Tiểu luận Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

“Pháp luật và nhà nước,hai thành tố của thượng tầng chính trị-pháp lý,luôn có mối quan hệ khăng khít,không thể tách rời nhau.Pháp luật và nhà nước đều có chung nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển.Nhà nước là một tổ chức đặt biệt của quyền lực chính trị,những quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật.Pháp luật là hệ thống các quy tắt sử xự do nhà nước ban hành,luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và bảo đảm cho quyền lực đó được triển khai nhanh,rộng trên quy mô toàn xã hội.Với ý nghĩa đó,nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực thiếu pháp luật;và ngược lại pháp luật chỉ phát sinh,tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước.”(1) Vấn đề về nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng hết sức phức tạp,còn có nhiều vấn đề tranh luận nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.Vì vậy khi nghiên cứu và tìm hiểu về nhà nước thì ta không thể tách rời chúng với pháp luật và ngược lại. Chúng ta phải nghiên cứu hai hiện tượng trên song hành nhau để tìm hiểu những mối liên hệ mật thiết của chúng.Thì chúng ta mới có thể đưa ra những câu trả lời chính xác và hoàn mỹ nhất. Cho dù ở mỗi thời đại,mỗi thời kỳ lịch sử có những điểm không giống nhau nhưng hai hiện tượng nhà nước và pháp luật luôn có mắc xích gắn kết và có mối quan hệ gần gũi không thể tách rời nhau.Nên việc tìm hiểu và nghiên cứu về hai hiện tượng đấy ở quá khứ,hiện tại hay trong tương lai đều phải theo một trình tự hợp lý thì mới mang lại kết quả có tính khoa học được.Vì vậy trong thời đại mới cần phải có một kiến thức xã hội và pháp lý nhuần nhuyễn mới có thể thu được thành quả tốt nhất và chuẩn xác nhất trong việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật. Phần mở đầu: Đất nước đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới,có nhiều biến chuyển mới,vì vậy pháp luật của nước ta cũng có nhiều thay đổi nhằm phù hợp với luật pháp quốc tế để dễ dàng hòa nhập vào sân chơi chung toàn cầu. Với quá trình học tập nói chung và tìm hiểu Lí luận nhà nước và pháp luật nói riêng đồng cùng xu hướng phát triển mới của thời đại,vận hội mới của đất nước.Tôi thấy việc nghiên cứu và học tập về “nhà nước và pháp luật” là vô cùng cần thiết,đặt biệt là việc tìm hiểu đề tài này trong tình hình đất nước đổi mới lại càng cấp thiết hơn.Chính vì lẽ đó mà tôi chọn đề tài: Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới để trình bày trong bài tiểu luận này.Với một lượng kiến thức còn hạn chế mà phạm vi đề tài tương đối rộng nên trong bài tiểu luận này dù với sự cố gắng hết sức nhưng tôi cũng chỉ có thể nêu ra những điểm khái quát về đề tài này. Nước ta là một nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên trước khi đi vào tìm hiểu “Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới”tôi xin trình bày một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta.Tiếp theo là tìm hiểu về nội dung chính của đề tài:một số vai trò của nhà nước (Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Vai trò của quản lí nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, Vai trò của nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã hội),vai trò của pháp luật trong thời đại mới và vấn đề xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước trong thời kỳ mới. Nội dung chính: 1. Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta Qua mấy chục năm xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là nhiệm vụ lớn lao của Đảng và của toàn dân tộc, cho nên Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện và cụ thể hóa trong các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa VII, năm 1995; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, v.v Để góp phần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm qua, chúng tôi xin đề cập, trao đổi, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề. 1.1 - Khái niệm nhà nước pháp quyền Trong việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, vấn đề nhà nước pháp quyền trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả là những người làm công tác thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Do cách tiếp cận vấn đề hoặc nhận định đánh giá vấn đề ở góc độ khác nhau, một số vấn đề rất cơ bản liên quan đến nhà nước pháp quyền vẫn chưa có nhận thức thống nhất hoặc chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều thống nhất cho rằng: dưới góc độ chính trị - xã hội và phân tầng giai cấp xã hội, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mới, thoát ly các kiểu nhà nước mà lịch sử nhân loại đã chứng kiến là: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vậy, nhà nước pháp quyền là kiểu nhà nước gì? Chúng ta có thể khẳng định rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước độc lập với các kiểu nhà nước nói trên và nó cũng không phải là nhà nước kiểu mới không mang tính giai cấp trong thời đại công nghiệp hiện nay như một số học giả tư sản đã từng tuyên bố. Qua thực tiễn tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại, qua nghiên cứu các quan điểm tư tưởng về tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy nhà nước qua các thời kỳ lịch sử, chúng tôi cho rằng, khái niệm nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước nói chung thông qua hệ thống pháp luật, như hiến pháp, luật và các văn bản pháp quy khác. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tôn giáo . của bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Với cách tiếp cận này, chúng ta có thể thấy, tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã có từ rất lâu trong lịch sử nhân loại và tương ứng với mỗi kiểu nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa) đều có một hệ thống pháp luật tương ứng và đạt mức độ phát triển khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không thống nhất với quan điểm cho rằng, "bất cứ nhà nước nào có hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm khác nhau đều coi là nhà nước pháp quyền" mà cần xác định rằng, tư tưởng về nhà nước pháp quyền phát triển không ngừng, là thành quả của nhân loại, nó hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ xã hội và cho đến nay đã được thế giới thừa nhận về mặt lý luận như một học thuyết về nhà nước pháp quyền. Tại Hội nghị quốc tế về nhà nước pháp quyền được tổ chức tại Bê-nanh, năm 1992, các luật gia đã đưa ra nhiều khái niệm, tiêu chí về một nhà nước pháp quyền và được đông đảo dư luận quốc tế đồng tình, bao gồm: sự thừa nhận tính tối cao của pháp luật; việc xác định quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong bộ máy quyền lực nhà nước; việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng pháp luật quốc tế v.v Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, vấn đề nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật thì bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước, mỗi dân tộc; do đó, phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể của mỗi nước, chứ không có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng nhất cho tất cả các nước khác nhau. Qua nghiên cứu sự hình thành, phát triển và các quan điểm lý luận về nhà nước pháp quyền hiện nay, chúng ta có thể xác định, nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người nói chung). Từ đó, chúng ta có thể rút ra bốn tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền như sau: - Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật quy định; - Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng phái, tổ chức, tôn giáo . phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật); - Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; - Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người nói chung). 1.2- Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền, chúng ta có thể nhận thấy tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền tư sản. 1.2.1 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Rõ nhất là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, v.v Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ .) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán Chính phủ . 1.2.2 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động - những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản. 1.2.3 - Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó, có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất. 1.2.4 - Về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau về tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và thủ tục nhất định; trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi "án lệ" hoặc "tập quán" như một loại quy phạm pháp luật "bất thành văn". 1.3- Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài việc bảo đảm các tiêu chí của nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng, còn có một số đặc điểm sau: 1.3.1 - Về quá trình hình thành và phát triển, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở đánh đổ chế độ phong kiến, thực dân, không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đây là đặc điểm lịch sử rất quan trọng cho chúng ta thấy rõ điểm xuất phát của quá trình xây dựng nhà nước cùng với những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội. Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta mới xác định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 1.3.2 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ khác. 1.3.3 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa nhận học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các quyền hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền lực cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân, hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử tiến bộ của nhân loại. Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền . Theo Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội là cơ quan duy nhất được giao thực hiện thẩm quyền lập pháp, bên cạnh đó Quốc hội còn được giao thực hiện 13 nhiệm vụ nữa (xem Điều 2 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001); Chính phủ được phân công thực hiện thẩm quyền hành pháp; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao được phân công thực hiện thẩm quyền tư pháp. Như vậy, Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao không phải là cơ quan được giao nhiệm vụ lập pháp, nhưng hiện nay Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân lại quy định các cơ quan đó trình các dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có ý kiến cho rằng, không nên giao cho Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao chủ trì soạn thảo và trình Quốc hội các dự án luật, pháp lệnh, vì đây là thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hơn nữa, khái niệm lập pháp phải bao hàm toàn bộ nội dung của quá trình soạn thảo dự án luật, thông qua và ban hành luật, có như vậy mới bảo đảm tính khách quan toàn diện và chất lượng văn bản pháp luật. 1.3.4 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số những nội dung cơ bản nhất của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tập trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức và xây dựng bộ máy quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này cần cân nhắc, xem xét các điều kiện cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu quả tích cực của nguyên tắc này; đặc biệt phải lưu ý đến quyền hạn và trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện công vụ của bộ máy công quyền hiện nay. 1.3.5 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với công dân, giữa dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và điều chỉnh. Đây là một đặc điểm quan trọng, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay và phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 1.3.6 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. 1.3.7 - Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là đặc điểm nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng pháp luật. Đảng không làm thay Nhà nước và phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình nhằm tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Đảng không ngừng đổi mới công tác tổ chức và xây dựng bộ máy để bảo đảm Đảng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo Nhà nước, nhưng không chồng chéo với các cơ quan chức năng tương ứng trong bộ máy của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp. 2.Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới. Nhà nước ta trong những năm vừa qua đã ban hành nhiều pháp luật về thể chế hóa đường lối của Đảng, tạo khuôn khổ pháp lý cho công cuộc đổi mới. Có thể tóm lược bằng các cụm từ sau: Dân chủ hoá xã hội, Hợp lý hoá bộ máy Nhà nước, Xã hội hoá các hoạt động Nhà nước (dịch vụ công), Dân doanh hoá nền kinh tế và Pháp chế hoá. Ta xem xét những vấn đề này trong thực tế. 2.1Dân chủ hoá xã hội Xã hội ta là xã hội dân chủ: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Cuộc vận động xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, ở cơ quan, ở doanh nghiệp đã được triển khai rộng rãi, thực hiện tích cực đã mang lại những kết quả tốt bước đầu. Nhưng còn cần phải làm nhiều hơn, mạnh hơn nữa. Điều nhức nhối hiện nay là tệ nạn quan liêu, tham nhũng phát triển. Trên thực tế không phải tất cả các lợi ích đều vì dân. Số không nhỏ người có chức, có quyền đang chiếm đoạt tài sản quốc gia và tài sản nhân dân. Tham nhũng đã thành quốc nạn. Thực tế chưa phải tất cả quyền hạn đều của dân, một mặt, cuộc đấu tranh chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, quấy nhiễu, ức hiếp nhân dân chưa kiên quyết, triệt để, mặt khác, còn thiếu cơ chế, thiếu những quy định để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. 2.2Hợp lý hoá bộ máy Nhà nước Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở các địa phương đã có những đổi mới về tổ chức và hoạt động có hiệu quả và thiết thực, thể hiện dân chủ đại diện ngày càng có thực chất. Nhưng đây cũng chỉ là bước đầu, còn nhiều mặt phải đẩy mạnh hơn nữa . Bộ máy hành chính Nhà nước đã có những đổi mới về tổ chức và hoạt động, cải cách hành chính bước đầu có kết quả, nhưng phải tiến hành mạnh mẽ hơn theo hướng xác định rõ chức năng nhiệm vụ không chồng chéo nhưng không bỏ sót nhiệm vụ, đẩy mạnh việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương. Bộ máy xét xử còn ít đổi mới tổ chức và hoạt động, còn nhiều vi phạm. Nạn tiêu cực, tham nhũng trong các cơ quan xét xử cũng đáng báo động. 2.3Xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước (dịch vụ công) Luật khoa học và công nghệ ra đời phát huy khả năng đầu tư không chỉ của Nhà nước mà của các thành phần kinh tế, tạo thuận lợi cho sự đóng góp của trí thức, của nhà đầu tư vào khoa học và công nghệ. Cần mở rộng cơ hội đầu tư của dân, xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động từ trước tới nay thuộc Nhà nước, nay cần tạo điều kiện và khuyến khích kinh tế dân doanh phát triển không chỉ trong các ngành sản xuất và dịch vụ thông thường mà cả trong một số lĩnh vực dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường, giao thông công cộng đô thị bảo trì và phát triển các công trình phúc lợi công cộng, tư vấn, bảo hiểm, kiểm toán, kể cả một số công việc dịch vụ trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước. Đây là một chủ 1 trương, biện pháp thúc đẩy tiến trình xã hội hoá, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ công đi đôi với chính sách bảo đảm cho người nghèo có điều kiện hưởng thụ các dịch vụ phúc lợi thiết yếu. Có lẽ đã đến lúc cần phải thay đổi tư duy cũ bằng một tư duy mới là trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội, các thành phần kinh tế đều có thể tham gia theo khả năng và theo pháp luật, không có một lĩnh vực nào là "vùng cấm địa", hoặc chỉ dành riêng cho hoạt động của cơ quan Nhà nước. 2.4Dân doanh hoá nền kinh tế Chúng ta không chủ trương tư nhân hóa, nhưng dân doanh hóa, mở rộng và phát triển kinh tế dân doanh, thu hẹp kinh tế Nhà nước. Trong tổng thể các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân tố hàng đầu đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa là vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, là hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy doanh nghiệp Nhà nước phải bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhưng phải hoạt động có hiệu quả để làm đúng vai trò chủ đạo của mình. Theo chủ trương trên, phải đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện tốt việc giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vừa và nhỏ. Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới, phát triển nhằm nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Nâng cao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm về tổ chức sản xuất, kinh doanh, thực hiện chủ trương chuyển doanh nghiệp kinh doanh 100% vốn Nhà nước thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo Luật Doanh nghiệp. Đẩy mạnh việc thi hành Luật Doanh nghiệp, đơn giản tối đa mọi thủ tục hành chính. Các cơ quan công an, kiểm soát, thanh tra Nhà nước không vào kiểm tra tài chính, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp, trừ trường hợp phát hiện doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nếu kết quả kiểm tra doanh nghiệp không có vi phạm pháp luật thì cơ quan kiểm tra phải gánh chịu chi phí phát sinh và phải bồi thường thiệt hại nếu có. Cấm hình sự hoá khi giải quyết các quan hệ kinh tế, dân sự. 2.5 Pháp chế hoá đường lối, chính sách của Đảng. Một xã hội văn minh là sống và làm việc theo pháp luật. Nói cách khác là tất cả mọi mặt của xã hội ta phải theo pháp luật. Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không được điều chỉnh bằng một ý chí thống nhất, xã hội không có một trật tự kỷ cương. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng về mặt này, nhưng vẫn chưa đủ. Đặc biệt cần chú ý là việc quyết định đối với các khâu nói trên. Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không tự thân nó đi vào cuộc sống xã hội được. Trong thế kỷ XXI, khoa học và có thực thi pháp luật còn rất yếu đối với những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền và có trách nhiệm. Pháp chế hóa là khâu có tính chất công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy. Kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá trình phát triển. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan ngày càng có nhiều nước tham gia. Thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Đất nước ta đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn. Thành tựu của mười lăm năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội ổn định, quan hệ hợp tác quốc tế thuận lợi. Đó là cơ hội lớn để phát triển đi lên. Song cũng có những thách thức lớn. Đó là bốn nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, quan liêu, tham nhũng, diễn biến hoà bình. "Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng cảnh báo vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp Chúng đan xen và tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào" (Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX). Đẩy lùi bốn nguy cơ, thách thức lớn, nắm lấy cơ hội là phải tiếp tục đổi mới, đổi mới nhanh hơn và mạnh mẽ hơn. Đổi mới không chỉ là sửa chữa sai lầm, điều chỉnh một số chính sách, pháp luật cho phù hợp, mà là một sự thay đổi về chất, có tính bước ngoặt trong tư duy và trong phương pháp lãnh đạo, quản lý. Đổi mới Toàn diện, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế, phải tạo ra sự chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế dựa trên công hữu tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể sang nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, mở cửa với thị trường thế giới. Trước mắt cần đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế. Điều rất quan trọng là phải ban hành kịp thời, đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi hành luật để luật thực sự đi vào cuộc sống. Bởi rào cản chủ yếu hiện nay làm cho pháp luật chưa đi vào cuộc sống là thiếu cơ chế thực hiện pháp luật. Cùng với việc đổi mới kinh tế, tất yếu phải đổi mới thể chế, tổ chức bộ máy Nhà nước cho phù hợp. Phát huy dân chủ, chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Sức mạnh của Nhà nước ta là ở dân, dân như nước có thể nâng thuyền và có thể lặt thuyền. Cần ban hành Luật giám sát của nhân dán. Nhà nước ta có nhiều cơ quan, tổ chức kiểm tra, giám sát, nhưng giám sát của nhân dân là rộng rãi nhất, sát sao và thiết thực nhất và có hiệu quả (đây là hình thức giám sát trực tiếp của dân). Trên đây là những lĩnh vực, vấn đề chính yếu, có tính then chốt trong đổi mới cần tập trung nghiên cứu, giải quyết để tạo điều kiện và thúc đẩy trong tổng thể của công cuộc đổi mới về Nhà nước và Pháp luật làm hành trang vào thế kỷ XXI. 3.Vai trò của nhà nước trong thời kỳ mới Vai trò của nhà nước nằm hầu khắp trên các lĩnh vực về văn hóa,chính trị,kinh tế,giáo dục,đời sống-xã hội Nhưng trong phần vai trò của nhà nước trong thời kỳ đổi mới tôi chỉ nêu ra ba vai trò mà tôi cho rằng:những vai trò này là cơ bản và hết sức quan trọng trong thời đại mới của đất nước. 3.1 Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Phát huy vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay chính là cách thiết thực góp phần bảo đảm công bằng xã hội, vì sự phát triển dân chủ, văn minh của đất nước, song vẫn giữ được bản sắc chính trị - xã hội của dân tộc trong thời kỳ hội nhập toàn cầu. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay. Không phải đến khi khủng hoảng tiền tệ xuất phát từ Mỹ năm 2008 gây ảnh hưởng lan tỏa ra hầu khắp thế giới như hiện nay, cùng những giải pháp cơ bản mà các nước đang sử dụng với hy vọng ngăn ngừa những kết cục bi thảm về mặt kinh tế - xã hội do khủng hoảng đó gây ra, chúng ta mới thấy tính phi lý của cái gọi là “thị trường tự do”, “bàn tay vô hình”. Từ rất sớm, chúng ta đã khẳng định, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng phải có sự quản lý của Nhà nước. Kiên trì tư tưởng đó, tại Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải “bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(2). Ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn xuất phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài viết này chỉ tập trung vào khía cạnh thứ hai vừa nêu. Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa người với người trong sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của thể chế chính trị mà nền kinh tế đó tồn tại. Với mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bị chi phối và nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Song, để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành hiện thực vận động của nền kinh tế, chúng phải được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và được triển khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước có tác động trực tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường. Pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước chỉ đúng, khi chúng phản ánh chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. Xét ở mặt này, chúng mang tính khách quan. Nhưng chúng lại là sự thể chế hóa, cụ thể hóa mục tiêu chính trị của Đảng, nên cũng có mặt chủ quan. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chủ quan (ý chí của Đảng, của Nhà nước và nhân dân ta) là ở chỗ, cùng với việc bảo đảm lợi ích hợp lý của doanh nhân, thì việc ưu tiên bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động là một vấn đề có tính nguyên tắc. Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó, thể hiện ở cả ba lĩnh vực kinh tế cơ bản sau: 3.1.1Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, đòn bẩy kinh tế để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. 3.1.2 Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách . tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp. 3.1.3 Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do mình hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực - trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước - để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa . Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. “ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải phản ánh đúng những nhu cầu chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế .; mặt khác, phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích cụ thể của các chủ thể đó. Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội, bởi mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau . là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này. Công bằng xã hội là một động lực của sự phát triển xã hội nói chung, của sự phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững nói riêng. Một trong những mục tiêu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Nhà nước hướng tới là xóa bỏ tình trạng vi phạm công bằng xã hội. Đây là một nhiệm vụ lâu dài. Ở nước ta hiện nay, công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế được biểu hiện không chỉ ở chỗ lao động ngang nhau thì được hưởng thụ ngang nhau, mà còn ở chỗ cống hiến - đóng góp cả về vật chất lẫn tinh thần trong quá khứ cũng như trong hiện tại - ngang nhau cho sự phát triển đất nước thì được hưởng ngang nhau. Từ đó, việc bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện đầy đủ ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước ta trong việc thực hiện chức năng phát triển, tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước chủ động tham gia kinh tế thị trường nhằm bảo hộ cho hình thức tổ chức sản xuất chứa đựng các yếu tố của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho chúng phát huy ưu thế của mình; tạo vị thế cho kinh tế nhà nước có sức mạnh định hướng xây dựng mô hình kinh tế cho phép giải phóng con người; ngăn chặn các xu hướng phát triển kinh tế không có lợi cho quảng đại người lao động. Để thực hiện các mục tiêu đó, điều quan trọng nhất là Nhà nước tạo lập khung khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hiệu quả. Chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này. Hệ chuẩn pháp luật kinh tế của nhà nước càng được xây dựng đồng bộ, đúng đắn, nhất quán và kịp thời bao nhiêu, càng có tác động tích cực tới sự vận hành của nền kinh tế bấy nhiêu. Song, tự nó, pháp luật kinh tế không gây ra những biến đổi trong hiện thực kinh tế. Để cho các luật kinh tế trở thành tác nhân kích thích phát triển kinh tế, chúng phải được đưa vào vận hành. Nhà nước chính là thiết chế chủ yếu đảm đương nhiệm vụ này. Năng lực điều hành kinh tế bằng pháp luật là một thước đo đánh giá sự trưởng thành và vai trò của nhà nước trong kinh tế. Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện ở việc nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân công lao động theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành và nhu cầu chung của xã hội . Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền thông mạnh nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các giao dịch kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của mình . Muốn sản xuất phải có an toàn về môi trường xã hội, môi trường kinh doanh, môi trường an ninh - trật tự, an toàn trong quan hệ giữa người và người, giữa doanh nghiệp và các cơ quan công quyền . Ngoài những nỗ lực của nhà nước trong sự đồng tình của nhân dân, không lực lượng nào khác có thể tạo lập được những yêu cầu an toàn như vậy. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế của mọi quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân khởi thủy từ phía nhà nước, được hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước. Bằng chính sách hội nhập đúng đắn và năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách đó, nhà nước góp phần khởi đầu và có tác động tích cực vào quá trình thiết lập quan hệ quốc tế. Đại diện cho đất nước tham gia vào các quá trình soạn thảo và thông qua chuẩn mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh tế, các nghị định thư ., Nhà nước ta góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất nước vị trí có lợi trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự kiện đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thành công là chứng minh rõ rệt cho điều này. Nhà nước ta là chủ thể chính của nền giáo dục - đào tạo. Bằng hệ thống chính sách giáo dục, đào tạo của mình, được thực hiện qua hệ thống giáo dục - đào tạo do Nhà nước thống nhất quản lý, dù tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau (công lập, ngoài công lập, liên doanh, liên kết trong nước và với nước ngoài .), Nhà nước cung cấp nguồn lao động chính, có chất lượng cho sản xuất kinh doanh, cung cấp cán bộ quản trị doanh nghiệp cho mọi thành phần, mọi loại hình kinh tế. Qua đó, Nhà nước ta có tác động rất mạnh và trực tiếp tới việc nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý nền kinh tế, nâng cao hiệu quả của kinh tế thị trường nói chung. Cùng với tác động của hệ thống luật kinh tế và sự đầu tư trực tiếp vào kinh tế, Nhà nước còn định hướng nền kinh tế qua các công cụ gián tiếp là chính sách kinh tế, như chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách thu nhập và việc làm . Việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta không mâu thuẫn với vấn đề có tính nguyên tắc: sự vận hành của nền kinh tế thị trường nào cũng trước hết và chủ yếu do các quy luật thị trường quyết định. Song, quy luật kinh tế thị trường lại thuộc lĩnh vực quy luật xã hội. Tính khách quan của nó được thể hiện và thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Dựa trên việc nhận thức đúng đắn những yêu cầu của các quy luật trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cụ thể hóa những yêu cầu đó thành luật, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xác định đúng bước đi để hiện thực hóa chúng. Đây là nhân tố có tác động trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế thị trường vận động phù hợp với quy luật nội tại của nó. Ở đây có sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan. Song, sự thống nhất đó chỉ có được, khi lợi ích chân chính mà nhà nước theo đuổi phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội nói chung, của kinh tế thị trường nói riêng; chủ thể nhà nước có năng lực trí tuệ đủ tầm để nắm bắt, vận dụng yêu cầu của các quy luật kinh tế vào việc hoạch định các chính sách phát triển. Trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam hiện nay, xét về bản chất, Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy lợi ích của dân tộc đáp ứng đúng nhu cầu phát triển khách quan của xã hội làm mục tiêu hoạt động của mình. Nhà nước ta lấy hệ tư tưởng cách mạng và khoa học (chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh) làm một trong những cơ sở xuất phát quan trọng để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế. Đó là hai nhân tố bảo đảm có sự thống nhất giữa tính khách quan của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc phát huy vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là một nhân tố chủ quan tác động tích cực tới sự phát triển của nền kinh tế đó. Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường hơn 20 năm đổi mới cho thấy, Nhà nước ta đã có nhiều tác động tích cực trong việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế này. Việc từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách về chế độ sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch theo hướng tạo động lực và điều kiện thuận lợi hơn cho khai thác các tiềm năng trong và ngoài nước để phát triển kinh tế- xã hội. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung, không ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 - 1990, tăng trưởng GDP bình quân đạt 4,5%/năm; 1996 - 2000: 7%/năm; 2001 - 2005: 7,5%/năm; năm 2007 đạt 8,48%. Năm 2008, dù phải đối mặt với không ít khó khăn, nhưng Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng GDP là 6,23%. Để góp phần giữ vững độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế, từ đó có độc lập tự chủ trên con đường phát triển đất nước nói chung, Nhà nước đã có nhiều chính sách phát huy vai trò các nhân tố nội lực, coi trọng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Trong năng lực nội sinh, chúng ta coi trọng trước hết nhân tố con người. Do vậy, Nhà nước đã có nhiều chính sách về giáo dục - đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học từ 13,5% năm 1996 tăng lên 19,7% năm 2005. Năm 1996 mới có 12,31% lực lượng lao động được đào tạo, đến nay, tỷ lệ này đạt 31%. Về nỗ lực nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế: năm 1990, tỷ lệ tích lũy so với GDP mới đạt 2,9%, năm 2004 là 35,15% và những năm gần đây đều có xu hướng tăng lên . Nhà nước cũng có nhiều chính sách khai thác ngoại lực, biến ngoại lực thành nội lực cho sự phát triển. Biểu hiện rõ nhất là Nhà nước đã hoàn thiện Luật Đầu tư, thu hút được nhiều vốn ODA, FDI, . Từ năm 1988 đến hết năm 2006, có hơn 8.000 dự án đầu tư FDI với tổng vốn đăng ký 74 tỉ USD. Năm 2006, khu vực FDI đóng góp gần 30% cho tăng trưởng kinh tế; xuất khẩu của khu vực này chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; cung cấp việc làm cho khoảng 50 vạn người và việc làm gián tiếp cho 2,5 triệu người; đào tạo được 8.000 cán bộ quản lý, 30.000 cán bộ kỹ thuật. Năm 2007, nguồn vốn ODA từ các nước, các tổ chức tài chính quốc tế cấp cho Việt Nam đạt hơn 40 tỉ USD, trong đó, 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Năm 2008, dù kinh tế thế giới suy thoái, nhưng nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lại tăng kỷ lục: vốn đăng ký 64 tỉ USD, trong đó các dự án mới chiếm 60,2 tỉ USD. Một tiêu chí quan trọng đánh giá tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế là hướng sự phát triển của nó vào việc nâng cao đời sống của nhân dân. Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, thu nhập của nhân dân đã có bước cải thiện đáng kể. Năm 1995, GDP bình quân đầu người mới đạt 289 USD; năm 2005: 639 USD; năm 2007: 835 USD. Năm 2008, GDP bình quân theo đầu người đã đạt trên 1.000 USD. Với mức thu nhập này, Việt Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp(3) . Vai trò của Nhà nước ta đối với kinh tế càng bộc lộ rõ nét trong ban hành, thực thi các chính sách khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế gần đây. Trên cơ sở tiên định những diễn biến xấu có thể xảy ra, Nhà nước đã đưa ra 8 nhóm giải pháp cấp bách, và bằng việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp đó, Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng không ngừng giảm: tháng 9-2008 tăng 0,18%, tháng 10 giảm 0,19%, tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%. Kinh tế vĩ mô ổn định: thu chi ngân sách được cân đối; tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức dự toán cả năm, tăng 26,3% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt kế hoạch đề ra; kim ngạch nhập khẩu đạt 80,4 tỉ USD, tăng 28% so với năm 2007. Những thành tựu này có vai trò to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng còn những hạn chế đáng kể: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa được xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ; quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập; chưa có giải pháp mang tầm đột phá để kinh tế nhà nước thực sự hoàn thành tốt chức năng chủ đạo trong nền kinh tế; kinh tế tập thể còn rất yếu kém; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường . Để nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực tác động của Nhà nước tới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước cần sớm hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu. Hệ thống luật này phải khẳng định và bảo vệ sự tồn tại khách quan, lâu dài tính đa dạng của các hình thức sở hữu; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu. Cần xác định rõ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta là cung cấp môi trường pháp lý tin cậy cho các chủ thể kinh tế phát huy tối đa năng lực của họ. Cùng với vấn đề then chốt trên, cần tiếp tục phân định rạch ròi chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; Nhà nước cần làm tốt chức năng hỗ trợ cho toàn xã hội sản xuất hàng hóa công cũng như tư; đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội . Để nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, cần cải cách thể chế xây dựng chính sách, tích cực đấu tranh chống các hành vi độc đoán, chuyên quyền, tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài đó sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập toàn cầu hiện nay. 3.2 Vai trò của quản lí nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ trong nền kinh tế. Mối quan hệ này biểu hiện ở các tỷ lệ về lượng giữa các bộ phận trong hệ thống, cũng như tác động qua lại về chất giữa chúng. Quản lý nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá là quá trình Nhà nước xây dựng và vận hành cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hôi, phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan để tác động vào hệ thống kinh tế làm biến đổi về lượng, thay đổi mối quan hệ về chất của các bộ phận hợp thành hệ thống kinh tế theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Tuy nhiên, một hệ thống thị trường hoàn chỉnh và đồng bộ lại không phải là có sẵn và Nhà nước buộc phải tham gia vào việc hình thành, phát triển, hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường. Như vậy, vai trò của Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước hết chính là vai trò làm “đòn bẩy” cho thị trường hình thành và phát triển. Những thành tựu phát triển kinh tế kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế trong những năm vừa qua là một minh chứng rõ nét nhất về vai trò của Nhà nước ta trong việc phát triển nền kinh tế thị trường. Vai trò “đòn bẩy” cho thị trường ra đời và phát triển của Nhà nước thể hiện ở các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, Nhà nước phải sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật để cho thị trường phát triển, xoá bỏ các luật lệ, quy định gây cản trở hoạt động của thị trường, xây dựng hệ thống luật pháp phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường. Thứ hai, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa hệ thống pháp luật vào cuộc sống; quản lý xã hội, quản lý kinh tế bằng pháp luật; nâng cao năng lực điều hành, ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ ba, với tư cách là một chủ thể kinh tế lớn, là một nhà đầu tư và là hộ tiêu dùng lớn nhất quốc gia, các hoạt động đầu tư, chi tiêu của Nhà nước nếu tuân thủ các quy luật của thị trường sẽ góp phần làm lành mạnh, minh bạch các hoạt động kinh tế, đồng thời hướng các chủ thể khác như hộ gia đình, doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Thứ tư, với tư cách là người quản lý toàn bộ đất đai, nguồn tài nguyên vô giá của quốc gia, Nhà nước cần phải quản lý, phân bổ nguồn lực này một cách hợp lý theo nguyên tắc thị trường; hình thành và hoàn thiện thị trường đất đai, một yếu tố sản xuất không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Thứ năm, doanh nghiệp nhà nước hiện đang nắm giữ một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế cả về giá trị trong GDP, số vốn, và những ngành kinh tế then chốt của quốc gia. Do vậy, không thể phát triển nhanh nền kinh tế thị trường nếu các doanh nghiệp nhà nước này không được quản lý, vận hành theo cơ chế thị trường. Nhà nước phải tiến hành đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước, để hệ thống doanh nghiệp này hoạt động trong một sân chơi chung với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường. Cải cách doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nước ta. Như vậy, vai trò của quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước hết đó là việc xoá bỏ các rào cản, tạo điều kiện cho thị trường phát triển. Đây có thể coi là vai trò quan trọng nhất của quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, không phải chủ thể kinh tế nào cũng luôn có khả năng nắm bắt và hành động theo các quy luật kinh tế thị trường. Trước hết, đó là khó khăn trong việc tiếp cận và khả năng phân tích thông tin; sau đó là các điều kiện để thực hiện các quyết định kinh doanh khi đã nắm chắc được cơ hội. Đây là lý do khách quan cần có vai trò của Nhà nước trong việc định hướng, hỗ trợ, điều tiết các chủ thể kinh tế trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Như vậy, vai trò thứ hai của Nhà nước là định hướng, hỗ trợ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Định hướng bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Điều tiết, định hướng các hoạt động của các chủ thể kinh tế thông qua chính sách thuế, chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư Hỗ trợ các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận thông tin, phân tích xu hướng, nhu cầu của thị trường; trực tiếp hỗ trợ về vốn, dịch vụ khoa học, kỹ thuật, xúc tiến thương mại, hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu Trực tiếp hỗ trợ, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông quá đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế như hệ thống giao thông, thuỷ lợi, cung cấp điện, nước sạch là một điều kiện quan trọng hàng đầu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Đây là những hoạt động đầu tư đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, nhưng lại rất khó thu lợi nhuận trực tiếp, do vậy mặc dù đã có nhiều giải pháp thu hút vốn đầu tư tư nhân, nhưng cho đến nay và cả trong tương lai, Nhà nước vẫn là người đầu tư chính vào lĩnh vực này. Đầu tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vai trò thứ ba của Nhà nước trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là kiểm soát, hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Có thể thấy rõ, vai trò này của Nhà nước qua một số nhiệm vụ cụ thể sau: Thứ nhất, đó là bảo vệ môi trường sinh thái. Các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế đều tìm cách tối đa hoá lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, trong chi phí của họ không bao gồm những thiệt hại về môi trường mà các hoạt động sản xuất của họ gây ra cho xã hội. Do vậy, để bảo vệ môi trường, đảm bảo hiệu quả xét trên góc độ toàn xã hội đạt mức cao nhất thì Nhà nước phải có những biện pháp phù hợp để bảo vệ môi trường sinh thái. Những biện pháp này có thể là đặt ra các tiêu chuẩn về môi trường, đặt ra các mức thuế áp dụng cho các hoạt động sản xuất gây ô nhiễm Thứ hai, là chống độc quyền. Độc quyền là một khuyết tật của kinh tế thị trường, làm cho thị trường hoạt động kém hiệu quả. Nhà nước phải tìm ra các giải pháp phù hợp để giải quyết tình trạng độc quyền, bao gồm cả độc quyền tự nhiên cũng như độc quyền tồn tại do chính sách hạn chế cạnh tranh trong và ngoài nước. Thứ ba, là thực hiện các chính sách xã hội, phát triển kinh tế ở những vùng khó khăn. Cơ chế thị trường bao giờ cũng khuyến khích các chủ thể kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở những khu vực thành thị có điều kiện thuận lợi. Điều này tất yếu sẽ dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa các vùng trong nước, nới rộng khoảng cách phát triển giữa thành thị với nông thôn đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Sự bất bình đẳng này về lâu dài sẽ ảnh hưởng không tốt tới sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, ngoài công cụ chính sách để khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào những địa bàn khó khăn, thì Nhà nước phải bằng thực lực kinh tế của mình tiến hành đầu tư, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân ở những vùng này. Như vậy, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá, Nhà nước phải chủ động phát triển, sử dụng cơ chế thị trường như một công cụ chủ yếu, hữu hiệu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đồng thời luôn có giải pháp hạn chế, sửa chữa các khuyết tật thị trường, cũng như định hướng, kiểm soát nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô. Những điều này khẳng định vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định của quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá ở nước ta. 3.3 Vai trò của nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã hội Sau đây nhóm chúng tôi sẽ làm rõ thêm những nội dung cơ bản của khái niệm trách nhiệm xã hội và vai trò của nhà nước trong việc tổ chức và thực thi trách nhiệm xã hội. Theo chúng tôi, vai trò đó của Nhà nước thể hiện tập trung ở những điểm: 1) Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động của đời sống xã hội, 2) Xây dựng và đảm bảo thực hiện các chính sách xã hội, 3) Quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 4) Đảm bảo cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, 5) Thực hiện phân phối các nguồn lực và lợi ích một cách công bằng, 6) Đại diện cho quốc gia tham gia tích cực vào các hoạt động chung của khu vực và thế giới. Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội là những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những yếu tố quan trọng quyết định sự ổn định xã hội. Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới một trong những vấn đề quan trọng trên - đó là vai trò của nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã hội. Để góp phần làm rõ vấn đề này, trước hết cần phải làm rõ trách nhiệm xã hội là gì và nhà nước có vai trò như thế nào trong việc tổ chức và thực thi trách nhiệm xã hội? Theo nghĩa thông thường, trách nhiệm được hiểu là điều phải làm, phải gánh vác, hoặc phải nhận lấy về mình. Trách nhiệm thuộc phạm trù đạo đức học và luật học, phản ánh thái độ xã hội đặc biệt và thái độ đạo đức pháp luật của cá nhân đối với xã hội (đối với nhân loại nói chung), thái độ này biểu thị sự hoàn thành nghĩa vụ đạo đức của mình và các tiêu chuẩn pháp luật. Phạm trù trách nhiệm bao quát vấn đề triết học - xã hội học về mức độ năng lực và khả năng của con người thể hiện ra với tư cách chủ thể (người làm ra) của những hành động của mình, cũng như những vấn đề cụ thể hơn, như khả năng của con người có thể thực hiện một cách tự giác (có chủ ý, tự nguyện) những nhu cầu nhất định và hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra cho mình, thực hiện một sự lựa chọn đúng đắn, đạt tới một kết quả nhất định, cũng như các vấn đề có liên quan khác: sự đúng đắn hay tội lỗi của con người, khả năng tán thành hay lên án những hành vi của họ, khen thưởng hay trừng phạt Trong các học thuyết về đạo đức và pháp quyền, người ta thường xem xét trách nhiệm trong mối liên hệ với tự do. Nhưng, ngoài chủ nghĩa Mác, vấn đề đó thường được giải quyết một cách trừu tượng và lệ thuộc vào việc trả lời câu hỏi: nói chung, liệu có thể coi con người là tự do trong những hành động của mình hay không. Trong chủ nghĩa Mác, vấn đề trách nhiệm mang tính lịch sử - cụ thể và được giải quyết trên cơ sở phân tích mức độ tự do hiện thực của con người trong những điều kiện lịch sử nhất định. Việc xây dựng một xã hội không có bóc lột, không có những giai cấp thù địch, việc áp dụng nguyên lý tự giác một cách có kế hoạch vào đời sống xã hội, việc làm cho quần chúng nhân dân quen với việc tự quản lý xã hội và sáng tạo lịch sử sẽ tăng cường mạnh mẽ mức độ tự do của cá nhân và đồng thhời, tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức của mỗi người. Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm công dân, trách nhiệm hành chính và hình sự của kẻ vi phạm pháp luật được xác định không phải bằng con đường vạch ra cấu tạo của tội phạm một cách thuần tuý hình thức, mà phải tính đến tình hình giáo dục, đời sống và hoạt động của người đó, mức độ nhận thức tội lỗi và khả năng sửa chữa trong tương lai. Điều đó làm cho trách nhiệm pháp lý xích gần lại với trách nhiệm đạo đức. Trong đạo đức cộng sản chủ nghĩa, trách nhiệm của cá nhân không chỉ bao hàm những hành vi đã làm, mà cả sự nhận thức của cá nhân về lợi ích của xã hội nói chung, nghĩa là xét đến cùng, nhận thức được các quy luật phát triển của lịch sử. Như vậy, có thể nói, trách nhiệm xã hội bao gồm ba nội dung cơ bản là: - Thứ nhất, quan hệ giữa người với người cùng chung sống, hợp tác khoan dung với nhau trong xã hội. - Thứ hai, sự gắn bó (đoàn kết, cố kết) giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội. - Thứ ba, trách nhiệm phải đóng góp vào sự bảo vệ và phát triển bền vững của cộng đồng và xã hội. Sự đóng góp này được thể hiện ở ba mức độ: tự nhiên, tự nguyện và nghĩa vụ. Nhà nước là một yếu tố cấu thành xã hội, đồng thời cũng là chủ thể cơ bản, quan trọng nhất trong quản lý và điều hành sự tồn tại, phát triển xã hội. Đây chính là vai trò, chức năng xã hội, đồng thời cũng là trách nhiệm xã hội của nhà nước, tức điều mà nhà nước phải làm, phải gánh vác, hoặc nhận lấy về mình. Trách nhiệm xã hội của nhà nước do nguồn gốc và bản chất của nó quy định. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước, như Ph.Ăngghen đã vạch rõ, "là sản phẩm của các xung đột giai cấp không thể điều hoà", "chẳng qua chỉ là một bộ máy của giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác". Còn "chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiên chức năng xã hội đó của nó”. Như vậy, nhà nước, một mặt, là bộ máy cưỡng chế đặc biệt, là công cụ quan trọng nhất để duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích giai cấp, mặt khác, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nhà nước của giai cấp thống trị còn phải nhân danh xã hội đảm bảo cho xã hội ở trong trạng thái "trật tự”. 4.Vai trò của pháp luật trong thời đại mới. Pháp luật có vai trò:là cơ sở xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước,bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý kinh tế,xây dựng cơ sở vật chất,bảo đảm thực hiện nền dân chủ,là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị,trật tự an toàn xã hội Và trong thời đại này vai trò của Pháp luật càng được đánh gia cao.Với những biến chuyển không ngừng và khó lường trong xã hội thì “tiếng chuông báo động đạo đức” là vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm đúng mức.Bởi vậy ở phần này tôi chỉ trình bày: Vai trò của pháp luật đối với việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức ở nước ta hiện nay vì đây là vấn đề cốt lõi trong việc đảm bảo tính hiệu quả vai trò của pháp luật trong thực tiễn. Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước. Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp tích cực khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyển. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội. Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn gắn với giai cấp cầm quyền. Đối với xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp, mọi hoạt động của đời sống xã hội được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp thống trị. Trên thực tế, pháp luật của những Nhà nước gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì thường phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ, vì nó bao hàm những chuẩn mực, những quy định nhằm bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Ngược lại, nếu pháp luật của Nhà nước gắn với giai cấp đang suy tàn, không còn vai trò lịch sử thì thường chứa đựng yếu tố trì trệ, bảo thủ, đi ngược lại lợi ích chân chính. Trong trường hợp như vậy, pháp luật sẽ không phản ánh được những yêu cầu đạo đức tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại. Trước đây, trong lịch sử, Nho giáo đã lấy đạo đức để răn dạy con người. Với chủ trương "đức trị", Nho giáo đã "đạo đức hoá chính trị” và đề cao, thậm chí đến mức tuyệt đối hoá việc quản lý xã hội bằng cách nêu gương, cảm hoá, làm cho dân chúng an tâm và từ đó, hy vọng tạo nên sự ổn đình xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng to lớn, tích cực đối với đời sống xã hội, Nho giáo cũng có những mặt hạn chế, tiêu cực và bảo thủ. Đối lập với chủ trương "đức trị" là tư tưởng "pháp trị". Thực tế cho thấy, đã từng có những vị vua đùng pháp luật để cai trị đất nước. Với chủ trương "pháp trị", họ đã có những chính sách thiết thực, thưởng phạt phân minh, đưa xã hội đi vào cuộc sống có quy củ, vận hành theo khuôn khổ của phép nước. Tuy nhiên, cả tư tưởng "đức trị" và "pháp trị" thời phong kiến, bên cạnh mặt tích cực, đều có tính chất phiến diện. Thực ra, những tư tưởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau mà các thế lực thống trị sử dụng để củng cố địa vị và quyền lực của mình. Trong xã hội không còn đối kháng giai cấp, Nhà nước là người đại điện cho nhân dân lao động. Cho nên, hoạt động của Nhà nước và hệ thống pháp luật tự thân đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức. Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con người, đồng thời, tạo điều kiện cho con người phát huy những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn trọng các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do đó, pháp luật cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Có thể nói, pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tái bình thường của xã hội nói chung và nền đạo đức nói riêng. Bởi lẽ, "pháp luật bao giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội". Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức của xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn, thì quan hệ giữa con người với con người không thể chỉ là "mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về đạo đức” như trước đây, mà nó cần được bổ sung những chuẩn mực, những giá trị mới, như tính kinh tế, tính hiệu quả . Ngay cả việc đánh giá đạo đức cũng cần phải dựa trên các tiêu chí mới đó, ngoài các thước đo vốn có. Đối với nước ta hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự . đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật, đồng thời, xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học, chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm thông sang điều chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội. Trong quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học và duy lý thay cho sự tuỳ tiện vấn dựa trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật (với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật) làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng tạo của mình trong môi trường lành mạnh - môi trường vận hành có trật tự, nền nếp, kỷ cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu cầu tình cảm, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn mới. Công cuộc đổi mới ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Thực tế đó luôn đòi hỏi và thúc đẩy nâng cao trình độ dân trí, trình độ nghề nghiệp cho lực lượng lao động và xã hội hóa tri thức khoa học. Từ đó, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và của toàn xã hội cũng được nâng lên, làm cho khả năng điều chỉnh của đạo đức cũng biến đổi và phát triển theo chiều hướng tích cực. Sự biến đổi đó được biểu hiện ở tính duy lý cao hơn trong việc đánh giá, lựa chọn những giá trị và chuẩn mực đạo đức. Mỗi người trong hoạt động của mình đã có ý thức hơn trong việc tôn trọng pháp luật, có bản lĩnh hơn trong đấu tranh vì công bằng và lẽ phải, biết trân trọng và hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Có thể nói, việc chuyển sự điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội với thói quen theo "lệ”, và nặng về đạo đức sang điều chỉnh bằng pháp luật, đề cao tính nhân bản là một trong những chuyển biên quan trọng nhất trong đời sông xã hội. Bởi lẽ, việc hình thành ý thức pháp luật của mỗi công dân là điều kiện để nâng cao ý thức đạo đức và năng lực thực hiện những hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, đồng thời là cơ sở để phát triển đạo đức của xã hội. Chúng ta đã biết, cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân chính, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và xã hội. Pháp luật tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội bằng những quy phạm, điều khoản quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Các quy phạm pháp luật quy định chi tiết các hành vi được phép và hành vi bị cấm đoán. Đồng thời, chúng còn xác định cụ thể các cách cư xử lẫn những hình phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi phạm. Ngoài ra, pháp luật còn thực hiện điều chỉnh mối quan hệ giữa con người và xã hội bằng sự bắt buộc, cưỡng chế từ bên ngoài. Trong khi đó, đạo đức lại điều chỉnh các mối quan hệ bằng dư luận xã hội, bằng sự giác ngộ và sự thôi thúc từ bên trong. Sự khác biệt nhưng lại thống nhất này là cơ sở để pháp luật và đạo đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Do vậy, có thể nói, pháp luật không những là công cụ để quản lý Nhà nước, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức. Thực tế những năm vừa qua ở nước ta cho thấy, hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những tác động rõ rệt đến đời sống xã hội. Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ. Nói đúng hơn, đó là hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ bản của con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động. Vì vậy, các nguyên tắc định hướng cho việc xây dựng nội dung của hệ thống pháp luật, như công bằng, nhân đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội . cũng chính là những nguyên tắc đạo đức cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã, đang và sẽ hướng tới. Có thể nói, pháp luật sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy phạm chung, giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng phát triển tiến bộ của thời đại. Trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, kể cả Hiến pháp, các bộ luật và văn bản dưới luật thường có nhiều quy phạm pháp luật ghi nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: "Nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện". Ngoài ra, các bộ luật, như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em . đều được xây dựng trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, có thể nhấn mạnh rằng, pháp luật vừa là công cụ hữu hiệu trong việc bảo tồn những giá trị truyền thông, vừa góp phần bồi đắp nên những giá trị mới trong đó có ý thức đạo đức. Việt Nam vốn là một nước kém phát triển, lại đang chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện như vậy, sự ít hiểu biết về pháp luật của một bộ phận nhân dân cùng với những bất cập của hệ thống pháp luật đã dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ cương xã hội, coi thường pháp luật Nạn tham nhũng và các hành vi làm ăn bất lương, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật đang ngày càng gia tăng. Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là "ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền" đang là nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực tế nhức nhối đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu chặt chẽ và việc thi hành pháp luật còn chưa nghiêm, chưa công bằng. Trong bối cảnh như vậy, luật pháp cần phải tỏ rõ sức mạnh của mình để lập lại trật tự, kỷ cương. Bởi lẽ, nếu đạo lý không đủ mạnh để thuyết phục thì pháp lý phải ra tay. Nếu dư luận xã hội chưa đủ độ để lên án thì luật pháp phải kết án" Những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã nỗ lực trong việc thanh tra, khám phá và đưa ra xét xử công khai nhiều vụ trọng án, kiên quyết trừng trị thích đáng những kẻ phạm tội, thu lại cho đất nước một lượng lớn tài sản. Việc làm đó không những được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ cái đúng, cái thiện, lên án cái sai, bài trừ cái ác, mà còn chứng tỏ vai trò vô cùng quan trọng của luật pháp trong việc bảo vệ nền đạo đức và lành mạnh hóa đời sung xã hội. Có thể nói, trong tiến trình đổi mới đất nước, pháp luật đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một số chuyển biến khả quan về mặt xã hội, góp phần không nhỏ trong việc củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế và lực đưa nước ta từng bước hội nhập với thế giới. Chúng ta cũng đang từng bước xây dựng. sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống luật pháp cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nhiều văn bản pháp luật và dưới luật được ban hành và đang đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Điều đó càng khẳng định một thực tế là, nếu như pháp luật ngày một hoàn thiện hơn, hoạt động tuyên truyền pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn và việc thực hiện ngày càng nghiêm minh hơn thì ý thức pháp luật sẽ được nâng cao hơn, sự định hướng hành vi cho mọi công dân cũng sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn thiếu những quy định cần thiết trong lĩnh vực quản lý kinh tế và các quy định về quyền cơ bản của công dân. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng nếu như không nói là còn bị xem nhẹ. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành luật của các cơ quan chức năng còn nhiều bất cập những kinh nghiệm xây đựng hệ thống pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật còn nhiều hạn chế. Tâm lý tiểu nông, thói quen của người sản xuất nhỏ làm cho nhiều người còn mang nặng tư tưởng phép vua thua lệ làng". Điều đó lý giải tại sao trong đời sống xã hội vẫn còn không ít người chưa có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Trước đây, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: pháp luật không phải là để trừng trị con người, mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Đáng tiếc là ở nước ta, vẫn còn một bộ phận dân chúng coi pháp luật là sự trói buộc mình nên đã có tâm lý trốn tránh pháp luật. Thực tế đó cũng làm cho việc thực thi pháp luật càng trở nên phức tạp hơn và chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp chưa thực sự công tâm, nghiêm minh, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật và tình trạng pháp luật bị buông lỏng đã tạo điều kiện cho những hiện tượng phản đạo đức xuất hiện, gây ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh và tiến bộ. Pháp luật không loại trừ một ai và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Đứng trước pháp luật thì mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của con người theo hướng ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác và khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người. Việc thực thi pháp luật là nhằm xây đựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, tiến bộ vì con người và cho con người. Với quan niệm như vậy, pháp luật và việc thực thi pháp luật là môi trường nuôi dưỡng và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức. Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề phải tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật. Việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật không chỉ nhằm lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng. Trước hết, cần phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò của pháp luật trong việc xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ vấn đề này là một quá trình khó khăn và lâu đài. Trải qua thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII của Đảng đã nhấn mạnh rằng, cần phải "tăng cường pháp chế, xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật". Gần đây, Đại hội X của Đảng đã khẳng định rằng, chúng ta cần "Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Điều đó cho thấy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền đang trở thành vấn đề thực sự có ý nghĩa cấp bách trong điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Bởi vì, đây là vấn đề không những góp phần tăng cường cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và nuôi dưỡng ý thức đạo đức mới. Thứ hai, chúng ta cần phải xây dựng đồng bộ và hoàn. thiện hệ thống pháp luật. Phương châm chỉ đạo của Đảng ta là: "Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật". Vấn đề này có liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu các giá trị, đặc biệt là các giá trị truyền thống. Thông qua quá trình đó, chúng ta có thể lựa chọn các chuẩn mực, các giá trị phù hợp để luật hóa chúng, biến thành những quy phạm chung của xã hội mà mỗi công dân đều có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh. Có thể nói, đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thực sự cấp bách trong quá trình xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh ở nước ta hiện nay. Thứ ba, để nâng cao vai trò và hiệu quả của hệ thống pháp luật, ngoài các biện pháp trên, cần phải quan tâm đến chất lượng của các cơ quan làm luật và đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm, mà còn thiếu cả cái tâm của con người. Đã có không ít trường hợp cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xử lý không nghiêm những trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật. Do vậy, việc nâng cao chất lượng của các cơ quan này cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đang là đòi hỏi cấp bách hiện nay. Thứ tư, để tăng cường vai trò của pháp luật thì việc thực thi pháp luật phải nghiêm minh, công bằng. Đứng trước pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Tất cả mọi hành động vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm khắc. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người nghiêm chỉnh chấp hành. Trong thực thi pháp luật, về phía Nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh, thưởng phạt phải rõ ràng, về phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều có nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật Thứ năm, cần tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào đời sống thông qua hoạt động giáo dục pháp luật. Bởi vì, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vẫn chưa thể đem lại hiệu quả cao nếu những quy định của nó không được mọi người biến thành hành động trong thực tế. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: việc công bố đạo luật chưa phải là đã xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Theo Người, việc giáo dục pháp luật là một trong những công đoạn hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra khả năng hình thành những nhu cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới, đồng thời, góp phần củng cố ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, ngăn chặn các biểu hiện xâm phạm lợi ích chính đáng của người khác, khuyến khích những hành vi hợp pháp và hợp đạo lý. Ngoài ra, để tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành ý thức đạo đức, cần phải đẩy mạnh hơn nữa các chương trình kinh tế - xã hội, như xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng phải khắc phục những thiếu sót trong các chính sách quản lý kinh tế - xã hội, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của đất nước và bối cảnh quốc tế. Mặt khác, cũng cần phải tăng cường hơn nửa lực lượng, phương tiện, kinh phí cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, xây dựng các cơ quan này thực sự trong sạch, vững mạnh. Tóm lại, muốn xã hội ổn định và ngày càng phát triển, cần phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con người và của toàn xã hội. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định rằng, để góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải "hoàn chỉnh hệ thống pháp luật", cụ thể là: " . tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp". Đó là cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. 5. Vấn đề xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước trong thời kỳ mới. Trải qua gần bảy mươi năm,bộ máy nhà nước ta đã được củng cố,phát triển hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập,chủ quyền,thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng một chế độ xã hội mới.Tuy nhiên,trong tổ chức và hoạt động,bộ máy nhà nước ta còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu kém như:tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh,nhiều tầng nấc,chồng chéo về chức năng,nhiệm vụ,thẩm quyền;tiêu chuẩn cán bộ,công chức chưa xác định rõ ràng,vì vậy còn nhiều cán bộ làm việc trong bộ máy nhà nước còn chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao;hệ thống pháp luật chưa đồng bộ,thiếu hoàn chỉnh;tình trạng quan liêu cửa quyền, xa rời quần chúng vẫn còn,làm cho hiệu lực quản lý nhà nước thấp. Trước tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta,để bộ máy đó thực sự trong sạch,vững mạnh,có hiệu lực và hiệu quả,bài trừ những khuyết điểm, yếu kém,luôn giử vững và phát huy bản chất của nhà nước của dân,do dân,vì dân.Để xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau: 1. Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ,tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp,tham gia tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ nhà nước,kiểm tra,giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ,công chức nhà nước. 2. Kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch,vững mạnh,tinh giản,gọn nhẹ,hoạt động có hiệu lực và hiệu quả;nâng cao trách nhiệm của cán bộ,công chức nhà nước trước công dân. 3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước Công tác xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay bao gồm những nội dung sau: 1. Kiện toàn tổ chức,đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp,quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. 2. Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ,trong sạch,vững mạnh,từng bước hiện đại hóa.Tiếp tục cải cách hành chính nhà nước,xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất,thông suốt,có hiệu lực và hiệu quả,đủ năng lực thực thi các nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị,kinh tế,văn hóa,xã hội,quốc phòng,an ninh và đối ngoại.Phân công,phân cấp,nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương,kết hợp chặt chẽ quản lý nghành và quản lý lãnh thổ,thực hiện đúng nguyên tắt tập trung dân chủ;tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân;kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp cơ sở. 3. Cải cách tổ chức,nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp,nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và các bộ tư pháp trong công tác điều tra không để xảy ra những trường hợp oan,sai.Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.Sắp xếp lại hệ thống tòa án nhân dân,phân định hợp lý thẩm quyền của tòa án các cấp.Tổ chức lại cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án theo nguyên tắt gọn đầu mối.Thành lập cảnh sát tư pháp. 4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm giữ vững bản chất của nhà nước,bảo đảm quyền lực nhân dân,đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước,bảo đảm chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đồng thời phát huy trách nhiệm,tính chủ động và hiệu lực cao trong quản lý,điều hành bộ máy nhà nước. 5. Tăng cường tổ chức và cơ chế,tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị,ở các cấp,các nghành,từ trung ương đến cơ sở.Xử lý nghiêm minh những người vi phạm pháp luật đồng thời tăng cường công tác xây dựng pháp luật,giáo dục ý thức pháp luật và củng cố kỹ luật nội bộ cơ quan nhà nước.

doc26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 12289 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật 1.3.5 Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại: *Tại khoãn 1 điều 18 luật KN- TC qui định quyền của người bị khiếu nại như sau: -Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành vi, hành chính bị khiếu nại - Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại của người giải quyết khiếu nại tiếp theo đối với khiếu nại mà mình đã giải quyết nhưng người khiếu nại tiếp tục khiếu nại *Tại khoãn 2 điều 18 luật KN-TC qui định nghĩa vụ của người bị hại như sau: - Tiếp nhận, giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính khiếu nại; thông báo bằng văn bản về việc thụ lý giải quyết- gửi quyết định giải quyết cho ngươì khiếu nại và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết của mình, trong trường hợp khiếu nại do cơ quan tổ chức cá nhân có trách nhiệm chuyển đến thì phải thông báo việc giải quyết hoặc kết quả giải quyết cho cơ quan tổ chức cá nhân đó theo qui định của luật này Giải trình về quyết định hành chính hành vi bằng chứng bị khiếu nại cung cấp các thông tin tài liệu liên quan khi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu - Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật - Bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả do quyết định hành chính trái pháp luật của mình gây ra theo qui định của pháp luật Có thể nói rằng đây là điều kiện để trong quá trình giải quyết thực tiễn đảm bảo tính khách quan, áp dung nhanh chóng, kịp thời đúng pháp luật. Nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình thực hiện nghị quyết hội nghị ban chấp hành TW Đảng lần thứ 3 khoá VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tiếp tục xây dựng nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam trong sạch vững mạnh 1.4 Thẩm quyền giải quyết khiếu nại: 1.4.1 Thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo: Thẩm quyền giải quyết khiếu nại là nội dung quan trọng nhất, cơ bản nhất của luật khiếu nại, tố cáo nó chi phối và quyết định những nội dung khác thuộc phạm vi điều chỉnh của luật. Theo qui định của pháp lệnh giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 cũng như luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước là giữ vai trò trọng tâm, cơ bản. Các cơ quan Thanh tra nhà nước các cấp có vai trò và trách nhiệm khác nhau trong việc giải quyết khiếu nại. Để tăng cường vai trò của thủ tướng chính phủ với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành pháp nên ngoài chức năng tổ chức và chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,Thủ Tướng còn có thẩm quyền giải quyết một số loại khiếu nại. Theo qui định của luật khiếu nại, tố cáo thẩm quyền giải quyết khiếu nại được xác định theo nguyên tắc sau: khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của nhân viên thuộc quyền quản lý của cơ quan nào, thì thủ trưởng cơ quan đó chịu trách nhiệm giải quyết. Trên tinh thần đó luật khiếu nại qui định cụ thể thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ trưởng từng cấp. 1.4.2 Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường thị trấn (gọi chung là cấp xã), thủ trưởng cơ quan thuộc uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh: có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp (điều 19 luật khiếu nại, tố cáo) Chủ tịch uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền: - Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình - Giải quyết khiếu nại mà chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại(điều 20 luật khiếu nại, tố cáo). Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện có qui định khác với chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã. Điều 20 luật khiếu nại, tố cáo không qui định chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp. Bởi vì ở uỷ ban nhân dân huyện tất cả nhân viên (cán bộ, công chức) đều thuộc quyền quản lý trực tiếp của một cơ quan chuyên môn của huyện do đó nếu có khiếu nại đối với một cán bộ, công chức nào thì do Thủ trưởng cơ quan thuộc uỷ ban nhân cấp huyện giải quyết. Qui định này cũng được áp dụng với việc giải quyết khiếu nại của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ. c.Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và tương đương có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ,công chức do mình quản lý trực tiếp (điều 21 luật khiếu nại, tố cáo). Cơ quan thuộc sở ở đây được hiểu như các phòng ban, đơn vị, cơ quan thuộc sở. Ví dụ như trường cao đẳng sư phạm, trường cao đẳng y tế Thành Phố Đà Nẵng thuộc quyền quản lý của sở giáo dục và đào tạo Thành Phố Đà Nẵng .Do đó khi có khiếu nại phát sinh ở những cơ quan này thì trứơc hết do chính Thủ trưởng cơ quan đó có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp còn khiếu nại theo trình tự hành chính thì giám đốc sở có thẩm quyền giải quyết tiếp. d. Giám đốc sở và cấp tương đương thuộc uỷ ban nhân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền : - Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp. - Giải quyết khiếu nại mà thủ trưởng cơ quan thuộc sở hoặc cấp tương đương đã giải quyết nhưng còn khiếu nại (điều 22 luật khiếu nại, tố cáo). Trong điều này chỉ qui định thẩm quyền của giám đốc sở và cấp tương đương thuộc uỷ ban nhân tỉnh, thành phố Trung ương. Như vậy qui định này không bao gồm những cơ quan tương đương với sở không thuộc uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trung ương. Ví dụ như ngân hàng nhà nước tỉnh, kho bạc tỉnh, cục thuế. Trong trường hợp có khiếu nại thì thủ trưởng cơ quan cấp trên quản lý trực tiếp về lĩnh vực đó sẽ có thẩm quyền giải quyết (ví dụ ngân hàng nhà nước việt nam, kho bạc nhà tổng cục thuế). e.Thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) ). - Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của chính mình. - Giải quyết khiếu nại mà chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại; quyết định này là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. - Giải quyết khiếu nại mà giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh đã giải quyết nhưng còn khiếu nại mà nội dung thuộc quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; quyết định này là quyết định giải quyết cuối cùng (điều 23 luật khiếu nại, tố cáo). Theo qui định của pháp luật, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quản lý toàn diện các lĩnh vực trên phạm vi địa phương mình. Các khiếu nại phát sinh từ cơ sở, ở địa phương do Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết cuối cùng. Chính vì vậy điều 23 khoản 2,3 qui định chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và ra quyết định giải quyết cuối cùng đối với khiếu nại mà chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết. Riêng các khiếu nại mà giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại thì theo qui định tại khoãn 3 điều 23, không phải bất cứ trường hợp nào Chủ tịch tỉnh cũng có quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Chỉ có khiếu nại mà nội dung thuộc quyền quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền giải quyết cuối cùng. Sở dỉ có qui định như vậy là vì hiện nay tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính được thực hiện theo nguyên tắc song trùng trực thuộc .cơ quan quản lý cấp dưới vừa chịu sự chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực cấp trên, vừa chịu sự quản lý trực tiếp của uỷ ban nhân dân cùng cấp. Ví dụ sở giáo dục vừa chịu sự chỉ đạo của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (về tổ chức, kinh phí, công tác), vừa chịu sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ giáo dục về vấn đề chuyên môn (Trường lớp, đội ngũ giáo viên, thiết bị dạy học ...). Do đó những khiếu nại mà nội dung thuộc thẩm quyền uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý (như cán bộ kinh phí..)thì chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết và ra quyết định cuối cùng. Những khiếu nại mà nội dung thuộc quyền quản lý nhà nước của bộ ngành do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ giải quyết và ra quyết định cuối cùng (vd ;mở thêm trường do bộ giáo dục quyết định ) Đây là điểm mới của luật khiếu nại, tố cáo năm 1998,quy định vừa bảo đảm phù hợp với các qui định về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực được xác định trong một số văn bản pháp luật hiện hành, đồng thời quán triệt được nguyên tắc quản lý song trùng trực thuộc trong các cơ quan hành chính ở nước ta hiện nay. g. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được qui định tại điều 25 như sau: * Bộ trưởng, Thứ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ có thẩm quyền: + Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính hành vi chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp . + Giải quyết khiếu nại mà những người quy định tại điềy 24 của luật này (thứ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan chính phủ đã giải quyết nhưng còn khiếu nại) đã giải quyết nhưng còn khiếu nại. + Giải quyết khiếu nại mà chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu, khiếu nại mà giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại mà nội dung thuộc quyền quản lý nhà nước của bộ, ngành mình. Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định tại điểm c khoản 1 điều này là giải quyết khiếu nại cuối cùng. 1.4.3.Thẩm quyền và trách nhiệm của các tổ chức Thanh tra nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại Từ trước đến nay, việc xem xét, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng của các tổ chức Thanh tra nha nước.Tuy nhiên trong từng giai đoạn, thẩm quyền và trách nhiệm của các tổ chức Thanh tra trong công tác này được pháp luật quy định có khác nhau nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu của việc cải cách nền hành chính nhà nước. Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 quy định thẩm quyền và trách nhiệm của tổ chức Thanh tra với nhiều cấp độ khác nhau, tựu trung lại có thể chia làm 3 loại : - Tham mưu cho Thủ trưởng cùng cấp giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cùng cấp. - Giải quyết các khiếu nại mà cấp dưới trực tiếp của Thủ trưởng cùng cấp đã giải quyết nhưng còn khiếu nại. - Kháng nghị quyết định giải quyết khiếu nại của tổ chức Thanh tra cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có vi phạm pháp luật. Từ việc tổng kết tình hình thực tiễn đã nêu trên, luật khiếu nại, tố cáo đã xác định rõ ràng hơn về quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức Thanh tra nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, phù hợp với tình hình thực tiễn và phù hợp với vị trí và vai tròi của các tổ chức Thanh tra trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Luật khiếu nại tố cáo cũng quy định quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của tổ chức Thanh tra nhà nước các cấp tương xứng với từng cấp. Có thể khái quát thẩm quyền và trách nhiệm của các tổ chức Thanh tra thành 3 nhóm sau: a. Trách nhiệm tham mưu: Đây nhiệm vụ truền thống của các tổ chức Thanh tra từ trước đến nay. Luật khiếu nại, tố cáo một lần nữa khẳng định nhiệm vụ này tổ chức Thanh tra nhà nước các ngành, các cấp. Cụ thể là: - Tổng Thanh tra nhà nước có thẩm quyền: xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng chính phủ (điều 26). -- Chánh Thanh tra cấp tỉnh, chánh Thanh tra cấp huyện có thẩm quyền xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp (điều 27). - Chánh Thanh tra bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chánh Thanh tra sở và cấp tương đương có trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng của cơ quan đó (điều 27). b.Thẩm quyền trực tiếp giải quyết khiếu nại khi được uỷ quyền Thẩm quyền này chỉ được quy định cho các tổ chức Thanh tra cấp (Thanh tra nhà nước, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Cụ thể là: - Tổng Thanh tra nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại do Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền theo qui định của chính phủ (điều 26). - Chánh Thanh tra cấp tỉnh, chánh Thanh tra cấp huyện giải quyết khiếu nại do chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp Uỷ quyền theo quy định của chính phủ (điều 27). 1.4.4. Về thẩm quyền của tổng Thanh tra nhà nước: Ngoài trách nhiệm tham mưu (như tất cả các tổ chức Thanh tra nhà nước), thẩm quyền giải quyết khiếu nại được Uỷ quyền (của các tổ chức Thanh tra cấp), Tổng Thanh tra nhà nước còn có quyền hạn khác sau đây: a. Thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng đối với khiếu nại đã đượcThủ trưởng các cơ quan thuộc chính phủ giải quyết nhưng còn khiếu nại. Đây là một quyền hạn khá đặt biệt của tổng Thanh tra nhà nước và được quy định vì lý do sau đây: theo xu hướng tăng cường quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực thuộc về Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phụ trách ngành, lĩnh vực đó ..khi đó với tư cách là thành viên Chính phủ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ra quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Đối với một số lĩnh vực, cơ quan quản lý nhà nước không là cơ quan Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ, người đứng đầu không phải là thành viên Chính phủ. Vì thế thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ không có thẩm quyền ra quyết định giải quyết cuối cùng, mà trong trường hợp quyết định giải quyết bị khiếu nại thì tổngThanh tra nhà nước sẽ là người xem xét và ra quyết định cuối cùng b.Về quyền hạn kiến nghị Thủ tướngChính phủ xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng khi phát hiện có vi phạm pháp luật: Quyền hạn này thể hiện vai trò quan trọng của Thanh tra nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Luật khiếu nại, tố cáo, điều 81 qui định”Thanh tra nhà nước chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi thẩm quyền của Chính phủ”. Một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này là Thanh tra, kiểm tra các cấp, các ngành thực hiện đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Chính qua công tác này mà phát hiện ra những sai sót, vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ đó có sự tác động để sửa chửa khắc phục kịp thời. Đối với những quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, về nguyên tắc khiếu nại tiếp sẽ không được thụ lý giải quyết nhưng qua công tác kiểm tra, Thanh tra nếu thấy quyết định đó vi phạm pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân thì tổng Thanh tra có quyền kiến nghị thủ tướng xem xét. 1.4.5 Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc giải quyết khiếu nại: Với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành pháp, Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, quản lý hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước nhằm đảm bảo cho những qui định của pháp luật, quyết định, chỉ thị của chính phủ được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Theo qui định của Hiến pháp và luật tổ chức Chính phủ, Thủ tướng chính phủ còn có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chính vì vậy luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã quy định Thủ tướng chính phủ có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với một số khiếu nại. Điều 28 quy định: +.Thủ tướng chính phủ có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với : a./Khiếu nại mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã giải quyết nhưng còn khiếu nại, trừ khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. b./Khiếu nại đặt biệt phức tạp, liên quan đến nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước. +./Thủ tướng chính phủ có thẩm quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan tổ chức.: Như vậy, theo qui định của luật thì Thủ tướng chính phủ không giải quyết những khiếu nại đã có quyết định giải quyết cuối cùng mà có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại. Đối với những vụ việc phức tạp có thể có nhiều người tham gia, ảnh hưởng đến những vấn đề chính trị xã hội, những vụ việc liên quan đến trách nhiệm nghĩa vụ của nhiều cơ quan, tổ chức, nhiều địa phương, nhiều cấp, nhiều ngành hoặc thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của nhiều cơ quan nhà nước thì Thủ tướng chính phủ sẽ xem xét giải quyết và ra quyết định cuối cùng nhằm chấm dứt khiếu nại . 1.4.6. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại cuối cùng : Việc xác định cấp có thẩm quyền giải quýêt khiếu nại cuối cùng và người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết cuối cùng đối với một khiếu nại có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại của công dân, cơ quan, tổ chức. Quy định này xác định điểm dừng của một khiếu nại, tránh tình trạng khiếu nại tràn lan, vượt cấp. Luật khiếu nại, tố cáo đã qui định các cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cuối cùng như sau: - Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cuối cùng đối với khiếu nại chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại, khiếu nại mà giám đốc sở hoặc cấp tương đương thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. - Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại, khiếu nại mà chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu, khiếu nại mà giám đốc Sở hoặc cấp tương đương thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng còn khiếu nại mà nội dung thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ, ngành mình. - Tổng Thanh tra nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cuối cùng đối với khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ đã giải quyết nhưng còn khiếu nại, trừ khiếu nại đã có quyết định của Thủ trưởng của cơ quan thuộc chính phủ là Bộ trưởng. - Thủ tướng chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cuối cùng đối với khiếu nại mà Bộ trưỏng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại, khiếu nại đặt biệt phức tạp liên quan đến nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước. Việc qui định các cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cuối cùng như vậy vừa bảo đảm dân chủ trong khiếu nại, đồng thời phù hợp với những nguyên tắc quản lý hành chính. Chủ tịch u ỷ ban nhân dân cấp tỉnh là người có thẩm quyền cao nhất, có trách nhiệm toàn diện các vấn đề trong phạm vi mình do đó có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với những khiếu nại phát sinh từ cơ sở. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ có trách nhiệm quản lý các lĩnh vực do chính phủ giao vì vậy có thẩm quyền xem xét giải quyết khiếu nại mà nội dung thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ, ngành mình. Tổng Thanh tra nhà nước là thành viên Chính phủ có trách nhiệm giúp Thủ tướng chính phủ giải quyết khiếu nại cuối cùng những khiếu nại mà cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết nhưng còn khiếu nại. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành pháp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với các khiếu nại mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã giải quyết nhưng còn khiếu nại 1.5. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại 1.5.1 Về thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại lần đầu : Ở một số nước trên thế giới, người ta quy định cho công dân khi không đồng ý vơí môt quyết định hành chính thì được quyền khiếu nại ngay lên cơ quan Thanh tra quốc hội hoặc khởi kiện ngay ra toà án mà không cần khiếu nại với cơ quan ra quyết định đó. Theo quan điểm của những nước đó, quy định như vậy mới bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên, mỗi nước có những đặt điểm về chính trị- kinh tế- xã hội riêng và do đó những quy định về thủ tục, trình tự khởi đầu của quá trình khiếu nại cũng có khác nhau Điều 30 luật khiếu nại, tố cáo quy định: người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi hành chính mà người khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hoặc hành vi bị khiếu nại trước hết phải có trách nhiệm xem xét giải quyết khiếu nại đó. Đây là một trình tự bắt buộc. Quy định này một mặt đề cao được trách nhiệm của cơ quan nhà nước khi ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính, mặc khác cũng nhằm để cho các khiếu nại cũng giải quyết ngay từ nơi mới phát sinh, tránh tình trạng khởi kiện tràn lan lên cơ quan hành chính cấp trên hoặc toà án các cấp. Thời hiện khiếu nại theo qui định tại điều 31 luật khiếu nại, là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Như vậy, thời hiện khiếu nại theo qui định của luật khiếu nại, tố cáo ngắn hơn thời hiệu khiếu nại theo qui định của pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991. sở dĩ qui định như vậy bởi vì thực tiễn đã chứng minh việc quy định thời hiện khiếu nại theo quy định thời hiện khiếu nại là 6 tháng như pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân 1991là quá dài và không phù hợp. Hầu như không có trường hợp nào mà người khiếu nại sử dung hết thời hiệu đó (trừ trường hợp ngoại lệ là những vụ việc thuộc các giai đoạn lịch sử trước đây). Trong khi đó, yêu cầu của hoạt động hành chính là phải bảo đảm tính nhanh nhạy và liên tục. Trong thời gian 90 ngày là thời gian đủ để người khiếu nại cân nhắc và quyết định có khiếu nại hay không, nếu qui định thời hiệu quá dài thì trong đa số các trường hợp, các quyết định hành chính đã được thi hành, việc giải quyết sẽ gặp khó khăn và hậu quả sẽ khó khắc phục. Ngoài ra luật khiếu nại, tố cáo cũng qui định các trường hợp vì thiên tai, địch hoạ,ốm đau, đi công tác. Học tập ở nơi xa hoặc vì trở ngại khách quan khác mà không thực hiện được quyền khiếu nại. Do vây, việc qui định thời hiệu khiếu nại như trong luật khiếu nại, tố cáo là phù hợp và có tính khả thi, vừa đảm bảo được quyền khiếu nại của người khiếu nại, vừa bảo đảm được tính ổn định,liên tục của nền hành chính nhà nước. Việc khiếu nại có thể được thực hiện bằng hai phương cách: hoặc là gởi đơn khiếu nại,hoặc là trực tiếp khiếu nại với cơ quan, người có ,thẩm quyền. Trong trường hợp khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì trong đơn khiếu nại phải ghi rõ + Ngày tháng năm khiếu nại. + Họ tên, địa chỉ của người khiếu nại và người bị khiếu nại + Nội dung, lý do khiếu nại; yêu cầu người khiếu nại + Đơn phải do người khiếu nại ký tên Đây là những qui định chung nhất về nội dung của một đơn khiếu nại. 1.5.2. Về Thủ Tục Thụ Lý Khiếu Nại Lần Đầu Thời hạn: trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền của mình thì người giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý để quyết định và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết, trường hợp khi thụ lý để giải quyết thì phải nêu rõ lý do. Đây là một qui định hết sức chặt chẻ về trách nhiệm của người giaỉ quyết khiếu nại lần đầu. Trước hết, việc qui định trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc thụ lý khiếu nại là nhằm: + Ràng buộc người giải quyết khiếu nại lần đầu phải giải quyết theo đúng thời hạn. + Việc qui định như vậy còn bảo đảm quyền của người khiếu nại. + Căn cứ vào văn bản thông báo của mình được giải quyết, nếu quá thời hạn đó mà không được giải quyết thì có quyền tiếp tục khiếu nại hoặc khởi kiện ra toà án. + Những vụ việc không được thụ lý để giải quyết tại điều 32 luật khiếu nại, tố cáo đã qui định rõ từng trường hợp cụ thể sau đây: *Một là, quyết định hành chính, hành vi hành chính nguyên tắc tại điều 1 là người khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Nó liên quan đến qui định mang tính nguyên tắc tại điều 1 là người khiếu nại phải có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi bị khiếu nại là trái pháp luật,(trực tiếp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình). Quy định nhằm: + Tránh tình trạng khiếu nại vu vơ, không có căn cứ. + Tạo căn cứ để phân định giữa khiếu nại với kiến nghị, phản ánh để có phương thức xem xét, giải quyết phù hợp. * Hai là, người khiếu nại không có năng lực hành vi đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đây là quy định có tính chất tương đồng với các qui định khác về vấn đề này trong bộ luật dân sự, bộ luật tố tụng hình sư, bộ luật lao động.. * Ba là, người đại diện không hợp pháp : tại điều 17 của luật khiếu nại, tố cáo có quy định người khiếu nại có quyền tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại. Tuy nhiên, tiểu chuẩn để xác định thế nào là người đại diện hợp pháp sẽ được quy định cụ thể trong các văn bản dưới luật theo hướng người khiếu nại là quyền công dân mà chưa thành niên, người mắc bệnh tâm thần , người đau ốm, già yếu có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không thể tự mình khiếu nại thì được thông qua người đại diện là cha, me, vợ, chồng, anh, chị em ruột đã thành niên, người đỡ đầu hoặc người giám hộ để thực hiệ quyền khiếu nại. Thủ trưởng cơ quan đại diện cho cơ quan thực hiện quyền khiếu nại. Thủ trưởng cơ quan có thể uỷ quyền cho cấp phó của mình để, thực hiện quyền khiếu nại. Các tổ chức thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đứng đầu tổ chức đó theo qui định tại điều lệ của tổ chức, người đứng đầu có thể uỷ quyền cho cấp phó của mình thực hiện quyền khiếu nại. * Bốn là, thời hiệu khiếu nại đã hết. Trong trường hợp khiếu nại thì thời hạn khiếu nại theo qui định luật này đã hết . * Năm là, việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. Đó là trường hợp có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, tổng thanh tra nhà nước và thủ tướng chính phủ theo qui định các điều 23, 26 và 28 của luật khiếu nại, tố cáo. Quy định nhằm đảm bảo cho việc giải quyết khiếu nại có điểm dừng tránh việc khiếu nại vòng vo, kéo dài . * Sáu là, việc khiếu nại là được toà án thụ lý để giải quyết hoặc đã có bản án, quyết định của toà án. Theo quy định này, ở nước ta sẽ tiếp tục duy trì hai cơ chế giải quyết khiếu nại song song để người khiếu nại lựa chọn: + Hoặc là khiếu nại theo con đường hành chính. + Hoặc là khởi kiện theo con đường tố tụng tại Toà án, sau khi đã khiếu nại lần đầu, nếu như người khiếu nại lựa chọn con đường tố tụng để giải quyết vụ việc của mình thì trình tự giải quyết sẽ theo các bước sơ thẩm, phúc thẩm.. tại Toà án.. Người khiếu nại không thể vừa khởi kiện tại Toà án, vừa khiếu nại tại các cơ quan hành chính. Do vậy, nếu như một vụ việc đã đượcToà án thụ lý để giải quyết hoặc đã có bản án quyết định của Toà án thì sẻ không thụ lý để giải quyết. 1.6 . Điều Kiện Khởi Kiện Vụ Án Hành Chính : Điều 31 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 quy định: Toà án trả lại đơn khiếu nại trong trường hơp chưa có văn bản trả lời của ngươì hoặc cơ quan nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại. Mục tiêu của các nhà lập pháp khi xây dựng quy định này là vừa đề cao trách nhiệm của cơ quan hành chính trong việc xem xét giải quyết các khiếu nại đối với quyết định hoặc hành vi của mình, vừa hạn chế số lượng các khiếu nại dồn quá nhiều sang Toà án trong điều kiện toà án các cấp mới thành lập, chưa được kiện toàn. Tuy nhiên, trên thực tế quy định này đã hạn chế quyền của người khiếu nại khi muốn đưa vụ việc ra xét xử tại toà án, bởi vì trong đa số các trường hợp, các cơ quan hành chính đã (im lặng), không giải quyết và cũng không ra văn bản trả lời cho người khiếu nại. Khi không có văn bản trả lời, người khiếu nại đương nhiên mất quyền khởi kiện vụ án hành chính. Qua khảo sát cho thấy: hầu hết các trường hợp Toà án trả lại đơn kiện là do người khiếu nại không có văn bản trả lời của cơ quan hành chính bị khiếu nại. Để khắc phục tình trạng này, điều 39 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết hạn giải quyết quy định tại điều 36 của luật này mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của pháp luật” . Như vậy, nét mới của quy định về điều kiện khởi kiện trong luật khiếu nại, tố cáo là lược bỏ quy định bắt buộc người khiếu nại phải có văn bản trả lời của cơ quan hành chính bị kiện thì mới được khởi kiện tại toà án. Theo qui định của luật khiếu nại, tố cáo, nếu quá thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại đã có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại toà án. Tuy nhiên, quy định như vậy không có nghĩa là khuyến khích, trì hoản, cố tình không giải quyết hoặc đùn đẩy việc giải quyết cho Toà án. Ở đây, một mặt luật quy định như vậy để bảo đảm quyền của người khiếu nại, nhưng mặt khác trong luật cũng có những quy định ràng buộc trách nhiệm của cơ quan bị kiện là phải giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại. Trong trường hợp quá thời hạn mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại được khởi kiện để yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời những hành vi thiếu trách nhiệm, cố tình không giải quyết cũng sẻ bị xử lý nghiêm minh theo quy định tại điều 96 của luật khiếu nại, tố cáo. 1.7 Quyết Định Giải Quyết Khiếu Naị: Kết quả của quá trình xác minh, kết luận và giải quyết một vụ việc khiếu nại được thể hiện cụ thể bằng một quyết định giải quyết khiếu nại. Trong luật khiếu nại, tố cáo có quy định về hai loại quyết định bao gồm: Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và giải quyết khiếu nại lần tiếp theo (kể cả quyết định giải quyết khiếu nại lần cuối) . Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu được quy định tại điều 38 luật khiếu nại, tố cáo: Đó là việc có chấp nhận hay không chấp nhận của người khiếu nại; lý do, căn cứ pháp luật của việc chấp nhận hay không chấp nhận đó, nếu chấp nhận yêu cầu của người bị khiếu nại thì sửa đổi hay huỷ bỏ quyết định hành chính; có bồi thường không, bồi thường bao nhiêu, thời hạn bồi thường là bao lâu.. Đặt biệt là luật khiếu nại, tố cáo lần này con quy định trong quyết định giải quyết khiếu nại tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại toà án. Như vậy, trong các quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, người giải quyết khiếu nại phải nghi rõ chẳng hạn: Nếu không đồng ý vơí quyết định này ông (bà)có quyền khiếu nại tiếp lên chủ tịch uỷ ban nhân dân huyện A hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại toà an nhân dân huyện A. quy định này của luật khiếu nại, tố cáo vừa có ý nghĩa bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân tạo thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo vừa thể hiện tính chính quy của nền hành chính. Ngoài quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, luật khiếu nại, tố cáo còn có một quy định về quyết định giải quy. theo đó, quyết định giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo phải nêu rõ việc giữ nguyên, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại. Tại sao lại có quyết định việc sửa đổi huỷ bỏ và các việc yêu cầu sửa đổi, huỷ bỏ? Như chúng ta đã biết; về nguyên tắc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo phải là cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, có thẩm quyền giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo (điều45). Trọng tâm của nội dung quyết định giải quyết các lần tiếp theo được thể hiện ở điểm g, khoản 1 điều 45 cao hơn cơ quan hành chính đã giải quyết trước đó .. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành thì không nhất thiết phải là cơ quan giải quyết khiếu nại tiếp theo thì có quyền huỷ bỏ, sửa đổi quyết định hành chính của cơ quan hành chính đã giải quyết trước đó. Chẳng hạn, theo điều 25 luật khiếu nại, tố cáo thì Bộ trưởng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch uỷ ban nhân dân Tỉnh đã giải quyết nhưng còn khiếu nại. Mặt dù vậy, theo quy định của luật tổ chức chính phủ thì Bộ trưởng không có quyền huỷ bỏ văn bản của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh mà chỉ có quyền đình chỉ và đề nghị Thủ tướng chính phủ huỷ bỏ. Thế nhưng trong trường hợp uỷ ban nhân dân cấp trên lại có quyền sửa đổi, huỷ bỏ quyết định của uỷ ban nhân dân cấp dưới theo quy định của bộ luật tổ chức hội đồng nhân dân . do vậy, để việc vận dung được mền dẻo và phù hợp các văn bản và pháp luật hiện hành, luật khiếu nại, tố cáo qui định quyền hạn của người giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo là: sửa đổi, huỷ bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, huỷ bỏ quyết định hành chính bị khiếu nại. Ngoài ra, trong quyết định giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo, người giải quyết khiếu nại cũng ghi rõ quyền khiếu nại tiếp nếu người khiếu nại còn quyền khiếu nại tiếp, trong trường hợp người khiếu nại không được quyền khiếu nại tiếp thì phải ghi rõ: đây là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng. 1.8 Thời Gian Giải Quyết Khiếu Nại: Thực tiễn việc thực hiện các quy định về thời hạn trong công tác giải quyết khiếu nại rất đa dạng và phong phú :có những việc đơn giản đúng sai rõ ràng thì thời hạn giải quyết yêu cầu rất ngắn, thậm chí chỉ vài ngày ; thế nhưng có những vụ việc phức tạp, công tác thẩm tra xác minh rất khó khăn và đòi hỏi nhiều thời gian thì thời gian giải quyết đương nhiên cũng kéo dài thêm. Đó là chưa kể đến những trở ngại khách quan mà những người làm công tác giải quyết khiếu nại gặp phải như địa hình đồi núi hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn..cũng làm ảnh hưởng đến thực hiện quy định về thời hạn. Qua tổng kết 8 năm thực hiện pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân cho thấy: trước thực tế đa dạng và phong phú như vậy mà quy định thời gian giải quyết khiếu nại một cách cứng nhắc là không phù hợp và khó thực hiện. Vì vậy, luật khiếu nại, tố cáo lần này có những quy định rất chi tiết về thời hạn giải quyết khiếu nại, trong đó có phân biệt thời hạn giải quyết khiếu nại ở những vùng sâu, vùng xa. 1.8.1 Đối với thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu : điều 36 luật khiếu nại, tố cáo quy định: thời hạn giải quyết các vụ khiếu nại thông thường là 30 ngày kể từ ngày thụ lý, còn đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài thêm nhưng không quá 45 ngày kể từ ngày thụ lý. Riêng đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết một vụ khiếu nại thông thường là 45 ngày đối với vụ việc phức tạp thì kéo dài thêm nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày thụ lý. 1.8.2.Đối với thời hạn giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo: điều 43 luật khiếu nại, tố cáo quy định thời hạn giải quyết mỗi lần đối với các vụ khiếu nại thông thường là 45 ngày, đối với các vụ việc phức tạp thì được kéo dài thêm nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày thụ lý. Riêng đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết mỗi lần tiếp theo đối với vụ việc thông thường không quá 60 ngày, đối với vụ việc phức tạp thì được kéo dài thêm nhưng không quá 7 ngày, kể từ ngày thụ lý. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA HUYỆN ĐIỆN BÀN TRONG THỜI GIAN QUA 2.1/ Đặc điểm tình hình của huyện Điện Bàn . Điện Bàn là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Quảng Nam cách tỉnh lỵ Tam kỳ 48 km về phía bắc, cách TP Đà Nẵng 25 km về phía Bắc. Phía Bắc giáp huyện Hoà Vang (TP Đà Nẵng), phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Đông giáp thị xã Hội An và biển Đông , phía Tây giáp huyện Đại Lộc . Điện Bàn có 19 xã và một thị trấn. Thị trấn Vỉnh Điện là trung tâm chính trị , kinh tế văn hóa xã hội của huyện . Điện Bàn có diện tích tự nhiên 214,28 km2 , dân số 194.065 người, 43.334 hộ , có 46 cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, Công an nhân dân , đơn vị TW đóng trên địa bàn huyện . Điện Bàn đã hình thành khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc. Những năm qua , cùng với sự phát triển chung của cả nước, Đảng bộ và nhân dân Điện Bàn đã tập trung khai thác mọi tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội đạt kết quả tốt , đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng được nâng lên , an ninh chính trị , trật tự an toàn xã hội được giữ vững , hiệu lực quản lý Nhà nước và vai trò của Đảng được nâng cao, quyền làm chủ của nhân dân từng bước được phát huy . Tuy nhiên cùng với sự phát triển đó, cũng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, các mâu thuẫn ở quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường , đơn thư khiếu nại tố cáo gửi đến các cấp , các ngành đề nghị giải quyết ngày càng tăng lên . Trong bối cảnh đó, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện đã tăng cường chỉ đạo các Ban, Ngành, các cơ sở tập trung giải quyết, xử lý có kết quả các vụ KN,TC của công dân và làm tốt công tác tiếp dân . 2.2/ Những kết quả đạt được trong việc triển khai thực hiện Luật KN,TC và quản lý Nhà nước về công tác giải quyết KN,TC của công dân . 2.2.1) Công tác tiếp công dân . Huyện Điện Bàn đã thực hiện cải cách hành chính "một cửa, một dấu" và có phòng tiếp công dân khang trang, ở huyện cũng như 20 xã -thị trấn đều duy trì công tác tiếp dân thường xuyên. Nội quy tiếp công dân quy định rõ ràng , hướng dẫn cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân, niêm yết công khai để nhân dân dể dàng thực hiện quyền làm chủ của mình. HĐND và UBND huyện tổ chức tiếp dân định kỳ vào ngày 15 và 30 hằng tháng , các xã - thị trấn bố trí cán bộ thường xuyên tiếp công dân, nhận đơn thư KN,TC của công dân . 2.2.2) Tình hình khiếu nại của công dân trong năm 2007 : Theo số liệu báo cáo của cơ quan Thanh tra huyện năm 2007,phòng tiếp dân của huyện, các ban ngành và 20 xã ,thị trấn đã tiếp 318 lượt người khiếu nại trong đó thanh tra huyện tiếp 89 lượt người, chủ tịch UBND huyện tiếp 19 lượt người, xã thị trấn tiếp 210 lượt người, số vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết là 168 vụ tăng 191,5% so với năm 2006. Số lượng đơn phát sinh trong 2007 nhiều nhất là ở những xã có chương trình , dự án quy hoạch xây dựng. Nội dung chủ yếu về quyền sử dụng đất , công tác đền bù giải toả, tái định cư. -Kết quả giải quyết : Tổng số vụ việc đã giải quyết trong năm là 153/168 vụ đạt 91%, trong đó cấp huyện là 16 đơn đạt 100%, cấp xã 137 đơn đạt 90,1%, khiếu nại đúng là 83 vụ ,khiếu nại sai là 42 vụ và khiếu nại có đúng có sai là 28 vụ.Trong năm UBND Huyện đã ban hành 11 quyết định giải quyết khiếu nại. Số vụ khiếu nại còn tồn đọng là 15 vụ, chiếm 8,9 %, chủ yếu ở cấp xã . *Tình hình tố cáo : tổng số đơn tố cáo trong năm là 7 đơn, trong đó huyện 2 đơn, xã 5 đơn, không có vụ việc tố cáo phức tạp đông người . +Kết quả xử lý tố cáo : Tổng số vụ việc tố cáo đã giải quyết là 6 đơn đạt 85,7% , trong đó cấp huyện đã giải quyết là 2 đơn đạt 100% cấp xã 4 đơn đạt 80%, tố cáo đúng là 3 vụ ,tố cáo sai là 3 vụ 2.2.3) Kết quả giải quyết khiếu nại ,tố cáo của huyện Điện Bàn trong năm 2007 : Thực hiện thẩm quyền theo quy định của Luật KN-TC và Nghị định 67/ 1999/NĐ-CP của Chính phủ, HĐND và UBND đã chỉ đạo các xã ,thị trấn và trực tiếp giải quyết 155 vụ ( 153 KN và 02 TC) ,đạt tỷ lệ 91 % số vụ thuộc thẩm quyền. Trong đó, Chủ tịch UBND huyện giao cho Thanh tra huyện xem xét đề xuất giải quyết theo thẩm quyền 16 vụ ( khiếu nại 14 ,tố cáo 02 ), đạt tỷ lệ 100% . Chủ tịch UBND 20 xã, thị trấn giải quyết 137 vụ, đạt 91%, trong đó khiếu nại 132 vụ, tố cáo 05 vụ. Thông qua việc tiếp nhận và giải quyết các vụ khiếu nại tố cáo của công dân cho thấy nội dung khiếu nại đúng chiếm tỷ lệ 49%, sai 25%; tố cáo đúng 43%, tố cáo sai 43%, tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết là 14%.Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của huyện Điện Bàn trong năm 2007 có nhiều tiến bộ. Việc tiếp nhận đơn và ghi chép đầy đủ, công tác giải quyết đơn đảm bảo thời gian theo luật định. Những kết quả giải quyết đều được đương sự chấp nhận. 2.2.4) Công tác tiếp dân 6 tháng đầu năm 2008 . -Trong 6 tháng đầu năm toàn huyện tiếp 865 lượt người giảm 1153 lượt chiếm 133,29%, trong đó chủ tịch UBND Huyệntiếp 43 lược người, thanh tra huyện tiếp 44 lượt người, các xã tiếp 778 lượt. -Qua công tác tiếp dân một số vấn đề nổi lên trong thời gian qua là những thắc mắc về quyền lợi, chế độ và đơn giá đền bù giải toả ở những địa phương có các chương trình dự án quy hoạch xây dựng. Các ý kiến thắc mắc của nhân dân đều được ghi vào sổ tiếp dân, với những nội dung liên quan thuộc thẩm quyền thì cán bộ tiếp dân giải thích hoặc hướng dẫn đương sự đến đúng cơ quan thẩm quyền., những trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp thì đề nghị đương sự viết thành đơn để đưa vào thụ lý giải quyết theo luật định. +Tình hình giải quyết khiếu nại,tố cáo: Trong 6 tháng đầu năm 2007,toàn huyện nhận được 279 đơn, trong đó phòng tiếp dân cơ quan Thanh tra huyện đã tiếp được 25đơn, xã thị trấn nhận 254 đơn .Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết là 44 đơn (39 đơn khiếu nại,5 tố cáo ),trong đó : -Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Huyện :7 đơn (6 KN ,5 TC) -Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của xã là :37 đơn (33 KN,4 TC),giảm 109 đơn so với cung kỳ năm trước (294,6%) -Số đơn thuộc thẩm quyền đã giải quyết (kể cả huyện và xã thị trấn ) là 34/44 đơn(31 KN, 3 TC), đạt 77,27%, trong đó : -Đơn thuộc thẩm quyền của huyện đã giải quyết 6/7 đơn (5 KN, 1 TC), đạt 85,71%. -Đơn thuộc thẩm quyền của xã, thị trấn đã giải quyết là 28/37 đơn (26 KN, 2 TC ), đạt 75,67%. +Nội dung khiếu nại tố cáo (44 vụ ): -Khiếu nại ,tố cáo về giải phóng mặt bằng ,tái định cư là 19 vụ chiếm 43,18%. -Khiếu nại tố cáo về quyền sử dụng đất là 14 vụ chiếm 31,81%. -Khiếu nại, tố cáo về chế độ, chính sách là 7 vụ chiếm 15,90%. -Khiếu nại, tố cáo về vấn đề khác là 4 vụ chiếm 9,41%. +Kết quả giải quyết khiếu nại, tố: +Kết quả giải quyết 34 vụ : -Số vụ việc KN,TC đúng :15 vụ chiếm 44,12%. -Số vụ việc KN, TC có đúng ,có sai :9 vụ chiếm 26,47%. -Số vụ việc KN, TC sai: 10 vụ chiếm 29,41%. - Số đơn thuộc thẩm quyền còn lại đang giải quyết là 10 đơn (8KN,2 TC) Trong 6 tháng đầu năm 2008 ,UBND Huyện đã ban hành 7 quyết định giải quyết khiếu nại và xử lý tố cáo 7/6 vụ . Việc giải quyết KN,TC của huyện Điện Bàn trong thời gian qua có nhiều chuyển biến tích cực, việc tiếp nhận đơn vào sổ theo dõi đầy đủ , giải quyết đơn tuy chưa đảm bảo thời gian theo Luật định nhưng hồ sơ giải quyết được chặt chẻ đầy đủ các yếu tố theo quy định. Sau khi giải quyết có 99% đương sự chấp nhận các quyết định kết luận giải quyết . 2.3/ Một số tồn tại trong việc tiếp công dân và giải quyết đơn thư KN,TC : Việc tổ chức tiếp công dân đã được quy định trong Luật KN,TC và NĐ 67/CP của Chính phủ . Trong thời gian qua các đơn vị địa phương đã có nhiều cố gắng song hiệu quả đem lại về công tác tiếp dân chưa cao. Nguyên nhân là việc phân công bố trí cán bộ làm công tác tiếp công dân còn yếu về năng lực, do vậy không thể giải quyết kịp thời các ý kiến phản ánh của nhân dân, hoặc lúng túng trong việc hướng dẫn nhân dân đến đúng cơ quan thẩm quyền để được giải quyết . Luật khiếu nại, tố cáo đã quy định rõ quyền KN,TC và thẩm quyền giải quyết, nhưng trong thời gian qua đơn gửi vượt cấp và gưỉ không đúng thẩm quyền vẫn còn xảy ra . Có một số vụ việc đơn giản thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp xã, nhưng khi giải quyết không được thấu đáo nên công dân lại tiếp tục gưỉ đơn đến cấp huyện, cấp tỉnh . Điều đó chứng tỏ hiện nay còn không ít địa phương chưa làm tốt công tác tuyên truyền Luật KN,TC . Một số trường hợp các cơ quan thẩm quyền đã giải thích,nhưng đương sự không thoả mãn và viết đơn khiếu kiện lên cấp trên. Nguyên nhân là do nhận thức chưa đúng về chế độ chính sách, pháp luật của Nhà nước như : Việc khiếu kiện đòi nhà đất do Nhà nước quản lý thuộc diện cải tạo trước đây, giá đền bù để giải toả ,di dời thấp ... Công tác phối kết hợp giải quyết đơn thư giữa các ngành chức năng chưa được thường xuyên . Một số đơn vị địa phương còn giản đơn trong việc giải quyết đơn thư KN,TC . Có trường hợp giải quyết không đúng theo trình tự quy định, thiếu chứng cứ khi xây dựng hồ sơ, nên khi kết luận vụ việc không được các bên đương sự chấp nhận . Nhất là trong giải quyết KN,TC cấp xã phần lớn chỉ dừng lại ở biên bản hoà giải chứ không ra quyết định giải quyết KN,TC để trả lời cho đương sự .Đối với vấn đề này, nguyên nhân là do thói quen trong việc giải quyết KN,TC theo Pháp lệnh KN,TC và việc tìm hiểu để nâng cao năng lực trong giải quyết đơn thư theo Luật KN,TC của một số cán bộ còn hạn chế .Mặc khác, hầu như công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư ở cấp xã đều giao cho cán bộ phụ trách công tác thanh tra xã, nhưng lực lượng này lại thường xuyên biến động và không có định biên nên hiệu quả công việc không cao . * NGUYÊN NHÂN YẾU KÉM, BẤT CẬP - Lãnh đạo một số ngành địa phương, nhất là cấp cơ sở chưa thật sự quan tâm đến việc tuyên truyền pháp luật nói chung, luật KN,TC nói riêng, nên vẫn còn tình trạng công dân, thậm chí có cả cán bộ công chức Nhà nước còn nhận thức sơ sài về quyền khiếu nại, tố cáo, không nắm được những chính sách những quy định mới của Đảng và Nhà nước nên dẫn đến tình trạng gởi đơn KN,TC vượt cấp, sai thẩm quyền và sai nội dung. - Một số thủ trưởng các cấp các ngành thiếu quan tâm trong việc giải quyết đơn thư KN,TC, coi việc KN,TC của công dân như một hình thức gây rối, làm mất đoàn kết nội bộ nên việc xem xét giải quyết thường thiếu khách quan, không tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công d - Nhiều địa phương, đơn vị cơ sở trình độ cán bộ tiếp dân và giải quyết KN,TC của công dân vừa thiếu lại vừa yếu về năng lực, trình độ chuyên môn coi công tác này là thứ yếu (họ thường làm công tác kiêm nhiệm). Một mặc Nhà nước chưa có chính sách đãi ngộ người làm công tác ở lĩnh vực này, nên không thu hút được những cán bộ có năng lực để làm công tác giải quyết đơn thư. Do đó, về năng lực của cán bộ và số lượng cán bộ thật sự còn khó khăn chưa đáp ứng ngang tầm với nhiệm vụ. - Thực tế cho thấy, thực hiện pháp luật về khiếu nại,tố cáo của công dân vẫn còn có nhiều tồn tại, thiếu sót, thậm chí còn nhiều hành vi vi phạm pháp luật.Ở nhiều nơi công tác quản lý của các cơ quan chức năng còn lõng lẽo, các cơ quan có thẩm quyền thiếu quan tâm ,thường " khoán trắng" cho cơ quan chức năng tham mưu, nhiều thủ tục còn làm phiền hà cho dân . Trong việc tiếp dân và xử lý đơn thư KN,TC của công dân chưa được kịp thời theo đúng pháp luật. - Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình hình trên là do công tác lãnh đạo, kiểm tra về trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng, và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác giải quyết KN,TC của công dân chưa được thường xuyên và nghiêm túc . Thực tế đã cho thấy địa phương nào, đơn vị nào mà ở đó người lãnh đạo có đạo đức cách mạng, có trình độ năng lực lãnh đạo, có tinh thần tích cực, biết bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp và quan tâm đến quyền và lợi ích của nhân dân thì nơi đó công tác giải quyết KN,TC sẽ tốt hơn . C. KẾT LUẬN Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là một quyền cơ bản và quan trọng nhất bởi vì chỉ khi quyền này được bảo đảm thực hiện thì các quyền khác về kinh tế, chính trị, văn hóa... mới được bảo đảm. Vì vậy Đảng ta luôn luôn có chủ trương, đường lối chính sách đúng đắn và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để tổ chức thực hiện, đồng thời có nhiều biện pháp hữu hiệu nhằm giải quyết tốt các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Qua đó nhằm giải thích những thắc mắc, những bất bình của nhân dân đối với cán bộ công chức và cơ quan Nhà nước làm cho nhân dân tin tưởng vào Đảng - Nhà nước, đồng thời qua giải quyết khiếu nại, tố cáo đã thu hút ngày càng đông và có hiệu qủa việc nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân nhằm góp phần ổn định tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy quá trình đổi mới của đất nước. Bên cạnh những mặt làm được, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại địa bàn Huyện vẫn còn những tồn tại thiếu sót, đó là: Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung và Luật khiếu nại, tố cáo nói riêng chưa được thường xuyên, chưa sâu rộng do đó dẫn đến nhiều đơn thư gửi vượt cấp, giải quyết sai thẩm quyền, không đúng trình tự. Mặt khác các văn bản pháp luật qui định về giải quyết khiếu nại, tố cáo ban hành chưa đầy đủ, còn nhiều sơ hở. Một số cán bộ chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa hết lòng phục vụ nhân dân, năng lực của một số cán bộ còn yếu, thiếu nhiều cán bộ chuyên làm công tác thanh tra xét khiếu tố. Từ yêu cầu đặt ra của Luật khiếu nại, tố cáo và Nghị định 67/CP ngày 7/8/1999 của Chính phủ trên cơ sở thực tiễn công tác xét khiếu tố ở Huyện Điện Bàn. Tôi xin đưa ra một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Huyện trong thời gian tới, đó là: - Tiếp tục đẩy mạnh và thường xuyên tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung và Luật khiếu nại, tố cáo nói riêng trong cán bộ công chức Nhà nước và rộng rải trong mọi tầng lớp nhân dân. - Đổi mới, cải cách thủ tục hành chính trong việc tiếp công dân, tiếp nhận xử lý đơn khiếu tố ở các cấp, các ngành và đơn vị ở cơ sở. - Đào tạo bồi dưỡng và tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cấp, các ngành. - Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là góp phần vào việc nâng cao hiệu qủa quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tại khoá luận này tôi chỉ nêu lên một số giải pháp chủ yếu với mong muốn đóng góp một vài ý kiến nhỏ vào việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong thời gian tới trên địa bàn Huyện nhà .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới ở việt nam.DOC
Luận văn liên quan