Tiểu luận Phân tích nhu cầu vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn minh Trường Sinh & những khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay

Qua phần giới thiệu, phân tích đánh giá của chúng tôi ở phần trên có thể thấy Cty Minh Trường Sinh có tình hình tài chính tốt, chủ doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ôtô. So với những doanh nghiệp khác cũng ngành thì Minh Trường Sinh là một trong những doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả. Mạc dù vậy nhưng khi Minh Trường Sinh muốn huy động vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh thì ko tránh khỏi các khó khăng chung của các DNVVN khi đi vay vốn. Các kênh huy động vốn của DNVVN là: vay vốn ngân hàng, phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu. Nhưng kênh huy động vốn qua phát hành trái phiếu và cổ phiếu thì gần như là không thể đối với các DNVVN. Ch ỉ những doanh nghiệp có uy tín, hoạt động lâu năm, có đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc nếu không thì phải có vốn chủ s ở hữu khá lớn, tạo dựng được thương hiệu trên thị trường đặc biệt là chủ doanh nghiệp là người trình độ quản lý, điều hành và có uy tín tốt trên thị trường. Đối với hình thức huy động vốn qua phát hành trái phiếu và cổ phiếu là rất ít DNVVN có thể thực hiện được.

pdf33 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2572 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích nhu cầu vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn minh Trường Sinh & những khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10 8 Nhu cầu vốn cho 1 vòng quay 13.000 25.000 192% VCSH tham gia vào VLĐ 3.000 3.500 117% Phải trả người bán 1.500 1.500 100% 2.2. Tình hình tài chính 2.2.1. Chỉ số về khả năng sinh lời: Chỉ số Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012* a. LN gộp/Doanh thu thuần (%) 3 3 5 b. LN trước lãi và thuế và khấu hao (EBITDA)/Doanh thu thuần (%) 2,11 1,95 3,52 c. LN trước thuế/Doanh thu thuần (%) 1,07 1,13 2,14 d. LN sau thuế/Tài sản dài hạn 23,04 28,66 7,58 Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời của Công ty được duy trì tốt & khá ổn định qua các năm. Riêng đối với năm 2012, tuy mức tổng doanh thu đạt được không cao như các năm trước nhưng các chỉ số sinh lời vẫn đạt được ở mức rất khả quan. Sở dĩ, Công ty đạt được các chỉ số này là do giá vốn hàng bán đã giảm mạnh từ mức 97% xuống còn 95% (do xe bán ra nhanh hơn, chi phí cho việc tiêu thụ xe giảm đồng thời chiết khấu từ VIDAMCO & các nhà cung cấp xe khác cao hơn so với các năm trước) trong khi các chi phí khác đều được quản lý tốt đã làm cho mức lợi nhuận cũng như các chỉ số sinh lời đạt được khả quan hơn. Tuy nhiên, để đạt được các kết quả trên không thể không nhắc đến tác dụng từ chính sách giảm 50% thuế VAT, 50% phí trước bạ, chính sách hỗ trợ lãi suất của chính phủ đối với các dự án đầu tư trung, dài hạn & hiệu quả đem lại từ các dòng xe 15 mới rất phù hợp của VIDAMCO với nhu cầu người tiêu dùng trong nước như: Daewoo Lacetti, Gentra, Matiz đời mới cải tiến. 2.2.2. Chỉ số về hoạt động: Chỉ số Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 a. Số ngày tồn kho bình quân 6 5 12 b. Số ngày phải thu 15 12 23 c. Số ngày phải trả người bán 5 1 4 d. Tổng CF QLDN/ Doanh thu thuần = (Khấu hao + CF bán hàng + CF QLDN + chi phí khác) / Doanh thu thuần 2 1 2 e. Hiệu quả sử dụng TS = Doanh thu thuần /Tổng TS 10,34 10,48 3,15 Các chỉ số về hoạt động tương đối ổn định qua các năm. Cụ thể, tỷ lệ Tổng chi phí quản lý doanh nghiệp/ Doanh thu thuần qua các năm dao động ở mức 1-2%. Đây cũng là tỷ lệ phù hợp đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại cùng ngành nghề. Công nợ phải thu khách hàng & hàng tồn kho của Công ty Minh Trường Sinh không biến động nhiều. Nếu như công nợ phải thu khách hàng thường dao động từ 4–6 tỷ đồng, thì hàng tồn kho thường dao động từ 3–5 tỷ đồng. Do đặc thù của hoạt động đại lý bán xe ô tô là khách hàng thường đặt hàng từng lô sau đó nhận hàng về tiêu thụ hết lô lại đặt tiếp, đồng thời việc tiêu thụ hàng của Công ty nhắm tới hệ thống các khách hàng quen thuộc. Vì vậy, trị giá hàng tồn kho & công nợ phải thu khách hàng là khá ổn định. Về giá cả hàng hóa: Do đây là mặt hàng xa xỉ, có thương hiệu, tiêu thụ mạnh trên thị trường & thị trường tiêu thụ còn rất rộng lớn đồng thời đặc thù của loại hàng hóa này là giá cả thường dao động tăng. Vì vậy, biến động lớn về giá trị hàng hóa là rất nhỏ. Về hiệu quả sử dụng tài sản: Nếu như năm 2010 & 2011, 1 đồng vốn bỏ ra kinh doanh sẽ lần lượt sinh ra 10,34 đồng & 10,48 đồng thì đến năm 2012 chỉ còn 3,15 đồng. Sở dĩ năm 2012 hiệu quả sử dụng tài sản thấp hơn nhiều so với 02 năm trước là do Công ty Minh Trường Sinh sử dụng vốn tự có & vay các tổ chức tín dụng để đầu tư lớn xây dựng Showroom & trạm bảo trì, bảo dưỡng xe ô tô tại Hải Dương làm cho quy mô tổng tài sản tăng trong khi mức tổng doanh thu đạt được thấp hơn nhiều so với các năm. Từ đó đã làm cho hiệu quả sử dụng tài sản thấp. Hiệu quả sử dụng tài sản sẽ tăng dần khi dự án đi vào khai thác. 2.2.3. Chỉ số về khả năng thanh toán: Chỉ số Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012* a. Khả năng thanh toán hiện hành 1,43 1,29 1,33 16 b. Khả năng thanh toán nhanh 1,07 0,74 0,94 c. Dòng tiền ròng từ hoạt động KD - 1.595 3.549 d. Dòng tiền sau chi phí tài chính - 503 2.530 e. Dòng tiền sau trả nợ - 503 2.530 g. Dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh/Lãi ngân hàng - 1,46 3,48 h. EBITDA/Tổng nợ 0,56 0,36 0,32 i. EBIT/chi phí trả lãi vay (Khả năng thanh toán lãi vay) 2,80 3,48 5,82 Khả năng thanh toán hiện hành của Minh Trường Sinh qua các năm đều ổn định ở mức >1, bên cạnh đó chỉ tiêu thanh toán nhanh của Công ty cũng giữ ở mức khá tốt (gần 1), các chỉ tiêu này thể hiện khả năng có thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thanh toán của Công ty trong ngắn hạn. Nếu như dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh năm 2011 chỉ là 1.595 triệu đồng thì sang năm 2012 dòng tiền này đã được cải thiện tốt hơn nhiều & đạt mức 3.549 triệu đồng. Điều này có được là do trong năm 2012, bên cạnh việc chiếm dụng được nguồn vốn từ đối tác (877 triệu đồng) thì Công ty Minh Trường Sinh còn giảm được phần trả trước cho người bán (1.828 triệu đồng) cũng như tiết kiệm được khá nhiều chi phí bán hàng & chi phí quản lý doanh nghiệp (554 triệu đồng). Dòng tiền sau chi phí tài chính & dòng tiền sau trả nợ đều dương, thể hiện việc Công ty hoàn toàn đủ khả năng thực hiện các nghĩa vụ trả nợ. 2.2.4. Chỉ số đòn bẩy: Đơn vị: Lần Chỉ số Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012* a. Nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu 1,05 1,30 1,07 b. Vay ngân hàng/Vốn chủ sở hữu 0,61 1,10 0,93 Do người đứng đầu Công ty là ông Nguyễn Như Bội là người có kinh nghiệm rất lâu năm trong lĩnh vực hoạt động & làm ăn rất chắc chắn nên chỉ số đòn bẩy về vốn không được sử dụng triệt để. Kết luận: Nhìn chung tình hình tài chính của khách hàng là khá tốt. So sánh với doanh nghiệp khác trong ngành thì hoạt động của Minh Trường Sinh ổn định, hiệu quả, công ty không bị mất cân đối nguồn vốn. 2.3. Nhu cầu tài trợ 2.3.1. Nhu cầu về dịch vụ bảo lãnh 17  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: - Trị giá bảo lãnh: 8.000.000.000 VND (Tám tỷ đồng chẵn). - Đơn vị thụ hưởng: Công ty ô tô Việt Nam – Daewoo (nhà cung cấp chính của Minh Trường Sinh). - Nội dung bảo lãnh: Bảo lãnh thực hiện Hợp đồng sẽ được ký kết giữa Minh Trường Sinh và Vidamco. - Trị giá ký quỹ: 1.200.000.000 VND (tương đương với 15% trị giá thư bảo lãnh). - Thời hạn bảo lãnh: 12 tháng kể từ ngày phát hành bảo lãnh. Năm 2013 là năm đầu tiên Công ty ô tô Việt Nam – Daewoo (VIDAMCO) bắt đầu áp dụng chính sách yêu cầu các Đại lý của Công ty phải phát hành bảo lãnh thực hiện Hợp đồng có thời hạn 12 tháng trước khi ký kết Hợp đồng đại lý. Mục đích của việc phát hành bảo lãnh thực hiện hợp đồng chính là việc đảm bảo 100% các đơn đặt hàng của hệ thống đại lý của Vidamco đều được thực hiện tại mọi thời điểm (khi thị trường thuận lợi cũng như thị trường khó khăn). Yêu cầu sản lượng tối thiểu hàng năm của Vidamco đối với các đại lý được xác định trên cơ sở sản lượng đăng ký của các đại lý. Năm 2013, Minh Trường Sinh đăng ký tiêu thụ tối thiểu 600 xe các loại. Với năng lực hiện tại việc đạt sản lượng đăng ký của Công ty là hoàn toàn có cơ sở.  Bảo lãnh thanh toán: Do đặc thù của ngành ô tô nói chung cũng như các Công ty kinh doanh thương mại xe ô tô nói riêng thì việc mua, bán xe thường gắn liền với nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán từ Ngân hàng. Do đó, Công ty thường xuyên phát sinh & phải có thư bảo lãnh thanh toán trước khi nhận từng lô hàng. Với đặc thù đó, Minh Trường Sinh cần thiết được một tổ chức tín dụng cấp hạn mức bảo lãnh thanh toán ngắn hạn. Thực tế trong năm 2011, 2012, Minh Trường Sinh thường sử dụng nghiệp vụ phát hành bảo lãnh thanh toán qua Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam – CN Nam Hà Nội với hạn mức bảo lãnh tối đa 8 tỷ đồng. Hạn mức bảo lãnh thanh toán Minh Trường Sinh cần trong năm 2013 sẽ được xác định căn cứ vào kế hoạch kinh doanh nằm trong tổng nhu cầu vốn ngắn hạn và được trình bày chi tiết dưới đây. 2.3.2. Nhu cầu vốn ngắn hạn Đối với nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, do có tính luân chuyển nhanh nên việc tài trợ vốn theo hình thức hạn mức tín dụng ngắn hạn là phương án tài trợ hợp lý nhất đối với Minh Trường Sinh. 18 Đơn vị tính: Triệu đồng Nhu cầu vốn ngắn hạn Chỉ tiêu Năm 2012 Năm 2013 Mức độ tăng trưởng Doanh thu 135.698 211.832 156% Giá vốn hàng bán 129.073 197.004 153% Lợi nhuận dự kiến 2.182 2.852 131% Chu kỳ kinh doanh =360: (360/Vòng quay hàng tồn kho + 360/Vòng quay các khoản phải thu) 10 8 Nhu cầu vốn cho 1 vòng quay 13.000 25.000 192% Vốn chủ sở hữu tham gia vào vốn lưu động 3.000 3.500 117% Phải trả người bán 1.500 1.500 100% Tài trợ từ các tổ chức tín dụng khác 8.500 20.000 118% Vốn vay khác 0 0 Hạn mức bảo lãnh thanh toán 8.000 10.000 125% Bảo lãnh thực hiện hợp đồng 0 8.000 Nhu cầu vốn của Công ty được xây dựng dựa trên kế hoạch kinh doanh, chu kỳ kinh doanh và các giả định chủ yếu sau đây: Diễn giải Giá trị (triệu VND) Căn cứ Doanh thu 211.832 Trong năm 2010, Công ty đã đạt mức doanh thu là hơn 202 tỷ đồng, doanh thu năm 2011 tăng lên hơn 240 tỷ đồng. Tuy nhiên sang năm 2012 do bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế trong nước bị chững lại và có nhiều diễn biến bất lợi nên doanh thu cả năm đã sụt giảm rất nhiều & chỉ đạt gần 136 tỷ đồng bằng 56,5% so với năm 2011. Sang năm 2013, Công ty dự tính sẽ đạt mức doanh thu gần 212 tỷ đồng tăng 56% so với năm 2012 nhưng chỉ bằng 88% doanh thu của cả năm 2011. Mức dự kiến này được tính toán rất thận trọng dựa trên tình hình thị trường được dự báo là đã khởi sắc hơn nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, trong khi cơ sở hạ tầng, năng lực bán hàng cũng như cung cấp dịch vụ đã được đầu tư tăng gấp đôi. Mặt khác với các dòng xe Vidamco thế mạnh đã được thị trường chấp nhận & đánh giá trong thời gian qua sẽ góp phần không nhỏ vào việc thực hiện tốt kế 19 hoạch năm 2013 của Minh Trường Sinh. Như vậy, kế hoạch về doanh thu của Công ty là khả thi. Giá vốn 197.004 Chiếm khoảng 93% doanh thu của Công ty. Tỷ lệ giá vốn hàng bán/doanh thu dự kiến trong năm 2013 tuy có thấp hơn một chút so với năm 2012. Tuy nhiên, tỷ lệ này là phù hợp do sau khi Công ty đầu tư lớn vào Showroom & trạm bảo dưỡng, sửa chữa tại Hải Dương thì Công ty đã thật sự trở thành đại lý số 1 của Vidamco nên chính sách về chiết khấu, ưu đãi bán hàng cao hơn trước. Tổng chi phí 11.026 = Chi phí quản lý + Chi phí bán hàng + Chi phí tài chính. Tổng các chi phí này chiếm khoảng 5% tổng doanh thu và cao hơn so với năm 2012. Mức này là phù hợp do chi phí tài chính đang tăng ở mức rất cao đồng thời chi phí bán hàng dự kiến trong năm nay cũng sẽ tăng cao do ngành không còn được hưởng các chính sách ưu đãi nữa. Lợi nhuận trước thuế 3.802 = Doanh thu - Giá vốn hàng bán – Tổng chi phí. Chu kỳ KD dự kiến 8 =360/ (360/Vòng quay hàng tồn kho + 360/Vòng quay các khoản phải thu). Chu kỳ kinh doanh của năm 2012 là 10 vòng, tuy nhiên do năm 2013 kinh tế vẫn tiếp tục khó khăn trong khi ngành không được hưởng ưu đãi như trong năm 2012 nữa. Vì vậy, thời gian dự trữ hàng tồn kho & thời gian thu hồi công nợ khách hàng sẽ bị kéo dài hơn. Nhu cầu vốn cho 1 vòng quay 25.000 = Giá vốn hàng bán/ Chu kỳ kinh doanh Vốn tự có 3.500 = Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ & ĐT dài hạn. Phải trả nhà cung cấp 1.500 Theo dự báo nền kinh tế sẽ sáng sủa hơn trong năm 2013 tuy nhiên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, vì vậy việc trả chậm tiền hàng cho các nhà cung cấp sẽ khó được chấp nhận, do đó Công ty dự kiến mức tương đương với năm 2012 là phù hợp. Vay vốn từ các Ngân hàng 20.000 = Nhu cầu vốn cho 1 vòng quay – Phải trả nhà cung cấp – Vốn tự có. Kết luận: Nhìn chung, các chỉ tiêu trong kế hoạch kinh doanh của Công ty được tính toán rất thận trọng & khá sát với thực tế. Phương án kinh doanh của Công ty khả thi, hiệu quả, nhu cầu vay vốn Ngân hàng 20 tỷ đồng là hợp lý với quy mô hiện tại & hoạt động trong thời gian tới của Công ty Minh Trường Sinh. 20 Chương 3: PHÂN TÍCH THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA TỪNG LOẠI HÌNH TÀI TRỢ VỐN ĐỐI VỚI CÔNG TY NÓI RIÊNG VÀ DNVVN NÓI CHUNG 3.1. Huy động vốn từ vay ngân hàng 3.1.1. Về phía ngân hàng Đầu tiên, chúng ta nói đến chiến lược của ngân hàng, các ngân hàng dường như vẫn chỉ “tin tưởng” và các doanh nghiệp lớn hoặc các dự án lớn của những doanh nghiệp lâu năm, có uy tín. Điều này thể hiện ở việc, dòng vốn chủ yếu của các ngân hàng vẫn chảy vào các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn hay công ty có thứ hạng trên thị trường, cho dù 97% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 50% GDP, trong đó 26,000 doanh nghiệp vừa và nhỏ làm về thương mại, 6000 doanh nghiệp trực tiếp sản xuất. Thế nhưng, thị trường mở cửa cho doanh nghiệp mở ra ồ ạt với quy mô nhỏ không thể tạo niềm tin cho nhà đầu tư, ngân hàng thương mại, nhiều doanh nghiệp chỉ có vốn đăng ký hợp pháp dưới 5 triệu VNĐ đã được chính thức thành lập, nhiều khi chỉ là tự hộ gia đình kinh doanh phát triển lên, nhiều doanh nghiệp chỉ lập ra như một “công ty ma”, rất khó có tính thuyết phục. Ở góc độ nhìn nhận như thế này của ngân hàng đã gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ khó có thể cạnh tranh, ngay cả từ việc vay vốn nếu như bên cạnh đó, một doanh nghiệp lớn, hay một công ty có thứ hạng cũng muốn vay vốn cùng thời điểm, kể cả là số vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ vay có nhỏ hơn rất nhiều. Thứ hai, hệ thống ngân hàng vẫn luôn nhìn doanh nghiệp với nhiều yếu kém còn tồn tại trong thời gian qua. Trình độ quản lý luôn là cái nhìn đầu tiên của ngân hàng vào các doanh nghiệp. Với trình độ quản lý thiếu chuyên nghiệp, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thì rất khó thuyết phục được ngân hàng. Tiếp theo đó, ngân hàng sẽ có cảm giác đồng tiền của họ sẽ gặp rủi ro mang tính mất mát nhiều hơn vì quả thực những doanh nghiệp này không có sự phân biệt giữa tài sản của doanh nghiệp và tài sản của ông chủ doanh nghiệp. Việc này sẽ có tác động rất lớn nếu như dự án của họ phá sản sẽ kéo theo đồng tiền của ngân hàng mà sau đó sẽ không biết đòi ai, lấy tiền của ai? Sự yếu kém về trình độ quản lý còn thể hiện ở mặt quản lý tài chính và kế toán. Nhiều khi, doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ “chạy theo thị trường” mà làm theo hướng “chộp giật”. Việc chạy theo xu hướng của thị trường mà không phát triển một hoặc một vài loại sản phẩm cố định để tạo thương hiệu sẽ rất khó khăn trong việc quản lý ngành nghề kinh doanh. Thị trường thì thay đổi từng ngày, thị hiếu cũng thay đổi điều này khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên tục thay đổi và chỉ làm theo thời điểm hoặc thời kỳ ngắn, kinh doanh không dài hạn sẽ khiến ngân hàng khó có thể biết được đồng tiền của mình sẽ trôi nổi và đầu tư cho ai, làm cá i gì và sử dụng như thế nào. Ngoài ra, việc sử dụng lao động thiếu tay nghề cũng là một trong số những rủi ro được các nhà đầu tư quan tâm. Việc tuyển nhân sự nhiều khi chỉ dựa vào tình huống đặc biệt, mà không xét nhiều đến trình độ, dẫn đến nếu có sự thay đổi sẽ không kịp thay đổi theo và làm chậm tiến độ, nhiều khi không thể bù đắp được chi phí bỏ ra khiến cho lỗ xảy ra. Lúc này, với vốn tự chủ nhỏ, các doanh 21 nghiệp sẽ khó khăn cho việc trả nợ hơn rất nhiều và hầu như là nếu xảy ra biến cố sẽ khiến cho doanh nghiệp mất tự chủ và phá sản. Vấn đề này thường gọi tên là phát triển nhân sự, nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, như đã nói ở trên, vì trình độ của cả nhà quản lý lẫn người tuyển dụng đều khá hạn chế, không quan tâm đặc biệt tới nhân sự sẽ rất khó khăn trong việc đánh giá đúng thực lực của doanh nghiệp, liệu rằng có đủ sức để thực hiện kế hoạch phác ra hay không? Nhiều người làm tín dụng còn cho rằng: “Những người có trình độ cao làm việc ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có, nhưng chủ yếu chỉ làm để tích lũy kinh nghiệm và rồi sẽ chuyển sang các doanh nghiệp lớn hơn để tiếp tục sự nghiệp” – đây là một trong số những rào cản trong công cuộc phát triển nhân sự - một trong những tiêu chí quan trọng mà ngân hàng muốn đánh giá doanh nghiệp. Một trong số những điều quan trọng nhất, gây e ngại cho nhà đầu tư nói riêng và các ngân hàng nói chung, đó là thông tin của doanh nghiệp. Những số liệu thường không sẵn có cho từng doanh nghiệp, kể cả số liệu ngành và số liệu doanh nghiệp. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, thường thời gian hoạt động nhỏ hơn 10 năm, tức là những doanh nghiệp này vẫn là những doanh nghiệp mới, nhiều khi không biết đến tên, hay ngành nghề sản xuất của họ. Những thông tin mà doanh nghiệp cung cấp rất khó tin cậy, thường thì không chính xác. Như đã nói ở trên, vì còn hạn chế nhiều trong khâu quản lý tài chính và kế toán, vì thế mà sự nhất quán về các bản khai báo cáo tài chính giữa các năm, ngoài ra còn thiếu công khai ở những nghiệp vụ quan trọng trong công việc giao dịch kinh doanh. Ở doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường thì có 2 loại báo cáo tài chính khác nhau, một dành cho cơ quan thuế, và một là dùng cho việc đi vay tín dụng, 2 bản khai này không ai biết chính xác là cái nào đúng, cái nào chính xác, cái nào sai … công tác kiểm toán vì thế cũng gặp khó khăn, và thường không thể thực hiện được chức năng kiểm toán của mình. Cũng xuất phát từ hạn chế của năng lực quản lý, nó còn gây ra những khó khăn nữa trong việc thẩm định dự án của ngân hàng, đó là kế hoạch và đề án kinh doanh. Thường thì những đề án gửi lên để vay vốn rất sơ sài, thiếu chi tiết và rất khó kiểm tra độ rủi ro và mất mát khi thực hiện dự án ấy. Ngoài ra, tài sản thế chấp của doanh nghiệp cho ngân hàng thường không đủ để bù đắp nếu rủi ro xuất hiện và đ iều này làm cho ngân hàng không thể rót tiền vào dự án ấy được. Ngoài ra, phía ngân hàng cũng cảm thấy rằng, pháp luật về doanh nghiệp loại vừa và nhỏ còn yếu kém, vì thế nếu không may, rủi ro xuất hiện gây ra mất mát thì khả năng thu hồi vốn cho ngân hàng dường như là không thể. Tất cả những điều trên là những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư và cả các ngân hàng cũng e ngại, khiến cho khả năng huy động vốn của doanh nghiệp gặp nhiều bất lợi. Thế nhưng, quả thực nhìn từ giác độ của chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ này, chúng ta cũng có thể xem xét để đưa ra những nguyên nhân khiến chính họ không thể vay tiền hay huy động vốn. 3.1.2. Về phía doanh nghiệp 22 Trước tiên phải nói đến đó là do chính đặc điểm của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ là: vốn ít, trình độ quản lý, năng lực công nghệ còn hạn chế, mức độ rủi ro của đầu tư khá cao vì vậy mà thiếu vốn là một tất yếu. - Về năng lực của lãnh đạo điều hành doanh nghiệp: Do môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cạnh tranh càng lớn thì khả năng thành công của doanh nghiệp càng nhỏ. Vì vậy, việc lựa chọn kinh doanh trong lĩnh vực nào và cạnh tranh bằng cách nào để doanh nghiệp thành công tùy thuộc hoàn toàn vào khả năng, năng lực của lãnh đạo điều hành doanh nghiệp. Phần lớn các lãnh đạo điều hành doanh nghiệp đều trưởng thành và đi lên từ thực tiễn, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Các lãnh đạo điều hành này thường đi từ kinh nghiệm hoạt động kinh doanh thực tiễn của mình chưa được đào tạo qua trường lớp, nên không nắm bắt được nguyên lý hoạt động của ngành nghề kinh tế đặc thù mà doanh nghiệp đang hoạt động. Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp không có bằng cấp phù hợp với lĩnh vực mà doanh nghiệp mình đang hoạt động, điều đó cũng tạo khó khăn cho việc đánh giá năng lực điều hành lãnh đạo doanh nghiệp của các NHTM. Mặt khác, thực tế nữa là lãnh đạo doanh nghiệp không được đào tạo bài bản nên phần lớn các lãnh đạo doanh nghiệp tại Việt Nam thường không biết cách quản lý dòng tiền hoặc quản lý dòng tiền không hiệu quả, đầu tư dàn trải dẫn đến các NHTM thường đánh giá năng lực lãnh đạo doanh nghiệp ở mức thấp. - Báo cáo tài chính thiếu minh bạch Số liệu trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp (nhiều nhất là DNNVV) thường không trung thực và thiếu minh bạch. Số liệu thiếu thống nhất, chưa theo kịp các chuẩn mực quốc tế đang là rào cản lớn đối với doanh nghiệp khi tiếp cận vốn từ NHTM. Theo quy định của Việt Nam h iện nay, có 6 loại doanh nghiệp bắt buộc phải được kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm. Riêng các doanh nghiệp, tổ chức thực hiện vay vốn ngân hàng thì được kiểm toán theo quy định của pháp luật về tín dụng. Tuy nhiên, phần lớn các DNNVV đều không kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm. Nếu các NHTM yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán báo cáo tài chính thì trở thành một rào cản và tăng chi phí cho các doanh nghiệp. Tiếp nữa, các chuẩn mực kế toán hiện hành của Việt Nam là khá rõ ràng và đầy đủ nhưng chỉ so với điều kiện thị trường tại Việt Nam, chưa phù hợp chuẩn mực kế toán theo thông lệ quốc tế. Trong khi đó, việc phân loại khách hàng doanh nghiệp để cho vay của các NHTM hiện nay lại đang dựa theo chuẩn mực quốc tế, mà chủ yếu khai thác thông tin trên báo cáo tài chính không theo chuẩn mực quốc tế của doanh nghiệp. Vấn đề nữa là luật hiện hành không có chế tài đủ mạnh để bảo đảm các quy định về thông tin báo cáo tài chính được thực thi một cách nghiêm túc. Bởi chế tài quá nhẹ, không đủ sức răn đe nên nhiều nhà lãnh đạo điều hành doanh nghiệp đã không ngần ngại 23 bóp méo thông tin báo cáo tài chính. Do đó, nếu doanh nghiệp không cải thiện chất lượng thông tin báo cáo tài chính, thì việc tiếp cận vốn các NHTM sẽ gặp khó khăn. - Trốn thuế Hiện tượng trốn thuế của các doanh nghiệp đang phổ biến tại Việt Nam, hầu như các doanh nghiệp đều lách luật, cố ý hạch toán tăng chi phí không thực tế trong hoạt động kinh doanh theo qui định để lợi nhuận trước thuế giảm tới mức tối thiểu hoặc thậm chí là âm, làm cho kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trở nên tồi tệ có chủ ý của doanh nghiệp. Điều này vô hình chung, khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn các NHTM, các NHTM xem xét các kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và tính toán các chỉ tiêu trên kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để phân loại, đánh giá, xếp loại khách hàng thì dĩ nhiên đánh giá là hiệu quả thấp. Do đó, nếu doanh nghiệp đã chủ ý trốn thuế thì khó tiếp cận vốn các NHTM, vì vậy lãnh đạo doanh nghiệp phải thực hiện việc ghi nhận kết quả kinh doanh thực tế phát sinh để NHTM có thể đánh giá đúng hiệu quả của việc kinh doanh. - Thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt Thông tư 09/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có hiệu lực ngày 01/6/2012 đã quy định việc sử dụng các phương tiện thanh toán để giải ngân vốn vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Theo đó, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt để giải ngân vốn cho vay và thực hiện thanh toán trực tiếp cho bên thụ hưởng với số tiền từ 100.000.000 đồng trở lên cho một lần giải ngân. Tuy nhiên thực tế, doanh nghiệp vẫn thích giải ngân bằng tiền mặt có rất nhiều lý do để doanh nghiệp biện minh cho việc dùng tiền mặt như: bên thụ hưởng không có tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Để trả lương cho người lao động; Để bù đắp phần vốn tự có, nguồn tài chính mà khách hàng vay đã sử dụng để thực hiện dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống;... Đứng trên góc độ NHTM cho vay, các lý do của doanh nghiệp đưa ra tỏ ra có lý. Nhưng khi làm thủ tục giải ngân vốn tín dụng bằng tiền mặt thì doanh nghiệp không chứng minh được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích. Rõ ràng nhiều doanh nghiệp đang lợi dụng sơ hở này sử dụng vốn vay sai mục đích, vì nhiều doanh nghiệp không đủ hóa đơn, chứng từ chứng minh việc sử dụng vốn nên đây cũng là một rào cản trong việc cho vay đối với NHTM. - Tài sản bảo đảm (TSBĐ) Các doanh nghiệp khi vay vốn các NHTM thường thiếu TSBĐ theo quy định, nguyên nhân có nhiều lý do, nhưng nhìn chung như sau: 24 + Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp thì cao và tài sản cố định của doanh nghiệp thực tế trên báo cáo tài chính cũng cao, nhưng giấy phép về quyền sử dụng và quyền sở hữu thì không có hoặc có không đầy đủ theo quy định hiện hành nên không thế chấp để vay vốn được. Việc không có giấy phép về quyền sử dụng và quyền sở hữu thì có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do chi phí cho việc có được giấy phép quyền sử dụng và quyền sở hữu lớn, thủ tục hành chính rườm rà,... cũng là một trở ngại cho doanh nghiệp. + Khi vay vốn NHTM các doanh nghiệp luôn bảo đảm với ngân hàng dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả nhưng chỉ thiếu TSBĐ của doanh nghiệp. Các NHTM đề nghị TSBĐ của bên thứ ba thì đại diện doanh nghiệp hoặc người có liên quan đến doanh nghiệp không đồng ý đưa tài sản thuộc quyền sử dụng và quyền sở hữu của mình dù rằng luôn khẳng định dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả, đây cũng là vấn đề mà các doanh nghiệp cũng phải xem lại. Trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế hiện nay, thiết nghĩ lĩnh vực kinh doanh nào cũng gặp rủi ro thị trường đầu ra thì để đảm bảo hoàn vốn cho các NHTM thì việc các NHTM yêu cầu có TSBĐ là hoàn toàn có cơ sở. Trường hợp đặc thù đối với dự án bất động sản (BĐS), dự án BĐS được chủ đầu tư thế chấp để vay vốn tại các NHTM, sau đó lại được chính NHTM đó hoặc NHTM khác cho vay để khách hàng mua các căn hộ của chính dự án BĐS đó. Rủi ro từ việc cho vay mà TSBĐ là dự án BĐS sẽ rất lớn, bởi NHTM đã hai lần giải ngân cho hai khoản vay khác nhau mà chỉ có một TSBĐ. Đây cũng là một rủi ro về TSBĐ cho các NHTM khi cho vay mà doanh nghiệp cần quan tâm tránh, mà nhất là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản. 3.2. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu 3.2.1. Đối với doanh nghiệp Phát hành cổ phiếu là một kênh huy động vốn trung dài hạn của doanh nghiệp. Việc phát hành thêm cổ phiếu mới nhằm huy động tăng vốn có thể thực hiện theo các hình thức sau: Phát hành cổ phiếu mới với việc dành quyền ưu tiên mua cho các cổ đông hiện hữu; Phát hành cổ phiếu mới bằng việc chào bán cổ phiếu cho người thứ 3, là những người có quan hệ mật thiết với công ty như nhà cung cấp, khách hàng, nhà quản lý công ty…; Phát hành rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng. - Việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu đem lại cho doanh nghiệp những thuận lợi như: - Làm tăng vốn đầu tư dài hạn nhưng công ty không có nghĩa vụ bắt buộc phải trả lợi tức cố định như sử dụng vốn vay, dẫn đến giảm bớt nguy cơ phải tổ chức lại hoặc phá sản công ty. 25 - Cổ phiếu thường không quy định mức cổ tức cố định, mà nó phụ thuộc vào kết quả kinh doanh, dẫn đến công ty không có nghĩa vụ pháp lý phải trả lợi tức cố định, đúng hạn. - Cổ phiếu thường không có thời gian đáo hạn vốn, nên công ty không phải hoàn trả vốn gốc theo kỳ hạn cố định, điều này giúp công ty chủ động sử dụng vốn linh hoạt trong kinh doanh không phải lo “gánh nặng” nợ nần. - Làm tăng hệ số vốn chủ sở hữu, tăng tỷ lệ đảm bảo nợ của công ty, tăng thêm khả năng vay nợ và tăng mức độ tín nhiệm, giảm rủi ro tài chính. - Trong một số trường hợp, chẳng hạn khi công ty làm ăn phát đạt, lợi nhuận cao, cổ phiếu thường dễ bán hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu nên nhanh chóng hoàn thành đợt phát hành huy động vốn. Tuy nhiên đây không phải là ưu tiên hàng đầu của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ do các doanh nghiệp chưa thực sự có uy tín trên thị trường, chưa thu hút được đông đảo các nhà đầu tư. Hơn nữa, sức ép phải kinh doanh có hiệu quả khi phát hành cổ phiếu để huy động vốn hơn các hình thức huy động vốn khác là một trở ngại khiến các doanh nghiệp chưa mặn mà với việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Thêm vào đó, điều kiện phát hành cổ phiếu là một rào cản khá lớn khiến cho phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay không thể đáp ứng và vượt qua. 3.2.2. Về phía nhà đầu tư Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi phát hành cổ phiếu đều không đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, vì vậy giao dịch của các nhà đầu tư khi sở hữu cổ phiếu của các doanh nghiệp này đều diễn ra trên thị trường phi chính thức, chủ yếu giữa những người biết rõ về doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, phương thức giao dịch cổ phiếu trao tay trên thị trường Việt Nam hiện nay chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi vì các cuộc giao dịch mua bán cổ phiếu không bị lệ thuộc vào một nguyên tắc nào nên hoạt động giao dịch chịu nhiều tác động của nguồn thông tin. Trong khi ấy, nguồn thông tin trên thị trường ở Việt Nam luôn bị “nhiễu”, hầu hết các thông tin là thông tin hành lang và có rất nhiều tin đồn, tin “thổi”, vì thế giá cổ phiếu bị nguồn thông tin chi phối. Hàng ngày, chỉ cần xuất hiện thông tin “xấu” về tình hình hoạt động của công ty lậptức giá cổ phiếu của công ty ấy trên thị trường sẽ giảm ngay, ngược lại với những nguồn thông tin tốt giá cổ phiếu sẽ được đẩy lên rất cao, cao hơn hẳn giátrị thực của cổ phiếu.Với nguồn thông tin không rõ ràng, giá cổ phiếu trên thị trường phi chính thức biến động liên tục sẽ ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư. Người mua và bán dễ dàng đổi ý khi nắm được nguồn thông tin. Không chỉ vậy, các nhà đầu tư cổ phiếu OTC lại phải chịu rất nhiều thiệt thòi vì không rõ các thông tin về các doanh nghiệp. Với kiểu hoạt động động của thị trường cổ phiếu OTC tại Việt Nam hiện nay, không chỉ có tỉ lệ kết quả giao dịch thành công không được đảm bảo, mà nhà đầu tư còn có thể bị lừa bằng nhiều hình thức khác nhau như làm cổ phiếu giả, tung tin để “làm giá”… 26 Ngoài ra, nhà đầu tư trên thị trường OTC còn gặp phải một số rủi ro: Một là, tranh chấp hay thiệt hại về quyền mua cổ phiếu mới tăng vốn. Một trong những kỳ vọng lớn nhất về lợi ích của người mua cổ phiếu là quyền mua cổ phiếu phát hành tăng vốn. Đây là một khoản lợi lớn của người sở hữu cổ phiếu. Tuy nhiên, thông thường trước khi phát hành cổ phiếu tăng vốn, công ty tiến hành chốt danh sách cổ đông. Tại thời điểm đó, những ai sở hữu cổ phiếu nằm trong danh sách cổ đông của công ty sẽ được mua thêm cổ phiếu mới.Với những người mua cổ phiếu trong giai đoạn giao thời hoặc khi danh sách cổ đông đã được chốt, nếu không biết thì dù tiền đã thanh toán cho người bán, cổ phiếu đã nắm giữ, nhưng chưa làm xong thủ tục chuyển nhượng, người mua vẫn mất quyền mua, quyền mua cổ phiếu mới vẫn thuộc về người bán. Như vậy, nhà đầu tư trên thị trường OTC cần chú ý, phải luôn luôn thỏa thuận bằng hợp đồng chuyển nhượng với người bán, ghi rõ quyền lợi mua cổ phiếu mới tăng vốn thuộc về ai. Loại rủi ro này phổ biến nhất trên thị trường OTC. Hai là, tranh chấp hay thiệt hại về cổ tức. Cổ tức được chia cho cổ đông dựa trên số lượng cổ phần họ đang nắm giữ. Thông thường, công ty chia cổ tức sau khi kết thúc năm tài chính, một số công ty tạm ứng cổ tức sau 6 tháng. Rủi ro giao dịch cổ phiếu ở chỗ, khi mua cổ phiếu, người mua không nắm bắt được thông tin, không thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng chuyển nhượng. Do đó, cũng tương tự như trường hợp trên, người mua mặc dù nắm giữ cổ phiếu, nhưng không được nhận cổ tức. Ba là, rủi ro trong mua bán cổ phiếu chưa được chuyển nhượng. Có những cổ phiếu theo quy định nội bộ của công ty, sau 1 năm mới được chuyển nhượng, nhưng nhiều nhà đầu tư không nắm được thông tin nên đã mua. Và trong thời hạn 1 năm đó, các quyền lợi như mua thêm cổ phiếu tăng vốn, nhận cổ tức… vẫn thuộc về người đứng tên sở hữu cổ phiếu (người bán), còn người đã bỏ tiền ra mua thì bị chiếm đoạt quyền lợi. Bốn là, rủi ro trong giao dịch nhận chuyển nhượng quyền mua. Trong các đợt phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn, cổ đông hiện hữu, cổ đông chiến lược hay CBCNV được quyền mua cổ phiếu. Khi đó, nhiều người do không huy động được tiền hoặc vì nhiều lý do khác đã bán quyền mua cổ phiếu. Giá bán quyền mua thường thấp hơn giá thị trường thời điểm đó. Nhà đầu tư mới thấy giá thấp, hấp dẫn thường chấp nhận mua. Nhưng từ khi nộp tiền để mua cổ phiếu cho đến khi nhận được cổ phiếu là khoảng thời gian khá dài, nên đến khi nhận được cổ phiếu thì cổ phiếu vẫn đứng tên chủ sở hữu là người bán. Khi đó, nếu giá cổ phiếu đứng yên, giảm hay người bán nghiêm túc, đứng đắn thì việc làm thủ tục chuyển nhượng không vấn đề gì. Ngược lại, gặp phải người không trọng chữ tín thì dễ dàng bị đánh tháo và hứa hẹn trả lạ số tiền trước kia đã nhận, kèm với lãi suất ngân hàng. Vì vậy, nhà đầu tư cần tìm hiểu kĩ về doanh nghiệp, trang bị kiến thức về phân tích và đánh giá cổ phiếu trước khi ra quyết định đầu tư, họ cũng cần phải tỉnh táo hơn đối với các tin đồn, tránh bị cuốn theo cơn lốc mua - bán để rồi cuối cùng có thể sẽ bị thua thiệt. 27 3.3. Phát hành trái phiếu Những lợi thế khi huy động vốn bằng phát hành trái phiếu dài hạn - Lợi tức trái phiếu được trừ vào thu nhập chịu thuế khi tính thuế TNDN, đem lại khoản lợi thuế và giảm chi phí sử dụng vốn vay - Lợi tức trái phiếu được giới hạn (cố định) ở mức độ nhất định: Lợi tức trái phiếu được xác định trước và cố định. Trong điều kiện doanh nghiệp làm ăn có lãi, thì việc sử dụng trái phiếu để huy động thêm vốn vay sẽ nâng cao tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu mà không phải chia sẻ quyền phân chia thu nhập cao cho trái chủ. - Chi phí phát hành trái phiếu thấp hơn so với cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi do trái phiếu hấp dẫn công chúng ở mức rủi ro thấp hơn cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. - Chủ sở hữu doanh nghiệp không bị chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp cho các trái chủ. - Giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh cơ cấu vốn kinh doanh một cách linh hoạt, đảm bảo việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả. Thông thường, để phát hành trái phiếu, doanh nghiệp thường thuê một tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán làm đơn vị tư vấn phát hành. Do hoạt động định mức tín nhiệm doanh nghiệp và trái phiếu chưa phổ biến, nên bên cạnh uy tín của doanh nghiệp phát hành, vai trò của tổ chức tư vấn phát hành rất quan trọng. Các doanh nghiệp tư nhân muốn phát hành trái phiếu thành công cần một ngân hàng bảo lãnh phát hành cam kết mua lại toàn bộ số trái phiếu không được đăng ký mua. Nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến điều khoản ngân hàng bảo lãnh kiêm quản lý dòng tiền từ đợt phát hành trái phiếu và dòng tiền thu về từ các dự án của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp chưa có tên tuổi và phát hành trái phiếu lần đầu, ngân hàng có thể kiêm thêm chức năng bảo lãnh thanh toán. Khi trái phiếu đến hạn thanh toán, nếu doanh nghiệp mất khả năng chi trả, ngân hàng sẽ đứng ra thanh toán tiền gốc và lãi cho nhà đầu tư. Tuy nhiên phí bảo lãnh phát hành và phí bảo lãnh thanh toán đôi khi lên tới vài phần trăm, đẩy chi phi phí huy động vốn lên cao. Do đó, đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng phát hành thành công là rất thấp. Quy mô phát hành nhỏ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu, khiến nhà đầu tư ngại mua. Có những trường hợp trái phiếu được bán hết, nhưng đến 70% là do ngân hàng bảo lãnh phát hành mua. Và nếu phát hành thành công doanh nghiệp cũng phải trả chi phí cao hơn lãi vay ngân hàng. 28 Chương 4: ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP 4.1. Đề xuất hình thức huy động vốn cho Công ty Minh Trường Sinh Căn cứ những phân tích trong Chương 3 và Chương 4 về nhu cầu tài trợ của Công ty Minh Trường Sinh, cũng như những khó khăn và thuận lợi của công ty trong đối với từng loại hình huy động vốn, đồng thời trên cơ sở chiến lược và kế hoạch kinh doanh của Công ty, nhóm nghiên cứu đề xuất hình thức huy động vốn phù hợp nhất đối với Công ty Minh Trường Sinh như sau:  Về kênh huy động vốn: Phát hành cổ phiếu và trái phiếu là kênh rất khó thực hiện tại thời điểm hiện tại. Mặt khác, nhu cầu vốn của công ty chủ yếu nằm ở vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi phát hành cổ phiếu, trái phiếu là những kênh huy động vốn dài hạn, chỉ áp dụng khi doanh nghiệp có dự án kinh doanh dài hạn. Do đó, vay vốn ngân hàng là lựa chọn tối ưu của Minh Trường Sinh. Bản thân Minh Trường Sinh cũng có nhiều năm quan hệ với các Ngân hàng như BIDV, MB, Techcombank; do đó giữa Công ty và Ngân hàng có những hiểu biết về nhau. Minh Trường Sinh có tình hình tài chính tương đối tốt, chưa từng bị mất cân đối vốn; tình hình hình kinh doanh mặc dù năm 2012 có sự suy giảm do bối cảnh kinh tế chung nhưng tổng quan theo nhiều năm trở lại đây và so với các doanh nghiệp trong ngành thì kết quả kinh doanh của công ty là tương đối tốt. Các kế hoạch kinh doanh, dự án kinh doanh được thể tính toán chi tiết, sát theo khả năng doanh nghiệp và tình hình thị trường. Căn cứ đánh giá của nhóm nghiên cứu kết hợp với đánh giá triển vọng thị trường trong tương lai thì phương án kinh doanh, phương án trả nợ của Minh Trường Sinh là khả thi và có khả năng cao thuyết phục được các ngân hàng.  Về hình thức vay vốn: Minh Trường Sinh hiện chủ yếu thiếu vốn lưu động, do vậy hình thức vay vốn phù hợp nhất là vay vốn theo hạn mức tín dụng. Theo đó, Minh Trường Sinh sẽ có thể linh hoạt vay và trả nợ theo nhu cầu trong từng chu kỳ sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, do đặc thù kinh doanh, Minh Trường Sinh thường xuyên sử dụng dịch vụ bảo lãnh thanh toán, do vậy cần thiết được cấp một hạn mức bảo lãnh thanh toán. Cũng trong năm 2013, do yêu cầu từ phía nhà cung cấp chính VIDAMCO, Minh Trường Sinh cần một thư phát hành bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng này là bảo lãnh phát hành một lần, tương ứng thời gian ký kết hợp tác giữa Minh Trường Sinh và VIDAMCO.  Về thời gian vay vốn và giá trị vay vốn: Căn cứ vào kế hoạch kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp, xác định được nhu cầu vốn của Minh Trường Sinh như sau: 29 - Hạn mức tín dụng ngắn hạn (12 tháng), bao gồm bổ sung vốn lưu động và bảo lãnh thanh toán: 30 tỷ đồng trong đó: + Bổ sung vốn lưu động: 20 tỷ đồng + Bảo lãnh thanh toán: 10 tỷ đồng - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: 8 tỷ đồng trong thời gian 1 năm.  Về nguồn trả nợ: Nguồn trả nợ chính là từ hoạt động kinh doanh mua bán các loại xe ô tô của công ty và nguồn khác là từ dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế linh kiện, phụ tùng ô tô.  Về tài sản bảo đảm cho hạn mức tín dụng, bảo lãnh: Tài sản bảo đảm là bất động sản (showroom, trạm bảo dưỡng, nhà xưởng…), và hàng hóa tồn kho, cụ thể sử dụng tem đăng kiểm xe du lịch các loại theo từng đơn hàng phát sinh trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng ký kết giữa Minh Trường Sinh và VIDAMCO theo đúng quy định của tổ chức tín dụng để đảm bảo cho bảo lãnh thanh toán và dư nợ vay phát sinh theo hạn mức ngắn hạn. Bản thân ô tô là tài sản hữu hình, dễ quản lý, tính thanh khoản cao do đó việc thế chấp làm tài sản bảo đảm cho hạn mức tín dụng, bảo lãnh thường dễ được các tổ chức tín dụng chấp nhận. 4.2. Một số giải pháp và đề xuất về huy động vốn cho DNVVN 4.2.1. Đối với bản thân doanh nghiệp Đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể vay vốn ngân hàng được, có hai lĩnh vực hành động họ có thể thực hiện. Thứ nhất, là cải thiện tính hiệu quả trong bảng cân đối kế toán bằng việc giảm hàng tồn kho và thời gian của các khoản phải thu. Nhiều công ty cho rằng việc này khó thực hiện, nhưng thật ra có thể quản lý bảng cân đối kế toán với ít vốn hơn là họ nghĩ. Để đạt được điều này, họ cần phải so sánh với những phương pháp quản trị tài chính tốt nhất trong lĩnh vực kinh doanh của họ. Thêm vào đó, doanh nghiệp cần chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Thứ hai là nên bắt đầu sử dụng một trong những công ty kiểm toán lớn, nộp thuế đầy đủ, và thực hiện báo cáo tài chính tốt. Mức độ minh bạch cao sẽ giúp các công ty Việt Nam huy động vốn từ các quỹ dễ dàng hơn, nhất là những quỹ chuyên tập trung vào Việt Nam. 4.2.2. Đối với các Ngân hàng thương mại Về phía các Ngân hàng thương mại cùng cần có các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp như: Trước tiên các ngân hàng cần nhanh chóng phát triển đồng bộ các sản phẩm, vừa tăng cường huy động nguồn, tạo điều kiện cung cấp nguồn vốn cho DNNVV, đồng thời phát triển các sản phẩm ràng buộc, tạo điệu kiện để các DNNVV đang thiếu các điều kiện về tài sản bảo đảm vẫn có thể vay được vốn. Việc kết hợp nhiều sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho các DNNVV cũng là một trong các cơ sở để hạ lãi suất cho vay, hỗ trợ các doanh nghiệp quản trị hiệu quả hơn, nắm bắt các điều kiện thị trường đầy đủ hơn, kịp thời hơn. 30 Các ngân hàng cũng có thể tăng cường tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ chính thức hoặc thông qua các chương trình, dự án của các tổ chức, tạo nguồn với lãi suất thấp... Bên cạnh đó, có thể xem xét cơ cấu lại nợ, g iãn nợ, ưu đãi tín dụng cho các DNNVV kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nếu những doanh nghiệp này chứng minh được các nguồn thu để trả nợ ngân hàng; phát triển hình thức thuê tài chính để giúp doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới công nghệ. 4.2.3. Đối với cơ quan quản lý Trước mục tiêu đến năm 2015 sẽ thành lập mới 350.000 DNVVN theo Quyết định 1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 của Chính phủ, Bộ KH - ĐT đã đề ra 8 nhóm giải pháp cơ bản: Hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường của DN; Hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DNVVN; Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới trong các DNVVN; Phát triển nguồn nhân lực cho các DNVVN; Đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp, tăng cường tiếp cận đất đai cho các DNVVN; Cung cấp thông tin hỗ trợ DN; Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển DN; Quản lý thực hiện kết hoạch phát triển DNVVN. - Hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DNNVV: Xây dựng kế hoạch huy động, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng, cũng như nguồn vốn Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhằm giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa được tiếp cận tốt hơn với các nguồn vốn tín dụng. Đẩy nhanh phê duyệt và triển khai tổ chức thực hiện phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đối với cơ chế, chính sách khuyến khích các Ngân hàng thương mại tăng mức dư nợ tín dụng cho các DNNVV. - Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới đối với các DNNVV: Xây dựng báo cáo thống kê tổng hợp về chuyển giao công nghệ; xây dựng quy định hướng dẫn nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ nhằm hình thành các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hoạt động chuyển giao công nghệ. Xây dựng cơ chế hỗ trợ tra cứu thông tin khoa học và công nghệ, sở hữu trí tuệ để các DNNVV có thể tiếp cận một cách có hiệu quả hơn nguồn thông tin sáng chế phục vụ nhu cầu sản xuất và đổi mới công nghệ. - Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV: Tập trung nâng cao năng lực quản trị cho các DNNVV. Xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Rà soát và lồng ghép các giải pháp tăng cường đầu tư phát triển dạy nghề nâng cao chất lượng nguồn lao động, đặc biệt là lao động kỹ thuật. Hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống thông tin thị trường lao động; thu thập, xử lý, phân tích, dự báo, quản lý và cung cấp thông tin thị trường lao động theo các cấp trình độ, các ngành nghề, lĩnh vực; phát triển các hình thức thông tin thị trường lao động nhằm kết nối cung- 31 cầu lao động; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong qúa trình tuyển dụng lao động phối hợp với yêu cầu sản xuất, kinh doanh. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân, nhằm trang bị các điều kiện cần thiết để thích ứng và phát triển với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hàng năm căn cứ kế hoạch sẽ tổ chức mở các lớp đào tạo khởi sự doanh nghiệp, các lớp quản trị doanh nghiệp. Nhằm giúp người dân, giúp doanh nghiệp tiếp cận được những thông tin mới nhất về quản lý và phát triển doanh nghiệp. Thực tế trong thời gian qua Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều cơ chế về chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách về thuế hỗ trợ cho khu vực này. Cụ thể, Chính phủ đã trình và Quốc hội đã thông qua việc giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2012 đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 60/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Nghị quyết nói trên của Quốc hội. Bên cạnh đó Bộ Tài chính đang đề xuất kể từ 1/7/2013, doanh nghiệp sử dụng dưới 200 lao động, doanh thu hàng năm dưới 20 tỷ đồng có thể được hưởng thuế thu nhập 20%, sớm hơn 6 tháng so với dự kiến. Bộ Tài chính cũng đề xuất Thủ tướng cho phép tiếp tục giãn 6 tháng đối với số thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp trong quý I/2013 và 3 tháng đối với khoản thuế tương ứng của quý II và III. Đối tượng được hưởng ưu đãi này mở rộng thêm đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, xây dựng hạ tầng… đang sử dụng dưới 300 lao động. Phần thuế được giãn cũng không bao gồm các khoản thu đánh vào hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, xổ số, trò chơi có thưởng… Bộ Tài chính cũng cho biết đã kiến nghị lên Chính phủ một số giải pháp nhằm hỗ trợ khu vực nông nghiệp, nông thôn như cho phép Ngân hàng Phát triển Việt Nam bổ sung tối đa 10.000 tỷ đồng cho các dự án vay, đầu tư kiên cố hóa kênh mương, phát triển giao thông nông thôn, gia hạn thời gian vay tối đa từ 12 lên 36 tháng đối với các nhóm hàng xuất khẩu rau quả, thủy sản, giảm 50% tiền thuê đất năm 2013 - 2014 với các đối tượng có số phải nộp cao hơn 2 lần mức nộp năm 2010… Về phía các Ngân hàng thương mại, cho đến thời điểm hiện tại, rất nhiều ngân hàng đã tung ra các gói sản phẩm tín dụng riêng cho loại hình khách hàng là DNVVN. Tuy nhiên các sản phẩm này chỉ dừng lại ở cho vay ngắn hạn, vì vậy các ngân hàng thương mại cũng cần tạo ra những sản phẩm “thân thiện” hơn với DNVVN và huy động các nguồn vốn trung dài hạn dành cho khu vực này. 32 KẾT LUẬN Qua phần giới thiệu, phân tích đánh giá của chúng tôi ở phần trên có thể thấy Cty Minh Trường Sinh có tình hình tài chính tốt, chủ doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ôtô. So với những doanh nghiệp khác cũng ngành thì Minh Trường Sinh là một trong những doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả. Mạc dù vậy nhưng khi Minh Trường Sinh muốn huy động vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh thì ko tránh khỏi các khó khăng chung của các DNVVN khi đi vay vốn. Các kênh huy động vốn của DNVVN là: vay vốn ngân hàng, phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu. Nhưng kênh huy động vốn qua phát hành trái phiếu và cổ phiếu thì gần như là không thể đối với các DNVVN. Chỉ những doanh nghiệp có uy tín, hoạt động lâu năm, có đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc nếu không thì phải có vốn chủ sở hữu khá lớn, tạo dựng được thương hiệu trên thị trường… đặc biệt là chủ doanh nghiệp là người trình độ quản lý, điều hành và có uy tín tốt trên thị trường. Đối với hình thức huy động vốn qua phát hành trái phiếu và cổ phiếu là rất ít DNVVN có thể thực hiện được. Còn đối với kênh huy động vốn bằng cách đi vay các ngân hàng là kênh huy động vốn hay được các DNVVN sử dụng và dễ tiếp cận hơn, Chính phủ có nhiều chính sách hỗ trợ các DNVVN trên kênh huy động vốn này. Nhưng để có thể tiếp cận được với nguồn vốn này cũng không phải dễ do cả nguyên nhân từ phía ngân hàng, doanh nghiệp và nhà nước. Về phía các doanh nghiệp do nhiều doanh nghiệp có qui mô quá nhỏ, vì vậy mà hiệu suất thấp. Chính điều này khiến cho họ khó khăn trong việc tiếp nhận dự án, lên đề án vay vốn, kinh nghiệm làm đề án vay vốn. Ngoài ra, trình độ quản lý, năng lực và kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp không tốt do đó khi thực hiện thủ tục vay vốn ngân hàng gặp nhiều khó khăn ngay ở bước chuẩn bị hồ sơ, tính minh bạch về các báo cáo tài chính, phương án kinh doanh. Ngoài ra do qui mô nhỏ nên tài sản đảm bảo cho các khoản vay của DNVVN không phải là tài sản tốt vì vậy tỷ lệ cho vay thường nhỏ. Về phía nhà nước mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ DNVVN nhưng công tác truyền thông về chính sách hỗ trợ cho đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đầy đủ. Các doanh nghiệp không biết Nhà nước có chính sách đó và chính sách ban hành ra vì thế mà chưa đến được với đời sống doanh nghiệp, doanh nghiệp không được hướng dẫn đầy đu, từ đó khiến mọi hoạt động liên quan trở nên lúng túng. Thứ hai là thủ tục hành chính rườm rà. Vì vậy, nếu không cải cách thủ tục hành chính thì các DNNVV, hộ kinh doanh vẫn còn tiếp tục gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn. Về phía các ngân hàng, họ chưa tin tưởng vào các phương án kinh doanh của DNVVN, chưa có những sản phẩm cho vay phù hợp với đặc điểm của DNVVN. Do những khó khăn trên mà việc tiếp cận các nguồn vốn của DNVVN rất khó khăn. Để giải quyết vấn đề này về lâu dài phải nâng cấp hoạt động đáp ứng nhu cầu của thị 33 trường tài chính và tiền tệ, nhất là thị trường vốn tín dụng. Đối với thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản thì phải hướng các thị trường này hoạt động có chất lượng trong phục vụ các chu chuyển vốn cho nền kinh tế, nhất là vốn dài hạn, đáp ứng có hiệu quả về số lượng, đúng về thời hạn cho doanh nghiệp. Mặt khác, Nhà nước cần hỗ trợ về mặt điều kiện như hoàn thiện hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật, hỗ trợ về đào tạo nguồn lực, tìm hiểu, dự báo thị trường, xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu, phát triển thị trường…nhằm tạo thêm các yếu tố và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tự vươn lên tự hoàn chỉnh đáp ứng những điều kiện vay vốn ngân hàng và tiếp cận các nguồn vốn trên thị trường, ngoài xã hội một cách chủ động và có hiệu quả. Và đặc biệt các ngân hàng cần có những chính sách, sản phẩm cho vay phù hợp dựa trên những đặc điểm của DNVVN. Đối với những doanh nghiệp có phương án kinh doanh tốt các ngân hàng có thể hỗ trợ cho vay mà không cần thế chấp TSĐB. Hoặc đối với các doanh nghiệp yếu kém trong khâu quản lý hành chính thì ngân hàng cần có nhân viên hỗ trợ doanh nghiệp trong việc hoàn thiện đầy đủ những giấy tờ cần có trong hồ sơ vay vốn, hoặc đồng ý cho vay với điều kiện có người của ngân hàng được giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_5_phan_tich_nhu_cau_von_cty_mts_va_kho_khan_khi_tiep_can_nguon_von_7803.pdf
Luận văn liên quan