Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Số lượng tác phẩm của ông trước 1945 không đồ sộ như các nhà văn cùng thời, Nhưng giá trị thì rất lớn lao, ngoài những cách tân về mặt nghệ thuật, ông còn đề ra nhiều quan điểm về cuộc sống, nhà văn, nghề văn. Đặc biệt, tác giả xoáy sâu vào nỗi đau về sự tha hóa của con người trong xã hội đương thời.
Phần nhiều các nhà văn hiện thực tập trung khai thác nhiều những xung đột xã hội, mâu thuẩn giai cấp, phong tục tập quán. Nói chung, đó là đời sống bên ngoài của con người. Còn Nam Cao lại đi sâu vào đời sống bên trong, thế giới tâm hồn của con người để phản ánh những phương diện tha hóa của họ. Trong quá trình khắc họa hình ảnh con người bị tha hóa, Nam Cao đã sử dụng nhiều thủ pháp thể hiện như miêu tả, giọng điệu, ngôn ngữ. Từ đó, tác giả khái quát thành những triết lí, quy luật của cuộc sống. Âm hưởng của những trang Nam Cao làm nhức nhối lòng người bao thế hệ về các số phận bi thảm. Cuộc sống nghèo khó cơm áo, tù túng dẫn đến nhiều thân phận cùng cực, bế tắc, nhiều người phải chết. Cái chết cũng đa dạng: chết vì đói, chết no, chết nhục, chết vì danh dự Cái chết nào cũng uất ức, thê thảm và đấu tranh tư tưởng gay gắt trước khi phải chết. Người chết đã rồi, người sống càng cùng quẩn hơn, sống mà như đang chết mòn về thân xác và tâm hồn. Nam Cao đã gióng hồi chuông cảnh tỉnh cho con người bao thế hệ về một thời kì đen tối trong lịch sử dân tộc.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 13138 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu về sự tha hóa của con người thể hiện trong các tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết của Nam Cao trước 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột sự nghiệp văn chương chân chính trước cuộc sống vô cùng khó khăn, hằng ngày phải lo cơm áo. Nhân vật của Nam Cao chạy trốn thực tại khi đã đối diện với nó, đấu tranh tồn tại với nó. Họ chỉ buông xuôi khi không thể níu kéo. Điều đáng trân trọng ở họ luôn có lòng tự trọng về nghề nghiệp và mơ ước. Họ không ôm đồm, nữa vời để viết những tác phẩm vô vị.. Nam Cao đã không để nhân vật có một cái nhìn phiến diện, chủ quan mà luôn biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác.
Nam Cao xây dựng nhân vật rất khác các nhà tiểu thuyết lớp trước. Thế giới nhân vật của ông không gồm hai mặt chính diện và phản diện rạch ròi. Mà các nhân vật cũng không thống nhất giữa diện mạo và phẩm chất. Dưới ngòi bút của ông các nhân vật thường đa dạng, phức tạp nhưng rất gần với cuộc sống. Cuộc sống thực tế chi phối và tác động đến tính cách của nhân vật. Các nhà văn hiện thực trước như Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Xây dựng các nhân vật phần nhiều thể hiện trên bình diện đạo đức, xã hội. Còn các nhân vật của Nam Cao ngoài các bình diện trên, còn được nhà văn chú ý đến bình diện đời sống tự nhiên, bản năng và nội tâm phức tạp.
2.1.2.2. Con người giành giật nhau từng miếng ăn:
Dân tộc ta bị giặc ngoại xâm bóc lột hàng ngàn năm, từ giặc phương Bắc đến thực dân Pháp. Đối với nhân dân ta miếng ăn, manh áo đã trở thành nỗi ám ảnh, sự đấu tranh sinh tồn. Thực tế đó đã được phản ánh nhiều từ văn học dân gian, đến văn học trung đại và hiện đại. Còn đối với Nam Cao, miếng ăn là sự thách thức ghê gớm đối với nhân cách con người, nó phá vỡ những mối quan hệ, tình cảm thân thuộc hằng ngày hay những giá trị nhân bản. Nam Cao là đại biểu xuất sắc của dòng văn học hiện thực thời kì này, ông miêu tả số phận người nông dân cùng quẫn trong xã hội nửa thực dân phong kiến như Chí Phèo .Trong ăn uống, người ta vẫn ưu tiên cho người có tuổi những món ngon, hiếm như sự kính trọng. Trong sáng tác của Nam Cao, đời sống con người là sân khấu bi kịch và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng xoay quanh việc giành giật miếng ăn để sống. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá những suy tư của con người về nhiều góc độ của miếng ăn. Miếng ăn cứu đói, miếng ăn giữa làng hay miếng ăn vì danh dự. Chính vì vậy mà đối với ông, việc miêu tả miếng ăn rất phong phú, nó gắn liền với hoàn cảnh sống của con người. Tác giả mong muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống xung quang cái ăn, cái uống. Nhân tính con người một phần cũng được thể hiện ở đây. Chí Phèo phải thay hình đổi dạng, đổ máu dọa nạt người khác để kiếm ăn, một lão Hạc tự vẫn cũng muốn giữ lại phần của con, hay người cha “Nghèo” treo cổ cũng không muốn ăn cơm trong khi con mình phải ăn cám… Nhân vật không chỉ tha hóa khi giành giật miếng ăn của nhau, mà còn tha hóa khi tìm cái chết để giữ lại miếng ăn cho người khác. Ở khía cạnh này, tha hóa có tính bi kịch hơn, đau đớn hơn. Rõ ràng, vấn đề ăn để mà sống luôn gắn với sự tồn tại nhưng chết để giữ lại miếng ăn cho người khác thì cái chết ấy thật ý nghĩa. Hay cái chết no của bà cái Đĩ. Cái chết trong quằn quại vì ăn bả chó của Lão Hạc. Cái chết vì xấu hổ và trì độn của lang Rận và mụ Lợi. Và cái chết giấu giếm vợ con của người cha đau ốm trong Nghèo. Hầu hết họ đều chủ động tìm đến cái chết, chết trong sự bần cùng, bế tắc, bi kịch.
2.2. Hệ quả của sự tha hóa:
2.2.1. Đánh mất chính mình:
Đánh mất chính mình là một dạng của sự tha hóa. Con người đã không còn giữ được tính cách, phẩm chất của mình, thay đổi thành một con người khác đối lập với chính mình trước đây. Sự tha hóa này nhằm thích nghi với cuộc sống hiện tại, với xu hướng mới, gạt bỏ đi những giá trị tốt đẹp vốn có.Những diễn biến tình cảm suy tư của của thế giới bên trong nhân vật làm cho người đọc có những cảm giác giày vò, nhức nhối về cuộc sống có phần bế tắc của họ. Đó cũng là hồi chuông mà Nam Cao muốn cảnh báo đến những thành phần trong xã hội muốn đổi đời bằng con đường bất chính, tha hóa. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người làm ra của cải vật chất bằng chính đôi bàn tay và khối óc, bằng lao động chân chính. Những nhân vật như Bá Kiến trong “Chí Phèo”, Nghị Hách “Giông Tố” hay Nghị Quế “Tắt Đèn”… Họ đã đánh mất con người của mình từ lâu. Với họ, ngoài đồng tiền, địa vị và quyền lực trên đời này không còn gì đáng quan tâm cả.
2.2.2. Làm mất tính người.
Các nhân vật đánh mất tình người phần nhiều do hoàn cảnh tác động. Cuộc đời họ cứ vậy trôi chảy trong sự bất lực của bản thân, tác giả cũng xót xa nhìn nhân vật của mình cứ trượt dài trong quá trình đánh mất mình. Hiện tượng biến chất ở nhân vật Chí Phèo và hàng loạt những nhân vật khác như Binh Chức, Năm Thọ, Trương Rự… Đều do hoàn cảnh xô đẩy như một quy luật không cưỡng lại được.
Hoàn cảnh sống có khả năng làm tha hóa con người, con người muốn không bị tha hóa thì phải có ý thức chống lại những mặt tiêu cực của bản thân. Nhưng trớ trêu thay, họ lại là nạn nhân của hoàn cảnh. Tác giả đã cho thấy áp lực của hoàn cảnh gây sức ép đẩy nhân vật vào cảnh ngộ bi đát. Hầu hết, họ đều vùng vẫy trong sự bế tắc để chống lại hoàn cảnh như sự nghèo khổ, miếng cơm manh áo, cái tầmMái ấm gia đình là sợi dây vô hình ràng buộc con người sống với nhau, có tình thương và trách nhiệm. Dù hoàn cảnh sống có chật vật, khó khăn nhưng mối quan hệ của các thành viên trong gia đình luôn tác động với nhau vươn lên trong cuộc sống. Có đôi lúc, họ xem sự hiện diện của người khác là trách nhiệm, là gánh nặng cho bản thân họ. Dạng người mà Nam Cao miêu tả, hiện nay khá phổ biến trong xã hội. Biết bao đứa trẻ bị bỏ rơi trong bệnh viện khi vừa chào đời, người ta không còn nói riêng trẻ mồ côi mà nói chung “Trại trẻ mồ côi”. Hay những người già neo đơn, cơ nhỡ, họ không phải không có người thân mà họ có cả một gia đình hẳn hoi, nhưng đã bị chính những người con, những người cháu được họ nuôi dưỡng khôn lớn đã ném họ ra ngoài xã hội trong tuổi già vì nhiều lí do khác nhau nhưng nhìn chung cũng chỉ vì đồng tiền và sĩ diện. Vì đồng tiền người ta đã tha hóa, đánh đổi tất cả, trước tiên là đánh mất bản thân. Đánh mất những giá trị nhân bản, phá vở những truyền thống tốt đẹp. Thông qua cái chết mòn về thể xác do nghèo đói, Nam Cao muốn nhấn mạnh đến cái chết về nhân tính đang diễn ra hàng ngày ở mọi nơi, mọi giới trong xã hội. Vẫn còn đó những con người bất hạnh, khổ sở, những thân phận tù túng không lối thoát hay những con người đã mòn mỏi mưu sinh đến kiệt quệ. Một xã hội có giai cấp bóc lột, bị bóc lột, giai cấp thống trị và tầng lớp bị trị. Những người bị tha hóa ở mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Những giá trị đạo đức truyền thống không còn đủ sức mạnh để gìn giữ, bảo vệ các mối quan hệ. Thì nay, nông thôn cũng bị thành thị hóa về đời sống tư tưởng. Thì cái làng quê trong sáng tác của Nam Cao là cuộc sống bình thường nhưng đầy bất ổn, rạn vỡ khi đời sống con người đang băng hoại dần, tha hóa, biến chất. Nó được biểu hiện qua bộ mặt của bọn cường hào hoặc những viên quan phụ mẫu. Chúng không phải là chỗ tin cậy, hay chỗ dựa của những người dân thấp cổ bé miệng, Những con người lam lũ, nhếch nhác không trông đợi được ở chúng sự công bằng. Mà họ luôn chịu những oan ức bất công trong sự chịu đựng, câm lặng và tuyệt vọng Nếu cái đói diễn ra thường xuyên, dai dẳng và lan rộng thì hệ quả của nó là cái chết, mặc dù không phải tất cả cái đói đều dẫn tới cái chết. Dù chết vì bệnh hay chết vì no nhưng nhìn chung do cái đói gây ra. Cái đói hủy hoại con người cả thể xác lẫn tinh thần, hủy hoại cả nhân tính, cứ nhìn vào cách nói của bà Phó Thụ cũng có thể khẳng định đối với người làm thuê và người thân của họ bà chẳng thể hiện một chút cảm tình nào. Nam Cao đã phơi bày sự thật về những thực trạng đau lòng, những thảm cảnh của người nông dân không có ruộng cày, không có vườn tược. Họ phải tính toán, xoay xở mọi cách để sống qua ngày như đi ở, đi làm thuê, cuốc vườn, vay nợ, chạy chợ, bán con, ăn xin, ăn chực, lên rừng,… Tác giả cứ lật đi lật lại từng hoàn cảnh sống, từng khía cạnh tâm hồn của mỗi người. Các hoàn cảnh điển hình đều có khả năng nhân rộng, khuất tán ra toàn xã hội, có tính phổ quát của đời sống nhân dân lũ, sống nhịn nhục, cam chịu sức ép từ nhiều phía Rõ ràng, các sáng tác của Nam Cao luôn có các mặt tưởng chừng như trái ngược nhau mà thống nhất với nhau để làm rõ các khí cạnh của vấn đề mà tác giả muốn đề cập. Điều đó, ông giúp cho người đọc có cái nhìn vừa khái quát, vừa chi tiết về sự phong phú trong các trang viết của ông. Đồng thời, đây cũng là cơ sở cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu rõ hơn về bộ mặt nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Cái làng quê phía sau lũy tre làng có vẻ yên lành ấy vẫn tồn tại rất nhiều mặt trái của con người. Bởi thế, dù rất thương yêu vợ và vợ rất chung thủy với mình Dù tha hóa ở các mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều đánh mất tính người. Dư âm của mỗi hoàn cảnh luôn để lại nỗi xót xa trong lòng người đọc. Cái chết và tội lỗi luôn rình rập con người, nếu họ yếu đuối sẽ dễ bị sa ngã, rơi vào con đường tù tội, tan nhà nát cửa. Còn nếu họ tỉnh táo hơn thì họ lại chọn cái chết như một sự giải thoát hay mang theo một niềm hy vọng nào đó gởi gắm lại cho những con người ở lại. Các trang viết của Nam Cao như hồi chuông dài, rung, vang, lan rộng đến mọi người đang im lìm, cam chịu, chờ chết. Và cũng báo hiệu một xã hội đang thoái trào, đang chết mòn, chết mỏi trong sự bất lực của con người. Với tư cánh là nhà văn hiện thực luôn quan tâm, bênh vực quyền sống của con người trong xã hội thực dân phong kiến, Nam Cao không ngần ngại phơi bày trên các trang viết của mình về thực tiễn những gì đang diễn ra trong xã hội đương thời.
2.2.3. Thay đổi các mối quan hệ:
Trong đó, các quan hệ xã hội có tính chất đặc biệt. Con người có quan hệ với những sự vật do họ tạo ra, với thế giới khách quan và những người khác. Do đó, con người soi thấy bản thân mình trong cái thế giới mà họ khám phá ra và bắt đầu quan hệ với bản thân mình với tính cách là một con người (Có sự tự ý thức) chỉ khi có quan hệ với người khác như với một cái gì giống bản thân mình. Chính vì thế, một mặt giải thích bản chất xã hội của ý thức con người và mặt khác giải thích sự cần
thiết phải nghiên cứu các quan hệ xã hội để nhận thức lịch sử và nhận thức mối quan hệ giữa con người với con người.
Mối quan hệ hợp tác làm ăn, chung sống, thể hiện rõ trong “Sống mòn” Thứ, San, Oanh cùng sống chung một nhà, ăn chung một bàn, làm chung một chỗ, lúc đầu họ sống rất thân thiết, gắn bó. Nhưng sự tha hóa của Oanh đã phá vỡ mối quan hệ tốt đẹp vốn có của các thành viên trong nhà. Thứ và San đứng về một phía đối trọng lại với Oanh từ suy nghĩ cho đến hành động đều thể hiện sự tương phản, bất hòa. Thông thường, mối quan hệ chỉ tốt đẹp khi lợi ích của các bên được đảm bảo. Từ đó, có sự ràng buộc qua lại và tôn trọng lẫn nhau, đồng thời cần có nhau để cùng tồn tại và phát triển. Đó là trường hợp lúc mới lập trường, Còn trong sáng tác của Nam Cao, ở đề tài này chỉ tìm hiểu quá trình tha hóa của các nhân vật làm thay đổi các mối quan hệ. Các mối quan hệ trong sáng tác của Nam Cao rất đa dạng như quan ra một thế lực đàn em như Binh Chức, Năm Thọ và đặc biệt Chí Phèo đã trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến …. Nhưng họ đều đều bị tầng lớp trên sử dụng như một con chốt trong kế hoạch gây áp giữa các phe cánh. Cho nên, Mối quan hệ sống còn của các phe phái địa chủ, cường hào, ác bá luôn bộc lộ những âm mưu nham hiểm, thâm độc mà nạn nhân trực tiếp của chúng là đám dân lành thấp cổ bé họng. Chúng đấu tranh với nhau rất âm thầm mà gay gắt, kín đáo mà sôi nổi. Tất cả nói lên bộ mặt tha hóa của giai cấp thống trị, mối quan hệ đó ngày nay vẫn tồn tại, vẫn diễn ra hằng ngày ở các cấp lãnh đạo, ở các cơ sở lao động sản xuất. Nạn đâm chọc nhau, ép phe nhau, gây hấn nhau, âm thầm cấu kết nhau tạo thế lực, chạy chọt vận động hành lang… Để tạo thế lực, sự ảnh hưởng, tiếng nói mạnh trong các vấn đề tranh chấp, bảo vệ quan điểm, quyền lợi địa vị cá nhân và vây cánh thay vì chân thành góp ý phê bình, xây dựng, rút kinh nghiệm. Một xã hội văn minh, tiến bộ khi mà các cấp lãnh đạo có quan điểm trong sáng, tất cả vì lợi ích của nhân dân, đấu tranh cho tập thể tiên tiến đại diện cho dân, thẳng thắn góp ý xây dựng vì lợi ích chung. Như thế, mục đích và âm mưu của bọn người tha hóa sẽ không tồn tại.
Trong các quan hệ gia đình các thành viên tha hóa làm thay đổi các mối quan hệ vốn được xem là vững vàng do được xây dựng trên nền tảng đạo đức, sự ràng buộc của hôn nhân và tình nghĩa cha mẹ, vợ chồng, con cái. . . Lối sống tự kỷ, ham muốn, đua đòi, vì bản thân mình gạt bỏ người thân, tình ruột thịt đó là biểu hiện của xu hướng rất phổ biến trong xã hội đương thời. Người ta có thể vì ham muốn, thỏa mãn dục vọng của bản thân sẳn sàng bỏ cha, mẹ, vợ chồng, con cái… Báo chí thường xuyên có những bài viết về con cái hất hủi cha mẹ khi già yếu, bệnh tật hay hết nguồn khai thác, bòn rút tiền bạc. Với tình yêu thương, cưu mang của cha mẹ đối với con cái, lòng tôn kính, phụng thờ của con cái với cha mẹ tạo nên sứ mạnh bên vững của mối quan hệ này. Nếu cha mẹ đối xử bạc nhược đối với con cái cũng vi phạm đạo lí làm người, cha mẹ đã chấp nhận sinh ra con cái, đó chính là khúc ruột của mình, mang nặng đẻ đau. Còn nếu con cái đối xử thậm tệ với cha mẹ cũng vi phạm đạo hiếu, công ơn sinh thành, dưỡng dục đến ngày khôn lớn thành người. Ca dao luôn nhắc nhỡ “Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con hay cơm cha áo mẹ chữ thầy, nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao”. Nhưng thực tế đời cuộc sống muôn màu muôn vẻ nhiều gia đình trên dưới đảo lộn. Miếng ăn và ham muốn tầm thường đã làm thay đổi các mối quan hệ. Bên cạnh những người cha hết lòng vì gia đình con cái đến hi sinh cả tính mạng như lão Hạc, anh Chuột, anh Phúc... Mặt khác có những con người sống cho thỏa mãn bản thân, bỏ bê gia đình con cái, chạy theo những ham muốn tầm thường, phá vỡ các mối quan hệ tốt đẹp của gia đình. Sự tha hóa của họ làm thay đổi cuộc sống, đi ngược lại những giá trị đạo lý. Cái nghịch lí đó cho thấy các hạng người khác nhau trong xã hội, có người hi sinh bản thân để giữ gìn mối quan hệ, đảm bảo sự sinh tồn, sống có trách nhiệm. Có kẻ vì bản thân, phá vỡ quan hệ, tìm kiếm sự tồn tại cho mình trên sự đau khổ của người khác, vô trách nhiệm.
Bên cạnh đó, còn có mối quan hệ giữa tầng lớp thống trị nông thôn như lý tưởng, cường hào với đám đông dân chúng, nói chung là mối quan hệ giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Chẳng hạn, ở cái làng Vũ Đại nhìn bề ngoài thì rất yên ả nhưng bên trong thì các phe đối lập luôn gầm ghè với nhau như cánh Bá Kiến và Đội Tảo – những phe cánh thống trị, ngoài việc chúng mâu thuẩn với nhau, thì mối quan hệ giữa chúng và đám đông dân chúng trong làng cũng không hòa hợp. “Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ chỉ mới được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ Bá chửi người ta, bây giờ họ mới được nghe người ta chửi lại nhà cụ Bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao.” Tất cả đều sợ sệt, yếu ớt, nhu nhược. Nói đúng hơn, họ là một tầng lao động cố nông, nhiều đời bị đè đầu cưỡi cổ, không dám phản ứng lại. Họ không phải là giai cấp, không có tổ chức chức lãnh đạo, nên chỉ sống lầm lủi từ đời này qua đời khác. Còn các thế lực thống trị, cũng chẳng đại diện cho dân thế nhưng vẫn cứ dửng dưng tồn tại và cũng cố thế lực uy danh qua nhiều đời, đời nào cũng tha hóa, đời nào cũng mâu thuẩn với dân. Trong mối quan hệ này, phần thiệt luôn thuộc về tầng lớp thấp. Liên tiếp những câu khẳng định với thái độ nghiêm túc, dõng dạc đầy quyết đoán. Lúc này là lúc tinh thần anh mạnh mẽ nhất, sáng suốt nhất với bản lĩnh quyết tâm cao độ nhất. Thế mà, thái độ của đám đông chỉ dừng Vì thế, chỉ khi Cách mạng tháng Tám nổ ra thì mối quan hệ đó mới bị phá vở. Chúng bị lật đổ như quy luật tất yếu của lịch sử. Ngoài ra, còn có mối quan hệ giữa các đôi trai gái dựa trên tình cảm yêu đương chân chính. Họ mong muốn được sống bên nhau, nên vợ nên chồng thành một gia đình hạnh phúc như bao gia đình khác. Thế nhưng, hạnh phúc lứa đôi không phải một người mong muốn là được. Trong các mối quan hệ, Nam Cao miêu tả thì mối quan hệ giữa các đôi trai gái là khá phức tạp và dễ thay đổi. Bởi chúng không có cơ sở ràng buộc rõ ràng, nên sự phá vỡ các mối quan hệ trên cũng không cần phải có lý do chính đáng. Đặc biệt, cách cư xử của các nhân vật bị phụ bạc vẫn thể hiện được tính nhân văn, cao thượng. Họ không hành xử một cách manh động hay trả thù cá nhân mà lại rất thấu tình đạt lý. Hùng chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng người yêu mình ân ái với chàng trai trẻ, anh chỉ âm thầm lặng lẽ rút lui. Bởi anh là nhà văn, anh có cách cư xử của người trí thức. Ở chương trên, khi trình bày các phương diện và hệ quả của sự tha hóa, luận văn chủ yếu tập trung vào một số phương diện và hệ quả mang tính đạo đức, tư tưởng, hành vi và lối sống của các nhân vật. Thật khó để liệt kê và trình bày hết các phương diện của sự tha hóa, nói đúng hơn còn rất nhiều phương diện khác, nên chương này chỉ nêu các phương diện ở mức khái quát của phạm trù đạo đức và lấy đạo đức làm chuẩn để lựa chọn các phương diện của sự tha hóa. Về phần hệ quả của sự tha hóa, người viết chỉ trình bày theo hướng hậu quả mà sự tha hóa đem lại. Phần nhiều, các hệ quả dựa trên bản thân nhân vật và mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau. Nhìn chung, chương này vẫn còn nhiều hạn chế khi đặt tiêu đề cho các luận điểm, diễn đạt con nặng nề, dông dài, đề cao tính giáo huấn, nhiều dẫn chứng chưa gọn, tiêu biểu. Bởi vậy, vấn đề mà chương này nêu ra được là đi tìm những hiện tượng tiêu cực của nhân vật trong các trang viết của Nam Cao. Cái tha hóa đó không chỉ nêu ra mà còn là sự cảnh tỉnh cho mọi người.
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN SỰ THA HÓA TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC 1945
3.1. Miêu tả nhân vật:
Nhân vật trong tác phẩm văn học là những con người có tên tuổi, danh phận như lão Hạc, Hộ, Chí Phèo… Cũng có những nhân vật không tên như bà cô thị Nở (Chí Phèo), người bà (Một bữa no), người cha (Trẻ con không được ăn thịt chó)… Trong thần thoại, nhân vật là các thần. Trong truyện ngụ ngôn, nhân vật thông thường là những con vật như con cáo, con sói… Mang tính cách con người. Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao rất phong phú, đa dạng cả về ngoại hình, tính cách, nội tâm, hành động, cử chỉ. Một số nhân vật có những nét tương đồng về tính cách, suy nghĩ như Thứ, Hộ, Điền… Phần lớn các nhân vật khác đều có những nét riêng, tiêu biểu cho sự đa dạng về các hạng người trong xã hội.
3.1.1. Về ngoại hình:
Ngoại hình nhân vật có tính tha hóa thể hiện ở hầu hết các hạng người trong sáng tác của Nam Cao. Nhưng tiêu biểu vẫn là những nhân vật như Chí Phèo, thị Nở, lang Rận, Trạch Văn Đoành, mụ Lợi, Oanh … Ngoại hình cũng như tính cách của họ đều không bình thường, có phần quái dị, gớm giếc nhưng lại rất sống động, chân thật. Đó là những con người thật của xã hội bấy giờ, mà ít nhà văn đưa họ vào trong các sáng tác của mình. Có chăng, Nam Cao đã cho thấy cuộc sống nghèo khổ, đói khát, bất công hoặc tù đày đã làm họ biến dạng, xấu xí đi và tha hóa đến như vậy.
Chẳng hạn, một Chí Phèo được xây dựng theo cách đặc biệt biểu thị tính cách lưu manh hóa “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét trạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết Hắn về
hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, Hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi”. Với bộ dạng này, lúc đầu không ai nhận ra Chí Phèo, ngay cả những người sống cùng làng, cùng quê với hắn. Cùng với sự thay đổi hình dạng là sự thay đổi nhân tính. Từ một anh canh điền hiền lành, chăm chỉ trở thành một tên lưu manh, quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chính cái chế độ nhà tù thực dân đã hủy hoại cả hình hài và nhân tính của anh, chỉ thoáng qua vẻ bề ngoài cũng toát lên sự tha hóa, ẩn chứa nhiều điều bất an nơi nhân vật.
Nam Cao miêu tả ngoại hình nhân vật có vẻ dị lập nhưng rất hài hòa và tạo ấn tượng cho người đọc, có thể nói ngoại hình của mỗi nhân vật không lặp lại mà mỗi dáng vẻ đó đều bộc lộ một tính cách rất riêng. Cuộc sống quá nghèo khổ, đói khát có thể làm cho vẻ bề ngoài của nhân vật tha hóa, nhưng tâm hồn họ vẫn tiềm ẩn vẻ đẹp nhân văn sâu sắc. Sự nghèo đói, bệnh tật, bất công đã dồn ép xô đẩy họ đến ngõ cụt của cuộc đời. Nó làm biến dạng đi cả thể xác và tâm hồn của những người dân hiền lành, lương thiện. Biến họ thành những con vật đội lốt người, đần độn, ngơ ngẩn, tàn bạo, điên loạn. Nếu họ không có những phút giây tĩnh tâm thì họ sẽ chết vùi trong thảm cảnh của đời mình. Nhưng tiếc rằng khi họ nhận ra thảm cảnh của đời mình cũng là lúc bị kịch kết thúc.
3.1.2. Về nội tâm:
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa nội tâm “Tâm tư, tình cảm, suy nghĩ riêng của từng con người, đời sống nội tâm phong phú đa dạng, khó có thể miêu tả nội tâm của các nhân vật”. Khi miêu tả nhân vật, Nam Cao không chỉ sắc sảo về ngoại hình mà còn rất có biệt tài miêu tả nội tâm và diễn biến tâm lý của nhân vật. Với thủ pháp độc thoại nội tâm, nhân vật tự bộc lộ suy nghĩ và tâm trạng của mình. Dù là người nông dân nghèo như Chí Phèo, thị Nở, Trạch Văn Đoành, lang Rận, người trí thức nghèo như Thứ, Điền, Hộ, hay bọn cường hào ác bá như Bá Kiến đều có thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, nhiều mâu thuẩn, đấu tranh tư tưởng mà lại thống nhất.
Con người chỉ liều vì mạnh và khi không còn mạnh thì người ta không dám liều mà nghĩ đến sự tồn tại những ngày tháng còn lại của cuộc đời. cái bản chất tha hóa trong tâm trạng của nhân vật. Nhất là sự giả tạo, cái đạo đức giả đã được đề cập nhiều trong các trang viết của Nam Cao. Với Điền trong “Giăng sáng” Có thể thấy được sự đồng điệu về tâm trạng của những người trí thức nghèo trong các trang viết của Nam Cao. Đời sống cơm áo và mơ ước nhỏ nhoi luôn tương phản với nhau, nếu họ lo cơm áo hằng ngày thì không thể nghĩ đến nghiệp văn chương, còn nếu theo nghiệp văn chương thì lấy tiền đâu cho cuộc sống quá nghèo khổ. Và họ cũng thừa biết sẽ không bao giờ ổn định được cuộc sống lấy gì mà đảm bảo được hoài bảo, nhưng lại không thể bỏ nó. Đó chính là bi kịch. Nhìn chung việc miêu tả nội tâm của nhân vật trong sáng tác của Nam Cao hầu hết được thể hiện trên cơ sở độc thoại nội tâm. Nhân vật tự đối thoại với chính mình trong những lúc cô đơn, trống vắng, đau khổ, thất vọng cùng những cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt để nghiền ngẫm về lẽ sống, nhìn lại bản thân, trở về với chính mình. Thông qua thế giới nội tâm, nhân vật bộc lộ đầy đủ nhất cả diện mạo và tính cách. Đặc biệt là bản chất tha hóa của nhân vật được biểu thị qua tâm trạng nhân vật. Từ đó, có thể khẳng định rằng: Nam Cao là bậc thầy miêu tả nội tâm nhân vật dù dung lượng truyện ngắn có giới hạn.
3.1.3. Về hành động, cử chỉ:
Bên cạnh những nét đặc sắc của nhân vật trong sáng tác của Nam Cao về ngoại hình và nội tâm. Tác giả còn rất thành công trong việc thể hiện hành động và cử chỉ nhân vật. Nhất là những hành động, cử chỉ biểu hiện sự tha hóa của con người. Đó là những biểu hiện phi nhân bản, mất tính người. Nó phản ánh cách cư xử, đối đãi với nhau trong các mối quan hệ gia đình và xã hội. Có những hành động cử chỉ mang tính tự phát, còn lại đều có ý thức, động cơ và nguyên nhân rõ ràng. Vì thế, hành động của nhân vật là biểu hiện cuối cùng của thế giới nội tâm phức tạp. Những suy nghĩ, âm mưu, toan tính… rồi cũng được thể hiện qua các hành động, cử chỉ. Nó là kết quả đánh giá mức độ tha hóa của tư duy, cũng là cơ sở kiểm chứng quá trình nhận thức của con người trước các vấn đề. Một thực tế xã hội đã có từ trong văn học dân gian, nay lại được Nam Cao làm sống lại một cách mới mẻ. Với hành động và cử chỉ của Chí Phèo khi gặp thị Nở, tuy đang ở trạng thái say khước nhưng toan tính và biểu hiện thì tỉnh táo. “Chí Phèo vẫn say sưa nhìn và run run. Bổng nhiên hắn rón rén lại gần Thị Nở: Lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng, thoạt tiên, hắn xách cái lọ để ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị…Và thị Nở giật mình. Thị mới kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám lấy thị… Thị vùng vẫy để ra, thị mở mắt, thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn và hổn hển: Ô hay… Buông ra… Tôi kêu… Tôi kêu làng… Buông ra. Tôi kêu làng lên bây giờ. Thằng đàn ông cười phì. Sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn mới kêu làng thôi; sao người ta lại kêu làng tranh của hắn, bổng nhiên hắn la lên, kêu làng. Hắn kêu như một kẻ bị đâm. Vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị Nở trố mắt ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc: sao hắn lại kêu làng nhỉ? Mà hắn vẫn chưa chịu thôi kêu làng.” Từ ngày về làng, chưa bao giờ Chí Phèo có một bữa uống rượu say đến thế, từ nhà Tự Lãng về hắn chỉ đi theo hướng ra bờ sông, nơi có cái chòi của hắn. Nhưng khi gặp thị Nở ngủ hở hang thì bản năng thú tính của hắn trổi dậy . Nam Cao miêu tả hành động của nhân vật phát triển theo từng giai đoạn, cấp độ từ thấp đến cao, và luôn có sự đột biến trong hành động. Hành động cử chỉ nhân vật có tính tha hóa rất đa dạng phong phú phù hợp với hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Sự tha hóa ấy bộc lộ ở tất cả các hạng người trong xã hội, từ tầng lớp cường hào địa chủ nông thôn, đến trí thức tiểu tư sản và cả những người nghèo đói bất hạnh. Nam Cao đã phát hiện và miêu tả chi tiết từng hành động cử chỉ cụ thể cũng như hậu quả của nó. Các hành động cử chỉ luôn sinh động, biến hóa, bất ngờ… Nhưng đều mang tính chủ quan, có ý thức. Nên tính chất tha hóa của chúng đều có động cơ và mục đích rõ ràng. Vì thế, tác giả đã mạnh mẽ phê phán các hành động cử chỉ trên như lời tuyên chiến công khai với cái ác, cái xấu trong giai đoạn văn học mà ít nhà văn dám nói thật, nói thẳng vào vấn đề.
3.2. Giọng điệu:
Giọng điệu phản ánh lập trường, thái độ tính cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật.
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu. Giọng điệu trong tác phẩm với cái gọng “Trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu.”
3.2.1. Giọng điệu trịnh thượng, kẻ cả:
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa trịnh thượng, “Có vẻ oai nghiêm, trang trọng của người ở vị trí cao”, Kẻ cả “Kẻ cả đàn anh”. Âm điệu buồn, chùn xuống hướng nhiều vào nội tâm trĩu nặng nỗi ưu tư. Giọng điệu của tác giả nói về nhân vật của mình đã làm rõ hơn cái thế giới nội tâm nhân vật. Phong Lê trong bài “Cấu trúc và ngôn ngữ truyện ngắn của Nam Cao” nhân kỷ niệm lần thứ 70 ngày sinh của Nam Cao đã nhận xét: “Có một ngôn ngữ tác giả mang chất giọng riêng của Nam Cao, giàu suy nghiệm, triết lý có thể xem là âm chủ, nhưng chất giọng đó không lấn át, không che khuất ngôn ngữ nhân vật – là một phương diện nghệ thuật mà Nam Cao hết sức tôn trọng”.
Ở một phương diện nào đó, các giọng điệu trên biểu hiện sự tha hóa trong lời ăn tiếng nói của nhân vật. Lời nói quá sự thật, cao ngạo, trịnh trịnh, kẻ cả xem thường người khác. Nó biểu hiện tính cách nhân vật bị ức chế, bộc phát trong một thời điểm nhất định.
3.2.2. Giọng điệu giễu nhại:
Giễu nhại thể hiện sự mỉa mai, châm biếm, chế giễu, cười nhạo… Trong bối cảnh đời sống con người đang chịu nhiều tác động của lối sống thực dụng, khuôn sáo, lỗi thời. thái độ “Giận cá chém thớt” ấy bộc lộ sự mâu thuẩn trong tâm trạng nhân vật.
Đọc truyện Nam Cao, ta nhận ra nhiều giọng vẻ khác nhau, đối với giọng giễu nhại đã mang một đặc trưng riêng, dù lời nói của tác giả, hay của nhân vật cũng đều có ý nghĩa nhất định. Cái tính giễu cợt, mỉa mai trong giọng điệu ấy bộc lộ cái suy nghĩ nghiêm túc của nhân vật. Thái độ, tính cách của nhân vật cũng được bộc lộ ngay trong giọng điệu của họ.
3.2.3. Giọng điệu kể lể, thống thiết.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa kể lể “Kể dài dòng có ý phàn nàn hoặc than thân trách phận: kể lể chuyện riêng của mình, nghe kể lể sốt cả ruột. Thống thiết “Rất đau xót có tác dụng gợi lòng cảm thương một cách sâu sắc, lời lẽ thống thiết, tiếng kêu cứu thống thiết, giọng văn nghe lâm li thống thiết”.
Khi viết về những cảnh đời bất hạnh, Nam Cao luôn bày tỏ lòng thương cảm sâu sắc, một tình yêu thương vô hạn, làm xúc động lòng người Trong bài viết “Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn của Nam Cao” , Phan Diễm Phương có nhận định “Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta còn gặp lối kể chuyện bằng nhiều giọng: nghiêm nghị và hài hước, trân trọng, nâng niu và nhạo, đay mỉa. Các giọng kể này được kết hợp ở nhiều cấp độ: giữa truyện và truyện, giữa các đoạn, phần trong một truyện và ngay trong từng đoạn truyện” .Vì thế, sự.đa dạng, phong phú trong giọng điệu của Nam Cao góp phần vào sự thành công trong những sáng tác của ông trước Cách mạng và đem đến cho người đọc một thế giới nhân vật sinh động với nhiều tính cách khác nhau.
3.3. Ngôn ngữ:
Theo “Thuật ngữ từ điển Văn học” của Trần Đình Sử “Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M. Gorki khẳng định ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, công cụ chủ yếu của nó và – cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống – là chất liệu của văn học. Ngôn ngữ nhân dân là cội nguồn ngôn ngữ văn học, được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, đến lượt mình, nó lại góp phần nâng cao làm phong phú ngôn ngữ nhân dân. Ngôn ngữ văn học là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mỹ, nó được sử dụng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng hình tượng văn học và giao tiếp nghệ thuật. Ngôn ngữ của các tác phẩm trữ tình là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, cô đọng, hàm xúc, gợi cảm. Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ các nhân vật được cấu trúc qua hệ thống đối thoại và gần gũi với tiếng nói thông thường nhân dân. Ngôn ngữ của các tác phẩm tự sự là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính cách, đặc biệt, ngôn ngữ của người kể chuyện giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm.
3.3.1. Ngôn ngữ giàu tính triết lí:
Đi tìm triết lí sống tức là tự đặt ra nhiều câu hỏi cho chính bản thân mình, từ lối suy nghĩ đến cách sống, tự mình soi xét lại cuộc sống của chính mình, soi xét lại cách nhìn của mình đối với xã hội và cả những gì xã hội đem đến cho mình. Từ đó bộc lộ những quan điểm về con người và cuộc sống. Ở phương Đông, người ta phải đối mặt với những giới hạn của cuộc sống. Đó là những giới hạn của con người. Triết lí Trung Hoa cho rằng con người không thể đạt đến chỗ toàn hảo. Thế nhưng, ta có thể đối diện với những khiếm khuyết của mình và chấp nhận những giới hạn trong cuộc sống của mình. Đó là sự đấu tranh không ngừng giữa cái thiện và cái ác trong chính bản thân của con người. Cái khó là phải làm sao làm chủ được hành động của mình. Nhiều khi sự thất vọng giúp cho người ta vươn lên thành công hơn, mặt khác chúng ta cần sự thất vọng và cần bị thất vọng để đạt được một số điều mà bình thường chúng ta không thể làm được.
Với sáng tác của Nam Cao, ông luôn thể hiện xu hướng triết lý từ những vấn đề bình thường trong cuộc sống để đúc kết, đào xới, lật đi lật lại các sự việc, nhằm rút ra những kinh nghiệm, bài học có ý nghĩa rất bổ ích. Có những triết lý dù là chủ quan nhưng lại gần với chân lý vì nó khái quát được những sự thật phổ biến và nó luôn nhận được sự đồng tình của nhiều người. Nhưng không không hoàn toàn do con người muốn thế mà chính lối sống lầm than đã làm cho con người ích kỷ và tàn nhẫn với nhau. Cách lập luận của nhân vật có tính bắc cầu, đan xen với nhau tạo nên sự chặt chẽ, mạch lạc làm rõ tính cách của con người, cơ sở hình thành các tính cách ấy và biểu hiện của nó. Nhân vật Thứ – người nói thay, nói hộ cho tác giả bằng những trải nghiệm trong cuộc sống. Vì thế những triết lý của Nam Cao rất giàu tính văn chương.
Có thể nói, “Sống mòn” là tác phẩm đúc kết nhiều triết lý sống nhất xoay quanh nhân vật Thứ– người luôn có nhiều suy nghiệm về cuộc sống. Thứ đứng ở nhiều vị trí để quan sát diễn biến của cuộc sống bản thân và mọi người. Có khi anh đứng ở ngoài xem xét rồi rút ra kết luận, cũng có lúc anh đứng ở vị trí nhân vật mà tự thuật. Có, luôn suy nghĩ, trăn trở về nghệ thuật và cuộc sống, rồi khái quát thành những triết lý sâu sắc như một quan niệm về văn chương. “Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.
Quan niệm trên như một tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc. Nói như thế, không phải những người ở lại không có cái mới để viết, mà chỉ những người đi xa mới có. Tuy nhiên, tác giả muốn kêu gọi mọi người lên xây dựng Tây Bắc, nơi đó không chỉ có người nông dân, người lính mà còn có cả người nghệ sĩ và nơi đó sẽ có nhiều nguồn để sáng tạo nghệ thuật.
Đối với văn chương nghệ thuật là như vậy, còn đối với con người thì sao? Nam Cao đã đưa ra triết lý về kẻ mạnh và kẻ yếu giàu tính nhân văn sâu sắc. Quan niệm này đã đánh đổ lý luận về kẻ mạnh và kẻ yếu trước đây như “Cá lớn ăn cá bé”. Có lẽ, về thực tế thì triết lý trên khó thực hiện đồng bộ, bởi ít có kẻ mạnh giúp đỡ kẻ yếu mà đa phần kẻ mạnh ức hiếp, bóc lột kẻ yếu. Thế nên, một quan điểm mạnh mẽ, khẳng khái như vậy phủ nhận tính ích kỷ của kẻ mạnh mà đề cao lòng nhân ái của họ. Họ sẽ được ca ngợi, được biểu dương nếu họ biết sống chia sẽ, nâng đỡ những người nghèo khó, cơ hàn. “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ kẻ khác lên trên đôi vai của mình. Vả lại, hèn biết bao là thằng con trai không nuôi nỗi vợ con còn mong làm nên trò gì nữa?”
Rồi một người đàn ông xuất hiện làm chúng rụt rè, tránh né. Đó chính là chồng chị, bỏ chị cùng hai đứa con thơ lấy một người đàn bà khác, bà ta có tiền, kiếm cho y một công việc .Cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi ta giải quyết được cái nghèo, cái đói. Bởi miếng ăn sẽ kiềm hãm mơ ước của con người. Cuộc sống với gánh nặng cơm áo gạo tiền ghì con người sát đất. Còn với Nhu trong “Ở hiền”, đời sống luôn tồn tại những bất công, những nghịch lý, không hoàn toàn đúng theo quan niệm xưa “Ở hiền gặp lành”, nên “Nhu tự hỏi rằng: tại sao trên đời này, lại có nhiều sự bất công đến thế? Tại sao ở hiền không phải bao giờ cũng gặp lành? Tại sao những kẻ hay nhịn, hay nhường thì thường thường lại chẳng được ai nhịn, nhường mình; còn những kẻ thành công hầu hết lại là những người rất tham lam, chẳng biết nhịn nhường ai, nhiều khi lại xảo trá, lọc lừa và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn”. Cái làm Nhu băn khoăn, trăn trở là triết lý “Ở hiền gặp lành” không còn giá trị mà ngược lại những kẻ xảo trá, tham lam, lừa lọc, tàn nhẫn, chẳng nhường nhịn ai lại là những kẻ thành công. Có lẽ đó là quy luật của cái xã hội thực dân phong kiến đương thời. Những người biết nhừng nhịn, sống ngay thẳng, thật thà thường là những người thấp cổ, bé họng luôn chịu nhiều thiệt thòi. Còn những kẻ tham lam, xảo trá, lừa lọc là những kẻ mạnh. Chúng là những kẻ tàn nhẫn, thành công trong xã hội có nhiều bất công.. Sáng tác của Nam Cao luôn bênh vực những người nhỏ bé, bất hạnh nhưng cũng phê phán quan điểm sống của họ quá nhu nhược, cam chịu. Ông ủng hộ quan điểm sống thiện, khiêm nhường nhưng không đồng hóa nó với lối sống an phận, cam chịu. Đặc biệt là không có ý chí, nghị lực hay quan điểm riêng cho mình. Triết lý đó cho thấy cái nhìn toàn diện của tác giả về thái độ sống của con người.
Một triết lý khác trong sáng tác của Nam Cao cũng liên quan đến đời sống.
Nam Cao không dừng lại ở những triết lý về cuộc sống mà còn nâng lên một tầm cao mới, đó là những triết lý về nghệ thuật “Nhưng Điền tin rằng: cái học thức của Điền tuy chẳng giúp Điền kiếm nổi miếng ăn, nhưng cũng có ích cho Điền nhiều lắm. Chỉ nói một cái nhờ nó mà Điền học nổi thơ văn, và nhờ văn thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của giăng. Và Điền rất phàn nàn cho những tâm hồn cằn cỗi như tâm hồn của vợ Điền. Đối với thị, giăng chỉ là…đỡ tốn hai xu dầu…. hay “ nghệ thuật chính là cái ánh giăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh vật thật ra chỉ tầm thường, xấu xa …”. Nhất là sự chi phối của đồng tiền, tư tưởng ép phe làm thui chột đi nhiều tài năng và độc giả không được thưởng thức các sản phẩm tinh thần thật sự có giá trị thẩm mỹ. Đã đến lúc phải phân biệt nghệ thuật với đời sống, bởi đời sống luôn bị chi phối từ đồng tiền, tư tưởng chính trị, giai cấp. Trong khi, nghệ thuật chân chính biểu dương cho cái chân, thiện, mỹ. Có thể, chúng được bắt nguồn từ đời sống “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” nhưng khi thưởng thức chúng phải độc lập với cuộc sống, với sự chi phối của tư tưởng giai cấp. Từ đó, mới có cái nhìn khách quan, toàn diện về giá trị thẩm mỹ của những sản phẩm tinh thần.
Trong một số truyện ngắn của Nam Cao, có những triết lý có chất hài nhưng không hoàn toàn để gây cười mà mang âm điệu chua chát về cuộc đời được đúc kết từ những suy nghĩ bi quan, những thất bại trên đường đời. Chẳng hạn như nỗi thất vọng của Nhu (Ở hiền) về người chồng vong ơn bội nghĩa “Nhưng giống người vốn là giống mau quên” Nam Cao có nhiều triết lý xoay quanh đời sống của những người trí thức tiểu tư sản, những ông giáo, văn sĩ. Cuộc sống họ luôn diễn ra những cuộc đấu tranh tư tưởng với những dằn vặt, nghiền ngẫm, trăn trở không ngừng. Ông giáo trong (Lão Hạc) đã ngán ngẫm với suy nghĩ của vợ về cách cư xử ở đời. “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… Toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản chất tốt của người ta bị nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất.” Ông giáo thương lão Hạc nhưng tình thương đó không thể chia sẻ với ai dù đó là vợ ông. Bà khổ quá nên suy nghĩ bà cũng tha hóa dần.
Với cuộc sống nghèo khó, một số người luôn tính toán chi li cho từng bữa ăn, từng khoản tiêu dùng, xem tiền của quan trọng hơn mạng sống. Với đời sống nghèo khổ, khó khăn, con người đã không giúp đỡ cho nhau mà họ còn tạo khó khăn cho nhau, làm ảnh hưởng đến đời sống yên bình của gia đình.Triết lý về sống chết trong sáng tác của Nam Cao có quan hệ biện chứng với nhau. Sống và chết là hai mặt của vấn đề, chúng vừa đối lập nhau, vừa thống nhất với nhau. Cái sống và cái chết vừa hoán vị cho nhau vừa đan xen với nhau. Nhân vật tôi trong “Mua nhà” đã bộc lộ rõ quan niệm sống chết. “Không làm nhà không được.
Tóm lại, qua những trang viết của Nam Cao người đọc dễ nhận ra những suy nghiệm và triết lý về các hạng người: giàu nghèo, sang hèn, quan hệ cha con, chủ tớ và các quan niệm về: tiếng cười, miếng ăn, sự sống, chết… Những triết lý đó xuất phát từ những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc sống của những người xung quanh và những trải nghiệm trong cuộc đời tác giả. Ngôn ngữ triết lý được sử dụng rất linh hoạt, đan xen trong từng giọng điệu khi ở vị trí người kể chuyện, khi là người quan sát, lúc là những tâm tư, trăn trở của nhân vật. Với giọng văn vừa nhất quán, vừa biến hóa, hài hước nhưng rất cay đắng và xót xa từ những dằn vặt, suy ngẫm của tác giả. Trong đó, có những triết lý vươn tới gần những chân lý, quy luật. Bởi chúng là một phần trong quan niệm của tác giả, một phần còn lại để người đọc suy ngẫm. Đặc biệt là những triết lý xoay quanh sự tha hóa của con người, những mảnh đời nghèo đói cơ cực, những mối quan hệ đổ vỡ và những cách cư xử mất tính người. Có thể kết lại bằng nhận định của Giáo sư Phong Lê: “Đọc văn Nam Cao, ngay những trang viết kể vô tư nhất, những trang kể mà nhà văn hoàn toàn khép kín lòng mình, vẫn thấy một cái gì cuộn lên. Nếu không là một cảm giác lo lắng, buồn thương, phẩn uất, kinh rợn trước các cảnh đời, thì cũng là một tâm trạng nôn nóng, muốn được bình luận, chia sẽ, trao đổi cùng tác giả. Những trang viết trong lặng lẽ mà làm ta không yên. Nó hối thúc đòi gọi một thái độ…”
3.3.2. Ngôn ngữ thể hiện sự lạ hóa:
Trong sáng tác của Nam Cao, khi miêu tả tính cách, lời nói, cử chỉ của nhân vật thì sự lạ hóa là một thủ pháp nghệ thuật. Nó làm cho hình tượng nhân vật thêm mới mẻ, sinh động. Các chi tiết không khô khan mà luôn uyển chuyển. Tạo nên những dáng vẻ cho từng nhân vật, nhiều chi tiết có phần hư cấu nhưng vẫn có nét chân thật trong từng đường nét. Hay cách sắp xếp từ ngữ biểu thị tính cách khá độc đáo của nhân vật, đó là biệt tài của Nam Cao “Trong khi nói, bà cụ giơ cánh tay, che cái mồm móm mém, ngửa cổ ra cười: bà cười đôi tai nghễnh ngãng của bà. Rồi bà sửa soạn một câu, nghẹo đầu, nghẹo cổ, thưa với hai ông giáo...” Chỉ một câu nói mà bà phải “Sửa soạn, nghẹo đầu, nghẹo cổ ”, cách trả lời của bà cụ có phần trịnh trọng với cái vẻ khó khăn khi thể hiện. Sự lạ hóa trong cách thể hiện của nhân vật thể hiện tình huống cư xử, nét duyên dáng, đáng yêu và tâm trạng chất chứa niềm sung sướng khó tả.Thủ pháp lạ hóa không chỉ thể hiện qua các chi tiết mà còn thông qua kết cấu tác phẩm tạo nên sự bất ngờ, thay đổi dòng suy nghĩ của người đọc
Cũng trong truyện Chí Phèo hai nhân vật thừa của làng Vũ Đại là Chí Phèo và thị Nở, được xem là vật thải trên bãi rác người đời. Họ là sự tổng hợp của những nét xấu nên theo quy luật tự nhiên họ cũng đáng thương. Nhưng với bản chất hung ác của Chí Phèo, cái nhìn của dân làng Vũ Đại và người đọc đều đồng tình với tác giả về tên gọi “Quỷ dữ”. Nhưng với thủ pháp lạ hóa những
nhân vật đáng ghét kia đã xoay chuyển để người đọc phải thừa nhận tính người ở họ vẫn còn. Rồi, cảm giác gớm ghét về nhân vật biến dần thay vào đó lòng cảm thương, buồn não nề. Bắt đầu từ sự thức tỉnh đến khát vọng trở về làm người và cuối cùng là tiếng thốt khẩn thiết “Ai cho tao lương thiện”. Không ai có thể đoán trước được kết thúc của Chí Phèo. Kết thúc lạ hóa ấy thay đổi nhận thức của người đọc, giá trị nhân đạo của tác phẩm cũng được bộc lộ. Và khẳng định tính nhân văn trong sáng tác của Nam Cao. Nếu chỉ liệt kê, phơi bày những thực trạng của xã hội thì nhiều nhà văn hiện thực đã làm nhưng dấu ấn của Nam Cao là cái nhìn mới lạ về nhân vật, nhân vật có thể chết nhưng cái chết không vô nghĩa mà dấy lên hồi chuông thức tỉnh nhận thức của mọi người. Sự lạ hóa trong sáng tác của Nam Cao là cách sáng tạo hình tượng dựa trên sự kết hợp giữa cái hư ảo và cái thực. Trong đó, có một dạng tồn tại của sự vật, dạng méo mó xệch xạc. Dạng tồn tại ấy là sự lạ hóa ở sự vật hiện tượng. Tức chúng không còn bị giam hãm trong cái vẻ thông thường đã quá quen thuộc, cái nhìn hằng ngày của chúng ta, mà chúng thể hiện đột ngột, bất ngờ, gây sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên trong cảm nhận. Những truyện như Lang Rận, Nửa đêm, Một đám cưới… tạo ra cái thế giới nghịch dị mà vẫn tự nhiên.
Có thể kết lại sự lạ hóa trong sáng tác của Nam Cao qua sự nhận định của Vương Trí Nhàn qua bài viết “Những biến hóa của chất nghịch dị trong truyện ngắn của Nam Cao” như : “Theo lôgích thông thường, sự vật luôn biến chuyển, bĩ cực thái lai, sau những ngày đen tối sẽ tới thời kì tươi sáng của hi vọng. Một thứ lãng mạn đậm màu sắc nhân gian mà cũng phù hợp với lối suy nghĩ trung dung của đạo Khổng thường được các nhà văn ở ta tự nguyện noi theo. Họ biện bạch rằng viết thế mới là nhân bản, là tin tưởng ở con người. Nhưng Nam Cao không hoàn toàn nghĩ thế hoặc kinh nghiệm sống của ông không cho phép ông nghĩ thế.
3.3.3. Ngôn ngữ biểu thị tinh thần lạc quan:
Tinh thần lạc quan hay chủ nghĩa lạc quan – đó là lòng tin vào tương lai tốt đẹp hơn vào khả năng thắng lợi của cái thiện đối với cái ác, của chính nghĩa đối với phi nghĩa. Còn thái độ bi quan hay chủ nghĩa bi quan thì biểu hiện trong những quan điểm cho rằng các sự biến đi đến chỗ tồi tệ hơn. Biểu hiện cho những tâm trạng chán nản không tin vào sự thắng lợi của cái thiện, chính nghĩa. Lạc quan đã trở thành một triết lý sống hiện đại. Chúng ta vẫn sử dụng từ “Lạc quan” để nói về con đường phía trước, thậm chí khi cuộc sống rơi vào khó khăn. Nếu lạc quan bắt đầu được hiểu đơn giản là sự không chấp nhận thất bại, một khi nó xứng đáng với tên gọi “Lạc quan” thì nó sẽ đơm hoa kết trái, trở thành quyết tâm kiên định và hợp với lẽ phải hướng tới trong tương lai. Luôn bất chấp những thất bại và trở ngại phải đối mặt, một người lạc quan với đầy đủ hiểu biết về những nỗi gian truân tiềm ẩn sẽ tiến tới một tương lai tốt đẹp hơn. Những hứa hẹn của tương lai là niềm an ủi của chủ nghĩa lạc quan.
Sự lạc quan của nhân vật có cơ sở để hi vọng nhưng rất mơ hồ, phần nhiều họ chết rồi mà những điều họ mong muốn vẫn chưa đến. Hi vọng có khi không đến với bản thân nhân vật nhưng sẽ đến với xã hội khi nhân vật không còn. Lạc quan vào tương lai là niềm tin tưởng ở cuộc sống hiện tại. Thế nên, các nhân vật trong sáng tác của Nam Cao dù sống trong vòng luẫn quẩn, bần cùng bế tắc nhưng niềm tin của họ vào cuộc sống vẫn không tắt. Một Hộ nghèo khó, con nay ốm mai đau, nhà không có gạo để ăn, nợ nần chồng chất nhưng niềm say mê văn chương và ước mơ viết tác phẩm để đời vẫn không dứt. Hay một Điền nghèo đói lắm, cơm gạo có thể thiếu, còn lòng tin tưởng vào nghệ thuật sẽ không bao giờ cạn. Tinh thần lạc quan giúp cho nhân vật cầm cự với cuộc sống quá đói khổ bế tắc và thực tế cho thấy có những hi vọng thái quá, lí tưởng, phi thực tế. Tuy nhiên, người ta luôn tôn trọng niềm tin và hi vọng của con người dù họ ở bất cứ hoàn cảnh sống nào. Đó là khát vọng của tự do và lẽ sống của con người. Đi tìm nghệ thuật thể hiện sự tha hóa trong sáng tác của Nam Cao sẽ không dừng lại và tôi thiết nghĩ sẽ còn nhiều công trình nghiên cứu phát hiện thêm. Chương này chỉ tìm hiểu một vài yếu tố nghệ thuật về miêu tả, giọng điệu và ngôn ngữ. Với sự trình bày còn nhiều hạn chế này mong góp phần làm rõ thêm các giá trị nghệ thuật mà Nam Cao đã đem đến cho nền văn học dân tộc. Bên cạnh những nhà văn hiện thực xuất sắc như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… đã phản ánh những vấn đề lớn lao trong xã hội, những đấu tranh giai cấp thì Nam Cao đã tìm cho mình một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực qua sự xung đột trong thế giới nội tâm nhân vật. Với những chuyện hằng ngày, riêng tư, nhỏ nhoi… mà đã khái quát lên những vấn đề lớn trong cuộc sống như triết lí sống, sự sống chết, cuộc đời đổi thay, con người tha hóa… Tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong các trang viết của Nam Cao, ông luôn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát vọng được phát huy đến tận cùng tài năng của con người. Nên ngoài việc phê phán xã hội thực dân phong kiến hủy hoại cuộc sống con người, phê phán nhiều hình thức tha hóa của con người, đặc biệt đòi hỏi xã hội phải tạo điều kiện để con người được sống một cuộc sống thật sự ý nghĩa.
C. KẾT LUẬN
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Số lượng tác phẩm của ông trước 1945 không đồ sộ như các nhà văn cùng thời, Nhưng giá trị thì rất lớn lao, ngoài những cách tân về mặt nghệ thuật, ông còn đề ra nhiều quan điểm về cuộc sống, nhà văn, nghề văn. Đặc biệt, tác giả xoáy sâu vào nỗi đau về sự tha hóa của con người trong xã hội đương thời.
Phần nhiều các nhà văn hiện thực tập trung khai thác nhiều những xung đột xã hội, mâu thuẩn giai cấp, phong tục tập quán. Nói chung, đó là đời sống bên ngoài của con người. Còn Nam Cao lại đi sâu vào đời sống bên trong, thế giới tâm hồn của con người để phản ánh những phương diện tha hóa của họ. Trong quá trình khắc họa hình ảnh con người bị tha hóa, Nam Cao đã sử dụng nhiều thủ pháp thể hiện như miêu tả, giọng điệu, ngôn ngữ. Từ đó, tác giả khái quát thành những triết lí, quy luật của cuộc sống. Âm hưởng của những trang Nam Cao làm nhức nhối lòng người bao thế hệ về các số phận bi thảm. Cuộc sống nghèo khó cơm áo, tù túng dẫn đến nhiều thân phận cùng cực, bế tắc, nhiều người phải chết. Cái chết cũng đa dạng: chết vì đói, chết no, chết nhục, chết vì danh dự… Cái chết nào cũng uất ức, thê thảm và đấu tranh tư tưởng gay gắt trước khi phải chết. Người chết đã rồi, người sống càng cùng quẩn hơn, sống mà như đang chết mòn về thân xác và tâm hồn. Nam Cao đã gióng hồi chuông cảnh tỉnh cho con người bao thế hệ về một thời kì đen tối trong lịch sử dân tộc.
Bước đầu tìm hiểu về “Sự tha hóa của con người trong sáng tác của Nam Cao trước 1945”. Người viết chỉ muốn khẳng định thêm một nét riêng về đặc trưng phong cách của Nam Cao trong số các nhà văn cùng khuynh hướng hiện thực phê phán. Những tìm hiểu trên chỉ dừng lại ở một chừng mực nhất định, hẳn còn nhiều hạn chế, rất mong nhận được sự góp ý của các bậc thầy (cô) cũng như những đồng nghiệp. Trong thời gian không xa, khi có điều kiện thuận lợi, bản thân sẽ tiếp tục tìm hiểu về “Sự tha hóa của con người trong văn học hiện thực phê phán trước 1945” mà Nam Cao đã đặt cột mốc đầu tiên để nghiên cứu.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, 1984, Văn học và phê bình. Nxb mới - Hội nhà văn Việt Nam
2. Lại Nguyên Ân, 1992, Nam Cao cuộc cách tân văn học thế kỉ 20, TCVH 1992, số 1, tr 40
3. Vũ Tuấn Anh, 2000, Nam Cao - con người và tác phẩm. Nxb Văn học Hà Nội
4. Vũ Tuấn Anh, 1992, Phong cách truyện ngắn Nam Cao, trong "Nghĩ tiếp về Nam Cao", Nxb Hội nhà văn Hà Nội 1992, Tr 108, 115.
5. Đào Tấn Anh, 1992, Tesekhop và Nam Cao - một sáng tác hiện thực kiểu mới, TCVH 1992, số 1, tr 48
6. Lê Huy Bắc, 1998, Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, TCVH 1998, số 9, tr 66.
7. Vũ Bằng, 1969, Nam Cao - Nhà văn không biết khóc, tạp chí văn học Sài Gòn, số 95, 1969
8. Lê Bảo, 1997, Giảng văn Việt Nam. Nxb Giáo dục
9. Chim Văn Bé, 1998, Luận án Thạc sĩ, Thi pháp nhân vật trong truyện ngắn trước 1945 của Nam Cao
10. Hoàng Cao, 1997, Những mẫu chuyện xoay quanh các nhân vật trong "Đôi lứa xứng đôi", TCVH 1997, số 10.
11. Nguyễn Minh Châu, 1987, Nam Cao. Báo Văn nghệ 1987, số 29.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_do_vu_trong_phung_6667.doc