà ngành cơ khí nớc ta có khả năng cạnh tranh với các nớc trong khu vực và trên thế giới ... để nhà nớc u tiên bảo hộ, phát triển bền vững. Tránh tình trạng đầu t dàn trải không đem lại hiệu quả chung cho toàn ngành. Thứ hai, Nhà nớc phải cải tiến công tác quản lý trong ngành cơ khí. Một trong những tồn tại chính của ngành cơ khí là tình trạng quản lý kém hiệu quả, chồng chéo lên nhau. Một doanh nghiệp cơ khí vừa phải chịu quản lý của cơ quan quản lý trực tiếp cấp trên, vừa phải chịu quản lý của cơ quan chủ quản ở địa phơng, rồi các cơ quan quản lý ngành ( ví dụ nh các doanh nghiệp cơ khí thuộc Bộ Nông nghiệp vừa phải chịu sự quản lý của Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp và cơ quan quản lý địa phơng ). Chính tình hình này đã gây nhiều khó khăn cho việc quản lý doanh nghiệp. Chính vì vậy, Nhà nớc cần có những biện pháp cải tiến quản lý chấm dứt tình trạng quản lý chồng chéo lên nhau giữa cơ quan chủ quản ở trung ơng và cơ quan quản lý ở địa phơng, xoá bỏ ranh giới, bộ, ngành, địa phơng, tăng cờng quản lý Nhà nớc về lĩnh vực cơ khí. Thứ ba, nhà nớc cần phải có các chính sách kịp thời và đủ mạnh để bảo hộ và tạo điều kiện cho ngành cơ khí trong nớc phát triển. Đó là các chính sách bảo hộ sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm, hạn chế nhập khẩu những sản phẩm cơ khí mà trong nớc ta đã có năng lực sản xuất tốt, bổ sung hoàn chỉnh các quy chế đấu thầu, chỉ định thầu đối với việc chế tạo trong nớc các dây chuyền thiết bị toàn bộ để tạo thị trờng cho sản phẩm cơ khí, khuyến khích các nhà đầu t sử dụng thiết bị trong nớc đạt hiệu quả kinh tế cao... Thứ t, Nhà nớc cần có các chính sách hỗ trợ vốn cho ngành cơ khí. Có thể nói, khó khăn về vốn là một trở ngại rất lớn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay, nên Nhà nớc cần có các giải pháp đối với vấn đề này. Nhà nớc cần phải có các chính sách u đãi đối với việc đầu t vào ngành cơ khí nh cho các doanh nghiệp cơ khí vay vốn dài hạn với lãi suất u đãi, có thời gian ân hạn thích đáng.... Thứ năm, Nhà nớc cần có các chính sách để đẩy mạnh công tác nghiên cứu trong lĩnh vực cơ khí nh tăng đầu t cho các Viện nghiên cứu, các dự án nghiên cứu quan trọng. Có thể nói, nâng cao chất lợng công tác nghiên cứu sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển ngành cơ khí. Thứ sáu, Nhà nớc cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực cho ngành cơ khí nh tăng đầu t cho các cơ sở đào tạo kỹ s cơ khí và công nhân kỹ thuật, có các chính sách khuyến khích sinh viên theo học chuyên ngành cơ khí nh hỗ trợ học bổng... Thứ bảy, Nhà nớc cần phải có các chính sách thúc đẩy những ngành cung cấp nguyên vật liệu và những ngành hỗ trợ cho ngành cơ khí phát triển. Đây là một nhân tố rất quan trọng, bởi những ngành trên phát triển tốt, sẽ tạo điều kiện rất lớn cho ngành cơ khí, và ngợc lại, nếu những ngành trên vẫn ở trong tình trạng yếu kém nh hiện nay, ngành cơ khí sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí. Để đạt đợc mục tiêu phát triển vững chắc, từng bớc giành lại thị trờng trong nớc, vơn ra thị trờng thế giới cần rất nhiều nỗ lực không chỉ của riêng ngành cơ khí mà còn cần sự phối hợp của các ngành sản xuất khác và các chính sách của Nhà nớc. KẾT LUẬN Có thể nói, nâng cao khả năng cạnh tranh là một yêu cầu tất yếu đối với mọi doanh nghiệp trong cơ chế thị trờng bởi chỉ có nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển đợc. Đối với các doanh nghiệp cơ khí, nâng cao năng lực cạnh tranh lại càng là một yêu cầu cấp thiết. Trớc hết, đó là do thực trạng khả năng cạnh tranh yếu kém của ngành. Thứ hai, đó là do yêu cầu của công nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nớc. Ngành công nghiệp cơ khí phải mau chóng vơn lên để xứng đáng với vai trò là “ nền tảng của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc ”. Qua đề án này, em mong muốn đợc đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong ngành cơ khí. Tuy nhiên, những vấn đề em đã nêu trong đề án này chỉ là những kết quả nghiên cứu bớc đầu và mang tính định hớng chung cho toàn ngành. Để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cơ khí, còn rất nhiều vấn đề cần đợc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa. Và các doanh nghiệp trên cơ sở những giải pháp chung, cần phải dựa vào những đặc điểm của doanh nghiệp mình để đề ra đợc những chiến lợc phù hợp. Cuối cùng, em tin tởng rằng, cùng với những nỗ lực của các doanh nghiệp cơ khí và những chính sách phù hợp của Nhà nớc, ngành cơ khí Việt Nam sẽ mau chóng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, xứng đáng là ngành công nghiệp có vai trò then chốt, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nớc.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTiểu luận- Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan