Việc đẩy mạnh xuất khẩu là một mục tiêu quan trọng mà đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định. Điều này được thể hiện rõ trong
Nghị quyết Trung ương 5 như là một điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, là tiền đề để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đặc biệt đối với mặt hàng cà phê thì hoạt động xuất khẩu càng có vai trò quan trọng
bởi mặt hàng cà phê chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Bởi vậy, việc đẩy
mạnh xuất khẩu cà phê là một trong những sách lược quan trọng nhằm góp phần đẩy
nhanh sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2230 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số phương án và giải pháp phát triển xuất khẩu cà phê cho công ty INTIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều kiện
thâm nhập vào thị trường thế giới. Điều đó chính là động lực thúc đẩy ngành cà phê
phát triển. Ngoài ra còn có một nguyên nhân hết sức quan trọng khác đó là sự nhạy cảm
của những người trực tiếp tham gia sản xuất và xuất khẩu cà phê. Nhờ nắm bắt được nhu
cầu thị trường thế giới cùng việc đẩy mạnh áp dụng kỹ thuật canh tác, chú trọng đầu tư
thâm canh, tăng cường khai hoang nâng cao diện tích trồng cà phê mà năng suất cũng như
sản lượng cà phê của Việt Nam đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Liên tục
nhiều năm năng suất tăng rõ rệt từ 600-700 kg nhân/ ha nay đạt bình quân 1,4 tấn nhân/
ha, cá biệt có nơi 4- 4,5 tấn nhân/ ha. World Bank đánh giá năm 1996 năng suất cà phê
vối (Robusta) của Việt Nam (1,48 tấn/ ha) xếp nhì thế giới, sau Costa Rica (1,6 tấn/ ha),
trên Thái Lan (0,99 tấn/ ha). Cùng với năng suất, diện tích và sản lượng cà phê của Việt
Nam cũng đang ở mức rất cao, có xu hướng tiếp tục tăng.
Biểu 2: Sản xuất cà phê Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000
Năm
Chỉ tiêu
1991 1992 1993 1994 1995 1996 199
7
1998 1999 200
0
Diện tích
(1000 ha)
135,5 135,5 143 148,8 164,6 186 254 296 350 420
DT tăng so
với niên vụ
trước(1000
ha)
0 7,5 5,8 15,8 37,2 68 42 54 70
SL cà phê
( 1000 tấn)
82,5 131,4 145,2 179 212,5 235 362 400 420 600
SLtăng so
với niên vụ
trước(1000
48,9 13,8 33,8 33,5 22,5 127 38 20 180
tấn)
Năng suất
(tấn/ha)
0,61 0,97 1,02 1,20 1,29 1,26 1,43 1,35 1,20 1,43
NS tăng so
với niên vụ
trước
(tấn/ha)
0,36 0,05 0,18 0,09 -0,03 0,17 -0,08 -0,15 0,23
(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 1991 - 2000)
Qua bảng số liệu trên chúng ta nhận thấy rằng diện tích cà phê VN tăng rất mạnh
và còn tiếp tục tăng. Đây chính là kết quả từ chính sách khuyến khích phát triển cà phê
của chính phủ trong kinh tế hộ gia đình, tư nhân kết hợp với đầu tư hỗ trợ của Nhà
nước qua các chương trình định canh, định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc. Bên cạnh
mặt đáng mừng, diện tích tăng mạnh cũng phản ánh một tình trạng đáng ngại đó là sự
phát triển vượt tầm kiểm soát của cà phê trồng mới.Đây là một trở ngại trong công tác
chỉ đạo kinh doanh xuất khẩu.
Như vậy nếu như trong cả thời kỳ 100 năm phát triển tới năm 1985 ngành cà phê
Việt Nam mới đạt sản lượng khoảng 12 ngàn tấn thì trong các năm của thập kỷ 90 mỗi
năm sản lượng cà phê của Việt Nam đều tăng hàng chục ngàn tấn, thậm chí từ năm 96
tới năm 97 sản lượng đã tăng 127 nghìn tấn.
Tuy nhiên đó mới chỉ là những con số thể hiện bề nổi của ngành cà phê Việt
Nam. Thực tế cho thấy mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong việc
nâng cao diện tích, năng suất, cũng như sản lượng nhưng chúng ta còn rất nhiều khó
khăn trong các công đoạn sản xuất cà phê sau thu hoạch. Các hộ nông dân hầu như chỉ
sản xuất theo hướng tự phát, ít có chiến lược phát triển lâu dài, vì vậy các vấn đề về
công nghệ, kỹ thuật sau thu hoạch hầu như bị bỏ trống, điều đó đã lý giải lý do tại sao
trong thời gian gần đây cà phê Việt Nam không còn được đánh giá cao về chất lượng
như trước kia. Theo thống kê vào đầu niên vụ 94/95 các nông trường và các hội nông
dân chỉ mới đáp ứng được khoảng 30% tổng sản lượng cà phê thu hoạch được phơi và
sấy khô theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Nghĩa là 70% còn lại không đáp ứng được các
yêu cầu kỹ thuật và sự sút giảm về chất lượng sẽ là một tất yếu. Đến năm 1997 tỉ lệ
này nhích lên 45% tương đương 170.000 tấn trong tổng số 360.000 tấn cà phê của cả
nước. Nhờ sự quan tâm và hướng dẫn của ngành cà phê đối với các hộ sản xuất đơn lẻ
mà tới đầu năm 99 toàn ngành cà phê đã được đầu tư máy móc thiết bị đảm bảo cho
khoảng 70% sản lượng cà phê sản xuất ra đạt chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thị
trường quốc tế. Bên cạnh đó trong một vài năm gần đây chúng ta đã cố gắng chuyển
hướng sang sản xuất cà phê hòa tan nhằm đưa sản phẩm tiêu dùng cuối cùng tới người
tiêu dùng trong nước và người tiêu dùng quốc tế. Kết quả, trong năm 98 chúng ta đã
sản xuất được khoảng 2100 tấn và xuất khẩu gần 1000 tấn, hứa hẹn những bước phát
triển mới trong tương lai.
1.2. Tình hình xuất khẩu.
Cùng với những thành tựu to lớn mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được trong thời
gian qua, lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam cũng đã có những bước phát triển vô cùng
quan trọng. Đóng góp vào sự phát triển đó ngành cà phê đã thực hiện sự khẳng định
được vai trò của mình. Sự tăng trưởng xuất khẩu cà phê của Việt Nam không những
được nhìn nhận trong nội tại nền kinh tế đất nước mà còn được các tổ chức quốc tế
như ICO, ESCAP, ... công nhận.
a. Kim ngạch, khối lượng, giá cả.
Do sản xuất cà phê trong nước phát triển liên tục trong nhiều năm qua mà khối
lượng cà phê xuất khẩu cũng có sự gia tăng mạnh mẽ. Từ chỗ mỗi năm Việt Nam chỉ
xuất khẩu được 5 đến 7 nghìn tấn cà phê với kim ngạch chưa khi nào vượi quá 10 triệu
USD Mỹ thì tới nay đã là một trong năm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Từ
năm 1994 kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã vượt qua con số 400 triệu
USD, đưa Việt Nam trở thành một trong 3 nước xuất khẩu nhiều cà phê nhất khu vực
châu á - Thái Bình Dương là : ấn Độ, Indonesia và Việt Nam .
Biểu 3: Kim ngạch, khối lượng, giá xuất khẩu mặt hàng cà phê
của Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 1998.
Năm
Chỉ tiêu
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Khối 89,6 93,5 116,2 106 170 210 233 360 390,4
lượng
(1000 tấn)
Giá cả
(USD
/tấn)
850 830 720 900 2.647 2.633 1.814 1.210 1.526
Kim
ngạch
(triệu
USD )
76,16 77,61 83,66 95,40 450,0 500,0 422,0 416,6 592,2
(Nguồn: Tổng hợp từ thời báo kinh tế )
Qua bảng trên chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy kim ngạch và khối lượng cà phê
xuất khẩu trong thời kỳ 90 - 97 được chia thành hai giai đoạn: 90 - 93 và 94 - 97.
Trong giai đoạn đầu khối lượng xuất khẩu dao động ở mức trên dưới 100 ngàn tấn còn
kim ngạch trung bình khoảng 80 triệu USD. Suốt những năm nay tuy có sự tăng
trưởng trong xuất khẩu song sự tăng trưởng này là tương đối ổn định và không xảy ra
đột biến nào. Tuy nhiên bước sang năm 1994 xuất khẩu cà phê của Việt Nam thực sự
đã có bước nhảy vọt về cả khối lượng cũng như kim ngạch, đặc biệt kim ngạch xuất
khẩu cà phê đã tăng gần 500% từ 95,4 triệu USD lên 450,0 triệu USD. Trong khi đó,
lượng cà phê xuất khẩu chỉ tăng khoảng 150% từ 106 ngàn tấn lên 170 ngàn tấn, điều
đó được giải thích qua sự biến động của giá cà phê. Những năm sau đó tuy khối lượng
xuất khẩu đã tăng liên tục lên 210 ngàn tấn năm 95, 233 ngàn tấn năm 96 và 360 ngàn
tấn năm 97 nhưng kim ngạch xuất khẩu cà phê lại không hề tăng, thậm chí năm 97 còn
giảm xuống 416,6 triệu USD. Năm 98 Việt Nam đã xuất khẩu được 390.405 tấn cà phê
đạt kim ngạch 592.279 ngàn USD đưa Việt Nam trở thành nước thứ 3 về xuất khẩu cà
phê trên thế giới, ngang với Mêhicô, sau Braxin và Colombia. Đồng thời hiện nay Việt
Nam cũng là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới.
b. Thị trường.
Đến cuối năm 1998 cà phê Việt Nam đã có mặt ở hơn 50 nước và khu vực lãnh
thổ với các bạn hàng chủ yếu là Mỹ, Đức, Pháp , ... Tuy nhiên Việt Nam chỉ mới tham
gia xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ trong vòng 5 năm trở lại đây nhưng hiện nay
Mỹ đã là bạn hàng nhập khẩu cà phê lớn nhất, trung bình hàng năm Mỹ nhập khẩu
khoảng 25% tổng khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó các nước
thuộc liên minh châu Âu (EU) cũng nhập khẩu một khối lượng khá lớn, nếu tính chung
toàn bộ khu vực này thì lượng nhập khẩu đã chiếm hơn 50% tổng khối lượng xuất
khẩu, tương đương khoảng 200 ngàn tấn/năm. Ngòai ra thị trường Nhật cũng tiêu thụ
một khối lượng đáng kể cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Hàng năm Nhật nhập khoảng
12.000 tấn cà phê từ Việt Nam. Tuy vậy với một thị trường có mức nhập khẩu trung
bình hàng năm tới trên 5 triệu bao thì đây thực sự chỉ là con số khiêm tốn. Bên cạnh
đó, Việt Nam còn xuất khẩu cà phê sang thị trường một số nước thuộc khu vực châu á
như Singapore, Hồng Kông, .... Trước đây các thị trường này đã từng là bạn hàng nhập
khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam khi Việt Nam chỉ mới tham gia thị trường cà phê
thế giới, nhưng hiện nay tỷ trọng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các nước này
đang có xu hướng giảm sút. Dự báo trong thời gian tới xuất khẩu của cà phê Việt Nam
vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào một số thị trường lớn như Bắc Mỹ và Liên minh châu Âu
(EU) các thị trường khác vẫn sẽ đóng vai trò hỗ trợ nhằm đa dạng hóa thị trường cà
phê xuất khẩu Việt Nam .
2. Tình hình buôn bán cà phê trên thế giới.
Cùng với việc gia tăng về sản lượng tình hình buôn bán cà phê trên thị trường thế
giới cũng trở nên nhộn nhịp hơn trong những thập kỷ trở lại đây. Cà phê và các sản
phẩm từ cà phê dần có được vai trò quan trọng hơn trong mậu dịch thế giới, hàng năm
kim ngạch buôn bán cà phê thế giới đã vượt quá còn số 10 tỉ đô la Mỹ, đưa nó trở
thành một trong những mặt hàng nông sản đạt giá trị kim ngạch cao nhất trong thương
mại thế giới.
2.1. Các nước xuất khẩu chủ yếu.
Hiện nay, các nước sản xuất cà phê chủ yếu trên thế giới cũng đồng thời là những
quốc gia xuất khẩu nhiều sản phẩm cà phê nhất. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu cà
phê của họ chưa tương xứng với lượng sản xuất cũng như xuất khẩu do các nước này
còn có nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật chế biến để có được những sản phẩm cà phê có
chất lượng cũng như giá trị cao. Vì vậy mới có hiện tượng một số nước vừa là nhập
khẩu vừa là nhà xuất khẩu lớn trên thị trường cà phê. Để hạn chế điều này và khẳng
định hơn nữa chỗ đứng của mình trên thị trường xuất khẩu, trong một vài năm trở lại
đây các nước xuất khẩu cà phê chủ yếu thuộc nhóm các nước đang phát triển đã cố
gắng đẩy mạnh đầu tư về mặt công nghệ để hạn chế dần việc xuất khẩu những sản
phẩm sơ chế có giá trị thấp, tăng cường sản xuất và xuất khẩu những chủng loại sản
phẩm có chất lượng cao, đã qua tinh chế, không phải trải qua công đoạn sản xuất thuộc
một nước phát triển thứ ba nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu cà phê tương ứng với
khối lượong.
Biểu 4: Một số nước xuất khẩu cà phê chủ yếu trên thị trường thế giới
(Đơn vị: triệu bao)
Niên vụ
Tên nước
1991
1992
1992
1993
1993
1994
1994
1995
1995
1996
1996
1997
1997
1998
Braxin 21,000 17,600 16,900 16,800 13,655 17,318 15,181
Colombia 15,400 14,500 12,700 10,300 12,900 10,900 10,776
Indonesia 4,000 4,500 5,500 3,900 6,195 5,833 4,725
Codivoa 3,500 4,900 3,400 2,400 2,600 3,500 4,571
Mexico 3,000 3,100 3,600 3,600 4,576 4,380 3,829
Uganda 2,013 2,010 2,980 2,238 4,150 4,230 2,928
Goatemala 3,200 4,300 3,400 3,300 3,720 4,000 3,765
Etiopia 0,699 1,160 1,332 1,321 1,300 1,200 2,017
Kenia 1,399 1,412 1,460 1,251 1,200 1,150 0,769
Việt Nam 1,100 2,200 2,700 2,500 3,883 6,000 5,983
Các nước khác 20,210 21,910 19,470 19,470 16,121 13,098 22,072
Thế giới 75,500 77,600 67,200 67,200 73,300 71,600 74,916
(Nguồn: Tổ chức cà phê thế giới - ICO)
Qua bảng trên chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây cà phê xuất khẩu
trên thị trường thế giới không có những biến động lớn. Ngoại trừ niên vụ 94/95 lượng
cà phê trao đổi giảm còn 67,2 triệu bao, còn những niên vụ còn lại hầu hết đều đạt trên
71 triệu bao, trong đó niên vụ cao nhất (92/93) đã đạt 77,6 triệu bao. Tuy nhiên, nếu
xét cụ thể từng nước thì sản lượng xuất khẩu lại có những biến động đáng kể. Ví dụ:
trong niên vụ 91/92 Braxin đã xuất khẩu tới 21 triệu bao, nhưng trong những niên vụ
sau đó lượng xuất khẩu của nước này đã liên tục giảm sút, cho tới niên vụ 95/96 con số
này chỉ còn 13,655 triệu bao, nhỉnh hơn Colombia chút ít, tới niên vụ 96/97 lượng xuất
khẩu của Braxin mới có dấu hiệu phục hồi. Cũng như thế, lượng cà phê xuất khẩu của
Colombia, một nước khác thuộc Châu Mỹ La Tinh cũng đã giảm 1/3, từ 15,4 triệu bao
niên vụ 91/92 xuống còn 10,7 triệu bao nên vụ 97/98. Ngoại trừ hai trường hợp trên
lượng xuất khẩu của tám nước còn lại hầu hết đều tăng trưởng dương, tuy mức độ có
khác nhau. Trong số đó đáng chú ý nhất phải kể tới Việt Nam. Nếu như sản lượng xuất
khẩu trong niên vụ 91/92 của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở con số khiêm tốn là 1,1
triệu bao, đứng thứ 9 trong số 10 quốc gia xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới thì chỉ 4
năm sau Việt Nam đã xuất khẩu gần 4 triệu bao và tới niên vụ 96/97 Việt Nam đã xuất
khẩu 6 triệu bao cà phê vươn lên đứng hàng thứ ba trên thế giới.
2.2. Các nước nhập khẩu chủ yếu.
Nếu như các nước xuất khẩu cà phê chủ yếu trên thế giới đều là các nước đang
phát triển thì các nước nhập khẩu chủ yếu đều là các quốc gia phát triển và đa phần
trong số đó là các quốc gia thuộc nhóm công nghiệp phát triển (G7) như: Mỹ, Đức,
Nhật, ... Bảng sau sẽ cho chúng ta thấy rõ tình hình nhập khẩu của các nước này trong
thời gian gần đây:
Biểu 5: Một số nước nhập khẩu cà phê chủ yếu trên thế giới.
(Đơn vị: triệu bao)
Năm
Tên nước
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Mỹ 22,937 19,324 16,169 17,104 19,434 19,834 18,526
Đức 13,907 13,526 13,674 12,806 13,577 14,356 9,754
Italia 4,595 5,594 5,555 5,387 5,607 5,703 4,912
Nhật 5,652 5,514 6,040 5,324 5,619 5,603 6,017
Pháp 6,660 6,531 6,486 6,246 6,695 6,724 5,320
Anh 3,047 3,173 3,395 2,782 3,113 3,104 2,674
Các nước khác 34,100 35,730 38,630 31,950 28,250 26,072 27,134
Thế giới 90,900 89,400 90,000 81,600 82,300 81,406 75,607
(Nguồn: Tổ chức cà phê thế giới - ICO)
Như chúng ta thấy ở trên, tình hình nhập khẩu cà phê ở các nước nhập khẩu chủ
yếu không có những biến động lớn như các nước xuất khẩu. Điều đó cho thấy nhu cầu
tiêu dùng cũng như nhập khẩu cà phê trên thế giới tương đối ổn định và phụ thuộc
nhiều vào năng lực sản xuất của các quốc gia xuất khẩu. Trong số các nước nhập khẩu
nhiều cà phê nhất Mỹ luôn chiếm vị trí dẫn đầu với mức trên dưới 20 triệu bao, gần
tương đương mức xuất khẩu của Braxin. Hiện nay, người Mỹ đang có xu hướng
chuyển sang sử dụng các loại cà phê có chất lượng cao vì vậy lượng nhập khẩu cà phê
hòa tan từ các nước khác đã giảm nhiều, thay vào đó lượng nhập khẩu cà phê hòa tan
từ các nước khác đã giảm nhiều, thay vào đó lượng nhập khẩu cà phê hòa tan chưa qua
chế biến lại tăng đáng kể nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất các loại cà phê có chất
lượng đặc biệt ở trong nước. Tiếp đó là Đức với mức nhập khẩu năm 1997 là 14,356
triệu bao. Các nước Nhật, Itailia, Pháp nhập khẩu lượng cà phê gần như nhau, khoảng
trên dưới 6 triệu bao/năm. Đứng cuối cùng trong số các nước kể trên là Anh với lượng
nhập khẩu hàng năm khoảng 3 triệu bao. So với các nước khác thuộc lục địa châu Âu
thì người Anh tỏ ro không mặn mà với cà phê lắm, lượng tiêu thụ cà phê bình quân
trên đầu người ở Anh thuộc vào diện thấp trên thế giới nếu so với các nước có cùng
trình độ phát triển kinh tế. Ngoài ra các nước còn lại cũng chiếm khoảng 30% tổng
nhu cầu nhập khẩu cà phê trên thế giới, cá biệt như năm 94 các nước này đã nhập khẩu
tới 38,63 triệu bao trên tổng số 90 triệu bao tòan thế giới (tương đương gần 43%).
IV- thị trường xuất khẩu cà phê của công ty intimex.
Cũng giống như tình trạng chung của hoạt động xuất khẩu Việt Nam những năm
trước đây, hoạt động xuất khẩu của công ty INTIMEX nói chung và xuất khẩu cà phê
nói riêng trong thời gian đó cũng đều tập trung vào thị trường Đông Âu và Liên Xô cũ.
Hàng năm các thị trường này thường chiếm trên 90%tổng khối lượng cũng như kim
ngạch xuất khẩu cuả công ty. Do sớm tham gia vào thị trường xuất khẩu cà phê nên
ngày nay công ty đã có được một thị trường xuất khẩu ổn định và đa dạng. Các thị
trường chủ yếu về cà phê của Công ty hiện nay bao gồm: Singapore, Hồng Kông, Mỹ,
Hàn Quốc, Liên minh Châu Âu (EU),...còn các thị trường truyền thống thuộc hệ thống
các nước XHCN cũ nay chỉ còn chiếm một lượng nhỏ trong tổng khối lượng cũng như
giá kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty. Năm 1990 Công ty đã xuất khẩu 370 tấn
cà phê (tương đương 45% tổng khối lượng xuất khẩu) sang Ba Lan, Tiệp Khắc và Nga,
nhưng đến năm 2000 Công ty chỉ xuất khẩu đổi hàng được với Nga 120 tấn cà phê trị
giá là 160 ngàn USD. Ngược lại, nếu như vào năm 86 Công ty mới xuất khẩu được
những tấn cà phê đầu tiên sang Singapore và Hồng kông thì tới năm 90 Công ty đã
xuất khẩu được 240 tấn sang Singapore và 100 tấn sang Hồng Kông. Đến năm 2000
Công ty đã xuất khẩu được gần 1.600 tấn cà phê sang các thị trường này đạt giá kim
ngạch 2.500.000USD. Trong một vài năm trở lại đây Công ty đã tích cực khai thác thị
trường mới như: Mỹ, EU, Hàn Quốc và đã thu được kết quả hết sức khả quan. Kết thúc
năm 2000 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê sang các thị trường này đã chiếm tới
hơn 40% tổng kim ngạch cà phê xuất khẩu của Công ty, tương đương với 1.840.000
USD.
Biểu 11: Các thị trường xuất khẩu cà phê chủ yếu của Công ty trong hai năm
1990 và 2000.
(Đơn vị: USD)
Năm
Thị trường
1990 2000
Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng
Nga 164.000 22,99% 160.000 3,51%
Đông Âu 160.000 22,43% X X
Mỹ X X 880.000 19,30%
EU X X 960.000 21,60%
Singapore 196.800 27,59% 1.147.000 25,18%
Hồng Kông 82.000 11,49% 963.000 21,71%
T.trường khác 110.600 15,50% 450.000 9,70%
Tổng số 713.400 100% 4.560.000 100%
(Nguồn: Phòng KTTH - Công ty INTIMEX)
Chương 2.
Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng cà phê tại
công ty INTIMEX trong thời gian qua.
I- Giới thiệu chung về Công ty INTIMEX.
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Theo quyết định số 217 của Thủ tướng Chính phủ ngày 23 tháng 6 năm 1979, có
sự đề nghị của Bộ Nội thương và sự nhất trí của Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương
mại), Công ty đã được thành lập với tên gọi lúc đó là Công ty xuất nhập khẩu hàng nội
thương. Đây là trung tâm xuất nhập khẩu của ngành nội thương có nhiệm vụ thông qua
hoạt động xuất nhập khẩu cải thiện cơ cấu quỹ hàng hóa do ngành nội thương quản lý,
đồng thời góp phần đẩy mạnh xuất khẩu. Công ty có trụ sở chính đặt tại 96 Trần Hưng
Đạo, Hà Nội.
Ngày 22 tháng 10 năm 1985 do việc điều chỉnh các tổ chức kinh doanh thuộc Bộ
Nội thương đã thông qua Nghị định số 255/HĐBT và theo đề nghị của giám đốc Công
ty xuất nhập khẩu nội thương và HTX, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ra quyết định tổ
chức lại Tổng Công ty thành hai Công ty trực thuộc Bộ.
- Công ty xuất nhập khẩu nội thương - HTX Hà Nội.
- Công ty xuất nhập khẩu - HTX thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 20 tháng 3 năm 1995, Bộ trưởng Bộ Thương Mại đã ký hợp nhất Công ty
thương mại dịch vụ phục vụ Việt kiều và Công ty xuất nhập khẩu nội thương và HTX
Hà Nội, trực thuộc Bộ Thương mại. Đây là doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
tổng hợp, kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ phục vụ Việt Kiều, khách sạn du lịch, gia
công hàng nhập khẩu.
Ngày 8 tháng 6 năm 1995, Công ty xuất nhập khẩu nội thương và HTX chuyển
thành Công ty xuất nhập khẩu dịch vụ thương mại Intitmex theo quyết định 169/TCCB
của Bộ thương mại.
Ngày 24 tháng 6 năm 1995, Bộ trưởng Bộ thương mại đã ra quyết định phê duyệt
điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty .
Ngày 13 tháng 11 năm 1995, Công ty được Bộ trưởng Bộ thương mại cấp giấy
phép kinh doanh số 1161085. Công ty INTIMEX có tài khoản ngoại tệ số
362111370037, tài khoản giao dịch tiền Việt số 361111370037 tại ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam và tại ngân hàng Exim Bank.
Lúc mới thành lập, Công ty xuất nhập khẩu nội thương và HTX chỉ được Nhà
nước giao vốn 200.000đ, đến ngày 28 tháng 5 năm 1995 Công ty được Nhà nước giao
thêm 21.665.000đ. Số tiền đó quá ít so với nhu cầu của Công ty vì vậy Công ty chủ
yếu dựa vào vốn tự có. Đến nay, tổng số vốn đã lên khoảng 55 tỷ trong đó hơn 80% là
vốn lưu động và chủ yếu là vốn tự có.
Như vậy, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Công ty đã nhiều lần thay
đổi tên gọi và phải trải qua rất nhiều khó khăn trong bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều
biến đổi, song Công ty vẫn luôn đứng vững và thực hiện tốt hoạt động kinh doanh.
2. Cơ cấu tổ chức Công ty.
Đứng đầu Công ty là Giám đốc do Bộ trưởng Bộ thương mại bổ nhiệm và miễn
nhiệm. Giám đốc điều hành và quản lý Công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu
trách nhiệm trước Bộ về mọi hoạt động của Công ty. Giúp việc cho giám đốc là một số
Phó Giám đốc do Giám đốc lựa chọn và đề nghị Bộ trưởng Bộ thương mại bổ nhiệm
và miễn nhiệm.
Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty, và có trách
nhiệm giúp Giám đốc tổ chức chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê,
thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế, thực hiện phân tích hoạt động kinh tế, báo cáo
kết quả hoạt động của Công ty theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Giám đốc Công ty là người tổ chức bộ máy quản lý và mạng lưới kinh doanh phù
hợp với nhiệm vụ của Công ty và quy định của phân cấp quản lý tổ chức của Bộ
thương mại.
Hiện nay, Công ty gồm 15 phòng ban bao gồm các phòng quản lý và các phòng
nghiệp vụ như sau:
1. Phòng kinh tế tổng hợp: dự thảo kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm, quản
lý kế hoạch, thống kê đối ngoại, pháp chế kho vận, phối hợp với các phòng nghiệp vụ
về các mặt hàng quản lý về hạn ngạch ...
2. Phòng kế toán tài chính: hạch toán kế toán, đánh giá tòan bộ kết quả hoạt động
của Công ty, quản lý tài sản, vốn, phí, mở L/C cho các phòng nghiệp vụ, quản lý tiền
hàng cho Công ty .
3. Phòng tổ chức cán bộ: nắm nhân lực của Công ty, đưa ra chính sách về lao
động, tiền lương, thanh tra, bảo vệ, đào tạo,...
4. Phòng Hành chính quản trị: phục vụ văn phòng phẩm, tiếp khách, văn thư, chủ
trì hội nghị, tiếp khách đến giao dịch làm việc với Công ty.
5. Các phòng nghiệp vụ kinh doanh (9 phòng): được phép ủy thác và nhận ủy
thác xuất nhập khẩu với các tổ chức kinh tế trong và ngòai nước, tổ chức liên doanh
liên kết trong kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ.
14. Phòng Liên doanh liên kết.
15. Phòng Kinh doanh du lịch khách sạn.
16. Ban Kiến thiết sản xuất cơ bản.
Bên cạnh 16 phòng ban là các đơn vị trực thuộc sau:
- Trung tâm Du lịch dịch vụ khách sạn: 32 Lý Thái Tổ - Hà Nội.
- Trung tâm Thương mại dịch vụ tổng hợp 26 Lý Thái Tổ - Hà Nội.
- Xí nghiệp Dịch vụ Thương mại lắp ráp xe máy:11B Láng Hạ - Hà Nội.
- Chi nhánh Công ty XNK dịch vụ Thương mại INTIMEX Đà Nẵng.
- Chi nhánh Công ty XNK dịch vụ thương mại INTIMEX TP. Hồ Chí Minh.
- Chi nhánh Công ty XNK dịch vụ thương mại INTIMEX Hải Phòng.
- Xí nghiệp Dịch vụ thương mại sản xuất: 2 Lê Phụng Hiểu - Hà Nội.
3. Nội dung hoạt động của công ty.
Công ty XNK dịch vụ thương mại INTIMEX là một doanh nghiệp Nhà nước trực
thuộc Bộ Thương mại.
Tên giao dịch đối ngoại là : Foreign Trade Enterprise.
Tên điện tín : INTIMEX
Địa chỉ : 96 Trần Hưng Đạo - Hà Nội.
Công ty INTIMEX có những nội dung hoạt động chủ yếu sau đây:
1. Xuất nhập khẩu trực tiếp và nhận uỷ thác các mặt hàng nông lâm hải
sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ cùng các mặt hàng do Công ty tự
sản xuất hoặc gia công, hoặc liên doanh liên kết tạo ra.
2. Xuất nhập khẩu trực tiếp và nhận ủy thác các mặt hàng máy móc thiết bị, vật
tư xây dựng, nguyên vật liệu, phương tiện vận tải.
3. Tiến hành các hoạt động sản xuất, lắp ráp, gia công, liên doanh liên kết hợp tác
đầu tư với các đối tác trong và ngoài nước nhằm sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng.
4. Kết hợp với việc làm dịch vụ kiều hối cho người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, kinh doanh nhà hàng, khách sạn du lịch.
5. Tiến hành bán buôn bán lẻ các mặt hàng thuộc phạm vi Công ty sản xuất, gia
công, lắp ráp.
II- Tình hình xuất khẩu cà phê của Công ty INTIMEX:
1. Tình hình thu mua cà phê xuất khẩu:
Đối với bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nào thì hoạt động
thu mua hàng để xuất khẩu cũng như tiêu thụ hàng nhập khẩu đều là nền tảng đảm bảo
cho sự phát triển lâu dài của Công ty. Hoạt động kinh doanh nội địa của Công ty có
phát triển vững chắc thì Công ty mới có điều kiện mở rộng hoạt động thương mại trên
thị trường quốc tế. Nhận thức được rõ điều đó ngay từ khi thành lập Công ty
INTIMEX đã xác định rõ khâu thu mua hàng xuất khẩu cũng như tiêu thụ hàng nhập
khẩu là những khâu tối quan trọng cấu thành lên hoạt động kinh doanh của Công ty.
Trong hoạt động xuất khẩu cà phê của mình, Công ty INTIMEX cũng đã hết sức chú
trọng tới vấn đề thu mua hàng trong nước, bằng chứng là Công ty đã thiết lập được
một hệ thống các chân hàng có uy tín ở trong nước có thể đảm bảo những đòi hỏi của
Công ty về cả số lượng cũng như chất lượng khi tìm được bạn hàng xuất khẩu.
Ngay từ khi cà phê Việt Nam mới tham gia thị trường cà phê thế giới, lượng cà
phê xuất khẩu lúc đó mới chỉ mang tính chất thăm dò mà chưa đạt giá trị thương mại
đáng kể, Công ty đã quan tâm tới một chiến lược xuất khẩu cà phê lâu dài bằng việc
tìm kiếm và lựa chọn đối tác làm ăn trong nước. Công ty đã cử nhiều đoàn cán bộ trực
tiếp tới các vùng sản xuất cà phê chủ yếu lúc đó để liên hệ mua cà phê xuất khẩu cũng
như xem xét khả năng hợp tác lâu dài với các nhà sản xuất, mà cụ thể lúc đó là các
nông trường cà phê. Nhờ vậy, trong những năm sau này khi sản xuất và xuất khẩu cà
phê của Việt Nam bắt đầu khởi sắc thì Công ty là một trong những doanh nghiệp hàng
đầu của Bộ Thương mại tham gia vào thị trường cà phê thế giới. Bước sang giai đoạn
đổi mới và mở cửa nền kinh tế đất nước, khi xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã phát
triển một cách ổn định thì hoạt động xuất khẩu cà phê của Công ty cũng đã có bước
tiến dài, trong đó có phần đóng góp không nhỏ của hoạt động mua hàng trong nước.
Hiện nay, các đối tác cung cấp cà phê xuất khẩu truyền thống cho Công ty đã chiếm
tới hơn 85% tổng khối lượng cà phê xuất khẩu trực tiếp của Công ty. Điều đó nói nên
tính ổn định và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh nội địa của Công ty. Không dừng
lại ở những kết quả đạt được, Công ty INTIMEX vẫn tiếp tục củng cố các chân hàng
vốn có và tích cực tìm kiếm những chân hàng mới nhằm đa dạng hoá nguồn hàng cung
cấp trong nước đảm bảo cho những đòi hỏi khắt khe về chất lượng và những nhu cầu
lớn về khối lượng cho bước phát triển mới trong tương lai.
2. Hoạt động xuất khẩu.
2.1. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
Hiện nay Công ty INTIMEX đang thực hiện xuất khẩu mặt hàng cà phê theo ba
phưong thức chủ yếu là: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu ủy thác và xuất khẩu theo
phương thực hàng đổi hàng. Trong ba phương thức này, phương thức xuất khẩu trực
tiếp đóng vai trò quan trọng nhất, tỷ trọng kim ngạch cà phê được xuất khẩu trực tiếp
thường chiếm từ 60% đến 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty. Sở dĩ tỷ
trọng này cao như vậy bởi xuất khẩu trực tiếp là phương thức mang tính chủ động và
thưòng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với các hình thức xuất khẩu khác. Hơn
nữa, khi hoạt động xuất khẩu cà phê theo phưong thức này Công ty còn thức đẩy được
hoạt động kinh doanh nội địa, tạo ra được nhiều mối quan hệ kinh tế trong nước, tạo ra
công ăn việc làm cho các nhân viên trong Công ty thuộc các chi nhánh của địa
phương.
Tuy nhiên, phương thức xuất khẩu trực tiếp lại tỏ ta kém hiệu quả đối với các
khách hàng nước ngoài không có nguồn ngoại tệ dồi dào. Vì vậy Công ty còn sử dụng
phương thức xuất khẩu hàng đổi hàng để mở rộng thị trường cà phê sang các nước
thuộc Đông Âu và Liên Xô cũ. Đặc biệt trong thời gian gần đây Công ty đã thực hiện
xuất khẩu cà phê theo phương thức này sang Singapore để đổi lấy một số hàng khan
hiếm mà trong nước chưa thể đáp ứng được. Nhờ vậy từ chỗ chỉ chiếm 2-5% tổng kim
ngạch xuất khẩu cà phê trong thời gian đầu, đến nay tỷ trọng xuất khẩu cà phê theo
phưong thức hàng đổi hàng của Công ty đã tăng lên đến 10-20%. Nếu tiếp tục duy trì
được đà tăng trưởng này đến năm 2002 tỷ trọng cà phê xuất khẩu đổi hàng sẽ đạt mức
ổn định khoảng 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty.
Phương thức xuất khẩu thứ 3 mà Công ty áp dụng đối với mặt hàng chủ yếu là
xuất khẩu ủy thác. Đây đã từng là phương thức xuất khẩu chủ yếu của Công ty trong
những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90. Nhờ uy tín của một doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu làm ăn có hiệu quả cũng với đội ngũ cán bộ có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê mà Công ty INTIMEX đã được nhiều bạn
hàng trong nước tín nhiệm ủy thác. Thêm vào đó, do đã sớm tạo lập được một mạng
lưới khách hàng nên khối lượng cà phê xuất khẩu uỷ thác của Công ty luôn đạt mức
cao. Tuy vậy, đó chỉ là thời kỳ đầu của giai đoạn đổi mới, sau này do sự bung ra mạnh
mẽ của hoạt động xuất khẩu mà ngày càng có nhiều doanh nghiệp được tham gia xuất
khẩu trực tiếp dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu cà phê.
Các bạn hàng của Công ty trước đây thường ủy thác xuất khẩu thì nay cũng giành
được quyền xuất khẩu trực tiếp nên tỷ trọng cà phê xuất khẩu ủy thác trong vài năm
gần đây có chiều hướng giảm mạnh. Đó cũng là qui luật tất yếu của nền kinh tế thị
trường, vì vậy Công ty cần có những bước đi hợp lý để duy trì sự tăng trưởng của hoạt
động xuất khẩu cà phê.
Biểu 6: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty INTIMEX theo các
phương thức trong 2 năm 1990 và 2000.
(Đơn vị: USD)
Năm
Phương thức
1990 2000
Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng
1. XK trực tiếp 385.000 53,97% 3.265.000 71,82%
2. Xk uỷ thác 267.000 37,43% 440.000 9,45%
3. XK theo p.thức
hàng đổi hàng
61.400 8,60% 855.000 18,73%
Tổng số 713.400 100% 4.560.000 100%
(Nguồn: Phòng KTTH Công ty INTIMEX)
Như vây, trải qua 10 năm đã có nhiều biến đổi lớn trong cơ cấu tỷ trọng của các
phương thức xuất khẩu cà phê của Công ty. Đó là sự tăng tỷ trọng của các phương
thức xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu theo phương thức hàng đổi hàng. Từ chỗ chỉ
chiếm hơn 50% tổng kim ngạch, tương đương 385.000USD, đến nay kim ngạch xuất
khẩu cà phê trực tiếp đã tăng lên gần 72% với 3.265.000. Điều đó ngày càng khẳng
định vai trò của phương thức này trong xu thế phát triển xuất khẩu của Công ty. Bên
cạnh đó, kim ngạch cà phê xuất khẩu đổi hàng cũng có chiều hướng tăng mạnh về giá
trị cũng như tỷ trọng. Đến nay, kim ngạch cà phê xuất khẩu đổi hàng đã đạt
855.000USD, chiếm 18,73% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty. Tuy
nhiên, điều tất yếu là với sự gia tăng tỷ trọng của hai phương thức trên thì tỷ trọng kim
ngạch của phương thức xuất khẩu ủy thác cũng giảm từ 37,43% xuống còn 9,45%.
Nhưng nếu xét về mặt giá trị tuyệt đối thì kim ngạch cà phê xuất khẩu ủy thác cũng đã
tăng gần gấp đôi, đến năm 2000 con số kim ngạch này là 440.000USD.
2.2. Khối lượng, giá cả và kim ngạch xuất khẩu.
Hoà chung vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của cà phê Việt Nam, trong khoảng
mười năm vừa qua khối lượng và kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cà phê của Công ty
INTIMEX cũng đã gia tăng liên tục qua các năm. Từ năm 1990 đến năm 2000 khối
lượng xuất khẩu đã tăng gần 3,6% lần từ 820 tấn lên 3.000tấn, song song với đó kim
ngạch xuất khẩu cũng đã tăng 6,5 lần từ 713.400USD lên 4.560.000 USD. Đồng thời
đưa tỷ trọng kim ngạch mặt hàng cà phê của Công ty trong tổng kim ngạch xuất khẩu
từ 15% năm 1990 lên 30% năm 2000. Đây cũng là tỷ trọng cao nhất trong số những
mặt hàng mà Công ty tham gia xuất khẩu.
Có những năm như năm 1996 kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã bị thụt giảm
hơn 2 triệu USD, tương đương 26%, do giá cà phê giảm từ 2.630USD/MT xuống còn
1.825 USD/MT. Nhưng cũng nhờ giá tăng mạnh từ 1.000USD/MT vào năm 93 lên
2.680USD/MT năm 94 mà kim ngạch đã tăng tới 3 lần từ gần 2 triệu USD lên gần 6
triệu USD.
Về giá cả, nhìn chung mặt bằng giá xuất khẩu cà phê của Công ty luôn nhỉnh hơn
giá xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Chỉ duy nhất năm 1995 giá cà phê của
Công ty có phần thấp hơn 3USD/MT so với giá trung bình trong nước. Tuy vậy nếu so
với giá cà phê thế giới thì giá cà phê của Công ty cũng như của các doanh nghiệp khác
đều thấp hơn trung bình khoảng 50 USD/MT do giữa các doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu cà phê có sự cạnh tranh thiếu lành mạnh nên thường bị các khách hàng nước
ngoài ép giá.
Biểu 7: Khối lượng, giá cả và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty
INTIMEX trong thời gian qua.
Năm
Chỉ tiêu
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Khối lượng
(MT)
820 1.150 1.460 1.930 2.200 2.660 2.750 3.190 2.970
Giá cả
(USD/MT)
870 835 730 1.000 2.680 2.630 2.630 1.250 1.550
Kim ngạch
(1000USD)
713,4 960,3 1.065 1.930 5.896 6.850 4.849 3.950 4.560
(Nguồn: phòng KTTH Công ty INTINMEX)
3. Đánh giá chung.
3.1. Kết quả đạt được:
Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu cà phê của Công ty INTIMEX đã
mang lại những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của xuất khẩu Việt Nam nói
chung và đối với sự lớn mạnh của Công ty INTIMEX nói riêng. Những đóng góp đó
có khái quát như sau:
* Tạo nguồn ngoại tệ cho Công ty: hàng năm hoạt động xuất khẩu cà phê đã
mang lại trung bình từ 5-7 triệuUSD, đáp ứng một phần không nhỏ nhu cầu nhập khẩu,
cân đối thu chi ngoại tệ trong các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty,
góp phần thúc đẩy Công ty phát triển một cách đồng đều theo cả hai hướng xuất khẩu
và nhập khẩu.
* Tạo việc làm cho cán bộ, công nhân viên trong Công ty: Không những đối với
nhân viên thuộc các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu mà còn đối với cả nhân viên của
các chi nhánh của nhân viên mua thuộc lĩnh vực kinh doanh nội địa.
Tăng cường hợp tác kinh doanh với các bạn hàng trong nước, mở rộng thị trường
xuất khẩu, tăng cường mối quan hệ với các đối tác nước ngoài.
* Nâng cao uy tín của Công ty ở thị trường trong nước cũng như thị trường thế
giới.
* Đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, tạo sự ổn định tương đối trong cơ cấu
hàng xuất khẩu của Công ty.
* Nâng cao nghiệp vụ xuất nhập khẩu của đội ngũ nhân viên, hoàn thiện công tác
quản lý,vv...
3.2. Những vấn đề còn tồn tại:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, do một số nguyên nhân khách quan và cả
những nguyên nhân chủ quan mà hiện nay hoạt động xuất khẩu cà phê của Công ty
còn một số hạn chế sau:
* Hoạt động thu mua nội địa còn gặp nhiều khó khăn như: thiếu nhân viên, thiếu
phương tiện vận chuyển, bảo quan, lưu trữ hàng...Hơn nữa, do lượng vốn còn hạn chế
nên Công ty còn chưa có được sự chủ động trong công tác thu mua dự trự cà phê xuất
khẩu, khó tính hết được hiệu quả kinh doanh lâu dài.
* Chất lượng cà phê thu mua chưa đồng đều do được tập trung từ rất nhiều nguồn khác
nhau. Đây là một trong những vấn đề nan giải không chỉ đối với riêng Công ty mà còn đối với
toàn ngành cà phê Việt Nam nói chung.
* Có sự cạnh tranh gay gắt, đôi khi thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong
nứoc trong việc dành giật thị trường trong việc xuất khẩu cà phê, từ đó dẫn đến tình
trạng cà phê xuất khẩu của Công ty bị ép giá.
* Thị trường cà phê thế giới luôn biến động thất thường, khó dự đoán, hơn nữa
trong nước lại thiếu những thông tin chính xác kịp thời nên hoạt động xuất khẩu cà phê
còn gặp nhiều rủi ro.
* Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu còn chưa thực sự thông thoáng, hệ thống chính
sách thiếu ổn định, không đầy đủ, đôi khi chồng chéo gây nhiều khó khăn cho hoạt
động của Công ty.
* Đội ngũ nhân viên chưa đồng đều, thiếu những am hiểu sâu sắc về thị trường cà
phê thế giới.
Chương 3
Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
cà phê của Công ty INTIMEX trong thời gian tới.
I. Phương hướng phát triển của Công ty.
1. Mục tiêu đặt ra.
Năm 2002 là Công ty INTIMEX kỷ niệm 23 năm ngày thành lập, vì vậy Công ty
quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, phấn đấu đạt
những chỉ tiêu cụ thể sau:
* Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 31.000.000USD, trong đó kim ngạch xuất
khẩu đạt 15,8 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 15,2 triệu USD.
* Tổng doanh thu kinh doanh nội địa đạt 45 tỷ đồng (chưa tính doanh thu bán
hàng nhập khẩu).
* Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cà phê đạt 5.200.000USD chiếm 30% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Công ty.
* Tổng lợi nhuận sau thuế đạt 6,5 tỷ đồng.
* Nộp ngân sách Nhà nước 37 tỷ đồng.
* Lương bình quân cán bộ, CNV trong Công ty đạt 900.000đ/người/tháng.
Ngoài ra trong thời gian tới về thị trường xuất khẩu, Công ty chủ trương triệt để
khai thác các thị trường vốn có, tích cực tìm kiếm những thị trường mới, xúc tiến các
quan hệ bạn hàng mới trên phạm vi toàn thế giới. Đối với mặt hàng cà phê Công ty dự
kiến trong năm nay sẽ xuất khẩu những tấn cà phê đầu tiên sang Nhật, một thị trường
lớn đầy tiềm năng trong tương lai đối với xuất khẩu cà phê của Công ty.
2. Phương hướng thực hiện.
Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra đối với toàn Công ty nói chung cũng như đối
với lĩnh vực xuất khẩu cà phê nói riêng. Công ty đã đề ra những phương hướng kinh
doanh cụ thể như sau:
* Khai thác có hiệu quả thị trường hiện có và mở rộng các thị trường xuất khẩu
mới.
* Nâng cao chất lượng mặt hàng cà phê xuất khẩu để nâng giá cà phê xuất khẩu
của Công ty ngang bằng với mức trung bình trên thế giới.
* Đẩy mạnh và hoàn thiện công tác thu mua, chuyên chở và bảo quản cà phê.
* Tích cực tìm kiếm các nguồn cung cấp cà phê chất lượng cao, tăng cường quan
hệ với các bạn hàng vốn có trong nước.
* Nâng cao năng lực nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên nghiệp vụ trong các lĩnh
vực kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng nông sản
cũng như lĩnh vực cà phê.
II. Các giải pháp cụ thể.
1. Các giải pháp từ phía Công ty.
1.1. Giải pháp về nguồn nhân lực.
Với bất cứ một doanh nghiệp nào, nhân sự luôn là vấn đề trung tâm, có vai trò
quan trọng đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, việcđào tạo, củng cố,
sắp xếp đội ngũ lao động hợp lý luôn mang lại hiệu quả cao cho bất cứ doanh nghiệp
nào.
Đối với một Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, nguồn nhân lực có những ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh. kinh doanh trên phạm vi quốc tế chịu ảnh
hưởng rất lớn của các yếu tố văn hoá, xã hội và con người, vì vậy nếu có đội ngũ cán
bộ giỏi thì Công ty có thể tận dụng được nhiều cơ hội và hạn chế được các rủi ro trong
kinh doanh. Đội ngũ nhân viên của Công ty INTIMEX hiện nay có số lượng lớn nhưng
hiệu quả lao động chưa thực sự cao. Cơ cấu lao động còn chưa phù hợp, vẫn còn khá
nhiều lao động hoạt động gián tiếp. Vì vậy, trong thời gian tới, Công ty có thể tổ chức
đạo tạo về cho một lực lượng lao động dư thừa để chuyển sang các hoạt động sản xuất
phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên, chất lượng lao động lại là một yếu tố quan trọng vì vậy
Công ty cần lực chọn những lao động thực sự có năng lực có thể đáp ứng được yêu
cầu kinh doanh của Công ty.
Trong nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ
công nhân viên có trình độ cao, có năng lực làm việc, có kinh nghiệm trong kinh
doanh, đồng thời phải có vốn ngoại ngữ nhất định. Do đó Công ty nên đào tạo mới
hoặc đào tạo lại đội ngũ chuyên viên của mình để có thể đáp ứng các yêu cầu của điều
kiện kinh doanh quốc tế hiện nay. Việc đào tạo lại có thể thực hiện bằng nhiều cách:
đào tạo tại chỗ, đào tạo chính quy, đào tạo trong nước, ngoài nước. Công ty có thể xem
xét, cân nhắc và lựa chọn hình thức đào tạo phù hợp với từng lĩnh vực kinh doanh để
có thể đem lại hiệu quả mà vẫn tiết kiệm được chi phí.
Có nguồn nhân lực mạnh không có nghĩa là sẽ có hiệu quả hoạt động kinh doanh cao
vì nó còn phụ thuộc vào yếu tố khác nhau như quản lý và phân công lao động. Do đó,
việc sắp xếp lại lao động và công tác phân công lao động có ý nghĩa rất quan trọng.
Công ty cần sắp xếp lao động phù hợp với năng lực của từng người, bên cạnh đó cần
tạo ra một không khí làm việc hăng hái, tích cực và xây dựng tác phong làm việc khoa
học, khuyến khích lòng nhiệt tình và trách nhiệm của nhân viên.
1.2. Mở rộng hiểu biết về môi trường kinh doanh quốc tế.
Trước khi có kế hoạch thâm nhập một thị trường nào đó, Công ty cần phải tìm
hiểu kỹ nắm vững các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh ở các thị trường đó như
các nhân tố về kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hoá... các quyết định chiến lược kinh
doanh cho các thị trường khác nhau sẽ khác nhau.
Do có sự khác biệt về môi trường kinh doanh giữa các quốc gia, Công ty cần phải
có những kiến thức và hiểu biết nhất định về thị trường mà mình kinh doanh. Những
hiểu biết này có thể đến từ hai con đường khác nhau: hoặc là do kinh nghiệm kinh
doanh trước đây mà có, hoặc là do học hỏi, tìm hiểu. Như vậy, muốn tăng được những
hiểu biết này Công ty chỉ có thể học hỏi mà thôi. Công ty có thể cử cán bộ của mình
sang các thị trường đó để khảo sát, nghiên cứu trước khi ra quyết định kinh doanh.
Việc học hỏi kinh nghiệm từ bạn hàng trong nước hoặc thông qua các nguồn thông tin
khác cũng là một biện pháp có thể thu được hiểu quả cao mà chi phí lại thấp.
1.3. Các giải pháp về Marketing xuất khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, đối với Công ty INTIMEX, việc tìm
kiếm và ký kết được các hợp đồng xuất khẩu là một công việc hết sức khó khăn. Ngay
cả khi đã có được hạn ngạch xuất khẩu mà không tìm được bạn hàng thì vẫn không
thể xuất khẩu được. Chính vì vậy muốn phát triển hơn nữa hoạt động xuất khẩu thì
Công ty cần phải chú trọng đến hoạt động Marketing. Cụ thể, Công ty có thể áp dụng
các biện pháp sau:
- Quảng cáo: Thông qua các kênh quảng cáo như tạp chí, hội chợ thương
mại,vv...Công ty có thể tạo dựng cho mình một hình ảnh hấp dẫn, đáng tin cậy trong
giới kinh doanh trong nước và trên thị trường quốc tế để có thể dễ dàng hơn trong việc
thu mua cũng như xuất khẩu cà phê.
Ngoài ra Công ty còn có thể áp dụng các biện pháp tuyên truyền khác như: in ấn
tờ rơi, làm các sản phẩm lưu niệm có in hình biểu tượng của Công ty để tặng cho các
bạn hàng trong những lần giao dịch...
- Khuyến mại xuất khẩu: để khuyến khích các đối tác nước ngoài tiếo tục làm ăn
với Công ty, Công ty cần phải thực hiện giảm giá theo tỷ lệ nhất định đối với các
khách hàng thường xuyên ký kết những hợp đồng lớn. với các bạn hàng trong nước
Công ty cần phải có biện pháp khuyến khích họ để tăng cường mối quan hệ làm ăn lâu
dài.
Tuy nhiên có thể thu được lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
thì chi phí cho các hoạt động Marketing cần phải hợp lý, thường thì chi phí được trích
ra theo một tỷ lệ nhất định tính trên doanh lợi kinh doanh của Công ty, ví dụ từ 10-
15%.
1.4. Tiến hành đa dạng hoá hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê.
- Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu; thực chất đây là việc mở rộng thị trường xuất
khẩu cho Công ty. Để có thể đảm bảo hoạt động một cách vững chắc lâu dài Công ty
cần tiếp tục tìm kiếm các thị trường mới mà không chỉ dừng ở các thị trường truyền
thống.
- Đa dạng hoá phương thức xuất khẩu: để tránh rủi ro trong kinh doanh Công ty
cần kết hợp nhiều phương thức xuất khẩu. Hiện tại, Công ty đang thực hiện xuất khẩu
cà phê theo các phương thức: Trực tiếp, ủy thác, xuất khẩu theo phương thức đổi
hàng, nhưng đa phần các hợp đồng xuất khẩu vẫn được thực hiện theo phương thức
trực tiếp. Vì vậy, Công ty cần tiến hành các biện pháp nhằm cân đối cơ cấu xuất khẩu
của mình một cách hợp lý giữa các phương thức này.
- Đa dạng hoá mặt hàng: Không chỉ dừng lại ở việc xuất khẩu cà phê hạt chưa
qua chế biến, Công ty cần tìm kiếm các bạn hàng trong nước có thể cung cấp các
chủng loại sản phẩm cà phê đã qua tinh chế, đồng thời tìm kiếm những đối tác nước
ngoài có nhu cầu đối với các loại sản phẩm đó nhằm đa dạng hoá mặt hàng cà phê xuất
khẩu.
1.5. Các giải pháp về thu mua.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu không chỉ dừng lại ở các hợp đồng xuất khẩu
đơn thuần mà còn có sự gắn kết chặt chẽ với hoạt động thu mua trong nước. Vì vậy để
có thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê trong nước, cụ thể: nâng cao chất lượng cà
phê thu mua từ các chân hàng, ổn định các đầu mối thu mua, tăng cường công tác quản
lý trong việc chuyên chở và bảo quản cà phê trước khi xuất khẩu,...
2. Các giải pháp kiến nghị với các cơ quan Nhà nước:
Để tạo điều kiện cho Công ty thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà
phê có hiệu quả hơn, với quy mô hạn hẹp của đề án này xin có một vài ý kiến sau đối
với các cơ quan Nhà nước:
- Tạo môi trường kinh doanh xuất khẩu lành mạnh và thông thoáng hơn đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Trước hết, Nhà nước cần có những chính sách
quản lý phù hợp và thống nhất đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Phân
bố các đầu mối được phép xuất khẩu cà phê trên cơ sở khả năng thực tế của mỗi Công
ty, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và bị ép giá trên thị trường cà phê thế
giới.
- Trợ giá sản xuất thông qua các chính sách bảo hộ giá, quỹ bình ổn giá của chính
phủ. Những nhà sản xuất cà phê của Việt Nam thường phải chấp nhận mức giá trên thị
trường, trong thời gian qua quỹ bình ổn giá của chính phủ có những tác động nhất định
nhưng đối tượng thụ hưởng tập trung vào doanh nghiệp nhà nước, người nông được hỗ
trợ ít. Nên chăng Nhà nước có thêm giải pháp bảo hộ gián tiếp khác.
- Tạo hành lang pháp lý thuận tiện cho các công ty xuất nhập khẩu hoạt động:
xây dựng biểu thuế xuất nhập khẩu phù hợp với tình hình sản xuất và kinh doanh của
các mặt hàng, tạo lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhằm trợ giá xuất khẩu cho các doanh
nghiệp khi thị trường cà phê thế giới có những biến động bất lợi, cải cách thủ tục hành
chính trong các khâu kiểm định và làm thủ tục cho hàng hoá xuất nhập khẩu...
- Tạo điều kiện hỗ trợ phát triển cà phê chè, ổn định cà phê vối, phát triển công
nghệ chế biến cà phê, mở rộng thị trường cà phê và tăng cường hợp tác quốc tế, hỗ trợ
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có được các thông tin nhanh chóng và
chính xác về đối tác và thị trường nước ngoài. Hướng dẫn các doanh nghiệp tìm hiểu
và thâm nhập các thị trường mới.
- Có những biện pháp kịp thời nhằm điều tiết tỷ giá hối đoái, tạo điều kiện đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu.
- Nhà nước cần dành những khoản tín dụng ưu đãi cho một số doanh nghiệp
thuộc ngành sản xuất cà phê nhằm hiện đại hoá công nghệ chế biến cà phê sau thu
hoạch, nâng cao hơn nữa chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, các hộ
nông dân trồng cà phê cũng cần nhận được một số ưu tiên về vốn để có thể có đủ máy
móc sấy và bảo quản cà phê sau khi thu hoạch.
- Các cơ quan nông nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa việc hướng dẫn kỹ thuật trồng
và canh tác cà phê cho các hộ nông dân, các nông trường quốc doanh cũng như tăng
cường đào tạo cán bộ cho nghành cà phê.
- Tăng cường vai trò của Nhà nước đói với sản xuất và xuất khẩu cà phê.Vai trò
đó cần hướng vào các vấn đề trọng tâm: chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sản xuất và
xuất khẩu dài hạn của các cơ chế chính sách và đầu tư vốn khoa học công nghệ và ổn
định thị trường.
kết luận
Việc đẩy mạnh xuất khẩu là một mục tiêu quan trọng mà đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định. Điều này được thể hiện rõ trong
Nghị quyết Trung ương 5 như là một điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, là tiền đề để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đặc biệt đối với mặt hàng cà phê thì hoạt động xuất khẩu càng có vai trò quan trọng
bởi mặt hàng cà phê chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Bởi vậy, việc đẩy
mạnh xuất khẩu cà phê là một trong những sách lược quan trọng nhằm góp phần đẩy
nhanh sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Với mục đích góp phần vào sự phát triển của xuất khẩu cà phê Việt Nam đề án
này đã tập trung giải quyết những vấn đề sau:
1. Làm sáng tỏ một số vấn đề về mặt hàng cà phê cũng như hoạt động xuất khẩu
cà phê và sự phát triển của ngành cà phê.
2. Phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê trên thế giới và ở Việt Nam
để vạch ra cơ hội tham gia xuất khẩu cà phê cho công ty INTIMEX.
3. Đánh giá những điểm mạnh yếu trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê
của Công ty để từ đó đề xuất một số ý kiến giúp Công ty tham khảo nhằm phát triển
hoạt động xuất khẩu cà phê của Công ty trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo
1. Cây cà phê Việt Nam - Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật. Hà Nội 1995.
2. Diễn biến thị trường cà phê thế giới - Nhà xuất bản Nông nghiệp, Nguyễn Võ
Linh 1994.
3. Xuất khẩu cà phê ở nước ta, thực trạng và giải pháp - Đoàn Triệu Nhạn 1992.
4. Tổng quan phát triển cà phê Việt Nam - Nguyễn Võ Linh, Bùi Quang Toản,
Viện quy hoạch và thiết kế Nông nghiệp 1994.
5. Trần Anh Phong, Nguyễn Võ Linh 1990: “Dự án phát triển cà phê toàn quốc
1990 - 2000”.
6. Thời báo kinh tế, Tạp chí Thương mại, Thông tin kinh tế thị trường các năm
1996, 1997, 1998.
7. Niên giám thống kê Việt Nam 1990 - 2000.
8. Báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty INTIMEX giai
đoạn 1990 - 2000.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I. Khái quát chung về mặt hàng cà phê và thị trường xuất
khẩu cà phê của công ty INTIMEX
2
I. Quá trình hình thành và phát triển ngành cà phê 2
1. Sự ra đời và phát triển ngành cà phê Thế giới 2
2. Sự ra đời và phát triển ngành cà phê Việt Nam 3
II. Phân bố cây cà phê ở Việt Nam 4
1. Phân bố theo theo vùng 4
2. Phân bố theo thành phần kinh tế 5
III. Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam và thế giới 6
1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam 6
2. Tình hình buôn bán cà phê trên thế giới 10
IV. Thị trường xuất khẩu cà phê của công ty INTIMEX 13
Chương II. Phân tích tình hình xuất khẩu cà phê tại Công ty
INTIMEX
15
I. Giới thiệu chung về Công ty INTIMEX 15
1. Quá trình hình thành và phát triển 15
2. Cơ cấu tổ chức của Công ty 16
3. Nội dung hoạt động của Công ty 17
II. Tình hình xuất khẩu cà phê của Công ty INTIMEX 18
1. Tình hình thu mua cà phê xuất khẩu 18
2. Hoạt động xuất khẩu 19
3. Đánh giá chung 22
Chương III. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà
phê của công ty INTIMEX trong thời gian tới
24
I. Phương hướng phát triển của Công ty 24
1. Mục tiêu đặt ra 24
2. Phương hướng cụ thực hiện 24
II. Các giải pháp cụ thể 25
1. Các giải pháp từ phía Công ty 25
2. Các giải pháp kiến nghị cơ quan Nhà nước 28
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61016_3298.pdf