Biện pháp điều tra là biện pháp dung để xác định diễn biến
thực tế của vụ việc khi mà các bên không có quan điểm thống
nhất. Có thể nói biện pháp điều tra chỉ là giai đoạn đầu trong giải
quyết tranh chấp, do vậy ngày nay nó đã không được sử dụng như
một biện pháp riêng biệt mà được ghép vào các hình thức giải
quyết tranh chấp khác như trọng tài hay tòa án
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3096 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những vấn đề chung về PCA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thủ tục
Theo nguyên tắc của PCA, phía nguyên đơn – bên đề xướng
tranh chấp - phải có thông báo về việc tranh chấp cho phía bên kia
- bên bị đơn. Thông báo phải bao gồm những thông tin sau:
- Yêu cầu tranh chấp phải được giao cho trọng tài xét xử.
- Tên và địa chỉ của các bên.
- Liên hệ đến một điều khoản hay thoả thuận về tranh chấp.
- Liên hệ tới điều ước, thoả thuận, ký kết hoặc các văn kiện pháp lý
khác có liên quan đến tranh chấp phát sinh.
- Bản chất chung của vụ việc và chỉ ra mức độ liên quan
- Tìm kiếm sự hỗ trợ và biện pháp khắc phục.
- Đề nghị số lượng trọng tài.
Những quy định trên gần như được dẫn nguyên văn các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp của UNCITRAL, bởi các quy
định này được thực hiện trong tranh chấp thương mại, hướng tới
15
thừa nhận giải quyết tranh chấp dựa trên điều khoản tranh chấp
trong tương lai có trong hợp đồng thương mại. Trong trường hợp
tranh chấp được đưa ra theo thoả thuận, đặc biệt liên quan đến các
quốc gia, không bên nào được chỉ định là nguyên đơn hay bị đơn.
2.2 – Thành lập trọng tài
- Các bên có thể thoả thuận đưa ra quy định thành lập toà án trọng
tài. Theo như Công ước 1899 và 1907, các bên chỉ có thể lựa chọn
trọng tài theo danh sách mà PCA đưa ra. Tuy nhiên, quy định này
đã không còn từ rất lâu.
- Cách thành lập một toà án trọng tài cơ bản được phản ánh trong
Công ước 1899 và 1907 và nhiều nguyên tắc của PCA liên quan
đến sự sắp xếp của mỗi bên. Trong số các trọng tài mà các bên chỉ
định sẽ lựa chọn ra một trọng tài chủ trì. Các bên có thể thoả thuận
số lượng trọng tài (trọng tài duy nhất, ba trọng tài). Thường chỉ
trong trường hợp tranh chấp giữa các quốc gia thì toà sẽ có 5 trọng
tài.
- Nếu các bên không thể lựa chọn, toà sẽ có 3 trọng tài. Nếu thiếu
sự đồng tình của trọng tài thứ 3 hoặc do một trong hai bên không
thể chỉ định trọng tài, các bên sẽ cùng xác định thẩm quyền lựa
chọn trọng tài hoặc theo như quy định của UNCITRIAL, thư ký
thường trực của PCA sẽ thực hiện vấn đề này.
- Nếu các bên đồng ý giải quyết tranh chấp của họ trước trọng tài
duy nhất, họ có thể lựa chọn dựa trên thoả thuận chung, nếu thoả
thuận thất bại, họ sẽ uỷ thác cho người có thẩm quyền. Theo các
nguyên tắc của UNCITRIAL, thẩm quyền trong việc sắp xếp trọng
16
tài là việc sử dụng một “list procedure”, qua đó, các bên nhận
được một danh sách chính có ít nhất tên của 3 người, và nhiệm vụ
của họ là phải phản đối hoặc chấp nhận những ai trong danh sách
đó.
- Tuy nhiên, các bên có thể đưa ra một giải pháp khác trong việc
lựa chọn các trọng tài. Các bên có thể quy định bất kỳ các trọng tài
có chuyên môn đặc biệt trong lĩnh vực đang xảy ra tranh chấp và
giới hạn quốc tịch của họ. Vấn đề quốc tịch đặc biệt quan trọng
trong các trường hợp nhạy cảm về mặt chính trị, vì vậy,
UNCITRIAL quy định, việc lựa chọn trọng tài phải được cân nhắc
kỹ lưỡng để đảm bảo cho sự độc lập, công bằng của trọng tài.
Ví dụ, các quy định không bắt buộc trong giải quyết tranh
chấp liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường năm 2001
quy định thành lập hội đồng trọng tài có kinh nghiệm và chuyên
môn về luật môi trường hoặc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên do các
quốc gia hoặc Tổng thư ký bổ nhiệm, nhưng cũng không yêu cầu
nhất thiết phải lựa chọn trọng tài từ hội đồng này.
2.3 – Phản đối trọng tài
Theo quy định của PCA, một bên có thể phản đối một trọng
tài nếu họ có nghi ngờ chính đáng về tính công bằng hay độc lập
của trọng tài đó. Nếu bên kia cũng đồng tình với sự phản đối này,
hoặc bản thân trọng tài đó tự rút khỏi vụ việc thì một trọng tài mới
sẽ được chỉ định theo cách mà trọng tài trước đó đã được chỉ định.
Mặt khác, phản đối sẽ được quyết định một lần nữa bởi người có
17
thẩm quyền trong hội đồng trọng tài, cũng như sự chấp thuận lẫn
nhau giữa các bên hoặc sự chấp nhận của Tồng thư ký PCA.
2.4 – Các biện pháp tạm thời
Theo quy định của PCA, Toà có thể yêu cầu một bên áp dụng
những biện pháp tạm thời cần thiết cho việc bảo đảm quyền lợi
riêng của từng bên hoặc những vấn đề chính trong tranh chấp
thông qua việc đưa ra các tuyên bố tạm thời. Hầu hết, các nguyên
tắc của PCA đều quy định rằng, các bên đều có thể hạn chế quyền
này của toà bằng những thoả thuận chung.
Trong các tranh chấp thương mại, các biện pháp tạm thời có
thể bao gồm việc gửi hàng hoá nhờ một bên thứ 3 hoặc bán các
loại hàng hoá có thể bị hư hại. Ví dụ, trong các quy phạm về Tài
nguyên thiên nhiên và môi trường có quy định toà được phép đưa
ra bất cứ yêu cầu nào về việc áp dụng “các biện pháp tạm thời để
đảm bảo quyền lợi của mỗi bên và ngăn ngừa sự nguy hại nghiêm
trọng đến môi trường nằm trong các vấn đề chính của vụ tranh
chấp.”
Trong mọi trường hợp, toà có thể yêu cầu các bên phải đảm
bảo đầy đủ chi phí liên quan tới việc thực hiện các biện pháp tạm
thời đó.
Bởi toà án trọng tài thường gặp nhiều khó khăn trong việc ép
buộc áp dụng các biện pháp tạm thời, tất cả các quy tắc giải quyết
tranh chấp của PCA đều dựa vào các quy tắc giải quyết của
UNCITRIAL: việc yêu cầu biện pháp tạm thời của bất cứ bên nào
18
tới người có thẩm quyền xét xử sẽ không được xem là không hợp
với thoả thuận xét xử hoặc sự từ bỏ thoả thuận đó.
2.5 – Preliminary Objections
Các quy tắc của PCA có quy định thủ tục ban đầu về việc xác
lập thẩm quyền xét xử. Những viện lẽ cho việc thiếu thẩm quyền
xét xử của toà phải được đưa ra trước khi quá trình biện hộ hoặc
được đề cập trong sự phản hồi đối với tuyên bố phản đối.
2.6 – Nơi tiến hành xét xử
Việc xét sử sẽ diễn ra tại Hague, Hà Lan nếu các bên không có
thoả thuận khác. Tuy nhiên, vẫn có sự linh hoạt đáng kể cho các
bên và toà trọng tài trong việc quyết định cụ thể nơi xét xử cho các
phiên điều trần, phiên gặp gỡ, tranh cãi. Như đã được nhắc tới ở
trên, trong các vụ việc cụ thể, nơi xét xử có thể ảnh hưởng tới luật
thủ tục áp dụng.
2.7 – Tranh tụng viết (written pleadings)
Nguyên đơn sẽ phải trình đơn kiện và sau đó thì bị đơn đưa ra
ý kiến phản bác. Đơn kiện phải bao gồm những thông tin sau:
a. Tên và địa chỉ của các bên
b. Trình bày sự việc
19
c. Các vấn đề đang tranh cãi
d. Hỗ trợ và biện pháp khắc phục
Kèm theo đơn kiện là những văn kiện có liên quan, bao gồm cả
việc chấp thuận thẩm quyền xét xử của toà.
Ý kiến phản bác của bị đơn phải bao gồm các mục b, c, d như
trong đơn kiện của nguyên đơn, kèm theo các văn kiện, chứng cớ
có liên quan mà bị đơn có ý định đưa ra. Đơn phản bác cũng có thể
có một “counter – claim” phát sinh từ một điều ước, thoả thuận, ký
kết hoặc các văn kiện pháp lý tương tự hoặc một tuyên bố phản
kiện. Cả hai đều phải thoả mãn những yêu cầu thủ tục của một
tuyên bố phản bác bình thường.
Các bên có thể sửa đổi, bổ sung văn bản đệ trình bất cứ lúc nào
trừ khi toà thấy việc sửa đổi, bổ sung là không thích đáng và làm
chậm trễ sự trình bày của các bên, gây thiệt hại cho các bên.
Không có trường hợp việc sửa đổi, bổ sung vượt quá thẩm quyền
xét xử của toà. Toà có thẩm quyền quyết định có nên bổ sung thêm
một văn bản đệ trình nào không.
Mặc dù PCA có quy định thời hạn của việc trình lên các văn
bản tranh tụng, nhưng trong vấn đề này, toà thường họp các bên
lại, tham khảo ý kiến để đưa ra quyết định. Điều này không được
quy định trong luật nhưng trong thực tế vẫn thường được áp dụng.
Nếu tranh tụng viết có quá nhiều phần, các bên thường hỏi ý kiến
toà và xin đăng ký quyết định có đưa trực tiếp các pleadings cho
nhau và các thành viên của toà hay không.
2.8 - Thẩm vấn trước toà (phiên điều trần)
20
Các bên được phép yêu cầu một phiên thẩm vấn trước toà.
Trong trường hợp không có yêu cầu nào, toà sẽ quyết định có tổ
chức thẩm vấn hay không hay là chỉ xét xử đơn độc hoặc hướng
dẫn thủ tục dựa trên các văn bản đệ trình, các tài liệu và văn kiện
liên quan. Tuy nhiên, trên thực tiễn, hiếm khi nào các bên hoặc toà
bỏ qua phần “hearings”.
Những chi tiết cụ thể về thủ tục trong phiên điều trần thường
được các bên, toà án trọng tài đưa ra tỉ mỉ trong cuộc họp trước
phiên điều trần. Toà có thể linh hoạt điều khiển các thủ tục đó.
Điều 15: “provided that the parties are treated with equality
and that at any stage of the proceedings each party is given a full
opportunity of presenting its case.”
Luật cũng quy định về việc trình bày của các nhân chứng và
các chuyên gia. Nếu một bên có nhân chứng, thì họ phải báo cho
toà và bên kia ít nhất là sớm trước 30 ngày về tên tuổi và địa chỉ
của nhân chứng cũng như vấn đề mà họ làm chứng.
2.9 – Language of the Proceedings
Có thể được các bên thoả thuận. Nếu không có thoả thuận nào,
toà sẽ tự quyết định.
2.10. Sự can thiệp của bên thứ ba
21
Mặc dù, trong thủ tục xét xử của PCA không có quy định về sự
can thiệp của bên thứ ba, tuy nhiện, nếu tranh chấp xảy ra giữa hai
bên trở lên, các bên có thoả thuận, tranh chấp sẽ được giải quyết
tại PCA.
3 – PHÁN QUYẾT CỦA TOÀ
3.1 – Phán quyết
Phán quyết cuối cùng của toà được thông qua bởi đa số thành
viên trong hội đồng trọng tài, được thể hiện trên văn bản, phải bao
gồm lý do của phán quyết trừ khi các bên không có yêu cầu. Trong
khi các Công ước 1899, 1907 đều quy định rằng, phán quyết phải
công khai thì PCA lại yêu cầu các bên phải có thoả thuận về vấn
đề các lý do có cần phải công khai hay không.
Phán quyết là cuối cùng và ràng buộc các bên, các bên phải thi
hành mà không có sự trì hoãn nào.
Nếu các bên đã đạt được một thoả thuận nào đó trước khi toà
kết thúc xét xử thì họ có thể yêu cầu toà ghi lại thoả thuận đó dưới
dạng quyết định về những điều kiện đã thoả thuận.
3.2 - Giải thích và sửa đổi
Sau khi phán quyết được đưa ra, các bên có thể yêu cầu toà
giải thích phán quyết hoặc sửa các lỗi trong tính toán, biên chép,
lỗi in hoặc yêu cầu một phán quyết bổ sung được đưa ra trong quá
trình xét xử nhưng đã bị bỏ sót trong phán quyết. Toà cũng có
quyền chủ động sửa lại các lỗi trong phán quyết trong vòng 30
ngày kể từ ngày đưa ra phán quyết.
22
3.3 - Kháng án
Phán quyết là cuối cùng và có tính ràng buộc, vì vậy các bên
không có quyền kháng án.
3.4 - Thi hành phán quyết
Các bên phải đảm bảo thi hành phán quyết mà không có sự trì
hoãn nào.
Các phán quyết trong các vụ liên quan đến các bên tư nhân
cũng được thi hành giống như các phán quyết giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế.
Trong một chừng mực nào đó, luật giải quyết tranh chấp tại
nơi xảy ra tranh chấp có quy định rằng, phán quyết phải được
trình lên hoặc được đăng ký, các quy phạm có liên quan quy định
rằng toà án phải có trách nhiệm trong vấn đề này.
Việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử bởi các quốc gia và các tổ
chức phi chính phủ đạt được từ một thoả thuận giải quyết bằng
trọng tài theo quy chế của PCA không dẫn tới việc từ bỏ sự miễn
trừ thi hành.
B. Những case cụ thể
B1. Eritrea/Yemen
I) Giới thiệu chung
Vụ Eritrea/Yemen là một trong số những vụ có tính chất quan
trọng nhất trong lịch sử trọng tài thế giới. Tòa trọng tài gồm 5
thẩm phán trong vụ việc này đã đưa ra hai phán quyết trong hai
giai đoạn:
23
Một là, phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh
chấp” đưa ra ngày 9/10/1998.
Hai là, phán quyết về “Phân định biên giới biển” đưa ra ngày
17/12/1999.
II) Xác lập tòa trọng tài
Dựa trên thỏa thuận trọng tài giữa chính phủ Eritrea và chính phủ
Cộng hòa Yemen vào ngày 3/10/1996, thỏa thuận này là sự tiếp
nối của thỏa thuận về những nguyên tắc chung giữa Eritrea/Yemen
tại Paris ngày 21/5/1996.
III) Thủ tục xét xử
Eritrea và Yemen, hai bên cam kết không sử dụng vũ lực để giải
quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và đường biên giới biển; đã
quyết định thông qua thoả thuận trọng tài và thành lập Toà trọng
tài.
Toà mở phiên họp đầu tiên vào ngày 14 tháng 1 năm 1997 tại
Luân đôn, Anh.
[Phần 5, Phán quyết ] Bốn trọng tài viên của Toà trọng tài
bàn bạc, trao đổi, phê chuẩn, thông qua các hoạt động được uỷ
quyền. Theo điều 7.2 Thoả thuận trọng tài, Toà chỉ định Tổng thư
ký Mr Jonkman của Toà trọng tài Thường trực (PCA) tại Hague và
Thư ký thứ nhất của PCA, Ms Bette E. Shifman lần lượt là người
24
lưu trữ hồ sơ và thư ký của Toà. Địa điểm đăng ký hồ sơ của Tòa
là tại Ban Quốc tế của PCA.
[Phần 6, Phán quyết ] Toà thông báo với hai đại diện của
Eritrea và Yemen về việc thành lập Toà và thảo luận một vài vấn
đề thực tế liên quan đến quá trình tố tụng trọng tài.
[Phần 7, Phán quyết] Điều 2 Thoả thuận trọng tài quy định:
1. Quyết định của Toà trọng tài phải phù hợp với những điều
khoản của Luật quốc tế, theo 2 giai đoạn.
2. Giai đoạn 1, Toà sẽ đưa ra phán quyết về chủ quyền lãnh thổ và
định nghĩa về phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen. Toà sẽ
quyết định chủ quyền lãnh thổ phù hợp với những nguyên tắc, quy
định và thực tiễn luật quốc tế áp dụng trong vụ việc này; cụ thể
trên cơ sở các danh nghĩa lịch sử. Toà sẽ quyết định về định nghĩa
phạm vi tranh chấp trên cơ sở quan điểm của 2 bên.
3. Giai đoạn 2, Toà sẽ đưa ra phán quyết về phân định đường biên
giới biển. Toà sẽ quyết định cân nhắc quan điểm của mình về các
vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Công ước Luật biển của Liên Hợp
quốc và những nhân tố phù hợp khác.
[Phần 8, Phán quyết ] Các bên cùng nộp Bản tranh tụng liên
quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp vào ngày 1
tháng 9 năm 1997 và Bản phản biện vào ngày 1 tháng 12 năm
1997. Phiên tranh tụng giai đoạn 1 sẽ diễn ra tại Luân đôn từ ngày
26 tháng 1 đến ngày 06 tháng 2 năm 1998. Theo bốc thăm, Eritrea
sẽ trình bày trước.
[ Phần 9, Phán quyết ] Vào cuối phiên họp ngày 6 tháng 02 năm
1998, theo điều 8.3 của Thoả thuận trọng tài, Toà kết thúc phần
tranh tụng trong giai đoạn 1 của quá trình tố tụng trọng tài giữa
25
Eritrea và Yemen. Tuy nhiên, vào cuối phiên tranh tụng, toà yêu
cầu 2 bên phải nộp văn bản trả lời những câu hỏi của Toà trước
ngày 23 tháng 02 năm 1998, trong đó bao gồm câu hỏi liên quan
đến sự tồn tại của các thỏa thuận về thăm dò và khai thác dầu mỏ.
Cũng theo điều 8.3, Toà có quyền yêu cầu các bên thể hiện quan
điểm của mình bằng văn bản để làm sáng tỏ bất kỳ khía cạnh nào
của các vấn đề trước Toà.
[Phần 10, 11 Phán quyết ] Theo thoả thuận của 2 bên,
Yemen sẽ trình bày lập luận trước liên quan đến nhượng quyền
thăm dò và khai thác dầu mỏ liên đới tới phán quyết về chủ quyền
lãnh thổ trong các phiên tranh tụng .
+ Toà đặt ra một loạt câu hỏi về việc giải thích bằng chứng
nhượng quyền và yêu cầu 2 bên trả lời bằng văn bản trong vòng 7
ngày kể từ khi kết thúc phiên tranh tụng. Và như vậy, theo quy
định, 2 bên phải nộp văn bản trả lời vào ngày 17 tháng 7 năm
1998. Nhưng trên thực tế, Eritrea đã nộp muộn vì có bản phụ lục
đi kèm. Ban Quốc tế của PCA đã nhận được bản phụ lục vào ngày
22 tháng 7 năm 1998; còn Yemen nộp văn bản muộn hơn nữa:
ngày 30 tháng 7 năm 1998. Eritrea phản đối việc nộp hồ sơ muộn
này của Yemen.
[Phần 12, Phán quyết ] Trong quá trình tranh tụng bổ sung
vào tháng 11 năm 1998, Toà thông báo cho các bên ý định liên hệ
với Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập để đảm bảo cho sự tồn tại và
muốn lấy bản copy của bất kỳ báo cáo chính thức nào của Liên
đoàn về các chuyến viếng thăm đến một vài hòn đảo đang bị tranh
chấp, đặc biệt vào những năm 70.
+ Ngày 20 tháng 7, Toà gửi fax đến Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập.
26
+ Ngày 28 tháng 7, Văn bản trả lời của Tổng thư ký đã được
chuyển tới các đồng đại diện của 2 nước và các thành viên của
Toà.
I
IV) Cơ cấu của hội đồng xét xử
Theo điều 1 của thỏa thuận trọng tài, Eritrea đã chỉ định hai trọng
tài viên là thành viên là chủ tịch và thẩm phán của ICJ là ngài
Stephen M.Schwebel và Rosalyn Higgins, phía Yemen chỉ định
hai luật sư đó là ngài Keith Highet và tiến sĩ Ahmed Sadek El-
Kosheri.
Ngày 14/1/1997 bốn trọng tài viên đã đề cử cựu chủ tịch của ICJ
Sir Robert Y.Jennings là chủ tịch của tòa trọng tài. Ngài tổng thư
kí của tòa PCA (Permanent Court of Arbitration) Hans Jonkman
được đề cử là người lưu trữ các tài liệu và thư kí tòa là cô Bette
Shifman. London được chọn là nơi diễn ra quá trình xét xử của tòa
trọng tài.
V) Yêu cầu của các bên
Theo quy định của điều 2 thỏa thuận trọng tài, Eritrea và Yemen
yêu cầu tòa phân định tranh chấp theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1,
tòa được yêu cầu quyết định xem những vấn đề về chủ quyền lãnh
thổ trên cơ sở những chủ quyền có tính chất lịch sử theo những
quy định, thủ tục và thực tiễn luật pháp quốc tế có thể được áp
27
dụng cho vụ việc đồng thời xác định phạm vi của tranh chấp trên
cơ sở quan điểm rõ ràng của các bên.
VI) Phán quyết về vụ Eritrea/Yemen giai đoạn 1:
Bản phán quyết này được nhiều chuyên gia đánh giá là một “kiệt
tác” về luật với 157 trang chia thành 528 đoạn được phân bổ trong
11 chương.
Chương I: Việc tổ chức toà trọng tài và lập luận của các bên
Mở đầu
1. Phán quyết này được đưa ra theo thỏa thuận về việc thành lập
tòa trọng tài ngày 3 tháng 10 năm 1996 giữa chính phủ Eritrea và
chính phủ Yemen.
2. Eritrea và Yemen đã kí trước đó thỏa thuận về các nguyên tắc
chung tại Paris ngày 21 tháng 5 năm 1996, có chính phủ CH Pháp,
Ethiopia và CH Arab Ai Cập. Các bên đã tuyên bố sẽ nhờ vậy vào
luật pháp để bảo đảm với nhau việc hòa giải các tranh chấp về các
vấn đề chủ quyền lãnh thổ và việc giới hạn biên giới trên biển một
cách hòa bình. Các bên đã đồng ý thiết lập một thỏa thuận về việc
thành lập một tòa trọng tài. Thỏa thuận về các nguyên tắc chung
còn quy định rằng:
1) Tòa trọng tài được yêu cầu đưa ra những quyết định phù hợp
với luật quốc tế theo hai giai đoạn.
28
2) Giai đoạn đầu tiên sẽ đi đến một quyết định về chủ quyền lãnh
thổ và về việc xác định phạm vi tranh chấp giữa Eritrea và Yemen.
Tòa phải quyết định chủ quyền lãnh thổ theo các nguyên tắc, luật
định và thực tiễn của luật quốc tế có thể được áp dụng với vấn đề
đó và đặc biệt là trên cơ sở những văn tự có giá trị lịch sử (historic
titles). Tòa phải quyết định về việc xác định phạm vi của tranh
chấp trên cơ sở quan điểm tương ứng của mỗi bên (on the basis of
the respective positions of the two Parties).
3) Giai đoạn thứ hai phải đi đến một quyết định về giới hạn biên
giới trên biển. Tòa phải quyết định tính đến ý kiến…
8) Theo bảng thời gian đã quy định trong thỏa thuận trọng tàu cho
những giai đoạn khác nhau của xét xử, các bên trình bản kiến nghị
liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và phạm vi tranh chấp đồng thời
vào ngày 1/9/1997 và bản phản-kiến nghị vào 1/12/1997. Theo
quy định trong điều 7.1 thỏa thuận trọng tài, tòa trọng tài đặt tại
London.
Lập luận của các bên về chủ quyền lãnh thổ
13) Eritrea dựa trên những tuyên bố của họ về chủ quyền lãnh thổ
đối với những hòn đảo trên biển Đỏ theo một loạt những tuyên bố
trải dài hơn 100 năm và những nguyên tắc về chiếm giữ hữu hiệu
(effective occupation) của luật quốc tế. Eritrea quả quyết rằng
quốc gia này kế thừa quyền sở hữu những hòn đảo này vào năm
1993 khi mà Eritrea tuyên bố độc lập hợp pháp từ Ethiopia.
Ethiopia về phần mình đã thừa kế quyền sở hữu của chính nó từ
29
Italy, mặc cho một giai đoạn bị quân Anh chiếm đóng Eritrea
trong toàn bộ CTTG II. Quyền sở hữu của Italy được tuyên bố…
15) Eritrea quả quyết rằng, không tranh chấp chủ quyền của đế chế
Ottaman, Italy cũng đã duy trì một sự có mặt tích cực (active
presence) ở những hòn đảo trên biển Đỏ khác vào thời gian đó.
Những con tàu lớn của Italy đã tuần tiễu ở những vùng nước xung
quanh khu vực đó để truy quét hải tặc, bọn buôn bán nô lệ và
những nhóm phiến loạn và quyền quản lý thuộc địa có vẻ đã gây
ra sự nhượng bộ cho việc khai thác thương mại. Theo Eritrea, lúc
đó không có một tuyên bố hoặc sự hiện diện nào của Yemen trên
và xung quanh những đảo đó trong suốt thời gian đã nêu. Iman
Yahya, người đã thành lập nhà nước Yemen hiện đại đã chiếm cứ
một vùng cao nguyên có tên là Gebel và theo Eritrea, Iman Yahya
đã công khai thừa nhận những vùng đất thấp duyên hải có tên là
Tiham không phải thuộc chủ quyền của ông ta. Việc dàn xếp về
đất đai đã được xác nhận thông qua “Hiệp ước Da’an” vào năm
1911, một biên bản hiểu biết giữa Đức vua và Đế chế Ottaman.
16) Eitrea quả quyết rằng sự suy yếu của Đế chế Ottoman trong
nhiều năm bởi CTTG I đã khiến cho Italy lên kế hoạch xâm chiếm
một tập hợp các đảo có tên gọi là “Zuqar-Hanish”. Những mưu đồ
này đã không trở thành hiện thực bởi việc chiếm đóng của quân
đội Anh namư 1915…
17) Vấn đề về chủ quyền đối với những hòn đảo được hình thành
trong thời kì hậu CTTG I đã lên đến cực điểm khi Hiệp ước
Lausanne được kí kết vào năm 1923. Trong khi các vùng đất cũ
của Đế chế Ottoman bại trận được chia đều cho những kẻ thống trị
bản địa đã có công ủng hộ Đồng Minh, Eritrea cho rằng không
một nhà cầm quyền nào ở bán đảo Arab đã ủng hộ Đồng Minh có
30
sự gần gũi thích hợp về mặt địa lý đối với những hòn đảo này để
được xem xét như những người nhận đất hợp pháp.
18) Eritrea chỉ ra rằng sự thất bại của Anh trong việc thuyết phục
những nước Đồng Minh còn lại để chuyển giao những hòn đảo
này cho những kẻ thống trị Arab được nước Anh lựa chọn hoặc
cho chính bản thân quôc gia này thông qua hiệp ước Sèvres chưa
được phê chuẩn năm 1920 và những cuộc đàm phán đã dẫn đến
việc kí kết Hiệp ước Lausanne vào năm 1923. Eritrea tin rằng điều
6 và 16 Hiệp ước Lausanne đã mở đường cho việc Italy chiếm
đóng những hòn đảo này. Điều 6 đã thiết lập một quy tắc chung
rằng trong những điều khoản của Hiệp ước, “những đảo lớn và đỏa
nhỏ nằm trong phạm vi 3 dặm tính từ bờ biển là thuộc chủ quyền
của quốc gia duyên hải”. Eritrea giải thích điều khoản này…
19) Điều 16 của Hiệp ước Lausanne chứa đựng một sự từ chối rõ
ràng của Thổ Nhĩ Kì về mọi quyền lợi và sở hữu đối với những
vùng đất đai và đảo của Đế chế Ottoman cũ và đã quy định rằng
tương lai của những lãnh thổ đó sẽ được dàn xếp bởi các bên có
liên quan. Eritrea lập luận rằng bởi vì điều 16 không hề chuyển
những hòn đảo này cho bất cứ một nhà nước đặc biệt nào và
không chỉ rõ bất cứ một thủ tục nào để chuyển nhượng quyền sở
hữu đối với những hòn đảo này, việc này hoàn toàn thuộc về
những tiêu chuẩn chung của luật quốc tế về chiếm hữu lãnh thổ
bao gồm chinh phục, chiếm hữu hữu hiệu và sự định vị trong lãnh
hải.
22) Hiệp định giữa Anh và Italy năm 1938 cũng chứa đựng một
cam kết rõ ràng về cả hai phía với sự tôn trọng những hòn đảo trên
biển Đỏ của Đế chế Ottoman rằng không được phép thiết lập chủ
quyền và có những hành động mạnh mẽ hoặc tự vệ. Trong quan
31
điểm của Eritrea, điều này không phải đã cấu thành một sự từ bỏ
(relinquishment) của những quyền đang tồn tại mà đơn giản đó chỉ
là một thỏa ước về cách cư xử trong tương lai. Eritrea còn chứng
minh vào thời điểm thỏa thuận Anh-Italy được kí kết, chủ quyền
của Italy đã được thiết lập thông qua những sắc lệnh số 1446 vào
tháng 12 năm 1938…
23) Eritrea cho rằng việc quân Anh chiếm đóng nước này trong
thời gian đầu của CTTG II là hoàn toàn phù hợp với luật chiếm
đóng trong quá trình xung đột. Mọi biên giới lãnh thổ của Eritrea,
bao gồm các hòn đảo là không đổi và quyền sở hữu của chúng đơn
giản là chuyển giao cho Ethiopia khi hai thực thể sáp nhập thành
nhà nước liên bang.
24) Eritrea còn cho rằng Hiến pháp 1952 của mình đã xác nhận
các hòn đảo đó là thuộc về lãnh thổ của Eritrea. Hơn nữa, người
viết câu “Eritrea bao gồm các hòn đảo” là một cố vấn pháp lý của
Ethiopia, ông John Spencer.
25) Một căn cứ pháp lý khác mà Eritrea căn cứ vào đó là luật tập
quán quốc tế. Rằng tất cả các hòn đảo đều nằm trong lãnh hải của
Eritrea. Các hòn đảo này đều nằm trong lãnh hải 12 hải lý của
Eritrea và đương nhiên thuộc về chủ quyền lãnh thổ của nước này.
26) Trong vòng 35 năm từ 1953 cho đến khi Eritrea tuyên bố độc
lập vào năm 1991, nước này cho rằng mình đã có những hành
động thể hiện chủ quyền đối với những hòn đảo này. Bao gồm rất
nhiều tàu tuần tiễu trên vùng biển này tăng một cách liên tục có hệ
thống mà không hề gặp một cản trở nào, thêm vào đó vào năm
1967, căn cứ theo việc chuyển giao quyền quản lý những hải đăng
cho Asmara bởi Ban thương mại Anh, Ethiopia đã tiến một bước
dài trong việc củng cố chủ quyền của mình lên các đảo này…
32
27) Eritrea cho rằng trong suốt những năm 1970 cả hai nước
Yemen và những đồng minh trong khu vực đều thừa nhận sự kiểm
soát ccủa Ethopia đối với những hòn đảo bằng những tuyên bố và
hành động. Nước này viện dẫn rằng, mãi đến những năm 70 của
thế kỉ XX, Bắc Yemen và Nam Yemen mới có những thể hiện về
quyền lợi của hai nước này đối với những hòn đảo… Để chứng
minh cho những quan điểm của mình, Eritrea đưa ra lập luận rằng
những quốc gia arab này không cáo buộc Ethiopia “dâng” những
hòn đảo này cho Israel nhưng đã cho phép Ethiopia xem xét những
hòn đảo để thanh tra những hoạt động quân sự của Israeli.
28) Eritrea nhận định rằng trong những năm cuối trong giai đoạn
1970 trước khi Eritrea tuyên bố độc lập, đã có những cuộc thanh
sát bằng đường không và đường thủy bởi quân đội Ethiopia một
cách rõ ràng.
29) Eritrea cho rằng mãi đến tháng 12/1995, nước này mới nhận
thấy sự “hiện diện chính thức” của một số ít hải quân của Yemen
và điều này đã làm nổ ra xung đột giữa hai quốc gia và kết quả
cuối cùng là mỗi quốc gia chiếm một trong những đảo chính ở
vùng biển này. Điều này chứng tỏ bất chấp những hoạt động có
tính truyền thống và lâu đời của những ngư dân Eritrea cũng như
lực lượng chức năng của nước này nhằm duy trì an ninh và sự ổn
định cho vùng biển có những hòn đảo thì Yemen vẫn có chủ quyền
thông qua chiến tranh…
31) Về phần mình, Yemen chủ yếu dựa trên những lập luận về
những tuyên bố có tính chất lịch sử, truyền thống và riêng biệt của
mình. Yemen viện dẫn điều 2(2) của thỏa thuận trọng tài trong đó
nhấn mạnh tính quan trọng của những “tuyên bố có tính chất lịch
sử” (historic titles) từ thế kỉ thứ VI trước công nguyên căn cứ vào
33
những chứng cứ về hải đồ, tuyên bố của vua Iman xứ Yemen và
“thái độ của những quốc gia thứ ba trong suốt một thời gian dài.”
32) Yemen cho rằng bất chấp những lần sáp nhập của nước này
vào đế chế Ottoman, bao gồm hai lần vào giai đoạn 1538 circa
1635, và 1872 đến 1918 không hề làm mất đi những chủ quyền
lịch sử của nước này đối với những hòn đảo. Yemen quả quyết
rằng việc đế chế Ottoman thành lập một tỉnh (vilayet) Yemen
đồng nghĩa với việc Ottoman thừa nhận tính chất riêng biệt của
Yemen như một đơn vị hành chính và lãnh thổ đơn lẻ, không dính
líu tới đế chế này. Lập luận này có cơ sở khoa học là những văn
của thế kỉ 17, 18, 19 và một số bản đồ.
33) Để tăng thêm tính thuyết phục cho những khẳng định của
mình, Yemen còn dẫn ra việc vua Imam đã bị Anh quốc từ chối lời
đề nghị bổ sung một phần phụ lục bí mật liên quan đến những hòn
đảo này trong hiệp định với Anh quốc năm 1934. Và yêu cầu rằng
vấn đề liên quan đến những hòn đảo này sẽ được giải quyết theo
điều 16 của hiệp ước Lausanne.
34) Yemen cho rằng điều đó không cấu thành sự từ chối chủ
quyền mang tính truyền thống của mình bởi những tài liệu nêu trên
trong giai đoạn 1933 đến 1937 của nhà cầm quyền Anh quốc chỉ
là một sự miễn cưỡng không thừa nhận chủ quyền của Yemen.
Yemen còn cho rằng hiệp ước Lausanne không có ảnh hưởng đến
chủ quyền của mình đối với những hòn đảo bởi vì Yemen không
phải là một thành viên của hiệp wocs này và sự từ bỏ quyền của
Thổ Nhĩ Kì không thể làm thay đổi lợi ích của những quôc gia thứ
3. Yemen cho rằng những quy định trong điều 16 hiệp ước
Lausanne không làm cho những hòn đảo terra nullius, và chủ
quyền đối với những hòn đảo này là chưa rõ ràng. Hơn nữa, điều
34
16 của hiệp ước đã ngừng tác động đến các quốc gia có liên quan
bởi vì những lý do chủ quan của các bên và các nước thứ 3.
35) Một nguyên tắc ủng hộ tuyên bố về chủ quyền duy nhất của
Yemen đối với những hòn đảo là “nguyên tắc về đơn vị tự nhiên
và địa lý”. Yemen lập luận rằng đây là một hệ luận (corollary) của
quan điểm về chủ quyền truyền thống. Căn cứ khoa học của
Yemen về lập luận này đó là tài liệu về “Biển Đỏ và vịnh của
Aden Pilot” đưa ra bởi Cục thủy văn học Anh quốc và bách khoa
thư Britannica.
37) Chủ yếu nói về những chủ quyền lịch sử căn cứ trên những
hoạt động liên quan đến những ngư dân và hoạt động của họ…
38) Yemen cho rằng những hòn đảo này có những ngôi mộ của
những nhà tu hành và nhiều nơi thờ cúng linh thiêng khác của
người Yemen. Và những ngư dân Yemen ở đây còn hình thành
phong tục là để lương thực vào mộ những người đã mất.
39) Thêm vào đó, Yemen cũng chỉ rõ ra rằng thẩm quyền về
những hệ thống giải quyết những tranh chấp có tính truyền thống
giữa những ngư dân bằng cách “ride the circuit” dọc theo những
bờ biển và giữa hòn đảo này, để đảm bảo việc tiếp cận pháp lý đối
với những những ngư dân không thể ra khơi.
40) Yemen nhấn mạnh mối liên hệ kinh tế giữa những hòn đảo này
và ngư dân của Yemen, những người sống phụ thuộc vào vùng
nước này, họ chỉ bán cá cho Yemen nội địa. Yemen đối sánh tình
hình này với những ngư đân Eritrea và cho rằng bởi vì những khó
khăn trong việc vận chuyển cá tươi về Eritrea nội địa (bao gồm thủ
đô Asmara) nên Eritrea không có truyền thống ăn thủy sản. Theo
Yemen, những ngư dân Eritrea vì lợi ích của mình đã tìm kiếm
35
một thị trường tốt hơn, và đó chính là những khu vực dọc theo bờ
biển của Yemen. Yemen tin rằng qua nhiều thế kỉ, việc sử dụng
những hòn đảo trong suốt một thời gian dài và gần như là riêng
biệt (the long-standing, intensive and virtually exclusive use of the
Islands) của những ngư dân Yemeni không hề gặp bất cứ một sự
can thiệp nào từ những quốc gia khác.
Chương VII: Những chứng cứ về việc triển khai chức năng của
quốc gia và thẩm quyền của nhà nước
239) Đối với luật quốc tế hiện đại về quyền chiếm hữu (or
attribution) lãnh thổ đòi hỏi những tiêu chuẩn sau: một sự thể hiện
rõ ràng có chủ đích về sức mạnh và quyền hạn đối với những vùng
đất này, bằng sự thể hiện về thẩm quyền và chức năng của quốc
gia theo nguyên tắc liên tục và hòa bình.
243, 244) Không có bất cứ văn bản pháp lý nào chứng minh một
cách rõ ràng rằng những hòn đảo là thuộc về chủ quyền của hai
quốc gia, kể cả hiến pháp, sắc lệnh, những quy định về hàng hải…
Văn bản có tính pháp lý thuyết phục nhất đó là năm 1971 nêu ra
bởi Eritrea chứng minh rằng “những hòn đảo nằm trong phạm vi
ảnh hưởng của Ethiopia”. Mặc dù đã xác định hai đảo Greater
Hanish và jabal Zuqar là nằm trong “vùng” được nêu ra, và năm
1987, Bộ phòng vệ quốc gia cũng nhắc lại những hòn đảo này
nhưng vẫn không nêu rõ, chỉ đích danh những đảo đó.
Chương X: Kết luận
36
441) Đối với vấn đề “chủ quyền truyền thống”, tòa phán quyết
rằng nếu đế chế Ottoman từ chối hoàn toàn quyền sở hữu đối với
những hòn đảo theo hiệp ước Lausanne 1923 khi thất trận ở giai
đoạn cuối CTTG I thì quyền này nghiễm nhiên “trở về” với
Yemen.
442) Theo học thuyết uti possidetis, thì đế chế Ottoman, mà cụ thể
là giai đoạn thứ hai của đế chế này trong giai đoạn 1872-1918,
thực tế chỉ có quyền sở hữu chứ không thật sự sở hữu những hòn
đảo này như vốn có của nó.
445) Hiệp ước Lausanne không quy định một cách rõ ràng, như
hiệp ước Sèvres đã làm, rằng Thổ Nhĩ Kì từ bỏ chủ quyền lãnh thổ
phục vụ lợi ích của phe Hiệp ước; theo kiểu loại trừ toàn bộ những
khả năng thực hiện một học thuyết về trao trả quyền (a doctrine of
reversion). Yemen không phải là một thành viên của hiệp ước
Lausanne, đó là RES INTER ALIOS ACT.
456) Hơn nữa, cần phải nhớ lại rằng, cả Eritrea và Yemen không
có nhiều cơ hội để chứng minh tham vọng của mình một cách
thoải mái và tích cực về chủ quyền hoặc những hoạt động có tính
chất nhà nước đối với những hòn đảo cho đến sau năm 1967, khi
mà Anh quốc rời khỏi khu vực này; bởi vì Anh quốc luôn ý thức
được việc phải canh chừng, duy trì vị trí của mình theo như quy
định trong hiệp ước Lausanne rằng quan điểm pháp lý đối với
những hòn đảo là chưa rõ ràng và xác định.
458) Có một lập luận cho rằng, căn cứ trên vị trí địa lý của những
hòn đảo, đảo nhỏ và đảo đá đang tranh chấp đã hình thành nên một
quần đảo có phạm vi vượt quá những vùng biển gần giữa bờ biển
giữa hai quốc gia. Từ đó, có thể suy luận ra rằng, những đảo nào
nằm ngoài cụm đảo này đương nhiên thuộc về quốc gia có đường
37
bờ biển gần nhất đối với đảo đó trừ khi quốc gia kia có khả năng
chứng minh một cách rõ ràng hơn chủ quyền của nó đối với hòn
đảo đó.
460) Cáo trạng của Yemen nhấn mạnh đến cái gọi là “nguyên tắc
về sự thống nhất tự nhiên và địa lí” khi nói về những đảo trong
cụm Hanish…
461) Nguyên tắc này được miêu tả cẩn thận trong chương 5 bản
kiến nghị của Yemen khi nước này đã viện dẫn một số tác gia nổi
tiếng như Fiztmaurice, Waldock và Charles de Visscher. Tòa cho
rằng một số quan điểm của các tác gia này là không cần tranh cãi
nhưng đó không phải là những nguyên tắc tuyệt đối bởi vì các tác
gia chủ yếu nói căn cứ trên những suy luận của chính họ. Mặc dù,
Fiztmaurice đã giải quyết tương đối rõ rằng việc tuyên bố chủ
quyền đối với một bộ phận lãnh thổ và được suy luận mở rộng đối
với những lãnh thổ bên ngoài mà ở đó không hề có rất ít hoặc
không hề có một sự tác động nào của Yemen. Tòa không phản đối
những ý kiến của Fiztmaurice nhưng những đó vẫn chỉ là một
nguyên tắc về sự thống nhất đơn giản.
463) Thuyết này được tòa nhìn nhận là con dao hai lưỡi khi mà nó
gặp phải vấn đề đối với những hòn đảo được suy ra từ đảo gốc có
thể nằm trong…
VII) Một vài nhận định
Hai bản phán quyết trong vụ Eritrea/Yemen là một minh chứng rõ
ràng cho vai trò giải quyết các tranh chấp của một tòa quốc tế trên
38
cơ sở luật, bao gồm công ước về luật biển của LHQ năm 1982 như
là sự pháp điển hóa luật tập quán quốc tế.
Phán quyết về “Chủ quyền lãnh thổ và phạm vi của tranh chấp”
trong vụ này là một cột mốc đánh dấu sự phát triển của những
nguyên tắc và thủ tục của luật pháp quốc tế điều chỉnh vấn đề
chiếm hữu chủ quyền lãnh thổ. Học thuyết nổi tiếng về những
chứng cứ về việc chiếm hữu xác thực và có hiệu lực được ghi
trong phán quyết này đã được phát triển bởi ICJ và các tòa quốc tế
khác.
B2. Case Red Crusader
I. Tổng quan về tranh chấp
Đây là vụ tranh chấp giữa Vương quốc Anh cụ thể là Scotland
và Đan Mạch (2 nước đều là thành viên của NATO) xảy ra vào
ngày 29-5-1961, Đan Mạch đã buộc tội tàu đánh cá Red Crusader
của Anh là đã đánh bắt cá ở vùng biển không được phép theo như
Hiệp định kí kết giữa 2 nước vào ngày 27-04-1959(theo đó thì khu
vực thuộc quyền kiểm soát việc đánh bắt cá của Đan Mạch là
khoảng 6 dặm tính từ bờ biển Faroe Islands, trong đó có một phần
nhỏ rộng 12 dặm; còn của Anh là khoảng tiếp theo đến phạm vi 12
dặm tính từ bờ biển Faroe Islands). Cụ thể vụ việc như sau:
Ngày 29/5/1961 một con tàu đánh cá Red Crusader của
Scotland bị một tàu hải quân loại nhỏ có tên Neils Ebbesen của
Denmard bắt giữ ngoài khơi đảo Faroe Islands với lí do như trên.
Thuyền trưởng Red Crusader đã được lệnh đi theo tàu Neils
Ebbesen của Đan Mạch tới Thorshawn để xét xử ở tòa Faroese.
39
Cùng với đó Neils Ebbesen cũng đã cử một trung sĩ và một hạ sĩ
lên tàu Red Crusader để giám sát việc thực hiện lệnh trên. Sau một
thời gian đi theo tàu Neils Ebbesen, Red Crusader đã chuyển
hướng để thoát khỏi Neils Ebbesen. Neils Ebbesen đã đuổi theo và
phóng hoả. Mũi thuyền, cột buồm, dây ăngten vô tuyến, radar trên
Red Crusader đã bị hỏng. Sau khi có thông tin từ bộ hải quân Đan
Mạch, Neils Ebbesen đã ngưng phóng hoả nhưng vẫn tiếp tục đuổi
theo. Trong lúc đó tàu thuỷ quân bộ hải quân hoàng gia Anh
Troubridge và tuần dương hạm bảo bệ cá Wooton cũng trực tiếp
đến khu vực với mục đích để tìm ra 2 tàu và diễn biến vụ việc. Hai
con tàu này gặp Red Crusader, Neils Ebbesen ở khoảng giữa 2
đảo Faroe Islands và Orkney Islands bờ biển phía bắc của
Scottland. Năm nhân viên của Wooton đã lên Neils Ebbesen để tổ
chức 1 hội nghị. Hội nghị đã thỏa thuận rằng Red Crusder bị bắt
buộc kiện ở Faroe.
Ngày 30/5 đại sứ Đan Mạch tại London đã gửi tới văn phòng
ngoại giao yêu cầu tàu Red Crusader chuyển đến Thorshavn để đối
mặt với lời buộc tội đánh bắt cá trong phạm vi 6miles và bắt cóc
các thuỷ thủ Đan Mạch.
Ngày 31/5/1961, trong Hạ viện Anh, Mr Hector Hughes,
Labour member for Aberdeen đã tuyên bố thế giới lấy làm tiếc về
biện pháp bạo lực được đưa ra bởi một quốc gia vừa là thành viên
của NATO vừa là thành viên của Liên Hợp Quốc.
Ngày 7/6/1961 văn phòng ngoại giao đã gửi một bản ghi nhớ
đến đại sứ Đan Mạch, đáp lại yêu cầu của Đan Mạch ngày 30/5.
Chính phủ Anh lấy làm tiếc về vụ việc vừa xảy ra, đó không phải
là tính đặc thù cho quan hệ tốt đẹp giữa 2 nước. Vấn đề ở đây
không phải là quyền kiểm soát việc đánh cá ở khu vực giới hạn ở
40
Faroe của Đan Mạch, mà là sự xuất hiện những nghi ngờ trong
thực tế diễn biến vụ việc này.
Ngày 28/10 khi việc đàm phán về việc thiết lập Ủy ban điều
tra (commission of inquiry) được khẳng định tiến triển. Sau đó Ủy
ban điều tra quốc tế phụ trách điểu tra vụ việc này được thiết lập
theo như sự trao đổi văn bản ngày 15/11/1961.
Sau khi ủy ban điều tra đưa ra phán quyết thì phải mất gần 1
năm sau , hai chính phủ mới đạt được môth thỏa thuận để giải
quyết vụ việc là một hiệp định từ bỏ tất cả những cáo buộc lẫn
nhau của cả 2 phía trước đó.
Theo đó Red Crusader được tự do đi lại trong vùng biển của
Đan Mạch mà không la sợ bị bắt giữ, và chính phủ Đan Mạch
cũng không phải đền bù cho những thiệt hại của Red Crusader.
II. Thủ tục điều tra
Vào ngày 25/11/1961 Đại sứ của Đan Mạch tại Luân Đôn và
Ngoại trưởng Anh đã trao đổi công hàm với nhau. Về phía mình
đại sứ thay mặt chính phủ Đan Mạch đề nghị rằng:
(a.) – (i) Ủy ban điều tra(được viết tắt là ủy ban-commission) gồm
các thành viên sau:
1. Professor Charles de Visscher
2. Professor Andre Gros
3. Captain C.Môlenburgh
(ii) chủ tịch của Ủy ban là Professor Charles de Visscher
(iii) nếu bất kỳ thành viên nào của Ủy ban qua đời hay không có
khả năng hoạt động , vị tri khuyết sẽ được bổ sung bởi sự thỏa
thuận của hai chính phủ.
41
(ii) tình huống bắt giữ và
(iii) thực tế và vụ việc diễn ra sau đó trước khi Red Crusader tiến
vào Aberdeen.
(c)- (i) ủy ban sẽ tự xác định thủ tục của nó và tất cả những câu hỏi
cần thiết cho việc điều tra.
(ii) Nếu không có sự nhất trí, những quyết định của commission
tất cả các câu hỏi bao gồm cả bản chất hoặc thủ tục, sẽ được thông
qua bởi đa số các thành viên, bao gồm tất cả các vấn đề liên quan
đến thẩm quyền của commission, việc giải thích hiệp ước và xác
định những vấn đề được ghi rõ trong điều (b)
(d) – (i) mỗi quốc gia trong vòng 14 ngày kể từ ngày hôm nay chỉ
định một đại diện cho các mục đích của việc điều tra và sẽ thông
báo tên, địa chỉ của người đại diện cho mỗi quốc gia và đến chủ
tịch commission
(ii) Mỗi quốc gia có quyền được đại diện trước commission bởi
đại diện và luật sư bào chữa và người tư vấn khi mà nó được chỉ
định
(e) – (i) vụ tranh tụng sẽ diễn ra theo 2 hình thức miệng và viết
(ii) Written memory sẽ được đệ trình lên commission trong thời
gian giới hạn do commission quy định
(iii) thủ tục tranh tụng miệng sẽ sau khi tranh tụng viết và sẽ tuân
theo quy định tại điểm ‘f’ phía sau. Nó tổ chức kín tại một địa
điểm và thời gian đó commission quy định sau khi tham khảo với
2 cơ quan đại diện của 2 nước.
42
(iv) mỗi quốc gia có quyền đưa nhân chứng lên commission và
thẩm vấn các nhân chứng được triệu tập bởi quốc gia kia để đưa ra
chứng cứ trước commission trong lúc tranh tụng miệng.
(f.) – (i) commission sẽ lựa chọn địa điểm làm việc và thông báo
bằng văn bản cho các quốc gia. Thêm vào đó vị trí đã được chọn
có thể tiến hành các chức năng ở Đan Mạch, bao gồm khu vực
Faroe Islands và UK.
(ii) mỗi quốc gia sẽ hợp tác tạo thuận lợi cho quá trình điều tra.
(g)- (i) commission sẽ chấm dứt điều tra nhanh ngay khi có thể, và
sẽ gửi bản báo cáo bằng văn bản và bản copy cho các đại diện.
(ii) bất kì điều gì trong quá trình điều tra được công bố sẽ phải
được sự chấp thuận của 2 quốc gia.
(h) hai chính phủ chấp nhận bằng chứng của commission đưa ra là
bằng chứng cuối cùng.
(i) –(i) chi phí hoạt động của commission sẽ được chia ngang bằng
cho hai nước
(ii) chi phí chung cho việc điều tra được chia bằng nhau cho 2
chính phủ, nhưng mỗi chính phủ sẽ phải chịu các chi phí của mình
như việc trình bày, việc chuẩn bị trong vụ việc
2. nếu việc đề nghị đã nói ở trên được UK chấp nhận, tôi có vinh
dự đề nghị rằng văn bản này và sự đáp lại của UK sẽ thành lập
một hiệp ước giữa 2 chính phủ trong vấn đề này và sẽ có hiệu lực
kể từ ngày hôm nay.
Trả lời cho đề nghị này của Đan Mạch, Ngoại trưởng Anh đã
có công hàm trả lời với nội dung như sau:
43
Đồng ý văn bản đề nghị của chính phủ Đan Mạch và sự hồi đáp
bằng văn bản của Anh sẽ thành lập 1 hiệp ước giữa hai chính phủ
sẽ có hiệu lực từ ngày hôm nay.
Commission được thành lập ngày 21/11/1961, không một ai
trong số các thành viên là công dân của UK hay Đan Mạch. Họ lần
lượt là những người Bỉ, Pháp, Hà Lan. Trong thời gian họ được bổ
nhiệm, họ giữ các vị trí sau: Professor de Visscher là giáo sư đại
học Louvain và chủ tịch danh dự của viện luật quốc tế, Professor
Andre Gros là cố vấn pháp lí cho Bộ Ngoại giao Pháp; Captain
Moolenburgh là Netherlands Inspector-General of Shipping.
Người đại diện của Đan Mạch là Mr Bent Jaccobsen, Đại diện
của UK là Mr F.A Vallat.
Ngày 21/11/1961 đồng ý những bản ghi nhớ sẽ được chuyển
tới London và được lưu tại Hague ngày 5/12, cùng với mỗi bản
copy cho các thành viên của commission và sẽ được đăng kí lên
tòa án trọng tài thường trực. Courter-Memorials sẽ được trao đổi
và lưu lại tại các điểm nêu trên vào ngày 16/1/1962. quyết định
việc tranh tụng miệng sẽ được diễn ra vào 5/3/1962 theo thứ tự
sau: bằng chứng Đan Mạch- bằng chứng Anh, tuyên bố miệng của
Đan Mạch- tuyên bố của Anh, được sắp xếp bởi 2 bên, nếu có yêu
cầu. Mỗi nhân chứng sẽ được thẩm vấn, thẩm vấn chéo và nếu cần
thiết sẽ được thẩm vấn lại. Tranh tụng bằng văn bản là tiếng Anh
và các văn bản bổ sung được thừa nhận dựa trên thông báo hợp lý.
Theo việc trao đổi ý kiến giữa chủ tịch commission và tổng thư
ký của hội đồng thường trực tòa án trọng tài, Mr Malcolm Eliot
Long được chỉ định quản lý sổ đăng bạ và hoạt động trong khi
tranh tụng miệng và thảo luận của commission.
44
Ngày 3/3/1962 commission đã gặp bí mật và điều chỉnh với đại
diện của các bên về những thủ tục nội bộ và tài liệu thỏa thuận.
tranh tụng miệng sẽ kéo dài từ 5-16/3/1962. Commission sẽ nghe
9 nhân chứng và 2 chuyên gia Đan Mạch vào buổi tranh tụng
miệng từ 5-9/3/1962. Các nhân chứng sẽ bị thẩm vấn chéo bởi các
luật sư bào chữa của UK và trong một vài trường hợp sẽ bị thẩm
vấn lại.
Từ 10/3, 3 nhân chứng và 1 chuyên gia của UK sẽ được thẩm
vấn. Các nhân chứng và chuyên gia bị thẩm vấn chéo bởi các đại
diện của Đan Mạch và trong một vài trường hợp bị thẩm vấn lại.
Việc tuyên bố và trả lời được diễn ra từ 14-16/3/1962.
Báo cáo của commission, gửi đến Hague ngày 23/3/1962 được
chia thành 3 chương, theo như các tiêu đề chính sau: (a.) thực tế
dẫn đến vụ bắt giữ Red Crusader và tình huống bắt giữ, (b) những
sự kiện giữa vụ bắt giữ Red Crusader và cuộc gặp với tàu thuyền
hải quân UK, (c) các sự kiện sau khi gặp tàu thuyền UK.
Báo cáo của commission được công bố đồng thời tại London
và Copenhagen ngày 30/3/1962.
III. Phán quyết của Ủy ban điều tra
1. Những diễn biến dẫn đến sự bắt giữ tàu Red Crusader
a. Không có bằng chứng nào về việc đánh cá trong vùng cấm được
thiết lập mặc dù tàu đánh cá Red Crusader đã ở trong khu vực này
trong khoảng thời gian từ 21h cho đến 21h 14’ ngày 29/5/1961.
b. Red Crusader cùng với dụng cụ, thiết bị không xếp gọn gàng đã ở
trong vùng cấm từ 21h đến 21h14’.
c. Tín hiệu đầu tiên và tín hiệu cuối cùng của Niels Ebbesen để dừng
Red Crusader lại, được đưa ra khi ở bên ngoài vùng cấm.
45
2. Những sự kiện xảy ra bắt đầu từ lúc RC bị bắt giữ đến cuộc gặp gỡ
với hải quân Anh.
a. Red Crusader bị tấn công.
b. Skipper Wood sau khi nhận được lệnh của Niels Ebbesen, đã thay
đổi hướng đi theo như được yêu cầu với mục đích nhằm chạy trốn
lẩn tránh thẩm quyền tài phán của Đan Mạch cái mà được cho là
đúng và được chấp nhận.
c. Trong khi cố gắng trốn thoát, thuyền trưởng của Red Crusader đã
từng bước tách đại úy Beck và hạ sĩ Kropp trong 1 khoảng time
nhất định và có ý định đưa họ tới Aberdeen.
d. Trong lúc phóng hỏa từ 3h22’ đến 3h53’ nhân viên chỉ huy của
Neils Ebbesen đã sử dụng các lực lượng vũ trang vượt quá quyền
hạn của minh tại 2 điểm: phóng hỏa mà không có cảnh báo bằng
tiếng súng(of solid gun-shot) và gây nguy hiểm tính mạng con
người trên Red Crusader không được chứng minh là cần thiết.
Việc trốn thoát của Red Crusader rõ ràng vi phạm mệnh lệnh đã
nhận và tuân thủ, việc tách các viên chức và thủy thủ của Neils
Ebbesen trên boong, việc từ chối dừng lại của thuyền trưởng
Wood có thể giải thích một vài sự phẫn uất của Captain Solling.
Tuy nhiên hoàn cảnh như vậy không thể biện minh cho hành vi vi
phạm được. Quan điểm của Commission rằng những biện pháp
khác được cố gắng, nếu kiên trì đúng lúc cuối cùng có thể thuyết
phục thuyền trưởng Wood dừng và trở lại các thủ tục bình thường,
cái mà chính ông ta theo đuổi trước đó.
e. Chi phí của việc sửa chữa thiệt hại nguyên nhân bởi việc phóng
hoả và va đập Red Crusader mà UK đệ trình được Đan Mạch cho
là hợp lý.
46
3. Những sự kiện sau lần gặp các tàu của hải quân Anh
Trong chương III dẫn đến các sự kiện sau khi gặp gỡ với các
tàu thuyền hải quân UK, commission tuyên bố rằng trong bản ghi
nhớ của Đan Mạch (aide-mémorier) ngày 2/6/1961 cũng như
courter-memorial, các quan chức hải quân của UK bị chỉ trích vì
việc can thiệp vào thẩm quyền luật pháp (lawful authority) của
Neils Ebbesen đối với một con tàu đánh cá, cái mà nó bắt giữ một
cách hợp pháp.
Kết luận của commission về các sự kiện liên quan đến các tàu
thyền hải quân UK là “Tư lệnh Griffith và các quan chức khác của
hải quân hoàng gia UK đã rất cố gắng để tránh các biện pháp bạo
lực giữa Neils Ebbesen và Red Crusader. Một thái độ được cho là
mẫu mực”
IV. Nhận xét
1. Ý nghĩa của biện pháp điều tra
Biện pháp điều tra là biện pháp dung để xác định diễn biến
thực tế của vụ việc khi mà các bên không có quan điểm thống
nhất. Có thể nói biện pháp điều tra chỉ là giai đoạn đầu trong giải
quyết tranh chấp, do vậy ngày nay nó đã không được sử dụng như
một biện pháp riêng biệt mà được ghép vào các hình thức giải
quyết tranh chấp khác như trọng tài hay tòa án…
2. Điểm khác biệt của ủy ban điểu tra trong trường hợp này so
với thực tế
Trong vụ tranh chấp này, điểm đáng chú ý của hình thức ủy
ban điều tra đó là về thẩm quyền của nó và tính chất của báo cáo
điều tra.
47
Thứ nhất Ủy ban này đưa ra những bằng chứng không chỉ về
diễn biến vụ việc mà còn về mặt luật pháp, trong khi trách nhiệm
của ủy ban là điều tra diễn biến, hoàn cảnh và những tranh chấp
của 2 bên mà thôi (điều 35-Hague convention: limited to statement
the fact)
Hay nói cách khác ủy ban đã vượt quá thẩm quyền của mình.
Trong phán quyết của mình, ủy ban đã sử dụng những từ mang
tính phán xét hành động như “rightly”, “exceeded legitimate use of
armed force”, “cannot justify”, “were impeccable”.
Thứ hai, khi thỏa thuận thành lập Ủy ban điều tra, hai bên đã
chấp nhận báo cáo của Ủy ban là cuối cùng (final) nhưng theo lí
thuyết thì nó không thể được xem như vậy. (điều 35 has in no way
the character of a ward and leaves the parties entire freedom as to
the efect to be given to the statement). Điều này làm cho bản báo
cáo mang giá trị pháp lí như là phán quyết của trong tài.
Có thể nói chính 2 điểm khác biệt so với lí thuyết này đã làm
cho bản báo cáo mang tính chất gần giống với một phán quyết của
trọng tài.
Ngoài hai điểm chính trên thì về mặt thủ tục cũng có những
điểm khác biệt như:
Examination of the witnesses phải được sự hướng dẫn của chủ
tịch (điều 26 The examination of the witnesses is conducted by the
president) nhưng trong trường hợp này chủ yếu do đại diện của
mỗi bên.
Báo cáo sẽ được công bố khi 2 bên chấp nhận nhưng theo lí
thuyết thì nó chỉ cần sự có mặt của đại diện và cố vấn pháp luật
của hai bên. (điều 34 the Report of the Commission is read at a
48
public sitting, the agents and counsel of the parties being present
or duly summoned). Chính điểm này cũng đã cho thấy giá trị của
bản báo cáo, nó thể hiện sự đồng thuận của cả hai bên về diễn biến
thực tế của vụ việc.
3. Điểm khác biệt so với hình thức trọng tài
Như chúng ta đã biết hình thức trọng tài được sử dụng khá rộng
rãi vì tính linh hoạt của nó, nếu xét về hình thức, thủ tục thì ủy ban
điều tra tương đối giống nhau nhưng có hai điểm khác nhau cơ
bản.
Thứ nhất đó là tính ràng buộc của phán quyết. Những phán
quyết của trọng tìa thì mang tính ràng buộc các bên phải thực hiện,
nhưng báo cáo của ủy ban điều tra thì không mang tính rang buộc.
Thứ hai là khác biệt về thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Cả
hai hinh thức đều có thẩm quyền giải quyết nhũng vấn đề do hai
bên yêu cầu, tuy nhiên ủy ban điều tra chỉ điều tra về diễn biến vụ
việc xảy ra, không giải quyết trực tiếp tranh chấp mà cung cấp cơ
sở cho các bên tiến hành những biện pháp khác mà thôi, còn trọng
tài thì dựa trên những bằng chứng mà các bên tranh chấp đưa ra để
phán xét những vấn đề mà các bên yêu câu để giải quyết tranh
chấp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_thuyet_trinh_trong_tai_quoc_te_7567.pdf