Tiểu luận Phân tích chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

Các ngân hàng đều phải duy trì một tỷ lệ dự trữ (bao gồm tiền mặt trong ngân hàng, tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương). Làm như vậy để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung ương và để đối phó với các dòng tiền đi ra. Việc kết hợp giữa dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ giúp ngân hàng chủ động vừa đối phó với rủi ro thanh khoản vừa có thu nhập hợp lý. Thực hiện tốt quản lý rủi ro lãi suất khe hở lãi suất: Cần hoàn thiện các quy định liên quan đến huy động và cho vay (nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn) theo lãi suất thị trường; cần có cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có các đối thủ khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng hơn. Hiện nay, xuất hiện một thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn không chịu trả nợ vay vì họ e ngại sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân hàng. Vì thế, họ sẵn sàng chịu phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi suất cho vay mới. Chính điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân hàng.

pdf42 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2559 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 10 rằng bình thường thì chỉ một phần nào đó tiền ký thác trên tài khoản vãng lai được khách hang rút ra. Phần còn lại có thể được xem như ký thác lõi (core deposit), tức là những khoản ký thác mà ngân hang có thể xem như những nguồn vốn ổn định mà họ có thể sử dụng với một kỳ hạn dài hơn so với bản chất không kỳ hạn của loại nguồn vốn này. Hơn thế nữa, nhu cầu rút vốn ký thác cũng có thể được đáp ứng bằng những nguồn ký thác mới. Do đó, công việc thường nhật của nhà quản trị ngân hang là phải biết cách điều chỉnh các luồng rút vốn ròng (chênh lệch giữa rút vốn ký thác và các nguồn ký thác mới) dựa trên một phân phối xác xuất nào đó mà họ có được qua kinh nghiệm và thời gian. - Nguyên nhân thứ hai của rủi ro thanh khoản đến từ phía tài sản của bảng cân đối kế toán, chẳng hạn, nhu cầu giải ngân cho các khoản tín dụng đã cam kết. Theo cam kết, ngân hang phải có tiền giải ngân cho khách hang vay nợ, khi họ muốn rút vốn theo nhu cầu và lịch trình đã thỏa thuận và do đó, nó làm phát sinh cầu thanh khoản. Cũng giống như việc đáp ứng nhu cầu rút vốn của các trái chủ, trong trường hợp này, ngân hàng có thể sử dụng tiền mặt dự trữ, vay nợ bổ sung hay bán các tài sản. - Nguyên nhân thứ ba là ngân hàng thiếu ngân quỹ để đáp ứng các nhu cầu của các bên đối tác của ngân hàng: các chủ nợ, các cổ đông,… - Các nguyên nhân khác có thể kể như ngân hàng không có những chiến lược và phương pháp quản trị thanh khoản phù hợp. Rủi ro thanh khoản cũng có thể xảy ra do những thay đổi của lãi suất thị trường. Cuối cùng, là các nguyên nhân hòan toàn khách quan nhưng vô cùng nguy hiểm, đó là hiệu ứng rút tiền dây chuyền trong những giai đoạn khủng hoảng tài chính và các biến cố kinh tế-chính trị bất thường khác. 1.4. Cung và cầu thanh khoản Trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định, với các chi tiết về nguồn và sử dụng thanh khoản có thể được các nhà quản trị thiết lập để phục vụ nhu cầu Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 11 thanh khoản. Nguồn và sử dụng thanh khoản, hay nói cách khác, cung và cầu thanh khoản bao gồm: Cung về thanh khoản: Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, là nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm:  Các khoản tiền gửi đang đến.  Doanh thu từ việc bán các dịch vụ phi tiền gửi.  Thu hồi các khoản tín dụng đã cấp.  Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng .  Vay mượn trên thị trường tiền tệ. Cầu về thanh khoản: Cầu về thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của ngân hàng, các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường, trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng, những hoạt động tạo ra cầu về thanh khoản bao gồm:  Khách hàng rút tiền từ tài khoản.  Yêu cầu vay vốn từ những khách hàng có chất lượng tín dụng cao.  Thanh toán các khoản vay phi tiền gửi.  Chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ.  Thanh toán cổ tức bằng tiền. 1.5. Đánh giá và đo lƣờng trạng thái thanh khoản Trạng thái thanh khoản ròng NPL (net liquidity position) của một ngân hàng đƣợc xác định nhƣ sau: NPL = Tổng cung về thanh khoản - Tổng cầu về thanh khoản Có ba khả năng có thể xảy ra sau đây: Thặng dƣ thanh khoản: Khi cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản (NPL>0), ngân hàng đang ở trạng thái thặng dư thanh khoản. Nhà quản trị ngân hàng phải cân nhắc đầu tư số vốn thặng dư này vào đâu để mang lại hiệu quả cho tới khi chúng cần được sử dụng đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong tương lai. Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 12 Thâm hụt thanh khoản: Khi cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản (NPL<0), ngân hàng phải đối mặt với tình trạng thâm hụt thanh khoản. Nhà quản trị phải xem xét, quyết định nguồn tài trợ thanh khoản lấy từ đâu, bao giờ thì có và chi phí bao nhiêu. Cân bằng thanh khoản: Khi cung thanh khoản cân bằng với cầu thanh khoản (NPL=0), tình trạng này được gọi là cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên, đây là tình trạng rất khó xảy ra trên thực tế. Các chỉ tiêu quản trị thanh khoản Các nhà quản trị ngân hàng thường sử dụng các chỉ tiêu quản trị thanh khoản sau đây: - Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ = Ngân quỹ và tiền gửi tại các ngân hàng/ Tổng tài sản - Chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản = Chứng khoán chính phủ/ Tổng tài sản - Hệ số tiền nóng = Tài sản thị trường tiền tệ / Nợ trên thị trường tiền tệ - Hệ số thành phần tiền gửi = Tiền gửi giao dịch / Tiền gửi định kỳ 1.6. Chiến lƣợc thanh khoản Để xử lý vấn đề thanh khoản, các ngân hàng có thể tiếp cận theo 3 cách sau đây: + Tạo ra nguồn cung cấp thanh khoản từ bên trong (tài sản) + Vay mượn bên ngoài (nguồn vốn) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. + Phối hợp cân bằng cả hai hướng trên. Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản (sử dụng vốn) Đây là cách tiếp cận truyền thống để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của NHTM. Chiến lược này đòi hỏi dự trữ thanh khoản dưới hình thức tài sản có tính thanh khoản cao, chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán. Khi xuất hiện nhu cầu thanh khoản, ngân hàng bán các tài sản dự trữ để lấy tiền cho đến khi tất cả nhu cầu thanh khoản được đáp ứng đầy đủ. Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng này thường được gọi là sự chuyển hoá tài sản bởi vì ngân hàng tăng nguồn cung cấp thanh khoản bằng cách chuyển đổi các tài sản phi tiền mặt thành tiền mặt. Tài sản có tính thanh khoản có 3 đặc điểm sau: Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 13 + Luôn có sẵn thị trường tiêu thụ để có thể chuyển đổi thành tiền mau chóng. + Giá cả ổn định để không ảnh hưởng đến tốc độ và doanh thu bán tài sản. + Có thể mua lại dễ dàng với ít rủi ro mất mát giá trị để người bán có thể khôi phục khoản đầu tư. Đối với các ngân hàng, những tài sản có tính thanh khoản cao nhất là trái phiếu kho bạc, các khoản vay NHTW, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác, chứng khoán các cơ quan chính phủ... Như vậy, trong chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản, một ngân hàng được coi là quản trị thanh khoản tốt nếu nó có thể tiếp cận các nguồn cung cấp thanh khoản ở chi phí hợp lý, số lượng tiền vừa đủ theo yêu cầu và kịp thời vào lúc nó được cần đến. Tuy nhiên, sự chuyển hoá tài sản không phải cách tiếp cận ít chi phí đối với quản trị thanh khoản: - Một khi bán tài sản cũng có nghĩa là ngân hàng mất nguồn thu nhập mà các tài sản này tạo ra. Như vậy, có chi phí cơ hội để dự trữ khả năng thanh khoản bằng tài sản. - Phần lớn các tài sản đem bán cũng liên quan đến chi phí giao dịch, chẳng hạn hoa hồng phí phải trả cho người môi giới chứng khoán. - Ngân hàng sẽ bị tổn thất vốn đáng kể nếu các tài sản cần phải bán có sự giảm giá trên thị trường. - Nhìn chung khả năng sinh lợi của các tài sản có tính thanh khoản càng cao là thấp nhất trong số các tài sản tài chính. Nếu ngân hàng đầu tư nhiều vào tài sản có tính thanh khảon cao thì ngân hàng buộc phải từ bỏ lợi nhuận cao hơn tạo ra từ những tài sản khác. Chiến lƣợc quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn Vào thập niên 60 và 70 nhiều ngân hàng, nhất là các ngân hàng lớn đã bắt đầu gia tăng nhiều hơn các nguồn vốn có tính thanh khoản thông qua vay mượn trên thị trường tiền tệ. Yêu cầu của các ngân hàng là vay mượn tức thời nguồn vốn khả dụng để trang trải tất cả nhu cầu thanh khoản đã dự phòng. Tuy nhiên, việc vay mượn thường chỉ được triển khai khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện để tránh dự trữ quá mức cần thiết. Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 14 Nguồn vay mượn thanh khoản chủ yếu đối với một ngân hàng bao gồm: chứng chỉ tiền gửi khả nhượng có giá trị lớn, tiền vay NHTW, các hợp đồng mua lại, chiết khấu tại NHTW... Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn được hầu hết các ngân hàng lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến 100% nhu cầu thanh khoản của họ. Vay mượn thanh khoản là cách tiếp cận nhiều rủi ro để một ngân hàng giải quyết vấn đề thanh khoản (nhưng cũng đồng thời đem lại lợi nhuận cao nhất do bởi dao động lãi suất trên thị trường tiền tệ và khả năng thay đổi về sự sẵn có của các khoản tín dụng). Sẽ là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng trên cả hai phương diện: chi phí và sự sẵn có nguồn vốn. Chi phí vay mượn thường xuyên biến động và tất nhiên là tăng thêm mức độ không ổn định của lợi nhuận. Hơn nữa, một ngân hàng có khó khăn về tài chính thì hầu như thường là về nguồn thanh khoản đã vay mượn, nhất là khi sự hiểu biết về những khó khăn của ngân hàng lan rộng và những người gửi tiền bắt đầu rút vốn ồ ạt. Đồng thời các tổ chức tài chính khác, để dính líu rủi ro, sẽ thận trọng, dè dặt hơn trong việc tài trợ vốn cho ngân hàng đang có khủng hoảng thanh khoản. Chiến lƣợc quản trị thanh khoản cân bằng Do những rủi ro vốn có khi phụ thuộc vào nguồn thanh khoản vay mượn và những chi phí dự trữ thanh khoản bằng tài sản, phần lớn ngân hàng đã dung hòa trong việc chọn chiến lược quản trị thanh khoản của họ, nghĩa là kết hợp đồng thời cả hai loại chiến lược trên để tạo ra chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng. Chiến lược này đòi hỏi, các nhu cầu thanh khoản có thể dự kiến, được dự trữ bằng chứng khoán khả nhượng và tiền gửi tại các ngân hàng khác; trong khi đó các nhu cầu thanh khoản đã dự phòng trước (theo thời vụ, chu kỳ, và xu hướng) được hỗ trợ bằng các thoả thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc những nhà cấp vốn khác. Nhu cầu thanh khoản không thể dự kiến được đáp ứng từ vay mượn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Các nhu cầu thanh khoản dài hạn cần được hoạch định và nguồn vốn để đáp Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 15 ứng nhu cầu thanh khoản là các khoản tiền vay ngắn và trung hạn, chứng khoán sẽ chuyển hóa thành tiền khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện. 2. Tại sao phải đánh giá trạng thái ngân quỹ? Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong NHTM là đảm bảo khả năng thanh khoản đầy đủ, 1 NHTM được xem là có khả năng thanh toán nếu nó tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn khả dụng ở chi phí hợp lý và đúng lúc cần thiết. Điều này có nghĩa là Ngân hàng có sẵn lượng ngân quỹ dự trữ trong tay. Tài sản ngân quỹ là những tài sản không sinh lời, được duy trì chủ yếu để đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng tiền gửi, chi phí cho hoạt động của ngân hàng, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ và thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN. Một ngân hàng thường đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng bằng tài sản ngân quỹ:  Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. Nếu một khách hàng có tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng, đến rút tiền mặt, rất đơn giản, ngân hàng sẽ xuất quỹ tiền mặt để trả; nếu một khách hàng có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh tóan, ký séc hoặc ủy nhiệm chi để trả cho khách hàng tại ngân hàng khác, rất đơn giản, ngân hàng sẽ sử dụng tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước hoặc tiềng gửi tại các tổ chức tín dụng để trả… Nếu một khách hàng có nhu cầu thanh toàn song chưa có (hoặc chưa đủ) tiền, ngân hàng có thể cho vay (sau khi phân tích tín dụng), để khách hàng đó thanh toán. Việc cho vay có thể dưới hình thức bằng tiền mặt, hoặc chuyển khoản. Các khoản vay đến hạn trả (vay ngân hàng Nhà nước hoặc phát hành trái phiếu…), ngân hàng trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản… Các hoạt động này diễn ra hàng ngày tại các ngân hàng giúp cho khách hàng thực hiện các hoạt động thanh toán và đầu tư kịp thời. Ngân hàng huy động hàng nghìn tỷ đồng của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và của hàng triệu cá nhân để cho vay và đầu tư, trong khi vốn sở hữu của ngân hàng thường chỉ chiếm một phần nhỏ (khoảng dưới 10%). Các vụ sụp đổ ngân hàng, các cơn hoảng loạn tài chính chỉ ra tính nhạy cảm của hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng trước các biến đổi bất thường của nền kinh tế trong nước, khu vực và toàn cầu. Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 16 Những tổn thất to lớn trong các ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng tới sự ổn định chính trị - kinh tế - xã hội và đời sống của các tầng lớp dân cư. Vì vậy, sự an toàn của các hệ thống cũng như mỗi ngân hàng là mối quan tâm thường xuyên của các tầng lớp dân cư, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các nhà quản lý ngân hàng. Các Bộ luật, các Nghị định, quy định thường đưa ra các điều khoản cấm, hạn chế, phải thực hiện… liên quan tới hoạt động của ngân hàng. Ví dụ, cấm một ngân hàng không được cho vay đối với Hội đồng quản trị của ngân hàng đó, cấm ngân hàng thương mại không trực tiếp kinh doanh bất động sản, quy định tỷ lệ cho vay cao nhất đối với một khách hàng trên vốn của chủ, … Các quy định nhìn chung đều hướng hoạt động của các ngân hàng vào khung an toàn. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý còn đặt ra các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các ngân hàng cũng như các điều khoản phạt vi phạm từ đơn giản như phạt tiền, đến các hình thức cao hơn như hạn chế hoạt động, kiểm soát đặc biệt, rút phép… để buộc các ngân hàng phải tuân thủ các quy định an toàn. Bên cạnh việc thực hiện các quy định của các cơ quan quản lý cấp trên, mỗi ngân hàng đều có chính sách đảm bảo an toàn riêng, phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Nguồn tiền của ngân hàng chủ yếu là tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân, ngân hàng phải có nghĩa vụ chi trả nhanh chóng. Bất cứ một sự chậm trễ nào đều có thể gây ra những bật lợi cho ngân hàng. Khách hàng gửi tiền tuy không có khả năng kiểm soát hoạt động của ngân hàng như những cơ quan quản lý, song họ lại rất nhạy cảm với những thông tin về hoạt động cũng như tư cách đạo đức của người quản lý ngân hàng (cả chính thức và không chính thức) và họ có quyền lựa chọn gửi tiền hoặc rút tiền cũng luôn yêu cầu sự nhanh chóng và kịp thời. Điều đáng cân nhắc là nhiều nhu cầu của các loại khách lại mâu thuẫn với yêu cầu an toàn của ngân hàng, ví dụ khách hàng vay tiền thường không muốn phải thế chấp, thường yêu cầu các thủ tục phải nhanh, gọn… Do vậy ngân hàng luôn phải tính toán các nhu cầu của khách hàng và phải đáp ứng những nhu cầu hợp pháp đó một cách tốt nhất. Mỗi ngân hàng cũng phải xây dựng chính sách và quy chế kiểm soát để đảm bảo an toàn như an toàn kho tiền mặt, tín dụng, các tài sản khác. Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 17 CHƢƠNG II: NGUYÊN LÝ HÌNH THÀNH VÀ CẤU TRÚC CỦA CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CHỈ TIÊU 1. Nguyên lý hình thành Ngân hàng quan tâm tới tính thanh khoản của mỗi tài sản và của danh mục tài sản. Tính thanh khoản của mỗi tài sản chính là khả năng chuyển tài sản thành tiền, được đo bằng thời gian và chi phí. Thời gian và chi phí càng cao tính thanh khoản của tài sản càng thấp và ngược lại. Tính thanh khoản của tài sản phản ánh rủi ro (tổn thất) khi chuyển tài sản thành tiền trong khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp một tài sản muốn bán nhanh (thời gian chuyển thành tiền ngắn) thì chi phí (tức tổn thất) lại lớn. Điều này cho thấy tính thanh khoản của một tài sản phụ thuộc vào nhiều nhân tố, và có thể thay đổi theo thời gian giữa các vùng, các nước. Vì vậy, những tài sản nào đáp ứng cà hai yêu cầu: thời gian ngắn và chi phí thấp mới được xếp vào tài sản thanh khoản. Ngân hang nắm giữ danh mục tài sản với tính thanh khoản khác nhau. Kết cấu tài sản với tính chất thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của nhóm tài sản hoặc tổng tài sản. Tính thanh khoản của các danh mục tài sản được đo bằng tỷ lệ của các tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản . Tỷ lệ này càng cao, tính thanh khoản của tổng tài sản càng lớn Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ được hình thành dựa trên tài sản có của ngân hàng như ngân quỹ và tiền gửi tại các ngân hàng khác. Đây là những tài sản có tính thanh khoản cao nhưng không sinh lợi cho ngận hàng. Trạng thái ngân quỹ = Ngân quỹ + Tiền gửi tại các ngân hàng khác Tổng tài sản Thành phần chỉ tiêu gồm: Ngân quỹ Tiền gửi tại các ngân hang khác Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 18 Tổng tài sản 2. Cấu trúc của các yếu tố chỉ tiêu 2.1 Tổng tài sản (Tài sản có) 2.1.1 Khái niệm Tổng tài sản là những tài sản vật chất cụ thể tồn tại dưới những hình thức khác nhau như tiền mặt tại két ngân hàng, tiền đang thu, chứng khoán các loại, cho vay các loại và các trang thiết bị cơ sở vật chất của ngân hàng. Những tài sản này được ngân hàng phân bổ theo những tiêu thức quản lý cụ thể và phù hợp sẽ được trình bày cụ thể ở những phần sau. Tài sản có (tài sản nội bảng) là những tài sản hình thành trong sử dụng các nguồn vốn của ngân hàng. Ở góc độ tiếp cận khác, tài sản có là kết quả của việc sử dụng vốn ngân hàng, là những tài sản được hình thành từ các nguồn vốn của ngân hàng trong quá trình hoạt động. Một nguồn vốn có thể hình thành nên nhiều tài sản có và ngược lại. Danh mục tài sản có của ngân hàng bao gồm: tài sản ngân quỹ, tín dụng, đầu tư (chứng khoán) và các tài sản khác đảm bảo ngân hàng hoạt động an toàn và có lãi. Căn cứ vào hình thức tồn tại Tài sản có của ngân hàng có thể tồn tại dưới dạng tài sản thực, tài sản tài chính và tài sản vô hình. Còn căn cứ vào nguồn gốc hình thành, tài sản của ngân hàng được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu, vốn tích lũy trong quá trình kinh doanh, vốn huy động và và đi vay…Căn cứ vào vị trí trong bảng tổng kết tài sản, tài sản của ngân hàng bao gồm tài sản nội bảng và tài sản ngoại bảng Tài sản Có = Vốn ngân hàng + Tài sản Nợ 2.1.2 Thành phần cấu thành tổng tài sản 2.1.2.1 Tài sản ngân quỹ Tài sản ngân quỹ là khoản tài sản có tính thanh khoản cao mà ngân hàng phải duy trì để đảm bào an toàn trong hoạt động kinh doanh, bao gồm ngân quỹ (tiền mặt tại quỹ) và tiền gửi tại các ngân hàng khác. Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 19 Đây là những tài sản không sinh lời, được duy trì chủ yếu để đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng gửi tiền, chi phí cho hoạt động của ngân hàng, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ và thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng nhà nước. Bình quân hiện nay, tài sản ngân quỹ chiếm khoảng 10% trong tổng tài sản Có của các ngân hàng, và trong tương lai, khoản mục này có xu hướng ngày càng giảm do sự phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt, trình độ quản lý của ngân hàng… 2.1.2.2 Đầu tƣ chứng khoán Các ngân hàng thương mại mua các chứng khoán vì các mục đích: Ổn định hóa thu nhập Bù trừ rủi ro tín dụng trong danh mục cho vay Cung cấp nguồn thanh khoản dự phòng cho ngân hàng Giúp cho ngân hàng giảm số thuế phải nộp nhưng vẫn tăng thu nhập, đặc biệt là trái phiếu đô thị (là loại trái phiếu được miễn thuế thu nhập) Tạo ra sự phòng vệ cho ngân hàng nhằm ngăn ngừa sự thiệt hại khi rủi ro xuất hiện… Nhìn chung, các ngân hàng có hai mục đích chính khi đầu tư các chứng khoán: đầu tư vì thanh khoản và đầu tư vì lợi tức.Tất cả các chứng khoán đều đem lại thu nhập cho ngân hàng. Tùy theo mục đích hoạt động mà các ngân hàng đầu tư vào loại chứng khoán cụ thể. Với các ngân hàng có các khoản thu nhập từ tín dụng tốt, không chịu áp lực phải tìm kiếm các khoản thu nhập khác thì họ thường lựa chọn việc đầu tư vào các chứng khoán Chính phủ. Việc đầu tư ngắn hạn vào các chứng khoán Chính phủ thường có mức lãi suất thấp nhưng không phải chịu rủi ro tín dụng và ít rủi ro về lãi suất so với các chứng khoán dài hạn khác. Hơn nữa, các chứng khoán Chính phủ có tính linh hoạt cao. Chúng có thể dễ dàng được bán lại trên thị trường giúp cho ngân hàng giải quyết các vấn đề thanh khoản. Với các ngân hàng chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, họ thường đầu tư vào các chứng khoán công ty, Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 20 có kỳ hạn dài vì đây là các chứng khoán có lãi suất cao. Như vậy, ngân hàng phải chấp nhận rủi ro lớn hơn và khó có khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Ngoài ra, đầu tư vào chứng khoán cũng tạo điều kiện phân tán rủi ro. Đối với các ngân hàng hoạt động trong một phạm vi một địa phương nhất định thường các khoản mục tín dụng bị bó hẹp trong một số lĩnh vực cho nên rủi ro sẽ rất cao khi lĩnh vực đó suy thoái. Vì vậy đầu tư vào chứng khoán sẽ chuyển một phần vốn phân tán sang lĩnh vực khác giúp ngân hàng có thể vượt qua thời kỳ khó khăn. Các công cụ của thị trƣờng tiền tệ Những công cụ này có các đặc điểm chung như sau: lợi tức thấp, ngày đáo hạn dưới một năm, dễ mua bán trên thị trường (tính khả mại cao), mức độ rủi ro của chứng khoán thấp. Các công cụ này bao gồm: Trái phiếu ngắn hạn của các công ty, xí nghiệp Trái phiếu đô thị (tría phiếu chính quyền địa phương) Các hối phiếu, kỳ phiếu thương mại. Tín phiếu ngân hàng Nhà nước Chứng chỉ tiền gửi (CD) có thời hạn dưới một năm. Các công cụ của thị trƣờng vốn Có đặc điểm chung là lợi tức cao, thời gian đáo hạn dài (trên 1 năm), tính khả mại thấp, có nhiều rủi ro như: Trái phiếu chính phủ có thời hạn trên 1 năm Trái phiếu đô thị có thời hạn trên 1 năm Kỳ phiếu ngân hàng có thời hạn trên một năm Trái phiếu dài hạn của các công ty, xí nghiệp Công trái 2.1.2.3 Tín dụng Tín dụng là khoản mục đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng chiếm 2/3 tồng thu nhập cho ngân hàng và là khoản mục chứa đựng rất nhiều rủi ro, mà qua đó có thể đánh giá được trình độ và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 21 hoạt động tín dụng mục tiêu chủ yếu của nhà quản lý ngân hàng là tìm kiếm lợi nhuận.Tính thanh khoản của các khoản cho vay giữ vai trò chủ yếu. Vì việc bán lại các hợp đồng tín dụng cho tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng khác bị hạn chế về thị trường. Rủi ro vỡ nợ (default risk) là rủi ro chủ yếu mà ngân hàng gặp phải ở các khoản cho vay. Vì vậy, các ngân hàng luôn tìm cách đảm bảo các khoản cho vay bằng thế chấp, cầm cố. Trong thời gian gần đây còn xuất hiện các hình thức mới như phát hành thương phiếu dựa trên các khoản tín dụng có liên quan. Điều này cho phép chủ nợ đầu tiên thu hồi vốn một cách gián tiếp khi vốn vẫn đang hoạt động. Cho vay ngoài hệ thống ngân hàng chiếm phần lớn trong tổng số cho vay của ngân hàng. Cho vay thương mại và công nghiệp, cho vay bất động sản là hai khoản lớn nhất trong số cho vay ngoài ngân hàng, điều đó cho thấy hai lĩnh vực này có ảnh hưởng quan trọng đến chính sách kinh doanh cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Như vậy, tùy theo mục tiêu phát triển mà các ngân hàng có thể hưởng hoạt động của mình vào lĩnh vực cụ thể bằng cách tập trung vốn vào các khoản cho vay khác nhau cũng phải dựa trên khả năng sinh lợi, nhu cầu tín dụng, mức độ an toàn vốn và phải phù hợp với các tiêu chuẩn của luật định. Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. a. Tín dụng chia theo thời gian Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thới gian liên quan mật thiết đến tính an tòan và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành: Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chống hao mòn. Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 22 có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn: Các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có thể nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn… b. Tín dụng chia theo hình thức tài trợ Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính (thời điểm), cho vay được ghi dưới hình thức dư nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ phần trích lập dự phòng tổn thất hoặc lãi được nhận trước. Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn (Leasing) được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được (dư nợ cho thuê). Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài sản ngoại bảng, đó là Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 23 giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng (mục cho vay bắt buộc, tính vào nợ quá hạn). c. Tín dụng đƣợc phân chia theo hình thức đảm bảo Không có đảm bảo, có đảm bảo tài sản thế chấp, cầm đồ. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Cam kết đảm bảo là cam kết của ng−ời nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của ng−ời thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ và Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng… cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo. d. Tín dụng phân loại theo rủi ro Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chi tới 10 thang bậc rủi ro tín dụng, tức là xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. Cách phân loại này giúp ngân Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 24 hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng. Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao; Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp tiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính… Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn… Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì… e. Phân loại tài sản khác Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…) Theo đối tượng tín dụng (Tài sản lưu động, tài sản cố định) Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…) Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hóa trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví dụ ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, bên cạnh việc đa dạng hóa các ngành tài trợ, vẫn tập trung tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Cách phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. 2.1.2.4 Các tài sản khác Các loại tài sản hiện vật như: tòa nhà ngân hàng, hệ thống máy vi tính và những trang thiết bị khác do ngân hàng sở hữu là thuộc loại tài sản này. Những tài sản này có thể được coi là tài sản cố định của ngân hàng, khác với các công ty sản xuất, tài sản cố định của ngân hàng chiến tỷ trọng nhỏ (không vượt quá Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 25 10%).Tuy nhiên, nó tạo cơ sở vật chất cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, nó là nền tảng cho việc thực hiện các công hộ ngân hàng hiện đại giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. 2.2 Ngân quỹ 2.2.1 Khái niệm Ngân quỹ ở đây được hiểu là tiền mặt tại quỹ. Tiền mặt tại quỹ là một tài sản quan trọng của tài sản ngân quỹ. Tiền mặt được duy trì tại ngân hàng để đáp ứng một phần yêu cầu dự trữ pháp định. Ngoài ra, viêc giữ tiền mặt còn phải giải quyết vấn đề an toàn và chi phí bảo quản.Tuy nhiên, trong quá trình kinh doanh tiền mặt đóng vai trò quan trọng. Theo quản điểm của các ngân hàng, tiền mặt chỉ được giữ lại một lượng vừa đủ vì các lý do sau: Không an toàn nếu ngân hàng duy trì tiền mặt quá nhiều Mức sinh lời của tiền mặt xem như bằng 0, chưa kể đến do tác động của lạm phát sẽ làm cho giá trị của tiền mặt bị giảm đi. Tốn kém do chi phí bảo quản tiền mặt khá cao. Những yếu tố ảnh hƣởng đến mức dự trữ tiền mặt: Khoảng cách từ ngân hàng đến trung tâm tiền mặt (Ngân hàng Nhà nước, hội sợ của ngân hàng thương mại) Thói quen sử dụng tiền mặt của khách hàng trên địa bàn nơi ngân hàng hoạt động Nhu cầu của khách hàng tại những thời điểm khác nhau, nhu cầu này có thể biết trước như là nhu cầu có tính chu kỳ, thời vụ; nhu cầu thường xuyên; hoặc có thể là những nhu cầu không biết trước mang tính đột xuất. Hiện nay ở Việt Nam, lượng tiền mặt tại quỹ của các ngân hàng thương mại chiếm khoảng 5% trong Tổng tài sản, trong khi ở các nước phát triển thì tỷ lệ này chỉ xấp xỉ 1%. 2.2.2 Thành phần cấu thành ngân quỹ Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 26 Có thể bao gồm nội tệ, ngoại tệ (ở những nước ngoại tệ được sử dụng trong lưu thông hoặc chấp nhận tiền gửi ngoại tệ) tại Hội sở, các chi nhánh, các phòng giao dịch của ngân hàng, các máy ATM. Một vài ngân hàng còn bao gồm cả vàng và các kim khí quý và đá quý khác. 2.3 Tiền gửi tại các ngân hàng khác Gồm tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước, tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng thương mại phải thực hiện dự trữ bắt buộc. Hình thức dự trữ bắt buộc có thể khác nhau ở các nước. Nhiều ngân hàng Trung ương yêu cầu ngân hàng thương mại phải duy trì dự trữ bắt buộc dưới hình thức tiền gửi tại ngân hàng Trung ương. Bên cạnh đó Ngân hàng thương mại nắm giữ loại tiền gửi này còn vì mục tiêu thanh toán tiện lợi: rất nhiều các khoản thanh toán giữa ngân hàng được thực hiện qua ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương), hoặc qua ngân hàng đại lý (thanh toán qua các nước khác nhau). Khoản tiền gửi này có thể sinh lời song rất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn tại NHNN, được duy trì để phục vụ cho nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt. Tiền gửi này còn dùng để đáp ứng nhu cầu cho vay khi cần thiết, đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của ngân hàng, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ, , giao dịch mua bán trái phiếu chính phủ, chuyển tiền… Tiền gửi tại các ngân hàng thương mại khác dùng cho nhu cầu thanh toán tức thời và ngắn hạn như thu chi hộ, chi trả cho các khoản dịch vụ được thực hiện bởi ngân hàng khác làm hoặc làm đại lý thanh toán cho nhau. Ngân hàng với vai trò thủ quỹ cho nền kinh tế, có trách nhiệm chi trả kịp thời mọi nhu cầu của người gửi tiền dưới hình thức chuyển khoản và cả bằng tiền mặt. Do vậy, ngân hàng luôn phải giữ một lượng tiền mặt trong két, tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Lượng tiền mặt trong két nhiều hay ít phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu và khả năng thu hút tiền mặt mỗi thời kỳ, khoảng cách Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 27 giữa ngân hàng thương mại và kho tiền của ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng thương mại Việt Nam thường phải giữ tỷ lệ tiền mặt cao do tâm lý và thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của đại đa số dân chúng và doanh nghiệp nhỏ. Nhìn chung ngân quỹ của ngân hàng là tài sản không sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi) song lại là tài sản có tính thanh khoản - tín lỏng - cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được. Tỷ trọng ngân quỹ trong tổng tài sản của ngân hàng thường thấp và khác nhau tại các ngân hàng. Thông thường, ngân hàng gần trung tâm tiền tệ, tỷ lệ này thường thấp hơn so với ngân hàng ở xa. Tỷ lệ này có xu hướng tăng trong giai đoạn kinh tế suy thoái, khi ngân hàng khó tìm kiếm được nhiều cơ hội cho vay và đầu tư. Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 28 CHƢƠNG III: PHÂN TÍCH VÀ CHỈ RA QUY LUẬT VẬN ĐỘNG CỦA CHỈ TIÊU 1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chỉ tiêu 1.1. Các yếu tố mà ngân hàng có thể kiểm soát đƣợc 1.1.1. Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ bao gồm các hoạt động sau: Bán chứng khoán, nhận lãi chứng khoán Vay qua đêm, phát hành chứng chỉ tiền gửi hoặc nhận tiền gửi của khách hàng Trong việc quản lý nguồn vốn của NH, thì ngoài các khoản dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN thì còn khoản dự trữ theo nhu cầu thanh toán để đảm bảo yêu cầu thanh khoản của NH, vào cuối mỗi ngày làm việc, tỷ lệ tài sản có thể thanh toán ngay với nguồn có thể thanh toán phải duy trì bằng 1 và đảm bảo cho đến sáng hôm sau. Do yêu cầu này nên xuất hiện "vay qua đêm". Những khoản tín dụng đã đến hạn thu hồi 1.1.2. Nhóm yếu tố làm giảm quỹ tiền tệ Nhóm yếu tố làm giảm quỹ tiền tệ là các hoạt động sau: Mua chứng khoán, trả lãi tiền gửi. Các ngân hàng mua các trái phiếu trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Khách hàng rút tiền theo định kỳ Trả nợ vay đến hạn (vay ngân hàng Nhà nước hoặc phát hành trái phiếu…) Cho vay qua đêm Thanh toán chi phí dịch vụ cho ngân hàng khác 1.2. Các yếu tố mà ngân hàng không kiểm soát đƣợc 1.2.1. Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ như: Những khoản tiền nhận được từ nghiệp vụ thanh toán bù trừ Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 29 Các khoản thuế thu hộ, tiền mặt trong quá trình thu (tiền đang chuyển) Tiền mặt đang trên đường thu hồi (Cash Items in the Process of Collection) là một thuật ngữ chỉ hai khoản: * Tiền mặt đã được các đơn vị vay, các đơn vị có trách nhiệm trả nợ ký cam kết thanh toán rồi và hiện đang thu về. Quá trình thu không kéo dài quá 14 ngày, kể từ ngày tính dự trữ. * Tiền mặt được thu lại do một số tờ séc của ngân hàng phát ra không được chấp nhận hoặc không thanh toán được và phải trả lại cho chính ngân hàng. 1.2.2. Nhóm yếu tố làm giảm quỹ tiền tệ Nhóm yếu tố làm giảm quỹ tiền tệ như: Các khoản phải trả trong nghiệp vụ thanh toán bù trừ Thuế phải thanh toán cho ngân sách. Bởi vì, thuế là phần thu nhập của ngân hàng thương mại trong quá trình họat động kinh doanh phân phối cho Nhà nước theo chế độ qui định. Tùy theo chính sách của mỗi quốc gia các loại thuế ngân hàng phải thực hiện theo nghĩa vụ đối với Nhà nước Khách hàng rút tiền không theo định kỳ (trước hạn). Bởi vì đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đền hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi yêu cầu thanh khoản của ngân hàng. 2. Quy luật vận động của chỉ tiêu Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ chủ yếu dựa trên việc quản lý thanh khoản từ phía tài sản, đó là sự quản lý tỷ lệ của ngân quỹ và tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trên Tổng tài sản ngân hàng. Trạng thái ngân quỹ = Ngân quỹ + Tiền gửi tại các ngân hàng khác Tổng tài sản Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 30 Chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng có khả năng xử lý các tình huống thanh khoản tức thời. Như đã nói ở trên, ngân quỹ là những tài sản không sinh lợi cho ngân hàng nhưng vẫn phải đảm bảo một mức hợp lý để đảm bảo khả năng thanh khoản. Tài sản ngân quỹ (một phần dự trữ của ngân hàng) bao gồm những tài sản thanh khoản nhất của một ngân hang, được bổ sung từ các dòng tiền vào ngân hang như gia tăng các khoản tiền gửi, vay, thu nợ, chứng khoán do ngân hang nắm giữ đến hạn thanh toán… và cũng được sử dụng thường xuyên để chi trả tiền gửi, cho vay, đầu tư. Ngân quỹ gia tăng hoặc suy giảm có thể do yếu tố khách quan như thời vụ, chu kỳ kinh doanh và thu nhập của khách hàng, thay đổi trong các quy định của các cơ quan quản lý, hoặc trong hệ thống… hoặc do ngân hàng quyết định gia tăng (hoặc giảm) ngân quỹ theo chiến lược dự trữ mà ngân hàng đang theo đuổi. Gia tăng ngân quỹ (các điều kiện khác coi như không đổi) sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng nhưng lại làm tăng chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ, tức là ngân hàng có thể xử lý các tình huống thanh khoản tốt. Nhưng cũng vì làm tăng ngân quỹ mà làm giảm thu nhập của ngân hàng nên việc tối thiểu hóa ngân quỹ là mục tiêu mà các ngân hàng đang theo đuổi. Nếu giảm các khoản ngân quỹ và tiền gửi tại các ngân hàng khác thì chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ sẽ giảm, tức là khả năng thanh khoản của ngân hàng dựa trên nguồn tài sản ngân quỹ thấp. Cung và cầu thanh khoản cũng ảnh hưởng đến việc tăng giảm ngân quỹ. Nếu dòng tiền vào dự tính lớn hơn dòng tiền ra dự tính (cung>cầu thanh khoản) thì lúc đó ngân quỹ của ngân hàng sẽ tăng làm tăng tính thanh khoản của tài sàn; ngược lại, dòng tiền vào dự tính nhỏ hơn dòng tiền ra dự tính (cung < cầu thanh khoản) thì lúc đó ngân quỹ của ngân hảng sẽ suy giảm làm giảm tính thanh khoản của tài sản. Ngân quỹ ngân hàng gia tăng có thể được chia thành hai trường hợp: Ngân hàng chủ động gia tăng ngân quỹ nhằm đối phó với những khó khăn về nhu cầu thanh khoản đột xuất trong kỳ tới. Trong trường hợp này, ngân hàng Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 31 sẽ cân nhắc giữa chi phí nắm giữ ngân quỹ cao kỳ này và chi phí có thể phải bỏ ra để đáp ứng nhu cầu thanh khoản kỳ tới. Ngân hàng bị động phải gia tăng ngân quỹ do khả năng cho vay thấp (xuất hiện tình trạng dư thừa lớn dự trữ - ứ động vốn). Trường hợp này sẽ dẫn đến giảm thu nhập của ngân hàng Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 32 CHƢƠNG IV: ĐỀ XUẤT PHƢƠNG ÁN ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ AN TOÀN CHỈ TIÊU 1. Phƣơng án dựa trên nhu cầu thanh khoản Cách thức mà các ngân hàng áp dụng để quản lý cầu thanh khoản có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự an toàn hệ thống cũng như sự an toàn của chi tiêu trạng thái ngân quỹ. Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ để thấy những biến động về nhu cầu này và các nhân tố ảnh hưởng; Xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng và nhu cầu thanh khoản để xác định tần suất và độ lớn trong thay đổi nhu cầu thanh khoản; Phân tích và định lượng nhu cầu thanh toán đối với từng loại tiền gửi, từng nhóm khách hàng, từng thời lỳ trong năm. Ví dụ: Một số ngân hàng thương mại dự đoán cầu thanh khoản như sau: 100% tiền gửi và tiền vay đến hạn thanh toán + 50% tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống + 30% tiền gửi trên 12 tháng đến 5 năm + 10% tiền gửi trên 5 năm +20% tín dụng tăng trưởng + các khoản vay đến hạn trả trong lỳ. Các tỷ lệ trên được xây dựng dựa vào phân tích các dòng tiền rút ra kỳ trước có tính đến những thay đổi xảy ra kỳ này. Kỳ tính có thể hàng ngày, tuần, tháng, năm hoặc nhiều năm. Ngân hàng có thể phân loại những nguồn, những thời điểm có tần suất chi trả lớn, xác định tỷ lệ trung bình chi trả đối với các nguồn tiền. Các nguồn tiền có tính ổn định thấp (thường có vòng quay lớn) thường có tỷ lệ chi trả cao. Các nguồn có tính ổn định Từ đó lập ra một chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ thích hợp để vửa đảm bảo an tòan thanh khoản vừa tối đa hối lợi nhuận. 2. Phƣơng án dựa trên cung thanh khoản a. Phƣơng án an tòan thanh khoản từ phía tài sản Duy trì ngân quỹ với quy mô và cấu trúc thích hợp, luôn đảm bảo đúng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của nhà nước Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 33 Phân tích tính thanh khoản của tài sản thông qua khả năng chuyển tài sản thành ngân quỹ Tìm kiếm các tài sản có khả năng thay thế được ngân quỹ trên phương diện thanh khoản, đồng thời tăng khả năng sinh lời của ngân hàng. b. Phƣơng án an toàn thanh khoản từ phía nguồn vốn Vay từ ngân hàng Trung Ương (ngân hàng Nhà nước) thường được ưu tiên sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Vào thời kỳ ngân hàng Trung ương áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ, việc vay mượn có thể dễ dàng hơn, lãi suất thường rất thấp – thấp nhất trong khung lãi suất cho vay – vì vậy ngân hàng thương mại có thể sử dụng nguồn này để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Vay các ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thường chỉ cao hơn lãi suất của ngân hàng Trung ương, thủ tục vay mượn đơn giản (phần lớn là cho vay dựa vào uy tín của ngân hàng vay). Vay bằng cách phát hành các giấy nợ ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi. Lãi suất của các giấy nợ cao này thường cao hơn tiền gửi tiết kiệm cùng kỳ hạn, tuy nhiên ngân hàng chủ động huy động một lượng tiền đúng như yêu cầu trong khoản thời gian xác định với thời gian tương đối nhanh. Mở rộng và đa dạng hóa khách hàng gửi tiền (mở chi nhánh ở các vùng, các quốc gia khác nhau, cung cấp nhiều loại hình gửi, tăng tiện ích cho khách hàng, tạo sản phẩm mới..) để hạn chế nhu cầu thanh khoản thời vụ và chu kỳ. c. Phƣơng án an toàn thanh khoản kết hợp tài sản và nguồn vốn Thực hiện việc cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có cho phù hợp. Đây là công việc hết sức quan trọng để quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM. Các ngân hàng cần xem lại cơ cấu danh mục tài sản nợ, tài sản có cho phù hợp, nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, đó là cơ cấu lại nguồn vốn huy động và cho vay trên thị trường; cơ cấu lại dư nợ cho vay ngắn hạn với cho Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 34 vay trung hạn, giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn. Các ngân hàng đều phải duy trì một tỷ lệ dự trữ (bao gồm tiền mặt trong ngân hàng, tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương). Làm như vậy để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung ương và để đối phó với các dòng tiền đi ra. Việc kết hợp giữa dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp sẽ giúp ngân hàng chủ động vừa đối phó với rủi ro thanh khoản vừa có thu nhập hợp lý. Thực hiện tốt quản lý rủi ro lãi suất khe hở lãi suất: Cần hoàn thiện các quy định liên quan đến huy động và cho vay (nhất là huy động, cho vay trung, dài hạn) theo lãi suất thị trường; cần có cách giải quyết khoa học để không xảy ra tình trạng các khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn khi lãi suất thị trường tăng cao hoặc khi có các đối thủ khác đưa ra lãi suất cao, hấp dẫn khách hàng hơn. Hiện nay, xuất hiện một thực tế là các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đến hạn không chịu trả nợ vay vì họ e ngại sau khi trả sẽ rất khó vay lại được tiền từ ngân hàng. Vì thế, họ sẵn sàng chịu phạt lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng vì như vậy, so ra vẫn còn thấp hơn lãi suất cho vay mới. Chính điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Thực hiện tốt quản lý rủi ro kỳ hạn: Sự không cân đối về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng là lý do quan trọng làm cho các ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản trong thời gian qua. Vấn đề sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn với tỷ trọng lớn hoặc cùng là ngắn hạn và trung, dài hạn nhưng thời hạn cụ thể khác nhau (ví dụ như huy động trung, dài hạn hai năm nhưng cho vay trung hạn ba năm) cũng làm cho ngân hàng khó khăn trong việc kiểm soát dòng tiền ra và dòng tiền vào của mình. Thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro: Thị trường tiền tệ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế, tuy nhiên, sau đợt biến động của thị trường tiền tệ trong thời gian qua, chắc chắn các ngân hàng sẽ quan tâm nhiều hơn và nó sẽ giúp cho ngân hàng quản lý tốt hơn tài sản nợ, tài sản có của mình. Thị trường Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 35 REPO là công cụ khá hiệu quả trong việc tạo ra tính lỏng cao cho các chứng khoán nợ và cơ cấu tài sản có nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng một cách nhanh chóng. Forward và Future cũng là những công cụ để cầm giữ lãi suất giao dịch nhằm hạn chế rủi ro khi lãi suất thị trường biến động. Đặc biệt SWAP là công cụ quan trọng để các ngân hàng có thể cơ cấu lại tài sản nợ, tài sản có trên bảng cân đối tài sản của mình, nhằm hạn chế các tác động của rủi ro lãi suất. rủi ro kỳ hạn. Với thực trạng thị trường như hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng quản lý rủi ro thanh khoản nhằm giảm thiểu rủi ro vỡ nợ là mối quan tâm hàng đầu, là bài toán khó đặt ra không chỉ với một ngân hàng riêng lẻ mà đối với toàn hệ thống từ Ngân hàng Nhà nước cho tới các ngân hàng thương mại. Cuối cùng, các ngân hàng cũng cần hiểu rõ mối quan hệ hữu quan giữa các loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro tỷ giá.... với rủi ro thanh khoản để có được định hướng đúng đắn trong việc hoạch định chính sách kinh doanh của mình. Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 36 KẾT LUẬN Thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản là yếu tố quyết định sự an toàn trong hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại nào. Trong thế giới ngày nay, nhiều ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng căng thẳng thanh khoản (liquidity strains), khi mà sự cạnh tranh khốc liệt về thu hút tiền gửi buộc các ngân hàng phải tìm kiếm các nguồn tài trợ khác. Khả năng thanh khoản không hợp lý là dấu hiệu đầu tiên của tình trạng bất ổn về tài chính. Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, cơ hội và rủi ro trong quản trị thanh khoản của các ngân hàng thương mại cũng gia tăng tương ứng. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc kế hoạch được nhu cầu thanh khoản bằng phương pháp chỉ tiêu thanh khoản. Với đề tài “Phân tích chỉ tiêu trạng thái Ngân quỹ” trên cơ sở lý luận đã được học và nghiên cứu nhóm đã phần nào hiểu rõ hơn về quản trị thanh khoản trong ngân hàng đặc biệt là phương pháp chỉ số thanh khoản dựa trên trạng thái ngân quỹ. Song thời gian có hạn nên chắc chắn bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót, vì thế nhóm rất mong được sự góp ý của thầy. Một lần nữa nhóm xin chân thành cảm ơn thầy đã tận tình hướng dẫn. Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH 37 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO 1. PGS. TS Lê Văn Tề (2002), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb thống kê, TP Hồ Chí Minh. 2. PGS.TS Phan Thị Thu Hà (2009), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb giao thông vận tải, TP Hồ Chí Minh. 3. Trần Huy Hoàng (2007), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb lao động xã hội, Hà Nội. 4. TS. Trương Quang Thông (2010), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, TP. Hồ Chí Minh 5. TS. Lê Vinh Danh , Tiền và hoạt động ngân hàng, Nxb giao thong vận tải, TP. Hồ Chí Minh 6. Website: tailieu.vn 7. Website: caohockinhte.vn 8. Website: www.vneconomy.vn 9. Website: thuvien-ebook.com 10. Website: yourtemplates.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_phan_tich_chi_tieu_trang_thai_ngan_quy_5151.pdf
Luận văn liên quan