A. LỜI GIỚI THIỆU
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội trong năm của các triều đại nhà Nguyễn – Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO: “Trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia.”
Nhã nhạc được phát triển từ thế kỷ XIII ở Việt Nam và đến thời nhà Nguyễn, Nhã nhạc đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất. Cùng với không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận.
Nhã nhạc cung đình Huế là sự kế thừa, kể từ khi những dàn nhạc – trong đó có nhiều nhạc khí cung đình – xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên bệ đá kê cột chùa thời Lý (thế kỷ XI – XII) đến lúc ông vua cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX.
Bởi những giá trị to lớn về văn hóa, nghệ thuật và ấn tượng của cá nhân mình về thể loại Nhã nhạc cung đình Huế, nên trong chuyến đi thự thế của khoa về thăm xứ Huế, nghe đêm nhạc Huế, tôi thật sự nảy sinh nhiều suy nghĩ và tình cảm với thể loại nhạc này. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Nhã nhạc cung đình Huế” là nội dung cho bài tiểu luận của mình.
Như vậy, với nội dung mà tôi đã trình bày chưa thể nói hết được giá trị, ý nghĩa của Nhã nhạc cung đình Huế song một phần nhỏ nào đó tôi muốn thể hiện tình cảm của cá nhân mình với di sản này. Đồng thời khi tìm hiểu về nhã nhạc cung đình, tôi hi vọng góp thêm một tiếng nói ca ngợi cũng như giới thiệu với mọi người – những ai đã có dịp về thăm Huế, được lắng nghe ca Huế hay cả với những ai chưa một lần đến Huế sẽ hiểu thêm và yêu mến Nhã nhạc cung đình Huế.
Với kiến thức còn hạn chế, bởi vậy bài tiểu luận của tôi không tránh khỏi những sai xót và hạn chế. Tôi mong được sự góp ý từ tất cả các bạn để bài viết của tôi được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Xin được cảm ơn quý thầy cô khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp tôi hoàn thành chuyến thăm quan thực tế miền Trung và hoàn thiện bài tiểu luận này!
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11193 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nhã nhạc cung đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội trong năm của các triều đại nhà Nguyễn – Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO: “Trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia.”
Nhã nhạc được phát triển từ thế kỷ XIII ở Việt Nam và đến thời nhà Nguyễn, Nhã nhạc đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất. Cùng với không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận.
Nhã nhạc cung đình Huế là sự kế thừa, kể từ khi những dàn nhạc – trong đó có nhiều nhạc khí cung đình – xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên bệ đá kê cột chùa thời Lý (thế kỷ XI – XII) đến lúc ông vua cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX.
Bởi những giá trị to lớn về văn hóa, nghệ thuật và ấn tượng của cá nhân mình về thể loại Nhã nhạc cung đình Huế, nên trong chuyến đi thự thế của khoa về thăm xứ Huế, nghe đêm nhạc Huế, tôi thật sự nảy sinh nhiều suy nghĩ và tình cảm với thể loại nhạc này. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Nhã nhạc cung đình Huế” là nội dung cho bài tiểu luận của mình.
Như vậy, với nội dung mà tôi đã trình bày chưa thể nói hết được giá trị, ý nghĩa của Nhã nhạc cung đình Huế song một phần nhỏ nào đó tôi muốn thể hiện tình cảm của cá nhân mình với di sản này. Đồng thời khi tìm hiểu về nhã nhạc cung đình, tôi hi vọng góp thêm một tiếng nói ca ngợi cũng như giới thiệu với mọi người – những ai đã có dịp về thăm Huế, được lắng nghe ca Huế hay cả với những ai chưa một lần đến Huế sẽ hiểu thêm và yêu mến Nhã nhạc cung đình Huế.
Với kiến thức còn hạn chế, bởi vậy bài tiểu luận của tôi không tránh khỏi những sai xót và hạn chế. Tôi mong được sự góp ý từ tất cả các bạn để bài viết của tôi được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Xin được cảm ơn quý thầy cô khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp tôi hoàn thành chuyến thăm quan thực tế miền Trung và hoàn thiện bài tiểu luận này!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân Hòa, ngày 10 tháng 3 năm 2011
NỘI DUNG
KHÁI QUÁT
Giới thiệu chung về nhạc Huế
Với bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, vùng đất sông Hương - núi Ngự là nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang đậm bản sắc Huế như dòng nhạc cung đình bác học, dòng nhạc dân gian, dòng nhạc tín ngưỡng tôn giáo, cùng với nền tảng thơ văn, mỹ thuật, lễ hội dân gian và làng nghề thủ công truyền thống góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Huế xưa và nay.
Nhạc Huế mang sắc thái địa phương rõ rệt, nhưng nhạc Huế lại không phải là một thứ âm nhạc địa phương, dưới các triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Do hoàn cảnh lịch sử, nhạc Huế - qua thành phần nhạc lễ và cung đình của nó - đã một thời gian khá dài đóng vai trò là "quốc nhạc" dưới thời thuộc Pháp. Nhạc Huế vẫn chinh phục được quần chúng hâm mộ rộng rãi, được sử dụng phổ biến ở các tỉnh phía Bắc và Nam. Và ở những nơi này, không phải chỉ có vấn đề thưởng thức nhạc Huế như một đặc sản có hương vị lạ từ nơi khác đem đến, mà người ta còn thấy hiện tượng nhạc Huế thâm nhập vào nhạc Bắc, ảnh hưởng trở lại làm giàu có thêm cội nguồn miền Bắc, đồng thời khi đi sâu vào Nam, nó lại đã đóng góp những nhân tố quan trọng, từ đó đã nảy sinh và hình thành cái được xem là phong cách đặc thù của âm nhạc miền Nam.
Nếu nói về gốc gác lịch sử, có lẽ không ai phủ nhận nhạc Huế đã khởi sự hình thành từ cội nguồn nhạc Bắc. Những cứ liệu lịch sử từ thời Nguyễn Hoàng vào xã Ái Tử (Quảng Trị) hay câu chuyện Đào Duy Từ , cho thấy: trên đà mở nước vào phía Nam, văn học nghệ thuật nơi đất Tổ lưu vực sông Hồng đã từ mấy thế kỷ vượt qua sông Gianh và Bến Hải. Lại có thể lấy chứng cớ khác ngay trong bản thân nhạc Huế: những "bản Bắc", còn mang một cái tên có ý nghĩa nữa là những "bản Ngự", với tính chất một thành phần cơ sở của nhạc Huế, đã vừa nói lên cái xuất xứ cũng như mối quan hệ khăng khít với nhạc Bắc...
Do hoàn cảnh địa lý, với những bãi biển, với sông Hương núi Ngự dễ để con người tức cảnh sinh tình, hay trong cuộc sống lao động và sự sinh tồn, để giảm bớt những khó khăn vất vả, nhọc nhằn trong lao động sản xuất, những điệu hò câu ví và các loại hình nghệ thuật dân gian cũng được hình thành và ngày càng phong phú. Nói cách khác, do những điều kiện kinh tế khắc nghiệt nhiều hơn là thuận lợi, đã buộc con người, bằng mọi cách, kể cả cách dùng phương tiện nghệ thuật, vươn lên chống chọi với thiên nhiên, kiếm tìm cuộc sống ấm no hơn. Do những dấu giọng đặc thù trong tiếng nói, uyển chuyển tinh vi, những cái "tiểu dị" thực đáng yêu trong cái "đại đồng" của tiếng nói chung dân tộc, hay là do chính ở đây, nơi tiếp xúc với nền văn hóa nghệ thuật, dân tộc Chăm đã hình thành những âm điệu, giọng điệu, những thể loại mới mẻ so với cái vốn cổ truyền từ Bắc đem vào, tạo nét đặc trưng riêng cái thường được gọi là phong cách "Huế", phong cách "miền Trung", hay nói gọn là "nhạc Huế".
Ngày nay dưới con mắt những người đang tìm hiểu và nghiên cứu âm nhạc truyền thống, tạm cách ly khỏi mọi ảnh hưởng của "tân nhạc" đã lan tràn và phổ biến rộng khắp từ phong trào "cải cách", "nhạc Huế" với tư cách một bộ phận của truyền thống đó thường được xem như gồm ba thành phần chính yếu:
+ Nhạc Lễ (bao gồm cả nhạc Cung đình và nhạc Rõi bóng)
+ Dân ca (bao gồm các điệu hò, lý, kể vè...)
+ Ca Huế
Nhạc cung đình
Nhạc Cung đình là một bộ môn âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt Nam, đặc biệt Nhã Nhạc Huế đã có giá trị rất cao về phương diện lịch sử lẫn nghệ thuật. Tuy được sử dụng ở chốn cung đình, nhưng việc sáng tạo và biểu diễn hầu hết đều do nhữn nhạc sĩ, nghệ sĩ xuất thân từ trong dân gian, nhờ có tay nghề cao mà được sung vào cung để phục vụ cho triều đình.
Đây là một bộ môn âm nhạc vô cùng tinh vi mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa nhậ thức được đầy đủ giá trị của nó. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, Nhạc cung đình là một bộ môn duy nhất được ghi vào sử sách từ xa xưa, trải qua bao thăng trầm của các triều đại, bao biến thiên của thời cuộc mà vẫn còn lưu lại được một di sản đáng kể có thể sử dụng để nghien cứu về nhiều mặt: nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc tinh vi, nhạc ngữ độc đáo, bài bản dồi dào và quan điểm thẩm mỹ sâu sắc.
Trong Khâm định Đại Thanh Hội điển sử lệ ( quển 538, tờ 3b) xuất bản năm 1908 ( thư viện Hội châu Á: Socété Asatique) có ghi rành rẽ chi tiết của dàn nhạc cung đình, có mặt cùng một lúc với phái đoàn hữu nghị do vua Quang Trung phái sang Trung Quốc, dưới thời vua Càn Long (1789), sử gia nhà Thanh đã gọi là An Nam Quốc nhạc.
Năm 1802, dàn nhạc đổi tên là Việt Nam Quốc nhạc, vì vị vua Gia Long lên ngôi năm 1802, đặt tên nước là Việt Nam.
Ngược dòng thời gian, đã có một dàn Đại nhạc cung đình đầu tiên xuất hiện trong sử sách, có lẽ là vào đời nhà Trần, trong quyển "An Nam chí lược" của Lê Tắc.
Đời Hậu Lê, có nhiều bộ sử ghi lại sự kiện năm Thiệu Bình thứ tư( 1437) dưới thời vua Lê Thái Tông ( 1434-1442), nhà vua giao cho Nguyễn Trãi cùng với Lương Đăng có nhiệm vụ định ra Nhã nhạc cho triều đình.
Lương Đăng muốn sắp đặt dàn Đường thượng chi nhạc giống như dàn nhạc Triều hạ yến hưởng chi nhạc của nhà Minh và Đường Hạ chi nhạc giống như các dàn Đơn bệ đại nhạc vầ Giáo phường ty nữ nhạc của nhà Minh.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Ức trai thi tập thì Nguyễn Trãi đã dâng biểu cho nhà vua từ chối nhiệm vụ được giao phó vì không tán thành quan điểm của Lương Đăng. Bức thư của Nguyễn Trãi là bài học quý giá về thái độ của một người nhạc sĩ chân chính đối với nền âm nhạc dân tộc, trong đó có những suy tư về âm nhạc rất sâu sắc như:
Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là căn của nhạc, hài hòa là tính chất của nhạc. Thần mong rằng Bệ hạ thương dân để cho trong cả nước không có một âm thanh nào nói lên sự bất bình hay buồn thảm của dân. Nếu dân còn buồn thảm hay bất bình tức là Bệ hạ đã đánh mất một cái gốc của nhạc.
Ngoài ra còn nhiều quyển sử khác có ghi đôi nét về Nhạc cung đình qua các thời, như Quốc triều thông lễ (triều vua Trần Thái Tông), Trần triều đại diễn (triều vua Trần Dụ Tông), Lê triều hội điển, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ...
Những bài thuộc loại Cửu tấu, ngoài âm nhạc còn có lời ca được ghi đầy đủ trong quyển Đại nam Hội điển sự lệ, như trong Miếu Triệu Tổ (miếu thờ Nguyễn Kim), tên các bài ca phải có chữ Hòa, chẳng hạn Hàm hòa (trong lúc nghinh thần), Gia hòa (lúc hiến lụa), Tương hòa (trong lúc sơ hiến, dâng rượu lần đầu), Dự hòa (trong lúc á hiến, dâng rượu lần thứ nhì), Ninh hòa (trong lúc chung hiếnm dâng rượu lần cuối cùng), Mỹ hòa (lúc dâng trà). Túc hòa (lúc triệt hạ các lễ vật), An hòa (lúc tiễn thần), ưng hòa (lúc mang đuốc đi, sau khi đốt sớ).
Trong Văn miếu thờ Đức Khổng tử thì tên những bài hát phải có chữ Văn, trong loại Yến nhạc tên bài hát phải có chữ Thành (dưới triều Gia Long), chữ Khánh (thời Minh Mạng thứ 18) hay chữ Phúc (thời Minh Mạng thứ 21) v.v...
So với các bộ môn khác, Nhạc cung đình có một giá trị nghệ thuật rất cao mà trước tiên là vì triều đình có đủ quyền lực chính trị và khả năng tài chính để quy tụ những nhạc sĩ cũng như nhạc công tài năng từ khắp nơi trong đất nước, rồi tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho họ luyện tập kỹ thuật, trau dồi nghệ thuạt để trở thành những nghệ sĩ chuyên nghiệp, sáng tác dồi dào, biểu diễn tinh vi.
Các nhạc khí được dùng trong Nhạc cung đình cũng được chế tạo rất kỹ, chạm cẩn khéo léo, tinh xảo hơn nhạc khí dùng trong dân gian, lại có đầy đủ màu âm: tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng da, tiếng đá (khánh), tiếng đồng. Về độ cao có tiếng trầm của dây đài đàn tỳ bà, tiếng cao vút vi vu của tiếng sáo.
Nhìn chung, dàn nhạc cũng đa dạng và quy mô hơn các dàn nhạc khác, chẳng những đa dạng và quy mô mà còn rất đặc biệt trong sự phối hợp màu âm, không quan tâm đến số lượng, mà chú trọng đến chất lượng. Khi hòa dàn thì không nhạc khí nào có thể át các nhạc khí khác mà mỗi loại âm thanh đèu có thể phân biệt rõ ràng.
Lại không có bộ môn nào huy động nhiều diễn viên và xiêm y phong phú như nhạc cung đình.
Cuối cùng, Nhạc cung đình còn đặc biệt ở điểm bao gồm tất cả các bộ môn âm nhạc khác, từ Lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ lớn nhỏ của cung đình, trong các chùa miếu), nhạc thính phòng, sân khấu, kể cả các cũ điệu, nà mỗi bộ môn đều có những nghệ sĩ thượng thặng chuyên sáng tạo và biểu diễn.
Theo dòng lịch sử, không đi vào chi tiết, chỉ ghi những nét đại cương trong việc tổ chức Nhạc cung đình qua các triều đại, thì Nhạc cung đình Việt nam đã có một truyền thống rõ rệt.
Nhà Lý (thế kỷ thứ 11-13)
Tuy không có ghi lại trong sách sử, nhưng xem bức chạm trên các tảng đá ở chân cột chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chúng ta thấy có 10 nhạc công chia thành hai nhóm. Những nhạc khí họ sử dụng bao gồm: Phách (hai miếng tre gõ vào nhau), đàn gáo, ống sáo ngang, đàn tranh, ống sênh (loại khèn bè). Ngay chính giữa là một hoa sen cách điệu hóa, tiếp theo là ống sênh, đàn tỳ bà, ống tiêu (thổi dọc), dà loại nguyệt cầm, trống loại phong yêu cổ (một tay cầm dùi, một tay vỗ như loại trống ghì nằng của Chăm mà hình thắt đáy lưng ong).
Nhà Trần (thế kỷ thứ 13-15)
Theo An nam chí lược của Lê Tắc thì Đại Nhạc dùng trong triều đình gồm kèn tất lật (cùng loại vói Pili Trung Quốc, Pili Triều Tiên và Hichiriki Nhật Bản), tiểu quản loại ống thổi dọc), tiểu bạt (chập chõa nhỏ) và phạn oỏ (trống cơm, có chú thêm "gốc từ nhạc khí Chiêm Thành, người Chăm) và một nhạc khí gọi là "đại cấu". Về nhạc khí này, cố Giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi tra các Từ Nguyên, Từ Hải không thấy chữ "cấu" nên cũng không biết đó là loại gì, vì thế khi thấy trong chữ "cấu" có bộ "cung" nên Giáo sư cho rằng đó là một nhạc khí có cung kéo).
Tiểu nhạc dùng trong dân dã, gồm có cầm, tranh, thất huyền, song huyền và tiêu loại. Không rõ "cầm" có phải là gupin (có 7 dây tơ) của Trung Quốc truyền sang hay loại đàn nào khác. Thất huyền đàn 7 dây mà guqin của Trung Quốc cũng có 7 dây.
Nhà Lê (thế kỷ thứ 15 đến cuối thế kỷ 18)
Lương Đăng phỏng theo nhạc nhà Minh lập ra hai dàn nhạc Đường thượn chi nhạc, Đường hạ chi nhạc (mà chúng tôi đã nhắc đến trong đoạn đầu) nhưng không đwocj dùng lâu. Do các quan trong triều như Nguyễn Trãi, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phản đối nên về sau hai dàn nhạc ấy được thay thế bằng hai đôi Đồng Văn, Nhã nhạc và sau đó lần lần Giáo phường đã thay thế hai đội này.
Trong Lê triều hội điển và Lịch triều hiến chương loại chí đều có ghi về 8 thể loại nhạc (Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Đại Yến nhạc, Cung trung chi nhạc, Cứu nhật nguyệt giao trùng nhạc) cùng nhiều điệu múa liên quan.
Nhà Nguyễn (đầu thế kỷ 19 đến năm 1945)
Tổ chức rất chặt chẽ và được ghi trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản chữ Hán quyển 99, và trong bản dịch tiếng Nôm in tại Thừa Thiên do Nàh Xuất bản Thuận Hóa phát hành năm 1993, quyển 7, trang 68-118) đã ghi rõ về tổ chức các dàn nhạc, gồm: Đại nhạc, Nhac nhạc, Huyền nhạc... Tế giao, Miếu nhạc, Yến nhạc... Với những nhạc cụ khác nhau và cách thức ứng xử trình diễn khác nhau.
Tóm lại, chỉ mới nhìn qua, chưa đi vào bề sâu, mà giá trị của Nhạc cung đình đã quá hiển nhiên. Mới đi qua một phần chiều dài của lịch sử, chưa đi rộng trong không gian để đối chiếu nhạc cung đình Việt Nam với Yayue (Trung Quốc), Gagaku (Nhật Bản), Ah Ak, Tang Ak. Hyang Ak (Triều Tien), mà chúng ta cũng thấy lòng tràn đầy niềm hãnh diện.
Thời gian qua chúng ta đã tìm hiểu Nhạc cung đình qua lịch sử cũng như đánh giá Nhạc cung đình trong hiện tại. Nhưng quan trọng nhất là trước hết chúng ta nên dựng lại một cách trung thực các dàn Đại Nhạc, Nhã nhạc như ngày xưa, từ trang phục nhạc công đến phong cách biểu diễn, để giữ gìn một tư liệu về lịch sử cho người ngày nay và mai sau biết Nhạc cung đình của Việt Nam như thế nào, cũng giống như Nhật Bản ngày nay vẫn còn giữ lại dàn Gagaku (Nhã nhạc) hệt như dàn nhạc thành lập từ thế kỷ thứ 10.
Niên biểu Nhã nhạc cung đình Huế
3.1 Thế kỉ XVII - XVIII ở Phú Xuân và Đàng Trong: thời các chúa Nguyễn (1558 - 1777)
Từ những năm 30 của thế kỉ XVII, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ (tác giả của Hổ trướng khu cơ, Tư Dung vãn, Ngọa Long cương vãn, của hai lũy Trường Dục và lũy Nhật Lệ (Lũy Thầy), tương truyền là tác giả của một số bài hát, điệu múa và vở hát bội cung đình thời các chúa Nguyễn, ông tổ lớn nhất của âm nhạc Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ Thanh Bình ở Huế (1572 - 1634) đã tiếp thu nhạc Đàng Ngoài, và đã giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1623 - 1634) lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới. Hòa thanh thự của các chúa là tổ chức âm nhạc cung đình lớn của Đàng Trong gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiên biên). Cuối thế kỉ XVII - đầu thế kỉ XVIII, nhạc cung đình Đàng Trong đã khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 - 1725) sau chuyến đi thăm Đàng Trong và Phú Xuân của ông. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời đó là điệu múa Thái liên diễn tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cô " tiểu hầu " của đô thành Phú Xuân vừa chèo thuyền vừa tươi cười hái sen. Các ca nhi vũ nữ ấy " đội mão vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễm lệ, làm nao lòng người xem " (hồi ký Hải ngoại kỷ sự, bản dịch, 1963).
3.2 Cuối thế kỉ XVIII: thời Tây Sơn (1788 - 1802)
Năm 1790, tức một năm sau khi đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, một vua Quang Trung (giả) cầm đầu một đoàn ngoại giao sang triều đình nhà Thanh, cầu hòa và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Càn Long ý phong cho vua Đại Việt là "An Nam quốc vương" và vui lòng thưởng thức đoàn "An Nam quốc nhạc" biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư mà âm nhạc cung đình thời Tây Sơn hiện ra khá rõ nét. Hội điển triều Thanh đã mô tả chính xác trang phục các nhạc công, ca công và vũ công người Việt. Nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi 8 loại nhạc khí mà Hội điển triều Thanh đã ghi lại bằng chữ nôm: "một cái cổ (kai kou: trống), một cái phách (kai p'o), hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai t'an hien tse, có thể là đàn tam), một cái đàn hồ cầm (kai t'an hou k'in), một cái đàn song vận (kai t'an choang wen, có thể là đàn nguyệt) một cái đàn tỳ bà (kai t'an p'i p'a), một cái tam âm la (kai san in lo). Đó là phần nhạc khí.
Về phần hát, Đại Việt quốc thư cho biết bổ sung như sau: nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đoàn quốc nhạc của ta gồm 6 nhạc công và 6 ca công cung đình đã biểu diễn cho hoàng đế nhà Thanh nghe "nhạc phủ từ khúc thập điệu".
3.3 Thế kỉ XIX: Thời thịnh của triều Nguyễn (1802 - 1885)
Theo những tài liệu tham khảo hiện có, thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình Đại Việt - Việt Nam - Đại Nam là thịnh thời triều Nguyễn trước khi kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ XIX) và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử quán (giữa thế kỉ XIX) cho biết: Từ sau khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức mất (1883) âm nhạc cung đình Phú Xuân bây giờ quen gọi là NNCĐH đã được phục hồi, chấn chỉnh và phát triển mạnh. Các loại Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với nhạc cổ điển thính phòng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuống cổ điển, cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là nhiều nhà hát rạp hát lớn nhỏ của vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm nơi biểu diễn nhạc cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt thị đường trong hoàng thành, Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức, Cửu tư đài trong cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên tại tư dinh thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập của những rạp hát ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn tại đến 1975), v.v...
1802 - 1819: Thời Gia Long, Việt tương đội, một tổ chức âm nhạc cung đình lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh, một sân khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ.
1820 - 1840: Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân khấu đã phát triển tốt đẹp:
"Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh tề, sân khấu mây lồng âm thanh dìu dặt Khánh chuông ra lệnh xướng hòa, kèn trống nhịp nhàng đánh thổi Trải mấy triều vương đều khuyến khích, Biết bao âm nhạc thảy dồi dào Giữa điện đình ca múa, tỏ điềm thái vận nước nhà; Trên lăng miếu xướng hòa, ngưỡng đức cao thâm biển núi... (bản dịch của Ưng Dự).
1841 - 1883: Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và hát bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh khiêm đường được xây dựng (1864) trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự Đức đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị, vua lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và nhà soạn tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn (1845 - 1907).
3.4 Thế kỉ XIX: Thời suy của triều Nguyễn (1885 - 1945)
1858 - 1885: Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà Nẵng, rồi chiếm dần Nam Bộ, Bắc Bộ. Tháng 8 năm 1885 kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra làm vì, mất hết quyền bính. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa sút.
1889 - 1925: Thành Thái lập Võ can đội, rồi thêm một đội Đồng ấu (nghệ nhân thiếu niên, làm dự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động cầm chừng.
1914-1944: Tập san Những người Bạn của Huế cổ kính (B.A.V.H.) (bằng tiếng Pháp) ra đời và sẽ xuất bản tổng cộng 120 tập (dày nhiều vạn trang) trong suốt 30 năm dưới sự điều khiển của nhà Việt Nam học lỗi lạc L.m. Léopold Cadière. Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố trên tập san, nổi bật nhất là công trình của nhạc sĩ cổ điển Hoàng Yến (1919): Âm nhạc ở Huế, đàn nguyệt và tranh.
1925 - 1945: Dưới thời Bảo Đại, Võ can đội đổi thành Ba vũ đội gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc tổng cộng khoảng 100 nghệ nhân hoạt động rời rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính: tham gia phục vụ lễ Tế Nam giao (3 năm một lần) (theo lời kể của cụ Lữ Hữu Thi).
Năm 1942 là năm cuối cùng triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là lần cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế được biểu diễn trọng thể trước công chúng.
Ngày 31 tháng 8 năm 1945, trên Ngọ Môn, hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn vương quốc Đại Nam thoái vị. Nhã nhạc cung đình Huế tạm thời rã đám.
GIÁ TRỊ CỦA NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
Giá trị nội dung: Tỏa sáng với chức năng xã hội mới – khẳng định truyền thống văn hóa Việt Nam.
Trung tuần tháng 8/2002, bộ hồ sơ Nhã nhạc đã được Trung tâm BTDTCĐ Huế thực hiện và Chính phủ đã ký quyết định gửi đến UNESCO đăng ký ứng cử vào Danh mục Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại.
Hồ sơ Nhã nhạc bao gồm: trên 100 trang (hồ sơ viết), gần 100 trang phụ lục, trên 50 ảnh tư liệu và hiện trạng, phim slide, băng hình thuyết minh (10 phút), băng hình minh họa (70 phút), cùng nhiều tài liệu liên quan khác. Hồ sơ đã khẳng định Nhã nhạc là loại hình âm nhạc cung đình đạt đỉnh cao vào thế kỷ 19 ở Việt Nam, Huế là trung tâm hội tụ và lan tỏa các giá trị này. Với các giá trị của không gian, bối cảnh, các kỹ năng kỹ thuật, cách thức diễn xướng, trình tấu, vị thế mang tính chất khẳng định bản sắc văn hóa thực trạng của công cuộc bảo tồn và chương trình hành động...
Ngày 7/11/2003, Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Việt Nam đã được UNESCO công nhận là kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại cùng với 27 kiệt tác khác của Châu Á; Châu Mỹ La tinh, vùng Caribê ; Châu Âu; Châu Phi; vùng Trung Đông , Đa quốc gia.
Với những giá trị nổi bật, Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Việt Nam, bằng tất cả những gì còn lại ở Huế chắc chắn sẽ tiếp tục được giữ gìn và bảo tồn một cách hiệu quả, góp phần cùng với các loại hình di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam khẳng định vị thế của một dân tộc, một quốc gia trong khu vực và thế giới.
Giá trị nghệ thuật của Nhã nhạc cung đình Huế
Tại Việt Nam, âm nhạc dân gian phát triển khá phong phú ở cả ba miền. Nền âm nhạc dân gian ấy gắn liền với đời sống con người từ lúc sơ sinh đến khi trưởng thành và lúc lìa bỏ cõi trần. Con người ngay từ khi mới được sinh ra cho đến khi trở về với cát bụi luôn gắn liền với những bài đồng dao, hát ru, hò, lý, ca trù, ca Huế, bài chòi, ca tài tử… Tuy nhiên, theo GS Trần Văn Khê, “nhạc cung đình chỉ có ở miền Trung, và đặc biệt tại Huế mới còn có di tích của bộ môn âm nhạc độc đáo, tinh vi mà chúng ta đến ngày nay chưa nhận thấy được hết cái giá trị của bộ môn đó”.
Cũng theo GS Trần Văn Khê thì nhã nhạc cung đình Huế còn có giá trị rất độc đáo ở chỗ: “chẳng có bộ môn âm nhạc nào được ghi vào sử sách Việt Nam từ xưa đến giờ, trải qua bao nhiêu thăng trầm của các triều đại, biến cố trong đất nước, vẫn còn lưu lại được một di sản đáng kể, có thể dùng làm những bài học cho chúng ta về nhiều mặt nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc tinh vi, nhạc ngữ độc đáo, bài bản phong phú và quan điểm thẩm mỹ rất sâu sắc”.
Nhã nhạc cung đình Huế có một giá trị nghệ thuật rất cao, mà theo giải thích của GS Trần Văn Khê là: “Nhạc khí dùng trong nhạc cung đình rất đẹp trong hình thức, đóng ráp kỹ, chạm trổ khéo, đầy đủ màu âm, có tiếng kim, tiếng thổ, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng, tiếng đá, tiếng da, tiếng mộc. Dàn nhạc đa dạng: Đại nhạc gồm đại hồng chung, trống đại, trống võ, bồng, mõ, thanh la, chập chõa, sinh tiền, kèn, nhị; tiểu nhạc (hay nhã nhạc) có đàn dây tơ: đàn nguyệt (2 dây), đàn tam (3 dây), tỳ bà (4 dây), đàn nhị (2 dây có cung kéo); có hai sáo trúc, trống bảng một mặt, 3 thanh la nhỏ, sinh tiền”.
Cũng theo nhà nghiên cứu âm nhạc Trần Văn Khê thì “Trong dàn Nhã nhạc ta có thể nghe tiếng chững chạc trang nghiêm của đàn nguyệt, tiếng chuyền tiếng rơi vào nhịp nhịp ngoại, tiếng chầy, tiếng phi bay bướm của tỳ bà, tiếng trong nhờ nhạc công đàn nhị dùng tay mặt kéo cung, tay trái vuốt ve “nên lời dịu ngọt”, tiếng đục của đàn tam đem tiếng thổ chen vào tiếng kim của tam âm la, với tiếng nỉ non vi vút “như tiếng hạc bay qua” của hai ống sáo, tất cả nhạc khí ấy cùng theo nhịp do tiếng trống bảng dìu dắt, tiếng trống khi khoan khi nhặt, khi đánh nhịp chánh diện khi vào nội phách khi ra ngoại phách, toàn bộ dàn Nhã nhạc, liên tục trong 10 bài Ngự, từ nhịp điệu khoan thai của mấy bản Phấm Tuyết, Nguyên Tiêu lúc mở đầu, lần lần dồn dập qua các bài Hồ Quảng, Liên Hoàn, Bình Bán, Tây Mai, Kim Tiền, rộn rã từ Xuân Phong, Long Hổ đi đến náo nhiệt qua cấp điệu như tiếng vó ngựa trong bài Tẩu Mã”.
Từ hơn 90 năm trước – năm 1918, khi chứng kiến lễ Tế Giao diễn ra trong hai ngày 12 và 13 tháng 2 âm lịch, nhà báo Phạm Quỳnh trong bút ký “Mười ngày ở Huế” đã ghi lại cảm xúc của mình: “Ngoài sân phường ca hát ca khúc An thành, vừa múa, vừa hát. Đương đêm hơn một trăm con người đồng thanh hát ca, nghe rất cảm động, tưởng thấu đến tận trời cao đất thẳm, cái tấm lòng thành của cả một dân tộc, một nước”, “Cảnh giao đàn ban đêm như cảnh trong mộng, đèn thắp sáng trong đàn thành từng dãy dọc, dãy ngang, trông xa như một chữ Triện lớn viết bằng những nét chấm sáng mà treo lưng chừng trời. Tiếng đàn, tiếng sáo thì như nước chảy, suối reo, tiếng hát như tiếng thiên thần…”.
Với những giá trị về nhiều mặt và rất đặc trưng của loại hình nhã nhạc của Việt Nam, ngày 7.11.2003 tại Paris, ông Koichiro Matsura – Tổng Giám đốc UNESCO – tuyên bố: Nhã nhạc cung đình Huế (cùng với 27 kiệt tác của các quốc gia khác) được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
MỞ RỘNG
Nhà hát Duyệt Thị Đường gắn liền với Nhã nhạc cung đình Huế
Duyệt Thị Đường được xem là nhà hát cổ nhất Việt Nam, được xây dựng vào năm 1826 – năm Minh Mạng thứ 7, hiện đã được trùng tu và đang được sử dụng để biểu diễn nhã nhạc cung đình Huế phục vụ du khách (7). Trong khuôn viên nhà hát Duyệt Thị Đường, trước đây được dùng để trồng các loại cây thuốc nam quý hiếm dành cho vua và hoàng gia. Bên hữu và bên tả của Duyệt Thị Đường là nơi dùng để sao chế thuốc chữa bệnh và làm nơi chế biến các món ăn phục vụ nhà vua và hoàng gia. Vật liệu xây dựng nhà hát Duyệt Thị Đường đều bằng gỗ lim. Nhà hát có chiều cao 12m, gồm hai tầng. Đây là một tòa nhà bằng gỗ, lợp ngói lưu ly, bốn gian hai chái, tọa lạc trong một khuôn viên hình vuông có tường bao quanh. Trần nhà của nhà hát Duyệt Thị Đường được chạm nổi cảnh trăng, sao, các vì tinh tú, mặt trời – biểu hiện của vũ trụ thu nhỏ. Phía vách gỗ bên ngoài nhà hát được khắc hình rồng, phụng và nhiều loại hoa văn khác. Sân khấu của nhà hát có hình vuông, nằm ngay chính giữa nhà hát. Vị trí của vua ngồi xem hát ở lầu hai, ngay chính giữa, dưới một vòm trần nhà có chạm khắc nhiều loại hoa văn cổ. Hai bên trái và phải của tầng hai là nơi dành cho quốc khách. Còn các quan của triều đình thì ngồi trên trường kỷ đặt hai bên tả và hữu của sân khấu ở tầng dưới. Sâu khấu có ba mặt: mặt sau là hậu trường; hai mặt hai bên là phòng dành cho các diễn viên hóa trang, thay trang phục. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, năm 1897, một người Pháp có tên là F.Baille đã mô tả một buổi vua vào xem hát ở Duyệt Thị Đường: “Đức vua ngự trên long ỷ thì dàn nhạc giáo đầu gồm hai mươi nhạc sỹ ngồi xổm đánh trống, gảy đàn, thổi kèn… Trước mặt họ có một cái trống lớn… Một vị quan ngồi sau trống. Mỗi khi nghệ sĩ khéo trình diễn thì ông đánh hai hay ba tiếng trống, mỗi tiếng tiêu biểu một số tiền biếu tặng diễn viên…”.
Qua thời gian, nhà hát Duyệt Thị Đường đã bị xuống cấp nặng nề. Do vậy, nó đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần. Dưới thời các vua Nguyễn, Duyệt Thị Đường cũng đã được tu bổ. Đến năm 1962, khi chính quyền Sài Gòn cải tạo và sửa chữa nhà hát Duyệt Thị Đường để làm cơ sở giảng dạy của Trường quốc gia Âm nhạc Huế thì các công trình xung quanh nhà hát gần như bị triệt hạ hoàn toàn (để xây cấy cơ sở dành cho giáo viên và sinh viên), cấu trúc của nàh hát đã bị biến dạng gần như hoàn toàn. Từ 1992, được sự trợ giúp của Chính phủ Việt Nam và một số doanh nghiệp của nước ngoài, nhà hát cổ nhất Việt Nam Duyệt Thị Đường đã được khôi phục bằng công tác trùng tu, sửa chữa, để chính thức mở cửa đón du khách vào ngày 1.1.2003. Hiện tại, bởi nhiều lý do, một số vị trí thuộc khu vực biểu diễn và khu dành cho khán giả đã bị thay đổi, mà theo lý giải của cơ quan chủ quản là “nhằm phục vụ nhu cầu của đông đảo quần chúng và khách tham quan du lịch đến thưởng thức nghệ thuật tại nhà hát”.
Theo Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế thì hiện tại, có ba loại hình nghệ thuật được biểu diễn trong nhà hát Duyệt Thị Đường là nhã nhạc, múa cung đình và tuồng cung đình.
Tuy nhã nhạc được hiểu là đồng nghĩa với nhạc lễ cung đình và nó bao hàm tất cả các tổ chức dàn nhạc lễ nhưng nhã nhạc hiện tồn tại dưới hai tổ chức dàn nhạc cơ bản là đại nhạc và tiểu nhạc. Trong đó, đại nhạc là dàn nhạc diễn tấu với những trình thức quan trọng nhất trong các buổi lễ, và thường diễn ra tại những lễ tế quan trọng như tế Nam Giao, tế miếu, đại triều… Đại nhạc được xem là dàn nhạc quan trọng nhất trong hệ thống nhạc lễ cung đình. Trong khi đó, nếu đại nhạc là hoạt động âm nhạc rất trang trọng thì các bài bản âm nhạc của hệ thống tiểu nhạc lại mang màu sắc trang nhã, vui nhộn và tương đối ổn định; thường được diễn ra trong những buổi yến tiệc của vua và hoàng gia, trong dịp tết và trong các dịp tiếp quốc khách. Chất liệu âm nhạc của tiểu nhạc khá ổn định và dễ đi vào lòng người bởi nó không quá trang nghiêm hoặc quá sầu bi như đại nhạc.
Cùng với nhã nhạc (hai hình thức đại nhạc và tiểu nhạc), múa cung đình cũng là một loại hình nghệ thuật được biểu diễn tại nhà hát Duyệt Thị Đường từ xưa nay. Múa cung đình có nguồn gốc từ rất lâu đời ở Việt Nam, bắt nguồn từ các điệu múa truyền thống trong dân gian, được chọn lọc, phát triển và nâng cao theo các quy phạm nghệ thuật chặt chẽ và nghiêm trang để trở thành loại hình (múa) dành cho hoàng tộc. Múa cung đình triều Nguyễn được xem là loại hình nghệ thuật gắn liền với nhạc cung đình; được tiếp thu từ các điệu múa cung đình các triều đại trước, từ các điệu múa dân gian và sau đó được nâng cao bằng ý thức sáng tạo của nghệ nhân để trở thành loại hình nghệ thuật đặc trưng của triều Nguyễn. Hiện tại, nhà hát Duyệt Thị Đường đang phục vụ du khách các điệu múa cung đình triều Nguyễn như Bát dật, Lục cúng hoa đăng, Trình tường tập khách, Tứ linh, Nữ tướng xuất quân, Vũ phiến, Tam quốc Tây du, Lục triệt hoa mã đăng…; và đang nghiên cứu phục hồi các điệu Tam tinh chúc thọ, Bát tiên hiến thọ…
Loại hình nghệ thuật thứ ba đang được biểu diễn tại nhà hát Duyệt Thị Đường nữa là tuồng cung đình. Tuồng, hay còn gọi là hát bội, là bộ môn nghệ thuật truyền thống xuất hiện ở Việt Nam vào thời nhà Trần (1225 – 1400). Đến thời Nguyễn, tuồng đã đươc phát triển một cách rực rỡ và một bộ phận của loại hình nghệ thuật này đã trở thành “tuồng cung đình” dành riêng cho vua và hoàng gia. Có thể nói, tuồng cung đình Huế là một hiện tượng đặc biệt – hiện tượng phát tích khá rực rỡ trong truyền thống kịch hát của dân tộc. Nói cách khác, tuồng vốn mang tính dân gian trước đó đã được nâng lên thành một bộ môn nghệ thuật hoàn thiện có tính bác học cả về kịch bản cũng như biểu diễn dưới triều đại nhà Nguyễn, đặc biệt là thời Tự Đức, và trở thành “quốc kịch”. Tuồng cung đình có rất nhiều vở, trong đó đáng kể là các vở (tiêu biểu): Sơn hậu, Dương chấn tử, Tam nữ đồ vương, Hồ thạch phủ, Lý phụng đình, Giác oan, Đào phi phụng, Phụng kinh văn…Sự ra đời và phát triển của nhà hát Duyệt Thị Đường cho thấy đây chính là cái nôi để nhiều loại hình nghệ thuật cổ của người Việt đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, làm nên những viên ngọc sáng giá của dân tộc.
Nhã nhạc cung đình Huế từ di sản của nhân loại đến thách thức bảo tồn và giải pháp phát triển
Nhã nhạc cung đình Huế - di sản của nhân loại
Nhã nhạc là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, khởi nguồn dưới triều nhà Hồ (1400 - 1407) và cực thịnh vào thời Nguyễn (1802 - 1945). Đây là loại hình âm nhạc thiêng liêng, chỉ dùng trong các dịp đại lễ trang trọng của triều đình và những cuộc cúng tế thần linh, tổ tiên của triều đại. Theo đánh giá của UNESCO, trong các thể loại nhạc cổ truyền Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia.
Nghệ thuật Nhã nhạc cung đình Huế đã đâm chồi nảy lộc từ sự quan tâm của những người yêu loại hình nghệ thuật này và nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế. Tính đến năm 2003, khi UNESCO công nhận Nhã nhạc là Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại thì bộ môn nghệ thuật này đã có lịch sử hơn nửa thế kỷ gìn giữ và bảo tồn. Đầu tiên phải kể đến đức Từ Cung - thân mẫu của vua Bảo Đại. Sau năm 1945, bà đứng ra bảo trợ và duy trì đội Nhã nhạc cung đình dưới biên chế của đoàn Ba Vũ cổ nhạc. Đoàn tồn tại cho đến năm 1975 thì tan rã. Các nhạc công của đoàn mỗi người mỗi ngả, làm nhiều việc để kiếm sống, hầu như ít ai nhắc đến hai từ Nhã nhạc.
Đến năm 1992, trong dịp Festival văn hóa Việt - Pháp, dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hóa -Thông tin Thừa Thiên-Huế và Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô, dàn đại nhạc và tiểu nhạc đã được dựng lại. Trên thành quả của liên hoan và sự quy tụ một số lượng lớn các nghệ nhân, cùng năm đó, CLB Nhã nhạc Phú Xuân ra đời với những nhạc công đẳng cấp như các cụ Trần Kích, Hồ Viết Châu, Trần Thảo... Năm 1993, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế mời các nghệ nhân biểu diễn trong điện Thái Hòa, sau đó động viên họ đứng ra tuyển chọn đội ngũ kế cận và truyền dạy tại nhà. Năm 1994, giáo sư Tôn Thất Tiết về nước nhận bảo trợ cho các nghệ nhân Nhã nhạc. Lần đầu tiên một đoàn Nhã nhạc ra đời, lấy nòng cốt là CLB Phú Xuân, năm 1995 đoàn sang Pháp biểu diễn và thu băng. Năm 1996, đĩa ghi âm Nhã nhạc đầu tiên được phát hành tại Pháp và lọt vào top 10 đĩa CD hay nhất của Pháp trong năm. Năm 2002, Bộ Văn hóa -Thông tin (nay là Bộ Văn hóa -Thể thao và Du lịch) giao cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế tiến hành xây dựng bộ hồ sơ Nhã nhạc để đệ trình lên UNESCO công nhận là Kiệt tác văn hóa phi vật thể của nhân loại. Năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế chính thức được UNESCO vinh danh.
Thách thức bảo tồn
Ngay sau đó, Việt Nam đã xây dựng một chương trình hành động quốc gia nhằm bảo tồn, phục hồi và phát huy các giá trị của Nhã nhạc. Chương trình này được UNESCO lựa chọn và chấp thuận tài trợ, nguồn vốn từ quỹ uỷ thác Nhật Bản và đối ứng của phía Việt Nam (hơn 300.000 USD). Sau 3 năm thực hiện, dự án đã thu được kết quả rất khả quan ở nhiều phương diện và được Văn phòng UNESCO tại Hà Nội đánh giá là mẫu mực trong khu vực về tính hiệu quả. Lo ngại về sự mất dần nghệ nhân có khả năng trình diễn và hiểu biết về Nhã nhạc, ông Phùng Phu, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, Phó trưởng ban điều hành dự án cho biết: “Qua dự án, 20 nhạc công tuổi từ 16-20 đã được đào tạo bài bản. ưu điểm của các nhạc công trẻ này là ngoài khả năng trình diễn Nhã nhạc, họ còn được cung cấp phương pháp luận. Nhờ đó, các em có nền tảng văn hoá, hiểu được các giá trị của di sản để có nghĩa vụ bảo tồn và phát huy tốt hơn”.
Không chỉ bảo tồn, dự án còn quảng bá và phát huy các giá trị của Nhã nhạc khi thường xuyên tuyên truyền, biểu diễn cho công chúng trong và ngoài nước thưởng thức. Ngoài ra, dự án còn tổ chức các buổi nói chuyện có minh hoạ của giáo sư Trần Văn Khê dành cho học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố nhằm nâng cao nhận thức của lớp trẻ về Nhã nhạc.
Tuy nhiên, để có thế hệ kế cận xứng đáng, bảo tồn và phát triển Nhã nhạc một cách bền vững, theo ông Phu, trước hết, cần có chính sách quản lý bảo tồn đặc thù dành cho Nhã nhạc, có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với các nghệ nhân nhằm khuyến khích họ đóng góp, truyền đạt kinh nghiệm và bí quyết nghề nghiệp cho thế hệ trẻ.
Ông Phu cũng cho biết: “Đội ngũ kế thừa này là các em có năng khiếu và xuất thân từ gia đình có truyền thống nghệ thuật, am hiểu nhạc cung đình. Bản thân các em hầu hết đã sử dụng được các nhạc cụ trình diễn”. Lo lắng về đội ngũ kế thừa, giáo sư Trần Văn Khê cảnh báo về xu hướng biểu diễn vô hồn của nhạc công Nhã nhạc trẻ tuổi, cũng như xu hướng thêm vào các nhạc cụ, bài bản vốn không phải của Nhã nhạc để tạo sự hoành tráng, phong phú. “Chúng ta chỉ nên phát triển Nhã nhạc bằng cách sáng tác những bài bản mới trên cơ sở của giai điệu cũ. Và khi trình diễn, chúng ta cần công khai, minh bạch cho người nghe biết đâu là nguyên gốc, đâu là những bài bản được làm mới” - ông bày tỏ. Nhiều nghệ nhân cũng rất bất bình khi có nhiều tiết mục bị biến tướng với lối tấu nhạc “cắm đầu mà đánh”, còn các nữ vũ công “vừa múa vừa cười” trong khi Nhã nhạc cần sự trang trọng.
Thách thức đối với những người bảo tồn di sản văn hoá của dân tộc và nhân loại là không nhỏ. Vấn đề là cái Tâm và trình độ của những người làm công tác bảo tồn đến đâu. Ông Phu cho biết, trong thời gian tới, Trung tâm sẽ tổ chức và mở rộng thêm một số đợt nghiên cứu thực tế tại Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản... để khai thác, tìm kiếm nguồn tư liệu tại các viện bảo tàng và trên thực tế để bổ sung nguồn thông tin tin cậy phục vụ công tác nghiên cứu và phục hồi Nhã nhạc sau này.
Những giải pháp bảo tồn và phát triển Nhã nhạc ở giai đoạn mới
Những nỗ lực bảo tồn di sản
Sau năm 1945, Nhã nhạc đã mất không gian vốn có của nó và có nguy cơ mai một dần. Hiện nay Nhã nhạc không còn giữ được diện mạo như xưa, nhưng nó vẫn có thể là một minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Tuy đã được duy trì và phát triển qua cả nghìn năm, nhưng ngày nay, các tài liệu lịch sử về Nhã nhạc không còn nhiều, lại phân bố ở nhiều nơi, không có một cơ sở lưu trữ bài bản và hệ thống, các nghệ nhân, người hiểu biết về kỹ thuật diễn xướng cũng như kiến thức về Nhã nhạc còn quá ít ỏi ... thực tế đó đã và đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải và bức xúc về công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị.
Từ sau năm 1975, Chính phủ, Bộ Văn hóa Thông tin và lãnh đạo của tỉnh Thừa Thiên Huế đã có nhiều chủ trương, quyết định để bảo tồn loại hình văn hóa độc đáo này. Trong Quyết định 105/TTg ngày 12-2-1996 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Dự án Quy hoạch Bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế 1996 - 2010, thì một trong những mục tiêu bảo tồn được xác định là: bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cung đình Huế, trong đó được khẳng định là nhạc cung đình, múa cung đình, tuồng cung đình và lễ hội cung đình. Từ năm 1992, nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế ra đời, chuẩn bị các cơ sở phục vụ cho công tác bảo tồn âm nhạc cung đình Huế. Để đảm bảo có không gian diễn xướng tương ứng theo lịch sử, Trung tâm BTDTCĐ Huế đã triển khai tu bổ các công trình như Duyệt Thị Đường, Lương Khiêm Đường, Nam Giao, Thế Miếu. Bên cạnh đó đã tổ chức nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu liên quan đến âm nhạc cung đình.
Tháng 3/1994 UNESCO đã phối hợp với Bộ Văn hóa Thông tin, UBND tỉnh, Trung tâm BTDTCĐ Huế tổ chức Hội nghị quốc tế về bảo vệ và giữ gìn phục hồi văn hóa phi vật thể vùng Huế. Tiếp theo là các dự án đào tạo được Bộ Văn hóa Thông tin, các Quỹ của UNESCO, Chính phủ Nhật Bản ... tài trợ cho các lớp nhạc công, diễn viên ca múa cung đình.
Tháng 9/1996, Dự án đào tạo Nhã nhạc đầu tiên ở Việt Nam đã được xây dựng và tổ chức khai giảng tại trường ĐH Nghệ thuật Huế, với 15 sinh viên theo học các nhạc cụ thuộc dàn Đại nhạc và Tiểu nhạc. Sau đó, năm 1997 - 2000, JFAC đã tài trợ để tổ chức các hội nghị, tọa đàm về Nhã nhạc với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà quản lý và đào tạo của nhiều nước như Nhật Bản, Phi-lip-pin, Việt Nam.
Cuối tháng 8/2002, phối hợp với Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, Viện Âm nhạc Việt Nam, Trung tâm BTDTCĐ Huế, đã tổ chức Hội thảo Quốc tế về Âm nhạc cung đình Huế - Nhã nhạc, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm góp phần thúc đẩy công cuộc bảo tồn di sản Nhã nhạ. Bên cạnh đó, nhà hát Truyền thống cung đình Huế đã được thành lập (trực thuộc Trung tâm BTDTCĐ Huế) bước đầu đã bảo tồn được một số bản nhạc như: 10 bản Ngự (Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây mai, Kim tiền, Xung phong, Long hổ, Tẩu mã), Long đăng, Long ngâm, Tiểu khúc...; các bản nhạc thường dùng trong dàn Đại nhạc (Tam luân Cửu chuyển, Thái bình Cổ nhạc, Đăng đàn cung, Phú lục, Tẩu mã, Bông, Mã vũ, Mang, Đăng đàn đơn, Đăng đàn kép) cùng một số bài bản khác. Sự góp sức của đoàn Nghệ thuật Truyền thống Huế (thuộc Sở Văn hóa Thông tin và Câu lạc bộ Phú Xuân cũng góp phần tích cực vào việc bảo tồn di sản Nhã nhạc.
Cùng với việc phục hồi các tác phẩm kể trên, Nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế của Trung tâm BTDTCĐ Huế đã tiến hành biểu diễn phục vụ khách đến Huế tham quan, nghiên cứu. Tổ chức nhiều đợt tuyên truyền ở các nước Châu Á, Châu Âu như: Hàn Quốc, Lào, Pháp, Bỉ, Áo, Lucxămbua, đã tham gia tích cực các chương trình nghệ thuật của Festival Huế 2000, 2002. Đặc biệt từ ngày 01/02 đến 14/02/2004, Nhà hát đã đi biểu diễn Nhã nhạc cung đình tại các thành phố Montreuil, Arras, Areueil, Lyon, Marseille, thủ đô Paris (thuộc Cộng hòa Pháp) và thủ đô Bruxelles (thuộc Vương quốc Bỉ). Trong đợt lưu diễn này, tại văn phòng UNESCO (Pháp), bằng chứng nhận Di sản Nhã nhạc Việt Nam là Kiệt tác Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại đã được UNESCO trao cho Huế.
Giải pháp phát triển
Việc bảo tồn các loại hình văn hóa phi vật thể không phải chỉ dựa vào trí tuệ một cá nhân, một tập thể, cũng không phải là công việc một sớm một chiều, mà phải có sự nổ lực của các nhà khoa học, các nghệ nhân, nghê sĩ, các nhà quản lý và của tất cả mọi người.
Một trong những vấn đề then chốt là phải tiến hành điều tra các giá trị văn hóa liên qan đến Âm nhạc cung đình Huế, xây dựng kế hoạch các sưu tập tư liệu sách vở, ảnh, phim, băng nhạc, đĩa hát...Qua đó, cần tư liệu hóa các tác phẩm âm nhạc để dàn dựng các chương trình bảo tồn, đồng thời nhân bản tư liệu để cất giữ, đề phòng mất mát, nhất là điều kiện thời tiết khắc nghiệt ở Huế.
Hơn nữa, cần tiếp cận những nghệ nhân, nhân chững sống còn hiểu biết về âm nhạc cung đình, tiến hành thu băng, chụp hình, quay phim những diễn xuất giai điệu, ca từ mà họ trình bày. Hiện tại, những nghệ nhân xưa đã lần lượt ra đi, hạn hữu còn lại một vài vị cũng đã qua tuổi "cổ lai hy". Ví dụ, ông Lữ Hữu Thi đã bước sang tuổi 94, ông Nguyễn Mạnh Cẩm cũng đã tròn 90, ông Trần Kích cũng đã qua tuổi bát thập...vì vậy phải khẩn trương khai thác những tri thức kỹ năng, kỷ xảo quý giá còn ở nơi họ. Cùng với sự tiếp cận này, phải xây dựng một chế độ đãi ngộ thích đáng đối với các nghệ nhân để họ nhiệt tình truyền nghề lại cho các thế hệ kế tiếp.
Công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng không kém phần quan trọng, nhằm góp phần nâng cao trình độ thưởng thức, huy động cái sở tri của mọi tầng lớp nhân dân về âm nhạc cung đình. Mở rộng tuyên truyền đến khách du lịch nước ngoài bằng các cuộc biểu diễn tại không gian diễn xướng lịch sử, mà âm nhạc cung đình đã thể hiện. Kêu gọi sự đóng góp tri thức của các bậc thức giả: tranh thủ sự đầu tư, hổ trợ của các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài cả về kinh phí, phương tiện, tư liệu, ổ chức các đợt biểu diễn tuyên truyền Nhã nhạc ở nước ngoài.
Điều đáng quan tâm khác là phải thành lập Hội đồng khoa học gồm các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu có uy tín để thường xuyên kiểm chứng các khúc nhạc, lời ca nhằm kịp thời uốn nắn, chỉnh lý, thậm chí loại bỏ những sai sót không đáng có, tránh sự cải biên tùy tiện làm giảm các giá trị đích thực của âm nhạc truyền thống.
Ngoài ra, cần xúc tiến thành lập một Nhà/phòng bảo tàng Âm nhạc cung đình Huế, có thể hoạt động bên cạnh hoặc trong lòng Duyệt Thị Đường, để trưng bày lưu trữ những nhạc cụ, nhạc bản, phục trang, hình ảnh, tư liệu những đĩa hát xưa và nay, những băng từ ghi âm, ghi hình, các tài lệu nghe nhìn về nhạc cung đình Hế, các địa điểm diễn xướng, để làm cho các kiến trúc lịch sử này sống lại trong môi trường văn hóa vốn có của nó.
Với sự kiện Nhã nhạc được công nhận Di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, văn hóa Huế lại một làn nữa được đăng quang, chắc chắn sẽ tạo thêm những điều kiện mới cho sự phát triển của trung tâm văn hóa du lịch này. Bảo tồn di sản văn hóa âm nhạc cung đình luôn gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô, bởi lẽ hai loại hình văn hóa này luôn đan xen, hòa quyện để làm nên vẻ đẹp viên mãn của di sản văn hóa Huế.
KẾT LUẬN
Nhã nhạc cung đình Huế với giá trị văn hóa và nghệ thuật sâu sắc của nó mãi xứng đáng là di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc. Ai đã một lần đến Huế được nghe nhã nhạc, bài ca xứ Huế sẽ không khỏi xúc động và lưu luyến nơi này. Dòng sông Hương thơ mộng êm đềm, tà áo dài truyền thống Việt Nam và nhiều di tích văn hóa nổi tiếng đậm màu sắc dân tộc cùng với con người mến khách nơi đây đã tạo cho Huế một đặc trưng, một nét riêng. Rất Huế. Rất Việt Nam!
Đến với Huế, viết về Huế, về Nhã nhạc cung đình có rất nhiều tác giả, nhiều bài viết lấy miền đất này làm đề tài khai thác cho tác phẩm của mình. Bản thân tôi cũng vậy, tuy kiến thức còn hạn chế, xong tiểu bài viết trên tìm hiểu về một văn hóa phi vật thể - Nhã nhạc, tôi muốn thể hiện suy nghĩ và tình cảm của mình về thể loại nhạc này. Mong được sự đón nhận của mọi người.
Chuyến đi thực tế cùng khoa đã cách xa bao ngày, nhưng những gì tôi đã thấy, đã cảm nhận ở miền xứ Huế thân thương sẽ còn lắng mãi trong tôi. Tôi sẽ nhớ con người và cảnh vật nơi đó, sẽ nhớ những câu ca Huế cứ ngân dài thiết tha trong trái tim mình.
Vẫn văng vẳng đâu đây lời hứa thầm với nhau sẽ trở lại vùng đất này. Nhất định là vậy!
Ngày 10 tháng 3 năm 2011
Xuân Hòa, Phúc Yên -
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu Luan - Nha nhac cung dinh.docx