LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã diễn ra được 7 tháng, hàng ngày trên các bản tin tài chính, chúng ta được nghe rất nhiều thông tin về cuộc khủng hoảng này và nhiều người nghĩ rằng họ đã hiểu về nó. Nhưng thật ra là chưa đâu .Cuộc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ trông có vẻ đơn giản: các ngân hàng thì thầm rót mật vào tai dân chúng, làm mọi người đổ xô vay tiền mua nhà vượt quá khả năng tài chính của họ, và đến giờ thì họ vỡ nợ với các khoản vay thế chấp mua nhà đó.
Vấn đề ở đây là tại sao, cho vay dưới chuẩn – 1 mảng của dịch vụ kinh doanh cho vay thế chấp, lại làm đóng băng thị trường tín dụng, chao đảo thị trường chứng khoán, đẩy nền kinh tế Mỹ bên bờ vực suy thoái tồi tệ, và khiến cho Fed đã phải có những hành động mạnh mẽ nhất kể từ cuộc suy thoái kinh tế năm 1929.
Bài tiểu luận này nêu lên sơ lược về nguyên nhân và cách thức bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn , tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
17 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3753 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguyên nhân và cách thức bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn, tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 3
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã diễn ra được 7 tháng, hàng ngày
trên các bản tin tài chính, chúng ta được nghe rất nhiều thông tin về cuộc
khủng hoảng này và nhiều người nghĩ rằng họ đã hiểu về nó. Nhưng thật ra
là chưa đâu .Cuộc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ trông có vẻ đơn giản: các ngân
hàng thì thầm rót mật vào tai dân chúng, làm mọi người đổ xô vay tiền mua
nhà vượt quá khả năng tài chính của họ, và đến giờ thì họ vỡ nợ với các
khoản vay thế chấp mua nhà đó.
Vấn đề ở đây là tại sao, cho vay dưới chuẩn – 1 mảng của dịch vụ
kinh doanh cho vay thế chấp, lại làm đóng băng thị trường tín dụng, chao
đảo thị trường chứng khoán, đẩy nền kinh tế Mỹ bên bờ vực suy thoái tồi tệ,
và khiến cho Fed đã phải có những hành động mạnh mẽ nhất kể từ cuộc suy
thoái kinh tế năm 1929.
Bài tiểu luận này nêu lên sơ lược về nguyên nhân và cách thức bùng
nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn , tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ
và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 4
I.TÌM HIỂU VỀ NỢ DƯỚI CHUẨN
1. Định nghĩa nợ dưới chuẩn?
Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay các đối tượng có mức
tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo,
không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh
toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro
không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc
tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng
trên chuẩn.
Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù
lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện
đối với các sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà (mortgage), thế chấp mua
trả góp ô tô, thẻ tín dụng... Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là
dân nhập cư vào Mỹ.
2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ dưới chuẩn
Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất
cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây.
Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở
thì nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại
Mỹ như Enron, Worldcom và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin
từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm
hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài.
Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà
thị trường không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp
để giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ
dưới chuẩn một cách thái quá trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất
kiểm soát chất lượng tín dụng, chính là nguyên nhân tạo nên cuộc khủng
hoảng tín dụng 2007.
3. Cách thức tạo khủng hoảng nợ dưới chuẩn
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn được thực hiện thông qua một công cụ tài
chính hiện đại rất khá tinh vi được gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa
(securitisation). Chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại Mỹ
song thực sự phát triển mạnh từ thập kỷ 90.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 5
Một cách cơ bản, chứng khoán hóa được hiểu là việc tái cơ cấu một
tập hợp những khoản phải thu và đưa chúng về dạng thức có thể chuyển
nhượng được. Những chứng khoán phát sinh từ nghiệp vụ này có thể là cổ
phiếu hoặc trái phiếu, nhưng nhìn chung chúng đều phải dựa trên một tập
hợp các tài sản tài chính hay các khoản phải thu. Thực tế, mục tiêu của
chứng khoán hóa chính là nhằm tách biệt rủi ro mất khả năng thanh toán của
người chủ sở hữu tài sản/các khoản phải thu ban đầu và rủi ro của chính các
tài sản hay các khoản phải thu đó. Ủy ban Chứng khoán Mỹ đã đưa ra một
định nghĩa khá chặt chẽ về mặt ngôn từ như sau: "Chứng khoán hóa là việc
tạo ra các chứng khoán dựa trên các luồng tiền cố định hoặc mang tính chất
tuần hoàn của một tập hợp tách biệt các khoản phải thu hoặc các tài sản tài
chính. Các chứng khoán này tùy theo cấu trúc thời hạn của chúng sẽ được
chuyển đổi thành tiền trong một khoảng thời gian xác định kèm theo những
quyền hưởng lợi khác và quyền đối với những tài sản được sử dụng nhằm
đảm bảo việc trả nợ hoặc phân phối định kỳ các khoản thu được cho người
sở hữu chứng khoán." Định nghĩa có vẻ dài dòng, song có lẽ là một định
nghĩa chính xác nhất về kỹ thuật tài chính này.
Sự ra đời của kỹ thuật chứng khoán hóa gắn liền với những phát triển
đột biến của thị trường chứng khoán (TTCK) Mỹ trong những năm 1970 với
sự ra đời của một loạt các chứng khoán được bảo đảm bằng thế chấp. Sự
biến động lãi suất trên thị trường vốn cũng như hoạt động của thị trường nhà
đất đã thúc đẩy các định chế tài chính tìm kiếm những phương thức mới để
duy trì nguồn vốn khả dụng và giảm thiểu những rủi ro liên quan đến những
khoản vay thế chấp bất động sản. Một trong những con đường rộng mở đối
với các tổ chức tài chính nói trên chính là việc tái thiết lập cơ cấu của những
khoản vay thế chấp mua bất động sản thành một "tập hợp nợ" và phát hành
những chứng khoán trên cơ sở những "tập hợp nợ" đó. Những chứng khoán
phát hành trên cơ sở những tập hợp nợ có thế chấp đó được gọi là chứng
khoán có thế chấp đảm bảo.
Chính những chứng khoán này và những khoản cho vay có thế chấp
đã trở thành tiêu điểm của cuộc khủng hoảng tín dụng khiến giới truyền
thông tốn nhiều giấy mực và ngành tài chính toàn cầu phải đau đầu ngày
nay. Nếu ta thử làm động tác tìm kiếm trên Google,có lẽ những cụm từ được
nhắc đến nhiều nhất là “khủng hoảng tín dụng toàn cầu” ), “chứng khoán
hóa” (securitization) và “tín dụng thứ cấp” (subprime credit) hoặc “tín dụng
mua nhà thứ cấp” (subprime mortgage). Xét về mặt kỹ thuật, những khoản
tín dụng mua nhà thứ cấp chính là những khoản cho vay mua nhà mà các
ngân hàng cung cấp cho những người đi vay có uy tín tín dụng thấp. Thông
qua quy trình chứng khoán hóa, những khoản trách nhiệm nợ này được tập
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 6
hợp lại bởi một định chế trung gian thị trường đặc biệt, thường được gọi là
Special Purpose Vehicle (SPV), được định giá bởi các Công ty Định mức
Tín nhiệm và sau đó, các trái phiếu được phát hành cho nhà đầu tư (chủ yếu
là nhà đầu tư định chế) với các tài sản thế chấp cho các khoản vay được sử
dụng làm chính tài sản thế chấp cho những trái phiếu đó. Tiền phát hành trái
phiếu được các ngân hàng thu về như một phương thức thu hồi sớm vốn cho
vay với lãi suất thấp hơn đôi chút lãi suất cho người tiêu dùng vay để duy trì
tính thanh khoản của ngân hàng. Trong khi đó, những khoản lãi và gốc vốn
vay do người đi vay thanh toán định kỳ được chuyển cho người mua trái
phiếu.
Như vậy, trong quá trình chứng khoán hóa, các ngân hàng cho
vay mua nhà ban đầu không còn trách nhiệm đối với khoản vay và việc bán
các khoản tín dụng thế chấp đó mang lại cho họ nguồn vốn để tài trợ cho các
khoản vay khác. Người ta thường nói rằng chứng khoán hóa chính là một
công cụ để đa dạng hóa rủi ro. Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng phần nào đối với
các ngân hàng, người đã chuyển nhượng các khoản cho vay sang nhà đầu tư
trái phiếu. Trong quá trình chứng khoán hóa, rủi ro mất khả năng thanh toán
không hề bị triệt tiêu mà nó chỉ đơn giản chuyển từ các ngân hàng sang cho
nhà đầu tư. Để đổi lại, nhà đầu tư có quyền hưởng lợi đối với các luồng tiền
phát sinh từ khoản vay và tài sản thế chấp. Rõ ràng là quy trình này có xu
hướng khuyến khích các ngân hàng nới lỏng những quy định về cho vay của
mình để có thể cho vay được nhiều hơn và sinh lời mà không phải chịu rủi
ro.
Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng
bao gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương
mại, các khoản phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín
dụng, danh mục nợ dưới chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ (high-yield bond)
hay các khoản cho vay bất động sản thương mại.
Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiết
phải nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một
cách dễ dàng thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín
dụng làm tài sản đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tư
đã tự tin bơm vốn vào hoạt động cho vay nợ dưới chuẩn một cách dễ dàng.
Quá trình này được thực hiện một cách cơ bản như sau:
Thông thường muốn vay nợ ngân hàng để trả góp mua nhà thì người
đi vay cần có một số vốn để trả trước một phần trị giá căn nhà và đồng thời
phải chứng tỏ là mình có đủ khả năng tài chính để trả nợ đều đặn trong suốt
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 7
thời gian đi vay.
Chính sách cho vay của ngân hàng thay đổi tùy tình hình thị trường,
tuy nhiên ngân hàng thường buộc người vay phải có ít nhất 10% - nghĩa là
chỉ cho vay tối đa 90% - trị giá căn nhà. Số tiền trả góp hàng tháng thì không
nên vượt quá mức an toàn là một phần ba mức thu nhập trước khi tính thuế.
Đi sâu vào chi tiết hơn thì khi xét đơn xin vay tiền, các ngân hàng Mỹ
thường dùng một công thức gọi là “tỷ lệ 28:36” dựa vào mức thu nhập hàng
tháng - 28% là tỷ lệ trước (front ratio) và 36% là tỷ lệ sau (back ratio). Ngân
hàng thường chỉ cho vay nếu số tiền trả góp hằng tháng (kể cả thuế và tiền
bảo hiểm ngôi nhà) không vượt quá 28% (tỷ lệ trước) thu nhập hằng tháng.
Cộng thêm các khoản nợ khác (như tiền trả nợ thẻ tín dụng, mua xe, nợ trả
học phí cho con cái...) thì tất cả không được quá 36% (tỷ lệ sau) của số thu
nhập hằng tháng.
Khi xét đơn vay nợ thì các ngân hàng Mỹ lại còn căn cứ vào “điểm tín
dụng” (credit score) của người đi vay. Đây là thang điểm do Công ty Fair
Isaac Corp. thiết lập, gọi tắt là điểm số FICO, từ 300-900 điểm. Điểm tín
dụng này được thiết lập cho mỗi cá nhân dựa trên năm yếu tố mà quan trọng
nhất là “tiểu sử tín dụng” - hễ người nào xưa nay càng trả nợ trễ hạn bao
nhiêu thì điểm tín dụng của người ấy càng thấp bấy nhiêu. Điểm càng cao thì
càng dễ vay và người đi vay lại còn được cho vay với lãi suất nhẹ hơn.
Thông thường thì người vay sẽ gặp khó khăn với điểm tín dụng thấp hơn
620.
Tạm gác điểm tín dụng để lấy một thí dụ cụ thể. Một người lãnh lương
5.000 USD mỗi tháng thì tốt nhất là có thể dành ra 1.400 USD (5.000 x
28%) để trả nợ mua nhà. Không kể thuế và tiền bảo hiểm nhà cửa, nếu dùng
số tiền này để trả đều mỗi tháng thì người ấy có thể vay trả góp theo hình
thức chiết khấu (amortization) trong 30 năm với lãi suất 7,25%, một món nợ
là 205.000 USD. Vì cần ứng ra 10% nên người ấy có thể mua một ngôi nhà
trị giá 228.000 USD (205.000/90%) và cần đặt cọc 23.000 USD.
Vay nợ... dưới chuẩn
Vay trả góp để mua nhà thì căn bản chỉ đơn giản như vậy! Thế nhưng
trong những năm vừa qua, để khuyến dụ nhiều người mua nhà thì các công
ty tài trợ địa ốc ở Mỹ đã dùng nhiều “thủ thuật tài chính” và tung ra những
sản phẩm vay trả góp mới mà thông dụng nhất là cái gọi là “Option ARM”.
ARM là chữ viết tắt của Adjustable Rate Mortgage (lãi suất thả nổi).
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 8
Theo thí dụ trên, khi vay 205.000 USD theo “Option ARM” thì mỗi
tháng người đi vay sẽ nhận được một phiếu đòi nợ, cho phép họ chọn một
trong bốn phương cách trả nợ như sau:
a. Trả theo tiêu chuẩn chiết khấu 30 năm là 1.398 USD
b. Trả theo tiêu chuẩn chiết khấu 15 năm là 1.871 USD
c. Trả tiền lời là 1.239 USD (205.000 x 7,25% / 12)
d. Trả mức tối thiểu là... 758 USD
Con số 758 USD tối thiểu này được tính dựa trên một phân lãi “chào
mời” (introductory rate) ở mức rất thấp, chẳng hạn như 2% (vay 205.000
USD chiết khấu trong 30 năm với phân lãi 2% thì phải trả mỗi tháng 758
USD). Đây chỉ là phân lãi “quảng cáo” để lôi kéo khách hàng, thường có
hiệu lực rất ngắn - trong một hay hai tháng đầu - và thực sự chỉ dùng để tính
số tiền trả góp tối thiểu hàng tháng trong năm đầu tiên. Số tiền này sau đó sẽ
tăng lên, nhưng không quá 7,5% mỗi năm. Năm đầu tiên trả mỗi tháng 758
USD thì sang năm thứ nhì sẽ trả 815 USD, và năm thứ ba 876 USD... Người
vay được cho biết là họ có thể trả góp tối thiểu theo cách này trong năm năm
và bước sang năm thứ sáu thì món nợ sẽ được “tính lại” (recast)!
Tuy nhiên cái mấu chốt của vấn đề mà rất ít người đi vay để ý đến là
như sau: vì lãi suất chính vẫn là 7,25% nên chỉ riêng phần tiền lời mỗi tháng
đã là 1.239 USD. Tuy nhiên người vay chỉ trả có 758 USD (tính trên lãi suất
“chào mời” 2% và trong thời gian đầu thì hầu hết là để trả tiền lời) nên mỗi
tháng sẽ hụt đi khoảng 481 USD. Số tiền thiếu hụt này sẽ được đưa vào số
nợ gốc và số nợ cứ thế mà tăng dần (thay vì sẽ giảm đi nếu trả nợ theo hai
hình thức chiết khấu đầu tiên nói trên). Tuy bảo là sau năm năm sẽ “tính
lại”, nhưng thực sự thì khi số tiền vay vượt quá một mức hạn định - như
110% - của số nợ gốc ban đầu thì ngân hàng sẽ... “tính lại” ngay lập tức.
Nếu điểm “tính lại” xảy ra vào cuối năm thứ ba thì lúc ấy số nợ sẽ là
225.500 USD và thời gian còn lại để trả nợ sẽ là 27 năm. Nếu lãi suất lúc ấy
vẫn là 7,25% thì người vay sẽ phải trả 1.588 USD mỗi tháng. Nên nhớ rằng
ngay vào cuối năm thứ ba, người đi vay chỉ trả mỗi tháng 876 USD. Bước
sang đầu năm thứ tư, người ấy phải chịu một cú sóc lớn khi số tiền trả nợ
hằng tháng, sau khi bị “tính lại” đã nhảy vọt lên đến 1.588 USD nghĩa là
tăng 80%!
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 9
Trở lại thí dụ trên, nếu chọn Option ARM thì chỉ cần trả 758 USD
(thay vì 1.400 USD) mỗi tháng là có thể vay được 205.000 USD @ 7.5%
một cách nhẹ nhàng. Như vậy, người có khả năng trả 1.400 USD, thay vì an
phận với ngôi nhà nhỏ thì nay lại có thể dùng Option ARM để vay được
380.000 USD mà mua một ngôi nhà lớn hơn. Với giá nhà liên tục gia tăng
và lãi suất cho vay thấp cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường,
nhiều công ty tài trợ địa ốc đã sẵn sàng cho vay không cần tiền đặt cọc, cũng
chẳng đòi hỏi người đi vay phải chứng tỏ rõ ràng về khả năng trả nợ, và lại
không hề quan tâm đến “điểm tín dụng”! Với cách cho vay quá dễ dàng này
thì những người trước đây bị ngân hàng... chê là “không đạt tiêu chuẩn”, nay
có thể vay trả góp thoải mái. Thế là vô số những khách hàng chưa hề có lý
lịch vay mượn, hoặc có lý lịch yếu vì đã từng chậm trả nợ, hoặc không đủ
khả năng trả góp hàng tháng cho đến những người đã bị phá sản... cũng
nghiễm nhiên trở thành chủ nhân những ngôi nhà to lớn, khang trang. Tất cả
những món nợ cho các khách hàng này đều được xếp vào cái gọi là “nợ dưới
chuẩn”.
Tin tưởng rằng giá nhà cửa sẽ tiếp tục gia tăng
Sở dĩ nhiều người đi vay đã chọn Option ARM và các nhà tài trợ cũng
mạnh dạn cho vay cũng vì tất cả đều nghĩ rằng giá nhà cửa sẽ tiếp tục gia
tăng và khi phải “tính lại” thì món nợ ấy có thể tái tài trợ dễ dàng. Cơn sốt
“dot.com” đã giúp nhiều người giàu to. Tiền bạc thừa thãi, họ đổ vào địa ốc
khiến nhà cửa quanh những vùng công nghiệp cao như thung lũng Silicon
tăng giá vùn vụt và làn sóng tăng giá dần dần lan rộng khắp nước Mỹ. Khi
cái bong bóng “dot.com” đột ngột tan vỡ, nhiều công ty đóng cửa, số người
mất việc gia tăng và mãi lực suy sụp. Để tránh viễn cảnh kinh tế suy thoái,
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ bèn liên tục hạ lãi suất. Thấy nhà cửa trước đó lên
giá vùn vụt mà nay lãi suất lại hạ thấp, nhiều người bèn lao vào thị trường
địa ốc. Số người mua nhà gia tăng, cầu vượt cung nên giá nhà cứ thế mà tiếp
tục gia tăng. Tính ra thì trong vòng 10 năm qua, giá nhà ở Mỹ đã tăng liên
tục khoảng 20% mỗi năm và có nơi thì đã tăng gấp ba lần!
Trong bối cảnh đó, hầu hết mọi người nhắm mắt đi vay mua nhà mà
không ngần ngại vì trong thâm tâm họ đều nghĩ rằng chỉ cần chịu đựng trong
vài năm đầu - lại có cái gối Option ARM - rồi sau đó khi nhà cửa lên giá thì
sẽ tái tài trợ, hoặc bán quách cái nhà ấy để được lời to! Điểm yếu của chiến
thuật này là nếu chẳng may nhà cửa sụt giá thì người vay không thể tái tài
trợ được và lúc ấy chỉ có cách... giương cờ trắng đầu hàng! Ngân hàng sẽ
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 10
tịch biên ngôi nhà mang ra bán đấu giá rồi đưa người đi vay ra tòa để đòi lại
khoản tiền thiếu nợ! Không trả được thì người đi vay đành phải khai... phá
sản và ngân hàng chịu mất tiền! Đó chính là điều hiện đang xảy ra trên thị
trường địa ốc Mỹ. Việc nhà cửa ở Mỹ gia tăng giá thực ra còn là kết quả của
nhiều yếu tố khác trước đó. Một lý do là vì đã có thêm nhiều nguồn tài trợ
địa ốc!
Nguồn tài trợ địa ốc gia tăng
Trước đây thì nguồn vốn cho vay địa ốc hầu như đều do ngân hàng
cung cấp. Tuy nhiên lượng tiền cho vay từ ngân hàng cũng có giới hạn.
Ngoài những ràng buộc gắt gao về luật lệ hoạt động ngân hàng, lượng tiền
cho vay của mỗi ngân hàng lệ thuộc phần lớn vào số tiền ký gửi của khách
hàng, và để quản lý rủi ro thì chỉ một phần của tổng số tiền cho vay được
dành cho địa ốc. Số người đủ tiêu chuẩn để có thể vay tiền ngân hàng vì thế
không nhiều và muốn giúp dân chúng có nhà thì Chính phủ Mỹ phải tìm
cách tạo thêm các nguồn tài trợ khác!
Năm 1980, Đạo luật Giao dịch Thế chấp Tương đương (Alternative
Mortgage Transaction Parity Act) được ban hành, nới rộng những quy luật
cho vay và khuyến khích việc thành lập những kênh tài trợ khác. Nhiều
người cho rằng đây cũng là một mầm mống đưa đến cuộc khủng hoảng nợ
dưới chuẩn hiện tại! Đạo luật này đã thổi một luồng gió mới vào thị trường
địa ốc. Nhiều công ty tài trợ địa ốc (mortgage lenders) ra đời và vì không bị
ràng buộc bởi những luật lệ ngân hàng nên các nhà tài trợ mới này mạnh tay
tung hoành. Nhiều ngân hàng lớn thay vì tiếp tục con đường hoạt động
truyền thống của mình là lấy tiền ký thác để cho vay thì lại... không muốn
đứng ngoài cuộc nên cũng đã thành lập, hoặc liên kết với những công ty tài
trợ địa ốc và số kênh cho vay trả góp nhà tăng vọt.
Lượng tiền cho vay địa ốc gia tăng
Trước đây ngân hàng phải dùng vốn của mình để cho vay. Món nợ
cho vay địa ốc sẽ nằm trong bảng kết toán của ngân hàng và như vậy thì
trong suốt thời gian cho vay, ngân hàng sẽ bị “kẹt vốn”. Để giúp ngân hàng
có tiền cho vay tiếp, Chính phủ Mỹ cho thành lập một số “Công ty do nhà
nước bảo trợ” (Government Sponsored Enterprise) mà hai tổ chức lớn nhất
là Hiệp hội Quốc gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 11
Association - gọi tắt là Fannie Mae), và Công ty Quốc Gia tài trợ địa ốc
(Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt
động chính của Fannie Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ vay
của các ngân hàng rồi lại dùng làm thế chấp để phát hành những “Trái phiếu
bất động sản” (Mortgage-backed Securities) bán cho các nhà đầu tư khác.
Tương tự như vậy, các công ty tài trợ địa ốc cũng bán các món nợ này
cho các ngân hàng đầu tư (investment bank) để họ phát hành những trái
phiếu bất động sản và bán lại cho các nhà đầu tư khác. Thế là những món nợ
địa ốc từ nay không còn kẹt trong sổ kế toán của các ngân hàng và các công
ty tài trợ địa ốc nữa mà lại được liên tục luân chuyển và thay thế bằng những
đồng vốn mới từ tiền bán những trái phiếu trên thị trường tiền tệ.
Trước tiên, ngân hàng đầu tư tạm ứng nguồn vốn cho các công ty tài
chính chuyên về cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn. Các công ty tài
chính thực hiện cho vay mua nhà thông qua mạng lưới các đại lý cho vay.
Các đại lý cho vay là người làm việc trực tiếp với khách hàng, thẩm định tín
dụng theo các mẫu hồ sơ chuẩn của công ty tài chính và chuyển hồ sơ cho
công ty tài chính phê duyệt. Sau khi phê duyệt, công ty tài chính sẽ làm thủ
tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân.
Các công ty tài chính sẽ gom các khoản cho vay lại thành một danh
mục tín dụng gồm nhiều khoản vay và bán lại cho ngân hàng đầu tư mà thực
chất là thanh toán số tiền ngân hàng đầu tư đã cung ứng trước cho công ty tài
chính.
Sau khi đã mua danh mục tín dụng dưới chuẩn, các ngân hàng đầu tư
thực hiện chứng khoán hóa chúng. Danh mục tín dụng được bán sang cho
một công ty có mục đích đặc biệt (special purpose vehicle) do ngân hàng
đầu tư lập lên và công ty này phát hành chứng khoán nợ cho nhà đầu tư.
Công ty đặc biệt này không có vốn, không có nhân viên mà chỉ có tài
sản là danh mục cho vay và công nợ là các trái phiếu phát hành. Tất cả các
hoạt động như theo dõi, thu đòi nợ và thanh toán gốc, lãi trái phiếu đều được
thuê ngoài cho công ty dịch vụ (thường chính là công ty tài chính thực hiện
cho vay). Trong điều kiện lý tưởng, khi các danh mục cho vay được thu hồi
toàn bộ và thanh toán hết nợ trái phiếu cho nhà đầu tư thì công ty đặc biệt
này hoàn thành nhiệm vụ và được giải thể.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 12
Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo bởi
danh mục cho vay thế chấp mua nhà (mortgage backed obligations). Trái
phiếu được phân ra thành nhiều gói (tranche) được định mức tín nhiệm với
các hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác
nhau, ví dụ gói A, gói B và gói Z.
Gói A với hệ số tín dụng cao nhất được thanh toán toàn bộ gốc đầu
tiên. Sau khi thanh toán hết gốc của gói A, sẽ đến lượt gói B và cuối cùng là
gói Z. Gói Z là gói đặc biệt không được định mức tín nhiệm, có mức độ rủi
ro tín dụng cao nhất do đó có tính chất như cổ phiếu. Nếu danh mục tín dụng
hoạt động tốt, gói Z sẽ hưởng nhiều lợi nhuận nhất và ngược lại. Nguyên tắc
phân chia dòng tiền cho các trái chủ được gọi là nguyên tắc thác nước tức là
nước chảy từ trên xuống dưới.
Như vậy các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình
thành từ chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũng chính
là động lực kích thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng
khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn.
Bùng nổ…
Chứng khoán hóa đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu
quả được các ngân hàng đầu tư quốc tế nắm bắt kịp thời để thực hiện cho
vay nợ dưới chuẩn. Nếu như trước đây các ngân hàng thương mại với nguồn
vốn hữu hạn của mình từ tiền gửi của khách hành dùng để cho vay thế chấp
mua nhà thì giờ đây, nguồn vốn này trở nên dường như bất tận.
Các ngân hàng đầu tư quốc tế thi nhau bơm vốn cho các công ty tài
chính chuyên làm nhiệm vụ cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn hoặc
thành lập các công ty cho vay của riêng mình. Hàng loạt chủ thể tham giao
vào quy trình cho vay và chứng khoán hóa như ngân hàng đầu tư, công ty tài
chính, môi giới cho vay, công ty định mức tín nhiêm, công ty quản lý, đều
thu được những khoản thu nhập kếch sù.
Ngân hàng đầu tư có lẽ là người hưởng lợi nhiều nhất. Cho vay thế
chấp mua nhà dưới chuẩn có lãi suất rất cao, do đó ngân hàng đầu tư vừa thu
lãi từ cung cấp vốn cho công ty tài chính, vừa thu lãi từ nghiệp vụ chứng
khoán hóa. Lãi cao sẽ giúp việc đóng gói thêm thực hiện dễ dàng, và đây là
điểm hấp dẫn các nhà đầu tư lao vào thị trường mua các gói trái phiếu chứng
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 13
khoán hóa đầy rủi ro.
Lợi nhuận cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạm dụng việc cho
vay nợ dưới chuẩn. Các thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay
diễn ra hết sức lỏng lẻo và việc tiếp cận vốn tín dụng mua nhà trở nên nhanh
chóng, dễ dàng hơn bao giờ hết. Những người có thu nhập thấp, đặc biệt là
dân định cư đầu tiên có cơ hội mua nhà. Cho vay thế chấp mua nhà dưới
chuẩn lan nhanh ra toàn nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanh chóng.
Nếu như cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn mới bắt đầu hình thành
từ những năm đầu 90 và phát triển rất chậm thì trong 5 năm gần đây con số
này gia tăng một cách kỷ lục. Năm 2002, doanh số cho vay dưới chuẩn cung
cấp cho thị trường khoảng 200 tỷ USD, năm 2003 là 320 tỷ, năm 2004 là
550 tỷ, năm 2005-2006 con số này đạt gần 700 tỷ USD hàng năm, chiếm
khoảng 25% thị phần cho vay thế chấp mua nhà toàn nước Mỹ.
… và khủng hoảng
Khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suất tăng tạo nên gánh
nặng trả nợ với những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủi ro
cho vay nợ dưới chuẩn bị ảnh hưởng nhanh nhất.
Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát
mại tài sản. Cleveland (Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngòi cho cuộc
khủng hoảng lan rộng ra toàn nước Mỹ và thế giới. Theo số liệu thống kê,
khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu hồi để phát mại. Những người nhập
cư với giấc mơ mua nhà lại trở về tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại
trong Qúy 3 năm 2007, mức tồi tệ nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính năm
1930.
Ngay lập tức, Cục dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương
Châu Âu phải bơm số vốn khổng lồ vào thị trường. Từ tháng 9/2007, Cục dự
trữ liên bang Mỹ đã liên tục 5 lần cắt giảm lãi suất chiết khấu đồng USD từ
5,25%/năm xuống mức hiện tại 3%/ năm. Đây là những biện pháp rất mạnh
nhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng hoảng này.
Có thể xem tuần tu 12/9-19/9 là quãng thời gian mà ngành tài chính
thế giới rung chuyển tới tận gốc rễ.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 14
Sau khi thị trường chứng khoán Mỹ khép lại phiên giao dịch hôm thứ
Sáu (12/9), những “điềm xấu” của khủng hoảng đã buộc các nhà chức trách
Mỹ tổ chức một loạt cuộc họp khẩn trong hai ngày cuối tuần, nhằm nỗ lực
ngăn chặn một sự sụp đổ có thể xảy ra trong hệ thống tài chính toàn cầu.
Trong suốt những ngày sau đó, các nhà lãnh đạo của lĩnh vực tài chính
Mỹ, với các “đội trưởng” là Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Henry Paulson và
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Ben Bernanke, đã đưa ra một loạt
những động thái hiếm gặp, tạo ra một sự đảo lộn một trật tự đã kéo dài nhiều
thập kỷ trong ngành tài chính và làm thay đổi căn bản bộ mặt của hệ thống
tài chính Mỹ.
Sau sự “biến mất” của hai ngân hàng đầu tư Phố Wall là Lehman
Brothers và Merrill Lynch, FED đã tiếp quản AIG. Trong một động thái
được coi là lần can thiệp lớn nhất trong lịch sử vào thị trường tài chính, các
quan chức Mỹ đề xuất một kế hoạch trị giá hàng trăm tỷ USD nhằm mua lại
các khoản nợ xấu từ các tổ chức tài chính.
Giới quan sát quốc tế bình luận, ngành tài chính Mỹ đang được tổ chức
lại toàn bộ và đang trải qua những ngày đen tối nhất kể từ cuộc Đại khủng
hoảng năm 1929. Cùng với đó, thị trường chứng khoán toàn cầu cũng trồi
sụt với biên độ cực lớn.
II.HẬU QUẢ NẶNG NỀ ĐẾN NỀN KINH TẾ MỸ
Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ (sub-prime) đã và đang gây thiệt
hại nặng nề cho nền kinh tế Mỹ, tạo ra các khoản lỗ lên tới hàng trăm tỷ
USD cho các ngân hàng đầu tư lớn trên thế giới. Dự kiến ảnh hưởng của cơn
bão tín dụng nợ dưới chuẩn sẽ còn tiếp tục trong năm 2008
Sự thắt chặt tín dụng do các ngân hàng mất niềm tin trong việc cho
vay đã khiến kinh tế toàn cầu nói chung, và các nền kinh tế đầu tàu của thế
giới nói riêng giảm tốc mạnh mẽ, thậm chí có nguy cơ rơi vào suy thoái.
Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng
nề. Thị trường trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa bị mất khả năng
thanh khoản. Ngành xây dựng Mỹ đóng góp 15% GDP có thể phải cắt giảm
một nửa sản lượng và cắt 1-2 triệu công việc.
Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 15
sản đảm từ những ngôi nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại
(mark to market) của các gói trái phiếu phát hành bị giảm giá không phanh,
đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro cao (gói Z). Các nhà đầu tư nắm giữ
trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nợ dưới chuẩn là người chịu hậu
quả nặng nề. Dự báo số tổn thất do giảm giá trị trái phiếu cho toàn thị trường
lên tới khoảng 220 tỷ – 450 tỷ USD.
Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro mà
chưa kịp chuyển giao cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thất lên
đến hàng trăm tỷ USD như Citi (21 tỷ USD), Merrill Lynch (25 tỷ USD),
UBS (18 tỷ USD), Morgan Stanley (10 tỷ USD), JP Morgan (2,2 tỷ USD),
Bear Stearns (2 tỷ USD), Lehman Brothers (1,5 tỷ USD), Goldman Sachs
(1,3 tỷ USD). Tổng thiệt hại tài chính của các ngân hàng đầu tư trong năm
2007 ước tính lên tới gần trăm tỷ USD. Citi và Merrill Lynch phải cầu viện
tăng vốn khẩn cấp từ các quỹ đầu tư Châu Á. Hàng ngàn nhân viên phố Wall
bị sa thải.
Bộ Lao động Mỹ công bố số liệu cho thấy, nước Mỹ mất 159.000 việc
làm trong tháng 9, mức sụt giảm mạnh nhất từ tháng 3/2003 trở lại đây.
Tháng 9 là tháng thứ 2 liên tiếp, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ ở mức 6,1%, cao
nhất từ tháng 9/2003 tới nay.
Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từ
chứng khoán hóa của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động.
Cổ phiếu các ngân hàng đầu tư rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007.
Với tổn thất nặng nề này, các ông chủ phố Wall lần lượt phải ra đi, cụ thể là
các ông chủ UBS, Citigroup, Merrill Lynch và Bear Stearns.
Tình hình đang đi về đâu?
Khó lòng biết tình hình đi về đâu. Nhưng rõ ràng là có một số vấn đề sẽ tiếp
tục xảy ra trong nền kinh tế Mỹ:
• Giá nhà sẽ tiếp tục xuống. Cho đến nay giá nhà ở một số nơi như thành phố
New York gần như chưa bị ảnh hưởng. Nhưng với số người trong khu vự tài
chính mất việc làm, khả năng xuống giá ở New York là rất cao.
• Lạm phát trong tương lai sẽ tăng cao dù giá xăng dầu xuống vì mức tín
dụng được Fed đẩy mạnh để cứu nguy các công ty tài chính và để nền kinh
tế không đi vào suy thoái. Điều có thể xảy ra là nền kinh tế suy thoái hoặc
phát triển chậm nhưng lạm phát vẫn cao.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 16
• Suy thoái ngày càng mang tính toàn cầu. Thị trường chung Châu Âu (quí
hai là 0,1%) và Nhật (quí hai là -0,7%) đã đi vào suy thoái, còn Mỹ thì quí
hai bất ngờ tăng 3,3% vì tăng được xuất khẩu, giảm nhập khẩu và tăng chi
tiêu quốc phòng. Nhưng điều này sẽ không tiếp tục vì đồng Mỹ đang lên giá
trở lại và dấu hiệu chi tiêu của dân chúng sẽ giảm mạnh, nhất là vào tháng 8,
số thất nghiệp tăng lên 6,1% và thêm 84 ngàn người mất việc.
• Có thể khủng hoảng tài chính sẽ không xảy ra ở châu Á và châu Âu nói
chung, nhưng mất mát tài chính do đầu tư tài chính sang Mỹ sẽ rất lớn, làm
ảnh hưởng đến đầu tư nói chung trên thế giới.
III.BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới Việt Nam
Với tính chất xuyên quốc gia và có sự liên thông giữa các thị trường,
thị trường tài chính toàn cầu, một điều khá chắc chắn là khủng hoảng tài
chính Mĩ khiến các luồng đầu tư trên thế giới bị ảnh hưởng, trong đó có Việt
Nam. Các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ khó huy động vốn hơn, hoặc họ sẽ có xu
hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi những thị trường lớn của
họ đang có vấn đề.
Ngay cả đầu tư trực tiếp nước ngoài, tuy không ảnh hưởng trực tiếp bởi
những diễn biến trên thị trường tài chính, cũng có thể sẽ bị tác động một khi
kinh tế đình trệ và đầu tư bị cắt giảm toàn cầu.
Luồng tiền đầu tư nóng vào Việt Nam cũng có thể bị ảnh hưởng. Đầu
năm 2008, tổng lượng tiền đầu tư nóng (tiền gửi bằng ngoại tệ của các nhà
đầu tư nước ngoài vào hệ thống ngân hàng trong nước) là khoảng 4 tỉ USD.
Hiện nay, luồng tiền này được cho rằng đang ở mức 8 tỉ USD. Các chuyên
gia tài chính nhận định luồng tiền này có khả năng sẽ chảy ngược ra nếu tình
hình tài chính thế giới tiếp tục xấu đi. Trái phiếu Việt Nam có khả năng bị
bán ra nhiều hơn mua vào, và đồng tiền Việt Nam sẽ giảm giá so với USD.
2.Bài học kinh nghiệm với Việt Nam
Điều mà Việt Nam cần làm trước tiên là phải giữ ổn định kinh tế vĩ
mô gắn với xây dựng và củng có niềm tin của công chúng và các NĐT.
Niềm tin rất quan trọng. Ví dụ làm sao cho công chúng không chỉ biết CPI
giảm khi được thông báo mà họ phải kỳ vọng là CPI sẽ giảm và kinh tế vĩ
mô sẽ dần bình ổn.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 17
Đồng thời, Việt Nam cũng phải tính sẵn các kịch bản (tạm thời xấu)
để có phản ứng kịp thời nếu tình huống tương tự xảy ra. Bài học về việc
chậm phản ứng chính sách trong năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008 dẫn
đến nhiều hệ lụy tiêu cực đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô vẫn còn nguyên
giá trị.
Bên cạnh đó phải có phương án xử lý các vấn đề an sinh xã hội, khó
khăn của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ (có tiềm năng), nợ xấu hệ thống
ngân hàng…Các định chế tài chính, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ phải
quan tâm đặc biệt đến quản trị rủi ro. Bộ Tài chính, NHNN, UBCK Nhà
nước tiếp tục phải giám sát rất chặt chẽ hệ thống tài chính và thị trường tài
chính.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 18
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ bắt nguồn từ sự quản
lý lỏng lẻo trong cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham của thị
trường. Chứng khoán hóa là một công cụ tài chính thông minh song đã bị lợi
dụng vào việc xấu gây nên hậu quả khôn lường. Các nhà đầu tư cần thấu
hiểu các rủi ro trước khi mua các sản phẩm tài chính phức tạp nhằm tránh
những tổn thất nặng nề. Đây là những bài học không thừa cho bất cứ quốc
gia nào trong quá trình hội nhập và phát triển.
Bài học với Việt Nam là chúng ta cần phải tập trung vào bảo đảm ổn
định, chấm dứt từ từ lạm phát, chứ không thể tiếp tục theo đuổi con đường
tăng GDP một cách ấn tượng với các đầu tư phí phạm, trong khi đa số dân
chúng có lương không đủ sống. Việc tăng lương ở khu vực công không phải
là không thể nhưng phải được tính toán kỹ lưỡng để không tạo ra lạm phát,
như vậy là phải đánh đổi với việc giảm thêm đầu tư của nhà nước.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
Đinh Thị Hải Yến-Anh 4-TCQTB 19
Tài liệu tham khảo
Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Fredic S Mishkin
g_no_duoi_chuan_tai_My_Tu_A_den_Z/1186.html
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên nhân và cách thức bùng nổ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn , tác động của nó đến nền kinh tế Mỹ và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.pdf