Tiểu luận Nguyên nhân và cách thức bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn, tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã diễn ra được 7 tháng, hàng ngày trên các bản tin tài chính, chúng ta được nghe rất nhiều thông tin về cuộc khủng hoảng này và nhiều người nghĩ rằng họ đã hiểu về nó. Nhưng thật ra là chưa đâu .Cuộc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ trông có vẻ đơn giản: các ngân hàng thì thầm rót mật vào tai dân chúng, làm mọi người đổ xô vay tiền mua nhà vượt quá khả năng tài chính của họ, và đến giờ thì họ vỡ nợ với các khoản vay thế chấp mua nhà đó. Vấn đề ở đây là tại sao, cho vay dưới chuẩn – 1 mảng của dịch vụ kinh doanh cho vay thế chấp, lại làm đóng băng thị trường tín dụng, chao đảo thị trường chứng khoán, đẩy nền kinh tế Mỹ bên bờ vực suy thoái tồi tệ, và khiến cho Fed đã phải có những hành động mạnh mẽ nhất kể từ cuộc suy thoái kinh tế năm 1929. Bài tiểu luận này nêu lên sơ lược về nguyên nhân và cách thức bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn , tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.

pdf17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3753 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguyên nhân và cách thức bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn, tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 3 LỜI MỞ ĐẦU Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã diễn ra được 7 tháng, hàng ngày trên các bản tin tài chính, chúng ta được nghe rất nhiều thông tin về cuộc khủng hoảng này và nhiều người nghĩ rằng họ đã hiểu về nó. Nhưng thật ra là chưa đâu .Cuộc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ trông có vẻ đơn giản: các ngân hàng thì thầm rót mật vào tai dân chúng, làm mọi người đổ xô vay tiền mua nhà vượt quá khả năng tài chính của họ, và đến giờ thì họ vỡ nợ với các khoản vay thế chấp mua nhà đó. Vấn đề ở đây là tại sao, cho vay dưới chuẩn – 1 mảng của dịch vụ kinh doanh cho vay thế chấp, lại làm đóng băng thị trường tín dụng, chao đảo thị trường chứng khoán, đẩy nền kinh tế Mỹ bên bờ vực suy thoái tồi tệ, và khiến cho Fed đã phải có những hành động mạnh mẽ nhất kể từ cuộc suy thoái kinh tế năm 1929. Bài tiểu luận này nêu lên sơ lược về nguyên nhân và cách thức bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn , tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam. Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 4 I.TÌM HIỂU VỀ NỢ DƯỚI CHUẨN 1. Định nghĩa nợ dưới chuẩn? Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà (mortgage), thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng... Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là dân nhập cư vào Mỹ. 2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ dưới chuẩn Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây. Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài. Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, chính là nguyên nhân tạo nên cuộc khủng hoảng tín dụng 2007. 3. Cách thức tạo khủng hoảng nợ dưới chuẩn Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn được thực hiện thông qua một công cụ tài chính hiện đại rất khá tinh vi được gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation). Chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại Mỹ song thực sự phát triển mạnh từ thập kỷ 90. Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 5 Một cách cơ bản, chứng khoán hóa được hiểu là việc tái cơ cấu một tập hợp những khoản phải thu và đưa chúng về dạng thức có thể chuyển nhượng được. Những chứng khoán phát sinh từ nghiệp vụ này có thể là cổ phiếu hoặc trái phiếu, nhưng nhìn chung chúng đều phải dựa trên một tập hợp các tài sản tài chính hay các khoản phải thu. Thực tế, mục tiêu của chứng khoán hóa chính là nhằm tách biệt rủi ro mất khả năng thanh toán của người chủ sở hữu tài sản/các khoản phải thu ban đầu và rủi ro của chính các tài sản hay các khoản phải thu đó. Ủy ban Chứng khoán Mỹ đã đưa ra một định nghĩa khá chặt chẽ về mặt ngôn từ như sau: "Chứng khoán hóa là việc tạo ra các chứng khoán dựa trên các luồng tiền cố định hoặc mang tính chất tuần hoàn của một tập hợp tách biệt các khoản phải thu hoặc các tài sản tài chính. Các chứng khoán này tùy theo cấu trúc thời hạn của chúng sẽ được chuyển đổi thành tiền trong một khoảng thời gian xác định kèm theo những quyền hưởng lợi khác và quyền đối với những tài sản được sử dụng nhằm đảm bảo việc trả nợ hoặc phân phối định kỳ các khoản thu được cho người sở hữu chứng khoán." Định nghĩa có vẻ dài dòng, song có lẽ là một định nghĩa chính xác nhất về kỹ thuật tài chính này. Sự ra đời của kỹ thuật chứng khoán hóa gắn liền với những phát triển đột biến của thị trường chứng khoán (TTCK) Mỹ trong những năm 1970 với sự ra đời của một loạt các chứng khoán được bảo đảm bằng thế chấp. Sự biến động lãi suất trên thị trường vốn cũng như hoạt động của thị trường nhà đất đã thúc đẩy các định chế tài chính tìm kiếm những phương thức mới để duy trì nguồn vốn khả dụng và giảm thiểu những rủi ro liên quan đến những khoản vay thế chấp bất động sản. Một trong những con đường rộng mở đối với các tổ chức tài chính nói trên chính là việc tái thiết lập cơ cấu của những khoản vay thế chấp mua bất động sản thành một "tập hợp nợ" và phát hành những chứng khoán trên cơ sở những "tập hợp nợ" đó. Những chứng khoán phát hành trên cơ sở những tập hợp nợ có thế chấp đó được gọi là chứng khoán có thế chấp đảm bảo. Chính những chứng khoán này và những khoản cho vay có thế chấp đã trở thành tiêu điểm của cuộc khủng hoảng tín dụng khiến giới truyền thông tốn nhiều giấy mực và ngành tài chính toàn cầu phải đau đầu ngày nay. Nếu ta thử làm động tác tìm kiếm trên Google,có lẽ những cụm từ được nhắc đến nhiều nhất là “khủng hoảng tín dụng toàn cầu” ), “chứng khoán hóa” (securitization) và “tín dụng thứ cấp” (subprime credit) hoặc “tín dụng mua nhà thứ cấp” (subprime mortgage). Xét về mặt kỹ thuật, những khoản tín dụng mua nhà thứ cấp chính là những khoản cho vay mua nhà mà các ngân hàng cung cấp cho những người đi vay có uy tín tín dụng thấp. Thông qua quy trình chứng khoán hóa, những khoản trách nhiệm nợ này được tập Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 6 hợp lại bởi một định chế trung gian thị trường đặc biệt, thường được gọi là Special Purpose Vehicle (SPV), được định giá bởi các Công ty Định mức Tín nhiệm và sau đó, các trái phiếu được phát hành cho nhà đầu tư (chủ yếu là nhà đầu tư định chế) với các tài sản thế chấp cho các khoản vay được sử dụng làm chính tài sản thế chấp cho những trái phiếu đó. Tiền phát hành trái phiếu được các ngân hàng thu về như một phương thức thu hồi sớm vốn cho vay với lãi suất thấp hơn đôi chút lãi suất cho người tiêu dùng vay để duy trì tính thanh khoản của ngân hàng. Trong khi đó, những khoản lãi và gốc vốn vay do người đi vay thanh toán định kỳ được chuyển cho người mua trái phiếu. Như vậy, trong quá trình chứng khoán hóa, các ngân hàng cho vay mua nhà ban đầu không còn trách nhiệm đối với khoản vay và việc bán các khoản tín dụng thế chấp đó mang lại cho họ nguồn vốn để tài trợ cho các khoản vay khác. Người ta thường nói rằng chứng khoán hóa chính là một công cụ để đa dạng hóa rủi ro. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng phần nào đối với các ngân hàng, người đã chuyển nhượng các khoản cho vay sang nhà đầu tư trái phiếu. Trong quá trình chứng khoán hóa, rủi ro mất khả năng thanh toán không hề bị triệt tiêu mà nó chỉ đơn giản chuyển từ các ngân hàng sang cho nhà đầu tư. Để đổi lại, nhà đầu tư có quyền hưởng lợi đối với các luồng tiền phát sinh từ khoản vay và tài sản thế chấp. Rõ ràng là quy trình này có xu hướng khuyến khích các ngân hàng nới lỏng những quy định về cho vay của mình để có thể cho vay được nhiều hơn và sinh lời mà không phải chịu rủi ro. Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các khoản phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dưới chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ (high-yield bond) hay các khoản cho vay bất động sản thương mại. Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiết phải nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một cách dễ dàng thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài sản đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tư đã tự tin bơm vốn vào hoạt động cho vay nợ dưới chuẩn một cách dễ dàng. Quá trình này được thực hiện một cách cơ bản như sau: Thông thường muốn vay nợ ngân hàng để trả góp mua nhà thì người đi vay cần có một số vốn để trả trước một phần trị giá căn nhà và đồng thời phải chứng tỏ là mình có đủ khả năng tài chính để trả nợ đều đặn trong suốt Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 7 thời gian đi vay. Chính sách cho vay của ngân hàng thay đổi tùy tình hình thị trường, tuy nhiên ngân hàng thường buộc người vay phải có ít nhất 10% - nghĩa là chỉ cho vay tối đa 90% - trị giá căn nhà. Số tiền trả góp hàng tháng thì không nên vượt quá mức an toàn là một phần ba mức thu nhập trước khi tính thuế. Đi sâu vào chi tiết hơn thì khi xét đơn xin vay tiền, các ngân hàng Mỹ thường dùng một công thức gọi là “tỷ lệ 28:36” dựa vào mức thu nhập hàng tháng - 28% là tỷ lệ trước (front ratio) và 36% là tỷ lệ sau (back ratio). Ngân hàng thường chỉ cho vay nếu số tiền trả góp hằng tháng (kể cả thuế và tiền bảo hiểm ngôi nhà) không vượt quá 28% (tỷ lệ trước) thu nhập hằng tháng. Cộng thêm các khoản nợ khác (như tiền trả nợ thẻ tín dụng, mua xe, nợ trả học phí cho con cái...) thì tất cả không được quá 36% (tỷ lệ sau) của số thu nhập hằng tháng. Khi xét đơn vay nợ thì các ngân hàng Mỹ lại còn căn cứ vào “điểm tín dụng” (credit score) của người đi vay. Đây là thang điểm do Công ty Fair Isaac Corp. thiết lập, gọi tắt là điểm số FICO, từ 300-900 điểm. Điểm tín dụng này được thiết lập cho mỗi cá nhân dựa trên năm yếu tố mà quan trọng nhất là “tiểu sử tín dụng” - hễ người nào xưa nay càng trả nợ trễ hạn bao nhiêu thì điểm tín dụng của người ấy càng thấp bấy nhiêu. Điểm càng cao thì càng dễ vay và người đi vay lại còn được cho vay với lãi suất nhẹ hơn. Thông thường thì người vay sẽ gặp khó khăn với điểm tín dụng thấp hơn 620. Tạm gác điểm tín dụng để lấy một thí dụ cụ thể. Một người lãnh lương 5.000 USD mỗi tháng thì tốt nhất là có thể dành ra 1.400 USD (5.000 x 28%) để trả nợ mua nhà. Không kể thuế và tiền bảo hiểm nhà cửa, nếu dùng số tiền này để trả đều mỗi tháng thì người ấy có thể vay trả góp theo hình thức chiết khấu (amortization) trong 30 năm với lãi suất 7,25%, một món nợ là 205.000 USD. Vì cần ứng ra 10% nên người ấy có thể mua một ngôi nhà trị giá 228.000 USD (205.000/90%) và cần đặt cọc 23.000 USD. Vay nợ... dưới chuẩn Vay trả góp để mua nhà thì căn bản chỉ đơn giản như vậy! Thế nhưng trong những năm vừa qua, để khuyến dụ nhiều người mua nhà thì các công ty tài trợ địa ốc ở Mỹ đã dùng nhiều “thủ thuật tài chính” và tung ra những sản phẩm vay trả góp mới mà thông dụng nhất là cái gọi là “Option ARM”. ARM là chữ viết tắt của Adjustable Rate Mortgage (lãi suất thả nổi). Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 8 Theo thí dụ trên, khi vay 205.000 USD theo “Option ARM” thì mỗi tháng người đi vay sẽ nhận được một phiếu đòi nợ, cho phép họ chọn một trong bốn phương cách trả nợ như sau: a. Trả theo tiêu chuẩn chiết khấu 30 năm là 1.398 USD b. Trả theo tiêu chuẩn chiết khấu 15 năm là 1.871 USD c. Trả tiền lời là 1.239 USD (205.000 x 7,25% / 12) d. Trả mức tối thiểu là... 758 USD Con số 758 USD tối thiểu này được tính dựa trên một phân lãi “chào mời” (introductory rate) ở mức rất thấp, chẳng hạn như 2% (vay 205.000 USD chiết khấu trong 30 năm với phân lãi 2% thì phải trả mỗi tháng 758 USD). Đây chỉ là phân lãi “quảng cáo” để lôi kéo khách hàng, thường có hiệu lực rất ngắn - trong một hay hai tháng đầu - và thực sự chỉ dùng để tính số tiền trả góp tối thiểu hàng tháng trong năm đầu tiên. Số tiền này sau đó sẽ tăng lên, nhưng không quá 7,5% mỗi năm. Năm đầu tiên trả mỗi tháng 758 USD thì sang năm thứ nhì sẽ trả 815 USD, và năm thứ ba 876 USD... Người vay được cho biết là họ có thể trả góp tối thiểu theo cách này trong năm năm và bước sang năm thứ sáu thì món nợ sẽ được “tính lại” (recast)! Tuy nhiên cái mấu chốt của vấn đề mà rất ít người đi vay để ý đến là như sau: vì lãi suất chính vẫn là 7,25% nên chỉ riêng phần tiền lời mỗi tháng đã là 1.239 USD. Tuy nhiên người vay chỉ trả có 758 USD (tính trên lãi suất “chào mời” 2% và trong thời gian đầu thì hầu hết là để trả tiền lời) nên mỗi tháng sẽ hụt đi khoảng 481 USD. Số tiền thiếu hụt này sẽ được đưa vào số nợ gốc và số nợ cứ thế mà tăng dần (thay vì sẽ giảm đi nếu trả nợ theo hai hình thức chiết khấu đầu tiên nói trên). Tuy bảo là sau năm năm sẽ “tính lại”, nhưng thực sự thì khi số tiền vay vượt quá một mức hạn định - như 110% - của số nợ gốc ban đầu thì ngân hàng sẽ... “tính lại” ngay lập tức. Nếu điểm “tính lại” xảy ra vào cuối năm thứ ba thì lúc ấy số nợ sẽ là 225.500 USD và thời gian còn lại để trả nợ sẽ là 27 năm. Nếu lãi suất lúc ấy vẫn là 7,25% thì người vay sẽ phải trả 1.588 USD mỗi tháng. Nên nhớ rằng ngay vào cuối năm thứ ba, người đi vay chỉ trả mỗi tháng 876 USD. Bước sang đầu năm thứ tư, người ấy phải chịu một cú sóc lớn khi số tiền trả nợ hằng tháng, sau khi bị “tính lại” đã nhảy vọt lên đến 1.588 USD nghĩa là tăng 80%! Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 9 Trở lại thí dụ trên, nếu chọn Option ARM thì chỉ cần trả 758 USD (thay vì 1.400 USD) mỗi tháng là có thể vay được 205.000 USD @ 7.5% một cách nhẹ nhàng. Như vậy, người có khả năng trả 1.400 USD, thay vì an phận với ngôi nhà nhỏ thì nay lại có thể dùng Option ARM để vay được 380.000 USD mà mua một ngôi nhà lớn hơn. Với giá nhà liên tục gia tăng và lãi suất cho vay thấp cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, nhiều công ty tài trợ địa ốc đã sẵn sàng cho vay không cần tiền đặt cọc, cũng chẳng đòi hỏi người đi vay phải chứng tỏ rõ ràng về khả năng trả nợ, và lại không hề quan tâm đến “điểm tín dụng”! Với cách cho vay quá dễ dàng này thì những người trước đây bị ngân hàng... chê là “không đạt tiêu chuẩn”, nay có thể vay trả góp thoải mái. Thế là vô số những khách hàng chưa hề có lý lịch vay mượn, hoặc có lý lịch yếu vì đã từng chậm trả nợ, hoặc không đủ khả năng trả góp hàng tháng cho đến những người đã bị phá sản... cũng nghiễm nhiên trở thành chủ nhân những ngôi nhà to lớn, khang trang. Tất cả những món nợ cho các khách hàng này đều được xếp vào cái gọi là “nợ dưới chuẩn”. Tin tưởng rằng giá nhà cửa sẽ tiếp tục gia tăng Sở dĩ nhiều người đi vay đã chọn Option ARM và các nhà tài trợ cũng mạnh dạn cho vay cũng vì tất cả đều nghĩ rằng giá nhà cửa sẽ tiếp tục gia tăng và khi phải “tính lại” thì món nợ ấy có thể tái tài trợ dễ dàng. Cơn sốt “dot.com” đã giúp nhiều người giàu to. Tiền bạc thừa thãi, họ đổ vào địa ốc khiến nhà cửa quanh những vùng công nghiệp cao như thung lũng Silicon tăng giá vùn vụt và làn sóng tăng giá dần dần lan rộng khắp nước Mỹ. Khi cái bong bóng “dot.com” đột ngột tan vỡ, nhiều công ty đóng cửa, số người mất việc gia tăng và mãi lực suy sụp. Để tránh viễn cảnh kinh tế suy thoái, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ bèn liên tục hạ lãi suất. Thấy nhà cửa trước đó lên giá vùn vụt mà nay lãi suất lại hạ thấp, nhiều người bèn lao vào thị trường địa ốc. Số người mua nhà gia tăng, cầu vượt cung nên giá nhà cứ thế mà tiếp tục gia tăng. Tính ra thì trong vòng 10 năm qua, giá nhà ở Mỹ đã tăng liên tục khoảng 20% mỗi năm và có nơi thì đã tăng gấp ba lần! Trong bối cảnh đó, hầu hết mọi người nhắm mắt đi vay mua nhà mà không ngần ngại vì trong thâm tâm họ đều nghĩ rằng chỉ cần chịu đựng trong vài năm đầu - lại có cái gối Option ARM - rồi sau đó khi nhà cửa lên giá thì sẽ tái tài trợ, hoặc bán quách cái nhà ấy để được lời to! Điểm yếu của chiến thuật này là nếu chẳng may nhà cửa sụt giá thì người vay không thể tái tài trợ được và lúc ấy chỉ có cách... giương cờ trắng đầu hàng! Ngân hàng sẽ Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 10 tịch biên ngôi nhà mang ra bán đấu giá rồi đưa người đi vay ra tòa để đòi lại khoản tiền thiếu nợ! Không trả được thì người đi vay đành phải khai... phá sản và ngân hàng chịu mất tiền! Đó chính là điều hiện đang xảy ra trên thị trường địa ốc Mỹ. Việc nhà cửa ở Mỹ gia tăng giá thực ra còn là kết quả của nhiều yếu tố khác trước đó. Một lý do là vì đã có thêm nhiều nguồn tài trợ địa ốc! Nguồn tài trợ địa ốc gia tăng Trước đây thì nguồn vốn cho vay địa ốc hầu như đều do ngân hàng cung cấp. Tuy nhiên lượng tiền cho vay từ ngân hàng cũng có giới hạn. Ngoài những ràng buộc gắt gao về luật lệ hoạt động ngân hàng, lượng tiền cho vay của mỗi ngân hàng lệ thuộc phần lớn vào số tiền ký gửi của khách hàng, và để quản lý rủi ro thì chỉ một phần của tổng số tiền cho vay được dành cho địa ốc. Số người đủ tiêu chuẩn để có thể vay tiền ngân hàng vì thế không nhiều và muốn giúp dân chúng có nhà thì Chính phủ Mỹ phải tìm cách tạo thêm các nguồn tài trợ khác! Năm 1980, Đạo luật Giao dịch Thế chấp Tương đương (Alternative Mortgage Transaction Parity Act) được ban hành, nới rộng những quy luật cho vay và khuyến khích việc thành lập những kênh tài trợ khác. Nhiều người cho rằng đây cũng là một mầm mống đưa đến cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn hiện tại! Đạo luật này đã thổi một luồng gió mới vào thị trường địa ốc. Nhiều công ty tài trợ địa ốc (mortgage lenders) ra đời và vì không bị ràng buộc bởi những luật lệ ngân hàng nên các nhà tài trợ mới này mạnh tay tung hoành. Nhiều ngân hàng lớn thay vì tiếp tục con đường hoạt động truyền thống của mình là lấy tiền ký thác để cho vay thì lại... không muốn đứng ngoài cuộc nên cũng đã thành lập, hoặc liên kết với những công ty tài trợ địa ốc và số kênh cho vay trả góp nhà tăng vọt. Lượng tiền cho vay địa ốc gia tăng Trước đây ngân hàng phải dùng vốn của mình để cho vay. Món nợ cho vay địa ốc sẽ nằm trong bảng kết toán của ngân hàng và như vậy thì trong suốt thời gian cho vay, ngân hàng sẽ bị “kẹt vốn”. Để giúp ngân hàng có tiền cho vay tiếp, Chính phủ Mỹ cho thành lập một số “Công ty do nhà nước bảo trợ” (Government Sponsored Enterprise) mà hai tổ chức lớn nhất là Hiệp hội Quốc gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 11 Association - gọi tắt là Fannie Mae), và Công ty Quốc Gia tài trợ địa ốc (Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt động chính của Fannie Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ vay của các ngân hàng rồi lại dùng làm thế chấp để phát hành những “Trái phiếu bất động sản” (Mortgage-backed Securities) bán cho các nhà đầu tư khác. Tương tự như vậy, các công ty tài trợ địa ốc cũng bán các món nợ này cho các ngân hàng đầu tư (investment bank) để họ phát hành những trái phiếu bất động sản và bán lại cho các nhà đầu tư khác. Thế là những món nợ địa ốc từ nay không còn kẹt trong sổ kế toán của các ngân hàng và các công ty tài trợ địa ốc nữa mà lại được liên tục luân chuyển và thay thế bằng những đồng vốn mới từ tiền bán những trái phiếu trên thị trường tiền tệ. Trước tiên, ngân hàng đầu tư tạm ứng nguồn vốn cho các công ty tài chính chuyên về cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn. Các công ty tài chính thực hiện cho vay mua nhà thông qua mạng lưới các đại lý cho vay. Các đại lý cho vay là người làm việc trực tiếp với khách hàng, thẩm định tín dụng theo các mẫu hồ sơ chuẩn của công ty tài chính và chuyển hồ sơ cho công ty tài chính phê duyệt. Sau khi phê duyệt, công ty tài chính sẽ làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân. Các công ty tài chính sẽ gom các khoản cho vay lại thành một danh mục tín dụng gồm nhiều khoản vay và bán lại cho ngân hàng đầu tư mà thực chất là thanh toán số tiền ngân hàng đầu tư đã cung ứng trước cho công ty tài chính. Sau khi đã mua danh mục tín dụng dưới chuẩn, các ngân hàng đầu tư thực hiện chứng khoán hóa chúng. Danh mục tín dụng được bán sang cho một công ty có mục đích đặc biệt (special purpose vehicle) do ngân hàng đầu tư lập lên và công ty này phát hành chứng khoán nợ cho nhà đầu tư. Công ty đặc biệt này không có vốn, không có nhân viên mà chỉ có tài sản là danh mục cho vay và công nợ là các trái phiếu phát hành. Tất cả các hoạt động như theo dõi, thu đòi nợ và thanh toán gốc, lãi trái phiếu đều được thuê ngoài cho công ty dịch vụ (thường chính là công ty tài chính thực hiện cho vay). Trong điều kiện lý tưởng, khi các danh mục cho vay được thu hồi toàn bộ và thanh toán hết nợ trái phiếu cho nhà đầu tư thì công ty đặc biệt này hoàn thành nhiệm vụ và được giải thể. Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 12 Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo bởi danh mục cho vay thế chấp mua nhà (mortgage backed obligations). Trái phiếu được phân ra thành nhiều gói (tranche) được định mức tín nhiệm với các hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác nhau, ví dụ gói A, gói B và gói Z. Gói A với hệ số tín dụng cao nhất được thanh toán toàn bộ gốc đầu tiên. Sau khi thanh toán hết gốc của gói A, sẽ đến lượt gói B và cuối cùng là gói Z. Gói Z là gói đặc biệt không được định mức tín nhiệm, có mức độ rủi ro tín dụng cao nhất do đó có tính chất như cổ phiếu. Nếu danh mục tín dụng hoạt động tốt, gói Z sẽ hưởng nhiều lợi nhuận nhất và ngược lại. Nguyên tắc phân chia dòng tiền cho các trái chủ được gọi là nguyên tắc thác nước tức là nước chảy từ trên xuống dưới. Như vậy các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũng chính là động lực kích thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn. Bùng nổ… Chứng khoán hóa đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả được các ngân hàng đầu tư quốc tế nắm bắt kịp thời để thực hiện cho vay nợ dưới chuẩn. Nếu như trước đây các ngân hàng thương mại với nguồn vốn hữu hạn của mình từ tiền gửi của khách hành dùng để cho vay thế chấp mua nhà thì giờ đây, nguồn vốn này trở nên dường như bất tận. Các ngân hàng đầu tư quốc tế thi nhau bơm vốn cho các công ty tài chính chuyên làm nhiệm vụ cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn hoặc thành lập các công ty cho vay của riêng mình. Hàng loạt chủ thể tham giao vào quy trình cho vay và chứng khoán hóa như ngân hàng đầu tư, công ty tài chính, môi giới cho vay, công ty định mức tín nhiêm, công ty quản lý, đều thu được những khoản thu nhập kếch sù. Ngân hàng đầu tư có lẽ là người hưởng lợi nhiều nhất. Cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn có lãi suất rất cao, do đó ngân hàng đầu tư vừa thu lãi từ cung cấp vốn cho công ty tài chính, vừa thu lãi từ nghiệp vụ chứng khoán hóa. Lãi cao sẽ giúp việc đóng gói thêm thực hiện dễ dàng, và đây là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư lao vào thị trường mua các gói trái phiếu chứng Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 13 khoán hóa đầy rủi ro. Lợi nhuận cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạm dụng việc cho vay nợ dưới chuẩn. Các thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay diễn ra hết sức lỏng lẻo và việc tiếp cận vốn tín dụng mua nhà trở nên nhanh chóng, dễ dàng hơn bao giờ hết. Những người có thu nhập thấp, đặc biệt là dân định cư đầu tiên có cơ hội mua nhà. Cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn lan nhanh ra toàn nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanh chóng. Nếu như cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn mới bắt đầu hình thành từ những năm đầu 90 và phát triển rất chậm thì trong 5 năm gần đây con số này gia tăng một cách kỷ lục. Năm 2002, doanh số cho vay dưới chuẩn cung cấp cho thị trường khoảng 200 tỷ USD, năm 2003 là 320 tỷ, năm 2004 là 550 tỷ, năm 2005-2006 con số này đạt gần 700 tỷ USD hàng năm, chiếm khoảng 25% thị phần cho vay thế chấp mua nhà toàn nước Mỹ. … và khủng hoảng Khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suất tăng tạo nên gánh nặng trả nợ với những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủi ro cho vay nợ dưới chuẩn bị ảnh hưởng nhanh nhất. Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát mại tài sản. Cleveland (Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngòi cho cuộc khủng hoảng lan rộng ra toàn nước Mỹ và thế giới. Theo số liệu thống kê, khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu hồi để phát mại. Những người nhập cư với giấc mơ mua nhà lại trở về tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong Qúy 3 năm 2007, mức tồi tệ nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1930. Ngay lập tức, Cục dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu phải bơm số vốn khổng lồ vào thị trường. Từ tháng 9/2007, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã liên tục 5 lần cắt giảm lãi suất chiết khấu đồng USD từ 5,25%/năm xuống mức hiện tại 3%/ năm. Đây là những biện pháp rất mạnh nhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng hoảng này. Có thể xem tuần tu 12/9-19/9 là quãng thời gian mà ngành tài chính thế giới rung chuyển tới tận gốc rễ. Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 14 Sau khi thị trường chứng khoán Mỹ khép lại phiên giao dịch hôm thứ Sáu (12/9), những “điềm xấu” của khủng hoảng đã buộc các nhà chức trách Mỹ tổ chức một loạt cuộc họp khẩn trong hai ngày cuối tuần, nhằm nỗ lực ngăn chặn một sự sụp đổ có thể xảy ra trong hệ thống tài chính toàn cầu. Trong suốt những ngày sau đó, các nhà lãnh đạo của lĩnh vực tài chính Mỹ, với các “đội trưởng” là Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Henry Paulson và Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Ben Bernanke, đã đưa ra một loạt những động thái hiếm gặp, tạo ra một sự đảo lộn một trật tự đã kéo dài nhiều thập kỷ trong ngành tài chính và làm thay đổi căn bản bộ mặt của hệ thống tài chính Mỹ. Sau sự “biến mất” của hai ngân hàng đầu tư Phố Wall là Lehman Brothers và Merrill Lynch, FED đã tiếp quản AIG. Trong một động thái được coi là lần can thiệp lớn nhất trong lịch sử vào thị trường tài chính, các quan chức Mỹ đề xuất một kế hoạch trị giá hàng trăm tỷ USD nhằm mua lại các khoản nợ xấu từ các tổ chức tài chính. Giới quan sát quốc tế bình luận, ngành tài chính Mỹ đang được tổ chức lại toàn bộ và đang trải qua những ngày đen tối nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng năm 1929. Cùng với đó, thị trường chứng khoán toàn cầu cũng trồi sụt với biên độ cực lớn. II.HẬU QUẢ NẶNG NỀ ĐẾN NỀN KINH TẾ MỸ Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ (sub-prime) đã và đang gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế Mỹ, tạo ra các khoản lỗ lên tới hàng trăm tỷ USD cho các ngân hàng đầu tư lớn trên thế giới. Dự kiến ảnh hưởng của cơn bão tín dụng nợ dưới chuẩn sẽ còn tiếp tục trong năm 2008 Sự thắt chặt tín dụng do các ngân hàng mất niềm tin trong việc cho vay đã khiến kinh tế toàn cầu nói chung, và các nền kinh tế đầu tàu của thế giới nói riêng giảm tốc mạnh mẽ, thậm chí có nguy cơ rơi vào suy thoái. Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề. Thị trường trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa bị mất khả năng thanh khoản. Ngành xây dựng Mỹ đóng góp 15% GDP có thể phải cắt giảm một nửa sản lượng và cắt 1-2 triệu công việc. Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 15 sản đảm từ những ngôi nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại (mark to market) của các gói trái phiếu phát hành bị giảm giá không phanh, đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro cao (gói Z). Các nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nợ dưới chuẩn là người chịu hậu quả nặng nề. Dự báo số tổn thất do giảm giá trị trái phiếu cho toàn thị trường lên tới khoảng 220 tỷ – 450 tỷ USD. Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro mà chưa kịp chuyển giao cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thất lên đến hàng trăm tỷ USD như Citi (21 tỷ USD), Merrill Lynch (25 tỷ USD), UBS (18 tỷ USD), Morgan Stanley (10 tỷ USD), JP Morgan (2,2 tỷ USD), Bear Stearns (2 tỷ USD), Lehman Brothers (1,5 tỷ USD), Goldman Sachs (1,3 tỷ USD). Tổng thiệt hại tài chính của các ngân hàng đầu tư trong năm 2007 ước tính lên tới gần trăm tỷ USD. Citi và Merrill Lynch phải cầu viện tăng vốn khẩn cấp từ các quỹ đầu tư Châu Á. Hàng ngàn nhân viên phố Wall bị sa thải. Bộ Lao động Mỹ công bố số liệu cho thấy, nước Mỹ mất 159.000 việc làm trong tháng 9, mức sụt giảm mạnh nhất từ tháng 3/2003 trở lại đây. Tháng 9 là tháng thứ 2 liên tiếp, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ ở mức 6,1%, cao nhất từ tháng 9/2003 tới nay. Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từ chứng khoán hóa của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động. Cổ phiếu các ngân hàng đầu tư rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007. Với tổn thất nặng nề này, các ông chủ phố Wall lần lượt phải ra đi, cụ thể là các ông chủ UBS, Citigroup, Merrill Lynch và Bear Stearns. Tình hình đang đi về đâu? Khó lòng biết tình hình đi về đâu. Nhưng rõ ràng là có một số vấn đề sẽ tiếp tục xảy ra trong nền kinh tế Mỹ: • Giá nhà sẽ tiếp tục xuống. Cho đến nay giá nhà ở một số nơi như thành phố New York gần như chưa bị ảnh hưởng. Nhưng với số người trong khu vự tài chính mất việc làm, khả năng xuống giá ở New York là rất cao. • Lạm phát trong tương lai sẽ tăng cao dù giá xăng dầu xuống vì mức tín dụng được Fed đẩy mạnh để cứu nguy các công ty tài chính và để nền kinh tế không đi vào suy thoái. Điều có thể xảy ra là nền kinh tế suy thoái hoặc phát triển chậm nhưng lạm phát vẫn cao. Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 16 • Suy thoái ngày càng mang tính toàn cầu. Thị trường chung Châu Âu (quí hai là 0,1%) và Nhật (quí hai là -0,7%) đã đi vào suy thoái, còn Mỹ thì quí hai bất ngờ tăng 3,3% vì tăng được xuất khẩu, giảm nhập khẩu và tăng chi tiêu quốc phòng. Nhưng điều này sẽ không tiếp tục vì đồng Mỹ đang lên giá trở lại và dấu hiệu chi tiêu của dân chúng sẽ giảm mạnh, nhất là vào tháng 8, số thất nghiệp tăng lên 6,1% và thêm 84 ngàn người mất việc. • Có thể khủng hoảng tài chính sẽ không xảy ra ở châu Á và châu Âu nói chung, nhưng mất mát tài chính do đầu tư tài chính sang Mỹ sẽ rất lớn, làm ảnh hưởng đến đầu tư nói chung trên thế giới. III.BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1.Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới Việt Nam Với tính chất xuyên quốc gia và có sự liên thông giữa các thị trường, thị trường tài chính toàn cầu, một điều khá chắc chắn là khủng hoảng tài chính Mĩ khiến các luồng đầu tư trên thế giới bị ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam. Các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ khó huy động vốn hơn, hoặc họ sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi những thị trường lớn của họ đang có vấn đề. Ngay cả đầu tư trực tiếp nước ngoài, tuy không ảnh hưởng trực tiếp bởi những diễn biến trên thị trường tài chính, cũng có thể sẽ bị tác động một khi kinh tế đình trệ và đầu tư bị cắt giảm toàn cầu. Luồng tiền đầu tư nóng vào Việt Nam cũng có thể bị ảnh hưởng. Đầu năm 2008, tổng lượng tiền đầu tư nóng (tiền gửi bằng ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài vào hệ thống ngân hàng trong nước) là khoảng 4 tỉ USD. Hiện nay, luồng tiền này được cho rằng đang ở mức 8 tỉ USD. Các chuyên gia tài chính nhận định luồng tiền này có khả năng sẽ chảy ngược ra nếu tình hình tài chính thế giới tiếp tục xấu đi. Trái phiếu Việt Nam có khả năng bị bán ra nhiều hơn mua vào, và đồng tiền Việt Nam sẽ giảm giá so với USD. 2.Bài học kinh nghiệm với Việt Nam Điều mà Việt Nam cần làm trước tiên là phải giữ ổn định kinh tế vĩ mô gắn với xây dựng và củng có niềm tin của công chúng và các NĐT. Niềm tin rất quan trọng. Ví dụ làm sao cho công chúng không chỉ biết CPI giảm khi được thông báo mà họ phải kỳ vọng là CPI sẽ giảm và kinh tế vĩ mô sẽ dần bình ổn. Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 17 Đồng thời, Việt Nam cũng phải tính sẵn các kịch bản (tạm thời xấu) để có phản ứng kịp thời nếu tình huống tương tự xảy ra. Bài học về việc chậm phản ứng chính sách trong năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008 dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô vẫn còn nguyên giá trị. Bên cạnh đó phải có phương án xử lý các vấn đề an sinh xã hội, khó khăn của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ (có tiềm năng), nợ xấu hệ thống ngân hàng…Các định chế tài chính, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ phải quan tâm đặc biệt đến quản trị rủi ro. Bộ Tài chính, NHNN, UBCK Nhà nước tiếp tục phải giám sát rất chặt chẽ hệ thống tài chính và thị trường tài chính. Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 18 KẾT LUẬN Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ bắt nguồn từ sự quản lý lỏng lẻo trong cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham của thị trường. Chứng khoán hóa là một công cụ tài chính thông minh song đã bị lợi dụng vào việc xấu gây nên hậu quả khôn lường. Các nhà đầu tư cần thấu hiểu các rủi ro trước khi mua các sản phẩm tài chính phức tạp nhằm tránh những tổn thất nặng nề. Đây là những bài học không thừa cho bất cứ quốc gia nào trong quá trình hội nhập và phát triển. Bài học với Việt Nam là chúng ta cần phải tập trung vào bảo đảm ổn định, chấm dứt từ từ lạm phát, chứ không thể tiếp tục theo đuổi con đường tăng GDP một cách ấn tượng với các đầu tư phí phạm, trong khi đa số dân chúng có lương không đủ sống. Việc tăng lương ở khu vực công không phải là không thể nhưng phải được tính toán kỹ lưỡng để không tạo ra lạm phát, như vậy là phải đánh đổi với việc giảm thêm đầu tư của nhà nước. Tiểu luận tài chính tiền tệ Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 19 Tài liệu tham khảo Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Fredic S Mishkin g_no_duoi_chuan_tai_My_Tu_A_den_Z/1186.html

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNguyên nhân và cách thức bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn , tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan