Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang trong những năm gần đây 
đã có những bước phát triển đáng khích lệ, đã từng bước khẳng định được vị trí 
quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên, 
quá trình xuất khẩu này vẫn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để khắc phục tình trạng 
này, phấn đấu đạt mục tiêu phát triển đã đề ra thì ngoài sự trợ giúp của Nhà nước, 
các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. 
Nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường, 
góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu 
vực và trên thế giới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 30 trang
30 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4028 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 may mới sử dụng 60% năng lực hiện có. 
 Vì những lí do trên, có thể nói năng lực cạnh tranh của ngành dệt may là 
chưa cao. Nhưng nếu được đầu tư thoả đáng thì ngành dệt may là ngành có thể phát 
huy được nội lực của Việt Nam. 
 III. Hạn ngạch 
 1. Khái niệm về hạn ngạch (quota) 
 Hạn ngạch vừa như một rào cản hạn chế lượng hàng xuất khẩu của các doanh 
nghiệp về một thị trường nào đó. Nhưng đồng thời nó cũng là sự phân bổ tạo cơ hội 
cho doanh nghiệp được xuất khẩu sang nước khác. 
 Hạn ngạch là quyền lợi dành cho mỗi thành viên trong một tổ chức được 
hưởng phần ngoại tệ dành cho một thương nhân được sử dụng để nhập khẩu trong 
tổng số ngoại tệ dùng để nhập khẩu của một nước. 
 Một định mức về số lượng hoặc trị giá do nhà nước quy định trong việc xuất 
khẩu hoặc nhập khẩu một mặt hàng trong một thời gian nhất định. 
 2. Căn cứ giao hạn ngạch cho các doanh nghiệp trong nước 
 2.1. Hạn ngạch thành tích 
 Là dành 80% nguồn hạn ngạch để giao cho thương nhân đã có thành tích 
xuất khẩu mặt hàng trong năm tương ứng. Thành tích xuất khẩu của các thương 
nhân sẽ do phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực báo cáo, không giao hạn ngạch 
thành tích cho các thương nhân mới, chưa được kiểm tra năng lực sản xuất. 
 2.2. Hạn ngạch phát triển 
 Là dành 20% nguồn hạn ngạch còn lại để giao cho các doanh nghiệp có mặt 
hàng xuất khẩu cùng loại tương ứng. Bộ Thương Mại dựa vào những hồ sơ và một 
số yêu cầu bổ sung có thể để phân giao hạn ngạch công bằng giữa các doanh nghiệp 
theo một số tiêu chí như: xuất khẩu dệt may sử dụng vải trong nước, thưởng cho 
doanh nghiệp xuất khẩu các chủng loại hàng phi hạn ngạch; doanh nghiệp vùng 
sâu, vùng xa (cách cảng Hải Phòng hoặc cảng quốc tế thành phố Hồ Chí Minh trên 
500km); doanh nghiệp tham gia chuỗi và các doanh nghiệp đầu tư mới các dự án 
dệt nhuộm lớn… 
 3. Các loại hạn ngạch 
 3.1. Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng đối với loại hàng nào đó 
được nhập khẩu vào một nước được hưởng mức thuế thấp trong một thời gian nhất 
định, nếu vượt sẽ đánh thuế cao. 
 3.2. Hạn ngạch tương đối 
 Là hạn ngạch về số lượng cho một chủng loại hàng hoá nào đó được nhập 
khẩu vào một nước trong một thời gian nhất định nếu vượt sẽ không được phép 
nhập khẩu. 
 4. Hoàn trả hạn ngạch 
 Doanh nghiệp không có khả năng thực hiện hạn ngạch được giao phải có văn 
bản hoàn trả lại Bộ Thương Mại, tránh khê đọng hạn ngạch. Tuỳ từng trường hợp 
mà Bộ Thương Mại có những hình thức xử lý đối với các văn bản hoàn trả. Ví dụ 
đối với các hạn ngạch dành cho các tiêu chí như vải sản xuất trong nước, khách 
hàng Hoa Kỳ lớn, sản phẩm giá xuất khẩu cao nếu không sử dụng mà trả lại cũng 
không được tính làm cơ sở để phân giao cho năm tiếp theo… 
 5. Hoạt động xuất khẩu 
 5.1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu 
 Xuất khẩu là một bộ phận cơ bản của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng 
hoá và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. 
 Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình 
ra nước ngoài. Do vậy xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh quốc tế quan 
trọng của các công ty. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi công ty đã thực hiện được 
những hình thức cao hơn trong kinh doanh. 
 5.2. Một số hình thức xuất khẩu 
 - Xuất khẩu trực tiếp 
 - Xuất khẩu gia công uỷ thác 
 - Xuất khẩu uỷ thác 
 - Buôn bán đối lưu 
 - Xuất khẩu theo nghị định thư 
 - Xuất khẩu tại chỗ 
 - Gia công quốc tế 
 - Tạm nhập tái xuất 
 5.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 
 - Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá đất nước . 
 - Xuất khẩu có vai trò tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, 
thúc đẩy sản xuất phát triển. 
 - Xuất khẩu có tác động tích cực giải quyết công ăn việc làm, cải thiện 
đời sống nhân dân 
- Xuất khẩu là nền tảng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại. 
 - Xuất khẩu góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề sử 
dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. 
Phần Hai 
Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 
I. Hoạt động xuất khẩu chung của dệt may Việt Nam 
1. Kim ngạch xuất khẩu 
Ngành dệt may nước ta phát trỉên đó lõu nhưng chỉ từ thập niên 90 trở lạI đây mớI thục 
sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoạI thương nói 
riêng. Trong suốt 40 năm qua kim ngạch khẩu hàng dệt may không ngừng tăng, Năm 
2001 tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 2001 triệu USD. Năm 2005 Việt Nam 
đó xuất khẩu được 4806 triệu USD túc gấp 2.4 lần so với năm 2001đứng thứ hai sau 
dầu mỏ. Nhưng dù vậy sản xuất hàng dệt may vẫn chủ yếu là gia công, lệ thuộc vào đối 
tác nước ngoài về mẫu mó, thị truờng và giỏ cả khụng tự chuyển sang tự sản xuất kinh 
doanh để có thể hiệu quả hơn. 
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 
Năm 
Kim ngạch xuất khẩu dệt 
may 
Tổng kim ngạch xuất 
khẩu 
Tỷ trọng / tổng 
số 
2001 2000 15100 7.55 
2002 2710 16530 6,1 
2003 3630 19880 5,5 
2004 4319 26003 6 
2005 4806 34278 7,13 
II. Các thị trường xuất khẩu hàng dệt mayViệt Nam 
Thị trường là vấn đề cốt lừi cú ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của từng 
doanh nghiệp, vỡ vậy việc tỡm hiểu và nắm bắt nhu cầu của thị trường là điều cần 
thiết từ đó có thể sản xuất ra những gỡ thị trường đũi hỏi. Điều này đó tạo nờn vai trũ 
quyết định của thị trường đối với việc sản xuất kinh doanh của ngành dệt may 
 Mặc dù hinh thức xuất khẩu chủ yếu của dệt may Việt Nam là gia công xuất 
khẩu nhưng vẫn có thể nói hàng đẹt may Việt Nam đó phần nào thõm nhập được vào 
các thị trương lón như EU, Mỹ, ASEAN, Nhật Bản... điều này vàng chứng tỏ rằng 
hàng dệy may đó dần cú vị thế và uy tín trên thế giới 
 - Thị trường Nhật Bản 
Đây là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới, lại không hạn chế băng 
hạn ngạch, dân số đông và mức thu nhập cao bỡnh quõn 34000 USD/ người/ năm thỡ 
nhu cầu về may mặc là khụng nhỏ. Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu hàng may mặc 
khoang từ 7-8 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản năm 
2001 khoảng 700 triệu USD. Song Nhật Bản là một thị trường rất kho tính về chất 
lượng cungx như giá cả nên khả năng chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản cũn nhiều hạn 
chế 
 - Thị trường Mỹ 
Đây cũng là một thị trường khá hấp dẫn đối với ngành dệt may Việt Nam. Tuy nhiên 
việc tham gia vào thị trường nàt rất khó khăn vỡ phải chịu mức thuế nhập khẩu cao từ 
40- 90% giỏ trị nhập khẩu.Từ sau Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết thỡ 
hàng dệt may Việt Nam cú điều kiện phát triển tốt hơn trên thị trường này 
Giá trị hàng khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ 
Đơn vị: triệu 
USD 
Mặt hàng 2001 2002 2003 2004 2005 
Hàng dệt 11.83 13.25 25.13 36.625 39.97 
Hàng may 42.6 50.36 58.97 67.42 80.14 
Cộng 54.43 63.61 84.1 104.045 120.11 
- Thị trường các nước trong khu vực 
Hàng năm hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu một số lượng lớn sản phẩm sang 
các nước trong khu vực như Hong Kong, Đài Loan, Singapo, Hàn quốc. Tuy 
nhiên các nước này không phảI là thị trường nhập khẩu chính mà là các nước 
nhập khẩu để tái xuất khẩu sang nước thứ ba. 
Các nước trong khu vực nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam 
 Đơn vị : Triệu USD 
Thị trường 2001 2002 2003 
Đài Loan 218 220 180 
Hàn Quốc 96 60 51 
Singapo 76 46 58 
Hong Kong 47 33 27 
Qua việc xem xét đánh giá thị trường ta thấy triển vọng cho ngành dệt may nứoc 
ta là rấ lớn. Do đó khi chúng ta có đầy đủ các điều kiện khai thác thành công, có 
hiệu quả chắc chán kinh tế Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng có thể 
sánh bước đi cùng các nước phát triển trên thế giới 
Phần BA 
Giải pháp cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 
I. Về phía Nhà nước 
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
Nhà nước chính là chủ thể bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia vào 
hội nhập. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp dệt may nhà nước nên có sự quan tâm 
hơn về quyền lợi của các doanh nghiệp khi xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị 
trường thế giới, nhất là quyền lợi về kinh tế. Bên cạnh đó, ở trong nước, Nhà nước 
cũng nên tạo điều kiện về môi trường pháp lý, chính trị, xã hội, kinh tế cho các 
doanh nghiệp này hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Muốn vậy phải thực hiện 
nghiêm túc các giải pháp đồng bộ sau: 
1. Đảm bảo quyền lợi kinh tế trong và ngoài nước 
 1.1 Chính sách về kinh tế: 
Đó là sự can thiệp của Nhà nước vào việc phát triển kinh tế-xã hội theo những 
mục tiêu nhất định. Đối với ngành dệt may, mục tiêu chính là có chỗ đứng vững 
chắc trên trường quốc tế. 
Nhà nước tiếp tục hoàn thiện và sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhằm thúc 
đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tăng quy mô sản xuất, tạo ra ngày càng 
nhiều sản phẩm dệt may có chất lượng tốt, số lượng nhiều. Mở rộng và đa dạng hoá 
thị trường cung ứng vốn ví dụ như ngoài các nguồn vốn tự có do tiết kiệm của 
doanh nghiệp, từ tổ chức tín dụng…Nhà nước có thể phát triển mạnh hơn thị trường 
chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu…Để huy động vốn nhanh và dễ dàng hơn, Nhà 
nước phải hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch 
phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm, đầu tư vào các công 
trình xử lý nước thải. Quy hoạch các cụm công nghiệp dệt, xây dựng cơ sở hạ tầng 
đối với các cụm công nghiệp mới, đào tạo và nghiên cứu, xây dựng các viện, các 
trường và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt may. Đối với các dự án đầu tư 
vào lĩnh vực sợi, dệt, in, nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí 
dệt may cần phải được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó: 
50% vay với lãi suất bằng 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm 
rút vốn, 50% còn lại vay theo quy định của quỹ hỗ trợ. 
Đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp may mà Nhà nước không cần nắm 
giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, 
nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động. 
Xây dựng các chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Việc xuất 
khẩu vào thị trường phi hạn ngạch, xuất khẩu các mặt hàng không hạn ngạch sang 
các thị trường có hạn ngạch, xuất khẩu hàng sử dụng vải nguyên phụ liệu sản xuất 
trong nước…cần được hết sức chú ý và có chính sách hỗ trợ riêng biệt(Ngoài chính 
sách hỗ trợ chung của Nhà nước cho hàng xuất khẩu như hỗ trợ lãi suất, thưởng 
theo kim ngạch)…Cụ thể là xuất khẩu sang các thị trường phi hạn ngạch, xuất khẩu 
mặt hàng không hạn ngạch sang thị trường có hạn ngạch, mặt hàng mới, thị trường 
mới, tăng trưởng cao được hưởng chính sách hỗ trợ xuất khẩu theo quy định hiện 
hành (thưởng xuất khẩu, thưởng theo kim ngạch xuất khẩu). Ưu tiên hạn ngạch cho 
các mặt hàng xuất khẩu mà sản phẩm được sản xuất bằng nguyên liệu trong nước, 
hợp đồng ký trực tiếp với EU, Hoa Kỳ, xuất khẩu sản phẩm không hạn ngạch sang 
thị trường Hoa Kỳ. 
Nhà nước phải tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán để được tăng hạn 
ngạch hoặc xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch đối với Việt Nam. Đồng thời tạo điều kiện 
khuyến khích tối đa các doanh nghiệp của EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản đầu tư vào ngành 
dệt may Việt Nam. 
Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng hình ảnh hàng dệt 
may Việt Nam, quảng cáo thương hiệu trên thị trường thế giới thông qua các hoạt 
động xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, xây dựng trung 
tâm giới thiệu sản phẩm và đặc biệt là thông qua trang Web của thương vụ Việt 
Nam tại các nước là hết sức quan trọng. Nhà nước cần phải có chính sách thích hợp 
nhằm sử dụng có hiệu quả đội ngũ Việt kiều tại các quốc gia nhập khẩu hàng dệt 
may, thiết lập các kênh phân phối, điều tra, nghiên cứu thị trường và quảng bá sản 
phẩm rộng rãi trong công chúng. Việt kiều sẽ là cầu nối tuyệt vời đưa sản phẩm 
may mặc Việt Nam vào các hội chợ triển lãm, các trung tâm thương mại trên thế 
giới. 
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức, hoạt động và quản lý theo 
hội, và Nhà nước nên có quy định, chính sách rõ ràng cho các hội này. Hội được 
hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức cùng ngành nghề, cùng chung mục 
đích tập hợp, đoàn kết hội viên hoạt động thường xuyên nhằm bảo vệ quyền, lợi ích 
cho hội. Khuyến khích các doanh nghiệp dệt may nhỏ và yếu kém sát nhập lại nhằm 
mục đích nâng cao sức cạnh tranh, duy trì được hoạt động của mình, đảm bảo công 
việc cho người lao động, thu lợi nhiều hơn. 
1.2. Đảm bảo chính sách thuế thích hợp 
Mục đích chính sách thuế của Nhà nước là quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu, 
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả của các hoạt động xuất khẩu, 
góp phần phát triển và bảo vệ sản xuất, góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà 
nước. 
Nhà nước cần phải xác định căn cứ tính thuế sao cho phù hợp, tuỳ thuộc vào 
số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất khẩu. Giá tính thuế phải dựa 
trên cơ sở rõ ràng, đối với hàng xuất khẩu dệt may là giá bán tại cửa khẩu theo hợp 
đồng, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng nước ngoài dùng để xác định giá tính thuế 
là tỷ giá mua vào do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm tính 
thuế. 
Chính phủ cần có biện pháp xử lý nghiêm các vi phạm thuế cho hợp lý, cán bộ 
thuế, cá nhân khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm dụng, tham ô tiền thuế 
xuất khẩu, phải có bồi thường cho Nhà nước toàn bộ số tiền đã chiếm dụng, tham ô, 
tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu 
trách nhiệm hình sự. 
Trong trường hợp các doanh nghiệp dệt may không đồng ý với số thuế đã 
được thông báo chính thức thì có quyền khiếu nại lên cơ quan thu thuế trung ương 
để giải quyết, nếu vẫn không đồng ý thì có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ tài 
chính, quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính là quyết định cuối cùng. 
1.3 Chính sách về tỷ giá và lãi suất cho vay. 
Chính sách có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp. Khi các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may ra thị trường thế giới sẽ 
thu về ngoại tệ. Nếu tỷ giá hối đoái thường xuyên biến động, thay đổi sẽ gây ảnh 
hưởng đến quyết định của doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp khó có thể ra được 
quyết định nhanh chóng và kịp thời do vậy buộc Nhà nước phải có chính sách cho 
phù hợp đảm bảo tính ổn định tương đối cho tỷ giá. Cần thông tin cho các doanh 
nghiệp thường xuyên để theo dõi và có phản ứng chính xác. Nghiên cứu thị trường 
dự báo xu hướng tỷ giá trong tương lai để có thể chủ động thay đổi chính sách sao 
cho phù hợp, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia 
hoạt động. 
Về lãi suất cho vay, Nhà nước cần phải phối hợp với các ngân hàng để có 
chính sách về lãi suất cho vay phù hợp. Như giảm lãi suất cho vay, khuyến khích 
các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng 
lượng xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường thế giới. Tăng lượng vốn cho vay đối 
với các doanh nghiệp dệt may. Khi có sự thay đổi về lãi suất cần có sự thông báo rõ 
ràng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đơn giản hoá các thủ tục, giải quyết 
kịp thời nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp. Nghiên cứu kỹ tình hình, điều kiện 
cơ sở vật chất, điều kiện kinh doanh để đặt ra một mức lãi suất cho phù hợp… 
Với những chính sách về tỷ giá và lãi suất thích hợp, ngành dệt may Việt Nam 
sẽ có những bước đi vững chắc hơn trên con đường hội nhập kinh tế thế giới. 
2. Tạo môi trường chính trị, xã hội và pháp lý thuận lợi 
Trong bất kỳ một xã hội nào, môi trường chính trị ổn định, các thiết chế chính 
trị và pháp luật vững chắc đóng vai trò là những điều kiện tiên quyết quan trọng đối 
với sự phát triển kinh tế vói chung và ngành dệt may nói riêng. Chúng ta cần tiếp 
tục đổi mới hơn nữa về chính trị - xã hội, văn hoá, tư tưởng cải cách nền hành chính 
quốc gia. Cần có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước 
của dân, do dân và vì dân. Một xã hội ổn định là điều kiện cần thiết đối với các 
doanh nghiệp dệt may trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. 
Xây dựng khuôn khổ pháp lý …. Cho các doanh nghiệp dệt mayVN nâng cao 
khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Hoàn thiện và bảo đảm quyền tự chủ, 
quyền tự do liên doanh, liên kết trong các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp 
dệt may. Quyền tự chủ ở đây là quyền quyết định kế hoạch kinh doanh, quyền tự do 
kí kết hợp đồng kinh tế, quyền tự chủ về tài chính, giá cả và quyền tự do liên doanh 
liên kết. 
Cải cách nền hành chính Quốc gia, đơn giản hoá thủ tục hành chính. Xoá bỏ 
nhiều loại giấy phép không cần thiết, sắp xếp lại một số cơ quan thuộc chính phủ 
cùng nhiều cơ quan tư vấn, phối hợp liên ngành. Thành lập cơ qnan nghiên cứu, 
phân tích nhằm nắm bắt thông tin nhanh chóng ở thị trường thế giới giúp doanh 
nghiệp dệt may kịp thời ra các quyết định chính xác. 
II. Về phía Bộ Thương Mại 
Bên cạnh vai trò của Nhà nước, Bộ Thương Mại cũng có một vai trò quan 
trọng đối với các doanh nghiệp dệt may. Vai trò đó được thể hiện rõ trong việc điều 
hành, quản lý, phân bổ hạn ngạch, trong xúc tiến thương mại, trong giải quyết các 
tranh chấp, vi phạm. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng 
dệt may Bộ thương mại còn thực hiện các giải pháp sau 
1. Trong phân bổ hạn ngạch dệt may 
 1.1.Quản lý việc phân bổ hạn ngạch 
Trong quá trình quản lý phân bổ hạn ngạch, Bộ Thương Mại cần tăng cường 
chỉ đạo trực tiếp và có sự phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ Thương Mại (Văn 
phòng, vụ XNK, vụ TMĐT…) với Bộ Công Nghiệp và Hiệp hội dệt may Việt Nam. 
Để đạt được hiệu quả cao, phát huy tối đa việc áp dụng công nghệ tin học trong giao 
nhận, xử lý công văn về hạn ngạch dệt may. Tăng cường tính công khai, minh bạch 
và kịp thời từ việc tiếp nhận đến xử lý công văn. 
Để có thế quản lý đạt hiệu quả Bộ Thương Mại cần: 
 Thứ nhất: phải xác định căn cứ giao hạn ngạch rõ ràng, chính xác. Đối 
với hạn ngạch thành tích dành 80% nguồn hạn ngạch giao cho doanh nghiệp đã có 
thành tích xuất khẩu. Hạn ngạch thành tích nên giao thành 2 hoặc 3 đợt, nhằm đảm 
bảo chia nhỏ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu đạt hiệu quả, tránh khê đọng hạn 
ngạch. Không nên giao hạn ngạch thành tích cho các doanh nghiệp mới…, chưa 
được kiểm chứng năng lực sản xuất. Và các thương nhân có kết luận nghi vấn trong 
đợt kiểm tra của hải quan. 20%hạn ngạch phát triển còn lại, nên chia ra nhiều loại 
để tiến hành phân bổ sao cho phù hợp với năng lực của mỗi doanh nghiệp xuất 
khẩu, bao gồm các loại sau: 
- Thưởng các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may sử dụng vải sản xuất trong 
nước, do Việt Nam vẫn chưa chủ động sản xuất được nguyên liệu, phụ liệu. Vì vậy, 
Bộ Thương mại nên khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu, 
tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu trong nước. 
 - Thưởng cho doanh nghiệp xuất khẩu các chủng loại hàng phi hạn ngạch. 
Thưởng cho các ….. vùng sâu, vùng xa, các doanh nghiệp đầu tư mới các dự án dệt, 
nhuộm lớn 
 Thứ 2: Trong việc hoàn trả hạn ngạch, các doanh nghiệp không có khả 
năng thực hiện hạn ngạch được giao phải có văn bản hoàn trả Bộ Thương Mai, 
tránh khê đọng hạn ngạch. Đối với các doanh nghiệp không sử dụng hết hạn ngạch 
mà không trả lại Bộ sẽ bị phạt. 
 Thứ 3: Khi tiến hành phân bổ hạn ngạch BTM cần phải thông báo công 
khai danh sách các doanh nghiệp được giao hạn ngạch trên trang web của Bộ 
Thương Mại để các doanh nghiệp đối chiếu, so sánh và giám sát. 
 Để giúp cho việc quản lí có hiệu quả, Bộ Thương Mại nên lập danh sách, địa 
chỉ thư điện tử của các doanh nghiệp, triển khai gửi thư điện tử cho tất cả các 
thương nhân đăng kí và trả lời những thắc mắc qua thư điện tử. Qua đó, soạn thảo 
các câu hỏi thường gặp giúp các doanh nghiệp tìm hiểu về cơ chế , chính sách 
được rõ ràng và thuận tiện hơn. Bộ Thương Mại nâng cấp trang Web về dệt may, 
cho phép các doanh nghiệp thắc mắc dưới dạng thư điện tử từ trang web này. Bộ 
Thương Mại xây dựng cơ chế cần thiết cho việc thực hiện hạn ngạch như về 
chuyển đổi, vay, nhượng hạn ngạch. Tập trung xây dựng quy chế quản lí và ứng 
dụng công nghệ thông tin trong việc phân bổ và kiểm soát thực hiện cấp visa. 
Triển khai việc kiểm tra hoạt động và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. 
 1.2 Giải quyết tranh chấp vi phạm trong phân bổ và thực hiện 
 Trong qúa trình quản lí việc phân bổ và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng 
dệt may, đối với các doanh nghiệp nói chung, Bộ thương mại phải luôn đối xử 
công bằng và không phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp. Bất kỳ doanh 
nghiệp nào, dù là doanh nghiệp nhà nước hay công ty tư nhân, trách nhiệm hữu 
hạn, hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nếu vi phạm các quy định về 
phân bổ và thực hiện hạn ngạch dệt may đều bị xử lí theo quy định. 
 2. Trong xúc tiến thương mại 
 Xúc tiến thương mại là Bộ thương mại tìm kiếm các cơ hội cho các doanh 
nghiệp dệt may, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng chuyển các sản phẩm 
dệt may từ thị trường trong nước ra thị trường quốc tế và nâng cao khả năng cạnh 
tranh của sản phẩm. 
Để đạt hiệu quả cao, xúc tiến thương mại phải được thể hiện trong các chính sách 
của Bộ thương mại, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Xúc tiến thương 
mại cần phải được thể hiện một cách linh hoạt và cụ thể. 
Bộ thương mại cần có hướng dẫn cho các doanh nghiệp xây dựng được mô hình 
quản lí kinh doanh trung thực, giới thiệu phổ biến rộng rãi trong cả nước, giữ gìn 
và bảo vệ quyền lợi, lợi ích và đặc quyền chính của doanh nghiệp. Hỗ trợ các 
doanh nghiệp VN tiếp xúc và thiết lập mối quan hệ kinh doanh với nước ngoài. 
Thông qua chương trình xúc tiến trọng điểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu, đưa hàng dệt 
may vào danh sách các mặt hàng được hưởng theo kim ngạch xuất khẩu. Thưởng 
theo tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, đẩy mạnh việc kinh doanh, quảng cáo 
thương hiệu dệt may trên thị trường thế giới thông qua các hoạt động xúc tiến 
thương mại, hội chợ, khảo sát thị trường, xây dựng trung tâm giới thiệu sản 
phẩm... 
Giới kinh doanh ngành dệt may quốc tế hiện nay đánh giá VN là một nước có tiềm 
năng rất lớn, thậm chí là một đối thủ cạnh tranh mạnh. Tuy nhiên, trong những 
năm gần đây thị trường kinh doanh hàng dệt may quốc tế có những sự biến động 
căn bản, việc kinh doanh và quảng bá thương hiệu trong ngành dệt may chỉ có thể 
thành công khi nó được triển khai đồng bộ cùng nhiều giải pháp khác như tổ chức 
sản xuất và thâm nhập thị trường 
 III. Về phía doanh nghiệp 
Xây dựng con đường xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường thế giới cũng chính 
là tìm ra chỗ đứng vững chắc cho dệt may Việt Nam. Điều này buộc các doanh 
nghiệp phải phát huy tối đa lợi thế của mình phát triển sản xuất và đưa ra thị trường 
những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả và 
mang thương hiệu Việt Nam. Để đạt được mục tiêu của mình các doanh nghiệp cần 
có các giải pháp sau: 
1. Nghiên cứu sản xuất và quản lý cho phù hợp với xu hướng xoá bỏ hạn 
ngạch dệt may 
Vấn đề sản xuất và quản lí là vấn đề cơ bản mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng 
cần phải quan tâm chú trọng nhằm đạt được kết quả cao trong quá trình phát triển 
ngành dệt may ra thị trường thế giới 
 1.1 Kiện toàn chiến lược kinh doanh hướng vào hoạt động xuất khẩu 
Mục tiêu là đẩy mạnh sản xuất trong nước. Để đạt được mục tiêu này yếu tố 
đầu tiên là chúng ta phải chú trọng, nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi chất lượng 
là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường. Duy trì 
được uy tín với đối tác nước ngoài, tạo lập được quan hệ ổn định và lâu dài. Đây 
chính là chỉ tiêu có tính quyết định để hàng hoá xâm nhập thị trường. Do đó, những 
biện pháp cụ thể để giữ vững và nâng cao chất lượng hàng hoá là phải kiểm tra chặt 
chẽ chất lượng nguyên phụ liệu đưa vào quá trình sản xuất, tuân thủ nghiêm ngặt 
các yêu cầu của khách hàng về chủng loại hàng, quy trình sản xuất, quy cách kỹ 
thuật, nhãn mác, bao bì. Nâng cao tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao 
động bên cạnh việc triển khai và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, 
các chứng chỉ trách nhiệm xã hội SA 8000 và chứng chỉ về môi trường ISO 14000, 
xây dựng hệ thống chất lượng của ngành. 
Các doanh nghiệp nên tích cực đầu tư vào công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực. 
Cần có sự kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu, cải tạo mở rộng và đầu tư mới. 
Nhanh chóng thay thế những thiết bị và công nghệ lạc hậu, nâng cấp những thiết bị 
còn khả năng khai thác, bổ sung thiết bị mới, đổi mới công nghệ và thiết bị để nâng 
cao chất lượng sản phẩm. Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật 
lành nghề. Vấn đề nhân lực luôn là khâu yếu của ngành dệt may Việt Nam. Công 
nhân Việt Nam khéo tay, tiếp thu công nghệ nhanh nhưng chưa có tác phong công 
nghiệp, kỷ luật lao động chưa cao nên năng suất lao động thấp hơn các nước trong 
khu vực, chỉ bằng một nửa Trung Quốc. Hơn nữa số lượng công nhân được đào tạo 
lại chưa đáp ứng được nhu cầu dẫn đến tình trạng thiếu công nhân, tranh giành công 
nhân giữa các doanh nghiệp, nhất là khi "vào vụ". 
Cùng với công tác đào tạo công nhân cần có kế hoạch xây dựng các trung tâm 
đào tạo người thiết kế mẫu phù hợp với nhu cầu từng thị trường phục vụ cho ngành 
dệt may xuất khẩu. Đầu tư cho viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may, nghiên cứu 
nhu cầu, xu thế và dự đoán tình hình thế giới về mẫu mã, chất lượng sản phẩm tạo 
điều kiện cho các doanh nghiệp đi đúng hướng, đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới. 
Tuy nhiên, đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường, quy hoạch xây 
dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa trung tâm đô thị lớn. 
Ngành dệt may chính là ngành công nghiệp có dây chuyền công nghệ phức tạp và 
sử dụng nhiều nguồn nguyên vật liệu cũng như hoá chất khác nhau. Tuỳ thuộc vào 
các công đoạn và phương pháp công nghệ sử dụng, nước thải có chứa các chất ô 
nhiễm khác nhau. Để giải quyết vấn đề này các doanh nghiệp nên sử dụng các vi 
sinh vật có khả năng oxy hoá các chất hữu cơ khó phân huỷ. Nấm mốc có hệ ezym 
rất phong phú, vì vậy chúng có khả năng phân huỷ nhiều chất hữu cơ phức tạp như 
vi khuẩn nên được sử dụng nhiều nhất trong xử lý nước thải . 
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải giữ được uy tín về chất lượng sản phẩm, 
thời gian giao hàng và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường của mình. 
 1.2 Kiện toàn bộ máy nhằm nâng cao hiệu quả hàng xuất khẩu 
Việc quản lý như thế nào nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất đòi hỏi cần có sự 
quan tâm đúng mức của doanh nghiệp. Với hình thức quản lý từ trên xuống, hình 
thành chuyên môn hoá từng bộ phận, từng phòng, ban cần phải có sự phối hợp nhịp 
nhàng, giữa các bộ phận này để tạo ra sản phẩm tốt nhất được khách hàng ưa thích. 
Chú trọng đến việc quản lý, bảo quản sản phẩm, cần thường xuyên kiểm tra, giám 
sát các hoạt động của công nhân, của các bộ phận, các phòng, ban… 
Ngoài ra các doanh nghiệp có thể nghiên cứu cách quản lý khác như là 
"quản trị ma trận" dành cho ngành dệt may. Đây là phần mềm tự động hoá, một giải 
pháp đặc thù phục vụ cho ngành công nghiệp dệt, may và thời trang. Nó cho phép 
các doanh nghiệp quản lý và giám sát chi tiết quá trình sản xuất, lưu kho, phân phối 
và bán các mặt hàng trên phạm vi rộng. Đây là một ma trận linh hoạt và thiết kế dễ 
sử dụng. Phần mềm cũng tích hợp hoàn toàn với những bộ chuẩn khác như: nhận 
đơn đặt hàng, phiếu thu, đơn đặt hàng, hoá đơn bán hàng… 
Exact Globe 2000 cung cấp cho người dùng khả năng hoạch định nguồn tài 
nguyên doanh nghiệp(ERP), quản lý nguồn nhân lực(HRM) và quản lý khách 
hàng(CRM).. 
Đây là hình thức quản lý áp dụng khoa học kỹ thuật đảm bảo tính tiện ích, đơn 
giản, nhanh chóng. Cần có sự quản lý khoa học nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản 
phẩm dệt may ra thị trường thế giới. 
2- Hoạt động nghiên cứu thị trường. 
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn đứng vững trên thị trường đều cần có sự 
nghiên cứu,tìm hiểu kỹ về thị trường nơi định "bước chân vào". 
 2.1 Nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may 
Mở rộng thị trường xuất khẩu được coi là khâu đột phá trong chiến lược phát 
triển xuất khẩu của hàng dệt may, là một trong những nhân tố quyết định sự tăng 
trưởng bền vững của ngành công nghiệp dệt may. 
Đến nay, hàng dệt may Việt Nam đã xuất khẩu trên 100 nước và vùng lãnh thổ 
trên thế giới. Đặc biệt là các thị trường nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. 
Trong thời gian tới ba thị trường này sẽ chiếm tới 90% tổng kim ngạch xuất khẩu 
hàng dệt may, trong đó thị trường EU 25-27%. Thêm vào đó năm 2004 EU kết nạp 
thêm 10 thành viên mới, đây là cơ hội cho doanh nghiệp dệt may VN mở rộng thêm 
thị trường xuất khẩu mới. 
Từ thực tế nói trên các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu tìm ra lợi thế của 
mình trong việc mở rộng thị trường và lợi thế chính ở đây là vấn đề sức mua thế 
giới về hàng dệt may ngày càng tăng. Đối với thị trường trong nước, lợi thế về lao 
động và đầu tư cho phép doanh nghiệp có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu của thị 
trường. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải xác định được những khó khăn đối 
với việc mở rộng thị trường không phải là ít. Có thể kể đến sự cạnh tranh quyết liệt 
của các nước sản xuất hàng xuất khẩu mà đứng đầu là Trung Quốc, lợi thế về sức 
lao động không còn, năng suất lao động thấp… những yếu tố này làm giảm khả 
năng cạnh tranh của hàng Việt Nam. Ngoài ra còn phải kể đến vấn đề hàng xuất 
khẩu của nước ta lại bị phụ thuộc nhiều vào hạn ngạch của nước ngoài. Vì vậy để 
đạt được mục tiêu mở rộng thị trường dệt may, phải nắm vững và xử lý cho được 
những yêu cầu của từng thị trường riêng biệt trong tổng thể chung. 
EU được coi là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2(sau Hoa Kỳ). Hàng dệt may 
nhập khẩu vào thị trường này phải áp dụng hạn ngạch, trừ 47 nhóm nước phát triển 
được ưu đãi, không bị áp đặt hạn ngạch và thuế nhập khẩu là 0%. ở Châu á, các 
nước xuất khẩu hàng dệt may lớn sang EU là Trung Quốc, Hồng Kông, Indonesia, 
ấn Độ…Hạn ngạch EU giành cho Việt Nam rất ít so với năng lực sản xuất và thấp 
so với các nước khác trong khu vực. EU thường xuyên sử dụng việc mở rộng thị 
trường hàng dệt may để tạo áp lực yêu cầu các nước khác mở cửa thị trường cho 
hàng hoá và dịch vụ của họ, nhất là những nước trong quá trình đàm phán gia nhập 
WTO như Việt Nam. 
 2.2 Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm dệt may: 
Trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may như hiện nay, chúng ta phải đối 
mặt với vấn đề cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn. Khi đó, chỉ còn những yếu tố 
cạnh tranh liên quan đến chính hàng hoá như chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng 
và các dịch vụ thương mại khác đối với khách hàng và thương hiệu sản phẩm. Chất 
lượng ngày càng được nâng cao, cạnh tranh gay gắt thì vai trò của thương hiệu ngày 
càng trở nên quan trọng. 
Để hàng dệt may Việt Nam có thể khẳng định được thương hiệu của mình trên 
thị trường thế giới, các doanh nghiệp phải tập trung xây dựng thương hiệu doanh 
nghiệp và thương hiệu sản phẩm của riêng mình, coi thị trường trong nước là nơi 
thử nghiệm, là bàn đạp để phát triển ra thị trường ngoài nước. Những doanh nghiệp 
lớn, có tiềm lực khi xây dựng thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm 
của mình phải có sự lựa chọn kỹ lưỡng về thị trường và số lượng thương hiệu, các 
doanh nghiệp nhỏ hơn nên tập trung vào việc xây dựng, quảng bá thương hiệu 
doanh nghiệp(hình ảnh doanh nghiệp), cho dù đó là thương hiệu trong lĩnh vực gia 
công. Điều mà các doanh nghiệp phải thấy rõ là dù có đầu tư lớn đến đâu chúng ta 
khó có thể cạnh tranh được thương hiệu lớn đã tồn tại từ rất lâu như Adidas, Pierre 
Cardin, Wrangler…Vì thế, dù mục tiêu có thương hiệu riêng là cái đích phải hướng 
tới nhưng không thể làm trong một sớm một chiều và phải tính tới vị thế hiện nay 
của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp cũng không 
thể dồn sức vào việc xây dựng thương hiệu sản phẩm riêng để đẩy mạnh xuất khẩu 
một cách thiếu cân nhắc mà bỏ qua thế mạnh hiện nay của mình. Thực tế các doanh 
nghiệp ở các nước lớn như Trung Quốc, Đài Loan, ấn Độ…vẫn tập trung vào quảng 
bá thương hiệu doanh nghiệp gia công để giành được đơn đặt hàng từ các nhà nhập 
khẩu, các nhà phân phối lớn trên thế giới. Trong trường hợp này phải xác định sản 
phẩm chính là dịch vụ gia công, khách hàng mục tiêu là các nhà nhập khẩu, các nhà 
kinh doanh chứ không phải là người tiêu dùng. 
Các doanh nghiệp cần tập trung nguồn lực tài chính đầu tư cho thiết kế mẫu 
mã, xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp và sản phẩm. Trong khi năng lực thiết 
kế còn chưa đáp ứng yêu cầu, có thể nghiên cứu phương án đặt hàng hoặc mua thiết 
kế độc quyền. Vấn đề thuê, mua thương hiệu cũng cần được các doanh nghiệp cân 
nhắc và phải tính tới yếu tố ràng buộc thị trường khi ký hợp đồng kiểu này. Ngoài 
ra các doanh nghiệp lớn có thể xem xét việc thuê chuyên gia truyền thống tiếp thị 
nước ngoài. Đồng thời, phải xác định thị trường mục tiêu cho từng thương hiệu, tiến 
hành các thủ tục đăng ký cho thương hiệu tại thị trường mục tiêu, phát triển mạng 
lưới phân phối tại các thị trường đó. Tăng cường tham gia các hoạt động xúc tiến 
thương mại, đặc biệt là hội chợ chuyên ngành dệt may, các hoạt động trình diễn 
mẫu thời trang trong và ngoài nước, tổ chức giới thiệu hàng dệt may Việt Nam, nhất 
là ở các thị trường mục tiêu. 
Ngoài ra, giải pháp tốt nhất để xây dựng thương hiệu là tăng cường quảng bá 
cho các thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm dệt may trên Internet, đẩy mạnh 
thương hiệu điện tử trong kinh doanh dệt may. Đa dạng hoá và tranh thủ các hình 
thức hợp tác quốc tế để quảng bá thương hiệu bên cạnh việc nâng cao năng lực thiết 
kế, chất lượng sản phẩm tổ chức các kênh phân phối, tiêu thụ một cách có hệ thống.
Việc quảng bá thương hiệu tốt chính là Marketing giỏi. Các doanh nghiệp cần 
có một chiến lược Marketing cho phù hợp với từng loại, mẫu sản phẩm của mình. 
Xây dựng chiến lược Marketing cho từng độ tuổi, cho tập quán, khu vực địa lý, cho 
từng tầng lớp khác nhau. 
Như vậy, để xây dựng được một thương hiệu trên thị trường thế giới, các 
doanh nghiệp cần đầu tư, nghiên cứu và cần phải tiến hành trong một thời gian dài 
mới có được kết quả cao. 
 2.3 Thực hiện chiến lược xây dựng hệ thống thương mại điện tử. 
 Ngày nay, công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Các doanh nghiệp dệt 
may muốn tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế cần phải áp dụng các 
công nghệ tiên tiến. Một hình thức mà thị trường thế giới đang trở nên phổ biến là 
thương mại điện tử. 
 Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể sử dụng hệ thống mạng Internet, 
xây dựng trang Web của mình nhằm tiêu thụ và quảng bá sản phẩm trên khắp toàn 
cầu. Với những thuận lợi của trang Web là không cần có vị trí cố định, vùng thời 
gian và quốc gia. Thông qua trang Web khách hàng ở các vùng địa lý khác nhau có 
thể tiếp cận dễ dàng tới nơi mà trước đó khách hàng không thể đến, dễ dàng cung 
cấp thông tin cho khách hàng ở bất cứ nào trên thế giới. Không bị chậm trễ để đưa 
ra sản phẩm mới và chiến dịch mới. Tăng thông tin phản hồi, tạo điều kiện cho 
người tiêu dùng một cách dễ dàng để gửi ý kiến của mình đến công ty, dựa vào đó 
để đưa công ty thâm nhập vào thị trường chung một cách dễ dàng. Thông qua đó, 
các doanh nghiệp biết nội dung mà mọi người quan tâm là gì, họ nói gì về sản 
phẩm…biết thông tin nhiều hơn về đối thủ cạnh tranh. 
 Thương mại điện tử mang lại cho các doanh nghiệp dệt may "cửa sổ" để hiểu 
được suy nghĩ của người tiêu dùng. Nếu như nhà phân phối sử dụng hình ảnh để 
thực hiện chiến dịch quảng cáo, khách hàng sẽ truy cập ngay vào hình ảnh minh hoạ 
của trang Web, đảm bảo chất lượng, chính xác trên quảng cáo. 
 Khi doanh nghiệp tiến hành thương mại điện tử thì các doanh nghiệp nên có 
nhiều chiến lược cụ thể sau: 
 Trên trang Web của mình, cần mô tả về sản phẩm dệt may bao gồm:giá cả, 
thời gian, phương thức giao hàng và bảo hành sản phẩm. Mô tả và thuyết minh về 
chất lượng sản phẩm, kiểu dáng, mẫu, mốt nêu lên xu hướng thời đại trong tương lai 
giúp cho khách hàng từ chỗ không biết về sản phẩm đến chỗ biết và ưa thích sản 
phẩm, trở thành khách hàng truyền thống của doanh nghiệp. 
 Do sản phẩm dệt may được xuất khẩu ra thị trường thế giới là chủ yếu nên 
trên trang Web cần sử dụng ngôn ngữ phổ biến, để khách hàng có thể biết rõ và hiểu 
về sản phẩm nhiều hơn. Thường xuyên trả lời các câu hỏi, thắc mắc của những 
người quan tâm đến sản phẩm. 
 Sự thành công của chiến lược này đòi hỏi phải có sự phối hợp chiến lược 
Marketing với chiến lược bán hàng, và tổ chức dịch vụ thông tin. 
 Doanh nghiệp nên xây dựng các bộ phận: Bán hàng, hỗ trợ khách hàng và 
dịch vụ sản phẩm, kinh doanh. Nhằm đáp ứng mọi yêu cầu các khách hàng ngay lập 
tức, đảm bảo đúng thời gian giao hàng, uy tín… 
 IV. Xây dựng chiến lược cho tương lai. 
 Để có thể tiếp tục phát triển, buộc các doanh nghiệp cần phải có hướng đi cụ 
thể, vững chắc nhằm từng bước thực hiện mục tiêu của mình. 
 1. Chiến lược liên kết chuỗi. 
 Trong thời kỳ cạnh tranh phi quota đang diễn ra rất quyết liệt trên toàn cầu, 
ngành dệt may Việt Nam rơi vào thế yếu hơn do chưa phải là thành viên của WTO. 
Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phần nhiều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, 
năng lực cạnh tranh còn thấp, các nước nhập khẩu hàng dệt may trên thế giới lại có 
xu hướng tập trung nhập hàng ổn định từ một số nhà cung cấp nhất định để dễ quản 
lý chất lượng và tạo ra sức ép giảm giá. Vì vậy giải pháp liên kết chuỗi được đưa ra 
là cần thiết và cấp bách. Bao gồm các thành viên có đủ tư cách pháp nhân, hạch 
toán độc lập và phải tự nguyện tham gia liên kết trên cơ sở lợi ích và trách nhiệm. 
Hơn nữa, việc phân giao hạn ngạch theo chuỗi cũng sẽ giảm số đầu mối phân giao 
hạn ngạch. Việc phân giao theo chuỗi đòi hỏi các doanh nghiệp phải hợp tác chặt 
chẽ, loại bỏ tư tưởng mạnh ai nấy làm vì khi liên kết chuỗi, các doanh nghiệp là 
thành viên của chuỗi phải chia sẻ lợi ích. 
 Liên kết chuỗi là hình thức liên kết ở đó có sự tham gia ít nhất của 5 doanh 
nghiệp thành viên với số lượng thiết bị từ 1500 trở lên trong đó có 1 doanh nghiệp 
là trụ cột với số lượng thiết bị chi phối trong chuỗi và được bầu làm "chuỗi trưởng" 
để điều hành việc liên kết hợp tác. ở địa bàn gần nhau, các doanh nghiệp trong 
chuỗi có chung khách hàng lớn sẽ cùng làm một mặt hàng. 
 Tuy nhiên, các doanh nghiệp tham gia hợp tác, liên kết chuỗi phải dựa trên 
cơ sở nhu cầu thực sự, phù hợp với thực tế sản xuất, kinh doanh, có nội dung hợp 
tác cụ thể có khả năng thực thi và có thể kiểm tra khi có yêu cầu. Trưởng chuỗi 
phải có báo cáo định kỳ (quý/lần) cho liên bộ và hiệp hội dệt may về tình hình hoạt 
động của chuỗi, những kinh nghiệm về đề xuất để phổ biến cho các chuỗi liên kết 
khác. Các hợp đồng thoả thuận liên kết phải được quy định rõ ràng, chặt chẽ về 
trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi, nghĩa vụ của các thành viên, đặc biệt là chuỗi 
trưởng để tránh tranh chấp khi có mâu thuẫn về quyền lợi. Đối với việc quản lý 
chuỗi, trên cơ sở thoả thuận giữa các doanh nghiệp theo văn bản hợp tác liên kết 
hay hợp đồng, tổ điều hành liên bộ và Hiệp hội dệt may sẽ thẩm định, đánh giá và 
kiến nghị cấp hạn ngạch theo quy định. Để việc liên kêt chuỗi đạt hiệu quả cao và 
thực chất tổ giám sát thực hiện hạn ngạch cũng cần có sự kiểm tra, quản lý chặt chẽ. 
Việc này cần được tiến hành ngay từ khâu thành lập chuỗi và giám sát các loại hoạt 
động trong quá trình thực hiện. 
 Nếu việc sử dụng hạn ngạch không đúng mục đích hoặc có khiếu nại của các 
thành viên trong chuỗi thì tổ điều hành liên bộ hoặc tổ giám sát phải kiểm tra, xử lý 
và hạn ngạch phân theo chuỗi. Có thể bị thu hồi để đưa vào dự phòng hoặc giao cho 
các chuỗi khác. Doanh nghiệp tham gia liên kết chuỗi trên nguyên tắc tự nguyện 
theo thoả thuận với nội dung cụ thể sau: 
 - Liên kết sản xuất: Các doanh nghiệp lớn có thể hỗ trợ doanh nghiệp vừa và 
nhỏ trong hợp tác sản xuất như tận dụng lao động, thiết bị, máy móc, công nghệ… 
 - Liên kết xuất nhập khẩu: Là kết hợp thực hiện các hoạt động nhập khẩu 
như nguyên phụ liệu…và các hoạt động xuất khẩu thành phẩm nhằm giảm chi phí 
đầu vào, hạ giá thành sản xuất. 
 - Cùng chung khách hàng, cùng sản xuất một mặt hàng đó là những khách 
hàng lớn, nhập khẩu với những số lượng lớn. 
 - Chia sẻ đơn hàng và cùng chịu trách nhiệm: Là việc nhận những đơn hàng 
lớn của khách hàng nhập khẩu lớn, phân phối lớn. 
 - Cùng nhau hỗ trợ nghiên cứu, giao dịch, tiếp thị mở rộng thị trường… 
 Với hình thức liên kết này các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ có thể 
vững chắc trong tương lai. 
 2. Chiến lược thâm nhập thị trường EU. 
 EU là một thị trường thống nhất, mọi cá nhân tổ chức kinh tế đều được tự do, 
không bị cản trở, ở thị trường EU các thủ tục đều được đơn giản hoá, luôn tạo điều 
kiện thuận lợi bảo đảm cho các sản phẩm có chất lượng cao, đồng bộ, thị hiếu của 
người dân ở đây đa dạng phong phú, dân số đông, nhu cầu về số lượng chất lượng 
hàng may mặc khá lớn, là nơi mà bất kỳ một nước xuất khẩu sản phẩm dệt may nào 
cũng mong muốn được thâm nhập. 
 Đã có nhiều hiệp định về buôn bán hàng dệt may được ký kết giữa EU và 
Việt Nam, EU đang dần trở thành thị trường chính thứ hai(chỉ sau Mỹ), với xu 
hướng xoá bỏ hạn ngạch hàng dệt may hiện nay. Đây chính là cơ hội để các doanh 
nghiệp dệt may tăng tốc, các doanh nghiệp được phép xuất khẩu hàng tự do sang 
các nước của EU. Để làm được điều đó buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải có sự 
chuẩn bị kỹ lưỡng để có đủ khả năng cạnh tranh hiệu quả trong thị trường rộng lớn 
này: 
- Phải có chiến lược về sản phẩm:tăng số lượng, chất lượng, giảm giá 
thành, phải tập trung đào tạo những đội ngũ kỹ thuật. 
- Marketing giỏi, quan tâm, đầu tư vào khâu thiết kế. 
- Nghiên cứu và đánh giá lại toàn bộ thị trường: cơ hội mới, thách thức 
mới, các điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh, 
nhu cầu thị trường EU về hàng may mặc trong những năm tiếp theo. 
 Đẩy mạnh xuất khẩu những sản phẩm của các doanh nghiệp đạt được chứng 
chỉ quản lý chất lượng ISO9000, chứng chỉ về môi trường ISO14000 và chứng chỉ 
trách nhiệm xã hội SA8000. Những doanh nghiệp chưa đạt chứng chỉ này cần phấn 
đấu bởi vì đó là tấm giấy thông hành tốt nhất cho hàng may mặc Việt Nam tiếp cận, 
mở rộng thị phần và nâng cao khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các 
quốc gia khác trên thị trường EU 
 Đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu những hàng may mặc không bị áp đặt hạn 
ngạch, cần tránh hiện tượng tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng dễ 
làm, còn những mặt hàng khó làm hay những mặt hàng có yêu cầu kỹ thuật cao thì 
bỏ qua. 
 Xây dựng và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm may mặc Việt Nam. 
Hiện nay, khách hàng tại các nước EU không hề biết tới thương hiệu sản phẩm may 
mặc của Việt Nam mặc dù chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp không thua 
kém gì sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Nguyên nhân là do từ trước 
tới nay, chúng ta chủ yếu xuất khẩu hàng gia công cho nước ngoài dưới các thương 
hiệu của nhà nhập khẩu hoặc những thương hiệu nổi tiếng thế giới, mà không chú ý 
tới việc xây dựng một thương hiệu riêng cho mình. Trong thời gian tới, các doanh 
nghiệp cần đẩy mạnh quảng bá thương hiệu hàng may mặc của Việt Nam trên thị 
trường EU. 
 Tất cả những chiến lược trên cần phải có sự kết hợp chặt chẽ của Nhà nước, 
Bộ thương mại, của các doanh nghiệp đảm bảo tính khoa học, hợp lí. Phải có những 
kế hoạch cụ thể cho từng bước đi, cho từng giai đoạn nhằm xây dựng cho được con 
đường xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường thế giới . 
V. Kiến nghị đối với Nhà nước 
 1. Củng cố mở rộng thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương 
mại, hỗ trợ cho các doanh nghiệp. 
EU là một thị trường lớn trên thế giới, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may hàng năm 
là rất lớn. Thế nhưng cho đến nay hàng dệt may xuất khẩu cho EU mới chỉ chiếm 
một thị phần nhỏ trên thị trường này và thường thông qua hoạt động xuất khẩu trung 
gian. Do đó, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường 
này. Vì vậy, để các doanh nghiệp dệt may giữ vững vị trí và giữ vững thị trường 
truyền thống đồng thời mở rộng thâm nhập thị trường EU một cách suôn sẻ thì cần 
có sự hỗ trợ của Nhà nước một cách thích đáng. 
 Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong quan hệ đàm phán với EU để 
giảm thuế nhập khẩu của hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng 
vào thị trường này, mở rộng thị trường hơn nữa cho hàng xuất khẩu Việt Nam. 
 Tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng cáo bán hàng của Việt Nam tại thị 
trường EU. Tổ chức các loại hình dịch vụ sau khi bán hàng, giữ gìn và phát huy uy 
tín cho các doanh nghiệp Việt Nam. 
 Tổ chức Hội chợ triển lãm ở Việt Nam và EU nhằm giúp đỡ các doanh 
nghiệp trong công tác tuyên truyền, quảng cáo, khuyếch trương hoạt động kinh 
doanh thương mại, tiếp xúc với bạn hàng EU, trao đổi, học tập kinh nghiệm kinh 
doanh trên thị trường quốc tế. 
 Tổ chức cho các doanh nghiệp Việt Nam đi nghiên cứu thăm dò, chào hàng, 
đồng thời mời các đoàn, các doanh nghiệp của EU vào làm việc tìm hiểu cơ hội 
kinh doanh, đầu tư sản xuất hàng dệt may Việt Nam. 
Tổ chức hệ thống tài chính có hiệu quả. Điều quan trọng là Việt Nam phải có một 
thị trường chứng khoán hoạt động thực sự có hiệu quả, đồng thời tỷ lệ tích kiệm của 
nền kinh tế Việt Nam cần phải được tăng lên để hỗ trợ cho đà phát triển sắp tới. 
 2. Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ thương mại và tổ 
chức quản lí. 
 Với xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế và tiến trình hội nhập của Việt 
Nam vào quá trình này, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin luôn đặt ra 
yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ thương mại. 
 ở Việt Nam, những kiến thức về quản lí kinh tế nói chung, quản lí thương 
mại nói riêng ở tầm vĩ mô về quy mô đang có sự hẫng hụt và có độ chênh lệch lớn 
so với ngay cả các nước trong khu vực. Chính do sự yếu kém này đã gây thiệt hại 
cho Việt Nam trong quá trình đàm phán kí kết hợp đồng thương mại và kinh tế với 
các đối tác giàu kinh nghiệm như EU. Vì vậy, Chính phủ nên tổ chức các chương 
trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của 
công ty thương mại. 
 Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và thu hút các học sinh có khả 
năng theo học nghề dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư trầm trọng. Đầu tư 
cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng nhu cầu sản xuất kỹ 
thuật theo dây chuyền hiện đại nhằm đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao 
thực sự trở thành thế mạnh của ngành dệt may Việt Nam. 
 Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên phạm vi cả 
nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công 
nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu. 
 3. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp EU tham gia vào quá trình 
sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam 
 Với chính sách này chúng ta có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của 
các công ty dệt may EU vào quá trình sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Việt 
Nam. VN không những nhập khẩu được công nghệ từ EU, khai thác có hiệu quả lợi 
thế có so sánh của mình và nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động dư thừa, 
nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng 
cao trình độ sản xuất trong nước, cải thiện công nghệ, mà còn học được kinh 
nghiệm quản lí và tổ chức sản xuất doanh nghiệp của EU góp phần thúc đẩy tiến 
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhanh chóng. 
 4. Cải tiến thủ tục xuất - nhập khẩu 
 Cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên phụ liệu, hàng mẫu, bản vẽ hiện vẫn 
còn rườm rà mất thời gian gây khó khăn cho các doanh nghiệp. 
 Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các 
loại nguyên liệu nhập khẩu. Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia 
tăng đối với nguyên liệu đầu vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp thuế ngay sau 
khi hàng về. 
 5. Chú trọng vào quy hoạch vùng trồng bông 
Phải có chiến lược đồng bộ về cơ chế tổ chức giữa vùng nguyên liệu và vùng chế 
biến, có những chính sách lớn của Nhà nước về cây bông. Đầu tư khoa học kỹ thuật 
giống bông, phòng sâu bệnh, xây dựng vùng trọng điểm đa canh, củng cố hệ thống 
khuyến nông, nâng cao chất lượng cây bông nhằm khuyến khích nông dân mở rộng 
diện tích trồng, đặc biệt khai thác vùng đất Tây Nguyên. 
 6. Có chính sách hỗ trợ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi 
 Không nên thu thuế đối với các doanh nghiệp dệt, bán sản phẩm cho các 
ngành may xuất khẩu, khuyến khích chuyển giao công nghệ từ phía nước ngoài. 
Cần có một bộ phận marketing chuyên làm chức năng nghiên cứu, có nhiệm vụ hỗ 
trợ cho các doanh nghiệp về thông tin của EU. Cần lành mạnh hoá tình hình tài 
chính của các doanh nghiệp, đẩy nhanh sự gia nhập vào WTO 
Kết luận 
 Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang trong những năm gần đây 
đã có những bước phát triển đáng khích lệ, đã từng bước khẳng định được vị trí 
quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên, 
quá trình xuất khẩu này vẫn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để khắc phục tình trạng 
này, phấn đấu đạt mục tiêu phát triển đã đề ra thì ngoài sự trợ giúp của Nhà nước, 
các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. 
Nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường, 
góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu 
vực và trên thế giới. 
 Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín hàng dệt 
may Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân 
bằng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với những 
giải pháp phù hợp và thực tế, chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ 
vượt qua được những rào cản để xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của 
Việt Nam trong chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của 
đất nước, để con đường gia nhập vào WTO mở rộng hơn với Việt Nam. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 111840_4519.pdf 111840_4519.pdf