Công trình thủy điện Sơn La là công trình thủy điện lớn nhất ở VN. Công
suất đạt khoảng 10 ty Kwh/ năm góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Trong giai đoạn huy động vốn cho dự án vào năm 2007, tập đoàn
điện lực VN (EVN) và 4 NHTM Việt Nam (Agribank, VCB, BIDB, Vietinbank)
đã ký hợp đồng vay vốn thương mại với tổng giá trị 17500 tỷ đồng. Thời hạn
vay là 15 năm, thời gian ân hạn là 5 năm, lãi suất vay bằng lãi suất huy động tiết
kiệm 12 tháng ( trả lãi sau) bình quân của các NH cho vay cộng với phí 2.5%/
năm. Dự án thủy điện Sơn La có công suất = 2400 MW do EVN làm chủ đầu tư,
tổng đầu tư 43083 tỷ đồng. Bên cạnh vay vốn thương mại trong nước, nguồn
vốn để thực hiện DA còn được thu xếp từ vay ngân sách 5000 tỷ đồng để đền bù
di dân, vay NHPT 4000 tỷ đồng, vốn tự tích lũy và vốn trái phiếu 9823 tỷ đồng,
vay thương mại nước ngoài để mua sắm thiết bị 6760 tỷ đồng.
38 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2759 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích ưu nhược điểm của các nguồn vốn có thể tài trợ cho dự án phát triển (trừ nguồn từ ngân hàng phát triển), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách.
Ví dụ: Theo thống kê bộ tài chính tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt
520.100 tỷ đồng, tăng 12,7% so với dự toán (chủ yếu do tăng thu nội địa và tăng
thu từ xuất nhập khẩu). Tổng chi cân đối ngân sách Nhà nước năm 2010 ước đạt
10
khoảng 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát
triển khoảng 145.000 tỷ đồng (không bao gồm phần thực hiện từ chuyển nguồn
năm trước sang và ứng trước ngân sách Nhà nước các năm sau), tăng 15,5% so
với kế hoạch năm. Bội chi ngân sách Nhà nước: dự kiến sử dụng một phần tăng
thu ngân sách Trung ương để giảm bội chi ngân sách Nhà nước năm 2010, mức
bội chi ước đạt khoảng 5,95% GDP, giảm 0,25% GDP so với kế hoạch đã đề ra.
Dư nợ Chính phủ đến ngày 31/12/2010 bằng 44,5% GDP, dư nợ công bằng
56,7% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 42,2% GDP, nằm trong giới
hạn an toàn cho phép.
2, Hiệu quả sử dụng vốn thấp
-Chất lượng nhiều công trình từ nguồn ngân sách Nhà nước không đảm
bảo chất lượng, nhanh chóng xuống cấp.
Ví dụ: 31/3/2010: Dự án Sửa chữa mặt cầu Thăng Long (Hà Nội) do Ban
Quản lý dự án 2, Cục Đường bộ Việt Nam làm chủ đầu tư, với tổng kinh phí gần
100 tỷ đồng. Nhưng chỉ sau một tháng đưa vào sử dụng, mặt cầu đã xuất hiện
nhiều vết nứt, lún.
Dự án Sửa chữa mặt cầu Thăng Long do Ban Quản lý dự án 2, thuộc Cục
Đường bộ Việt Nam làm chủ đầu tư. Đơn vị th iết kế, và giám sát thi công là
Viện Khoa học công nghệ (Bộ Giao thông Vận tải). Công ty Cổ phần đầu tư và
xây dựng Bảo Quân là đơn vị th i công. Công trình này đã sử dụng loại bê tông
nhựa SMA, là loại vật liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế và được nhiều nước trên thế
giới sử dụng cho các công trình mặt cầu thép có tuổi thọ công trình nhiều năm.
Nhưng với dự án sửa chữa mặt cầu Thăng Long, mới chỉ sau hơn một tháng đưa
vào sử dụng đã phát hiện các vết nứt có chiều rộng từ 3- 5cm, chiều dài từ 2- 4
mét.
Không chỉ riêng dự án này, trong thời gian gần đây không ít các công
trình cầu, đường mới hoàn thành đã xuống cấp nghiêm trọng. Xin lấy ví dụ: Cầu
Khe Dầu ở huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình được bàn giao đưa vào sử dụng
vào cuối năm 2008. Thế nhưng, hiện nay mố cầu bị sạt lở. Nghiêm trọng hơn,
11
lớp bê tông phía trong mặt cầu không được sử dụng vật liệu xi măng cốt thép mà
được bên thi công thay thế bằng cốt tre và cót ép. Như vậy sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự an toàn đi lại của nhân dân. Cũng bằng hình thức thi công gian dối
này, trước đó là vụ Ban Quản lý dự án PMU 18 mà chủ đầu tư là Bộ Giao thông
Vận tải lại sử dụng bê tông cốt tre để làm cọc tiêu trên quốc lộ 18.v.v…
-Các công trình, dự án có nguồn vốn NS thường lãng phí và thất thoát lớn
vì tình trạng “cha chung không ai khóc”. Điều này thể hiện trên nhiều bình
diện: lãng phí vì đầu tư sai mục đích, không đạt mục tiêu, bố trí vốn dàn trải,
phân tán, thiếu tập trung,… Có thể nói, những hạn chế trong việc lập, thẩm định
và phê duyệt dự án chính là thủ phạm gây thất thoát của công.
Ví dụ : Có những dự án phải thay đổi tổng mức đầu tư, tổng dự toán
nhiều lần và có dự án quyết đ ịnh đầu tư nhưng không có tiền để triển khai, quá
thời gian quy định lại phải lập lại dự án; rồ i lựa chọn địa đ iểm xây dựng không
phù hợp, phải dừng cả dự án.
Chẳng hạn, Dự án xử lý nước thải KCN Vĩnh Niệm - Hải Phòng vốn đã
cấp phát 3 tỷ đồng và Dự án xử lý nước thải khu du lịch Vịnh Tùng Dinh - Cát
Bà - Hải Phòng 23,52 tỷ đồng, hoàn thành rồi không hoạt động. Hay hạng mục
vườn ươm Thanh Táo, Công trình tuyến tránh Hà Nội - Cầu Giẽ đầu tư 1,2 tỷ
đồng đến nay bỏ hoang...
Ngoài ra, tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún chậm được khắc phục, dẫn
đến nhu cầu vốn cho các dự án vượt quá khả năng ngân sách. Điều này dẫn đến
tình trạng có dự án phải kéo dài gần 20 năm. Điển hình là Dự án đầu tư xây
dựng trường Đại học Hàng Hải triển khai từ năm 1981 đến nay chưa xong do
không bố trí đủ vốn.
- Nợ đọng XDCB ở nhiều dự án đầu tư thuộc nguồn NSNN còn lớn.
- Tình trạng tài t rợ vốn không đúng chỗ
Kế hoạch xây dựng đài tưởng niệm Mẹ Việt Nam anh hùng gây bức xúc
công luận khi kinh phí loan báo hôm nay tăng cao gấp 5 lần so với mức dự tính
12
ban đầu, theo tin hãng thông tấn Đức DPA ngày 22/9. Dự án gồm việc xây dựng
một công viên làm nơi tọa lạc cho tượng đài vinh danh các bà mẹ Việt Nam đã
hy sinh chồng, con trong các cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tượng được
xây tại khu vực núi Cấm, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam, trên khuôn viên có
tổng diện tích hơn 15 hecta. Việt Nam cho biết đây sẽ là tượng đài lớn nhất nước
và lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Khi dự án khởi công hồi năm 2007, kinh phí
được nói là 3,9 triệu đô la. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam hôm nay cho hay số
tiền này dự trù lên tới 19,7 triệu Mỹ kim vì giá nguyên vật liệu tăng cao. Những
người chỉ trích dự án cho rằng đáng xấu hổ khi xây dựng một công trình vinh
danh tốn kém hàng chục triệu đô la trong lúc nhiều bà mẹ anh hùng đang chịu
cảnh neo đơn, nghèo túng, dù đã có nhiều cống hiến hy sinh cho đất nước. Thay
vào đó, họ đề nghị nên dùng khoản tiền đó để chăm sóc, hỗ trợ cho chính các bà
mẹ anh hùng đang còn sống. Hiện có khoảng 44.000 người được tôn vinh là mẹ
Việt Nam anh hùng, đa số đều già yếu và nghèo khó.
3,Tình trạng giải ngân các dự án có nguồn vốn NS còn chậm
Hàng năm, nhà nước dành một nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Tổng
nguồn vốn này của nhà nước chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội, trong đó vốn từ NSNN và trái phiếu Chính phủ khoảng 23%. Tuy nhiên,
công tác giải ngân rất đáng phải bàn.
Có một nghịch lý hiện nay trong lĩnh vực đầu tư DAPT thuộc nguồn vốn
nhà nước: Một mặt, nhiều dự án không có vốn thanh toán, vẫn triển khai thực
hiện, dẫn đến nợ lớn; mặt khác, có nhiều dự án đã được bố trí vốn, nhưng lại g iải
ngân chậm, thậm chí rất chậm, dẫn đến ứ đọng vốn. Giải ngân chậm gây lãng
phí lớn về nhiều mặt, không chỉ cho NSNN, mà còn cho cả nền kinh tế-xã hội và
trực tiếp là ảnh hưởng đến tình hình tài chính của các nhà thầu.
Nguyên nhân của tình trạng giải ngân chậm đã được đề cập nhiều và nằm
ở tất cả các khâu của quy trình đầu tư, song theo chúng tôi, có mấy nguyên nhân
cơ bản sau đây:
13
Một là do công tác chuẩn bị đầu tư chậm. Tình trạng chung hiện nay là
vốn chờ thủ tục. Các cơ quan không chủ động chuẩn bị sẵn sàng thủ tục đầu tư
cho dự án để khi có vốn là triển kha i được ngay, ngược lại, chỉ chờ đợi đến khi
đã chắc chắn được bố trí vốn mới vội vã đi làm thủ tục. Trong khi đó, thủ tục
đầu tư XDCB là rất phức tạp, tốn rất nhiều thời gian. Do làm gấp nên các thủ tục
thường gặp nhiều sai sót, dẫn đến phải làm lại hoặc điều chỉnh lại, vừa tốn thời
gian, vừa làm tăng dự toán lên cao, thậm chí rất cao (có dự án do khảo sát không
kỹ, khi thi công mới phát h iện sai sót, phải khảo sát lại, lập phương án xử lý sự
cố và điều chỉnh tăng dự toán).
Hai là do giải phóng mặt bằng chậm
Tình trạng dự án không triển khai được do không giải phóng được mặt
bằng đang trở nên phổ biến, tồn tại đã nhiều năm, gây thiệt hại rất lớn cho cả
nhà nước, nhà đầu tư và người dân. Nguyên nhân của tình trạng này rất đa dạng,
nhiều kh i mang tính đặc thù của từng dự án. Tuy nhiên, nguyên nhân thường gặp
nhất là chính sách đền bù chưa phù hợp; người dân đòi hỏi quá cao; công tác
tuyên truyền giáo dục chưa được coi trọng…
Ba là tổ chức thi công chậm
Tình trạng chung nổi lên gần đây là do tốc độ tăng vốn đầu tư nhanh, nên
lực lượng thi công không đáp ứng kịp, nhất là lực lượng công nhân có tay nghề
cao. Bên cạnh đó, đã xuất hiện tình trạng nhà thầu không đủ năng lực, hoặc tuy
có năng lực nhất định, nhưng lại nhận quá nhiều công trình, phải rải lực lượng
để giữ chân công trình, nên không thể tập trung thi công dứt điểm.
Bốn là do nghiêm thu, thanh toán chậm
Năm là do công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan chủ quan đầu tư (các
bộ, địa phương) chưa sát sao, kiên quyết
Điều này thể hiện ngay từ khâu phân bổ và g iao kế hoạch vốn: Luật
NSNN quy định khâu này phải xong trước 31/12 năm trước, nhưng có bộ ngành
14
đến hết quý II, cá biệt đến hết năm kế hoạch vẫn chưa phân bổ xong. Do chưa
được phân bổ vốn, nên các chủ đầu tư và các nhà thầu không dám triển khai thi
công, sợ không có nguồn thanh toán. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, nhiều
cơ quan chủ quản đầu tư còn có tư tưởng khoán trắng cho chủ đầu tư, không có
sự kiểm tra thường xuyên nhằm đôn đốc hoặc phát hiện vướng mắc để có giải
pháp tháo gỡ kịp thời.
Sáu là do cơ chế quản lý vốn đầu tư
Việc quản lý vốn đầu tư hiện nay vẫn mang nặng tính chất của cơ chế cũ,
không phù hợp với đ iều kiện của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, trong quá
trình thực hiện đã liên tục xuất hiện những vướng mắc cần phải xử lý, và do đó,
cơ chế quản lý vốn đầu tư cũng phải thay đổ i liên tục . Song, sự thay đổi này
luôn trong tình trạng không đồng bộ, thậm chí không nhất quán, không kịp thời,
nên khó thực hiện, gây ra tình trạng chờ đợi, m ất nhiều thời g ian, từ đó làm
chậm tiến độ giải ngân.
4, Quản lý tài chính trong dự án đầu tư còn lỏng lẻo gây thất thoát vốn
NS. Bệnh thành tích. Chỉ coi trọng tăng trưởng về số lượng, tốc độ tăng
trưởng mà không coi trọng chất lượng tăng trưởng kinh tế
Đối với nguồn trái phiếu chính phủ (TPCP)
A. Ưu điểm:
- Thông qua phát hành trái phiếu, chính phủ có thể huy động được khối
lượng vốn lớn, với thời gian sử dụng lâu dài
Ví dụ: Năm 2005, Chính phủ phát hành Công trái xây dựng Tổ quốc
mang tên Công trái g iáo dục để tiếp tục huy động vốn hỗ trợ cho các tỉnh miền
núi, Tây Nguyên, các tỉnh có nhiều khó khăn thực hiện mục tiêu xoá phòng học
3 ca, phòng học tranh tre, nứa lá và kiên cố hoá trường học theo Nghị quyết số
09/2002/QH11 ngày 28/11/2002 của Quốc hội. Công trái g iáo dục phát hành và
thanh toán bằng đồng Việt Nam. Tổng mức phát hành năm 2005 là 1.500 tỷ
15
đồng. Công trái g iáo dục có thời hạn 5 năm, được bắt đầu phát hành từ ngày 19
tháng 5 năm 2005.
Ngày 26/01/2010: Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu
Chính Phủ thời hạn 10 năm trên thị trường quốc tế với lợi tức 6,95%. Số tiền thu
được từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này được tập trung vào các
mục tiêu: (i) hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nước, (ii) giao Bộ Kế hoạch&Đầu tư
phối hợp Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu
khí, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng Công ty
lắp máy Việt Nam đầu tư bổ sung các dự án lọc hóa dầu Dung Quất, dự án xây
dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy điện Hủa Na và mua tàu vận tải
biển).
Kế hoạch đầu tư phát tr iển giai đoạn 2011-2015: Tổng số vốn đầu tư toàn
xã hội trong kế hoạch 5 năm 2011-2015 theo giá thực tế dự kiến khoảng 5.745-
6.140 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 250-266 tỷ USD… Trong đó, đáng chú ý
là nguồn vốn ngân sách nhà nước dự kiến khoảng 1.020-1.090 nghìn tỷ đồng,
chiếm 18%; đầu tư từ trái phiếu Chính phủ dự kiến kho ảng 225 nghìn tỷ đồng,
chiếm 3,9-4,1%...Năm 2011, đã phát hành 45 nghìn tỷ đồng trái phiếu sử dụng
cho đầu tư phát triển.
- Huy động vốn từ phát hành trái phiếu khắc phục được một số nhược
điểm của nguồn huy động khác. Không bị phụ thuộc nước ngoài như trong
trường hợp nhận viện trợ. Lãi suất phải trả cũng không cao như đi vay NHTM.
B.Nhược điểm:
1, Khả năng gia tăng của nguồn vốn từ phát hành trái phiếu có gi ới
hạn
+ Đối với phát hành trái phiếu trong nước:
Từ phía người mua trái phiếu: Trên thị trường có rất nhiều kênh đầu tư
khác nhau, nếu lãi suất của trái phiếu không đủ hấp dấn thì sẽ không có người
mua trái phiếu.
Từ phía chính phủ: chính phủ không thể huy động quá nhiều vốn từ phát
hành trái phiếu trong nước vì sẽ ảnh hưởng tới nguồn cung vốn cho hoạt động
16
sản xuất, kinh doanh của dân cư, do đó có thể kìm hãm hoạt động sản xuất kinh
doanh.
+ Đối với phát hành trái phiếu ra nước ngoài :
Lượng vốn huy động được phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của quốc gia,
vào lãi suất đưa ra. Mặt khác còn ảnh hưởng tới chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc
gia.
Từ các nguyên nhân trên, khả năng gia tăng của nguồn vốn này bị hạn chế.
2, Đây là nguồn vốn có chi phí đắt đỏ
Để có thể huy động được vốn từ nguồn này, chính phủ phải đưa ra mức lãi
suất hấp dẫn các nhà đầu tư. Bên cạnh đó còn có chi phí phát hành và chi phí tổ
chức đấu thầu trái phiếu.
Từ hai nhược điểm trên, khả năng cung cấp của nguồn vốn này cho dự án đầu
tư phát triển là có hạn.
3,Tài trợ bằng nguồn vốn này có thể gây ra tình trạng thất thoát và lãng
phí vốn
+ Phát hành trái phiếu trong nước chủ yếu tài trợ cho dự án phúc lợi hoặc
có khả năng sinh lời thấp dưới hình thức cấp 100% vốn ngân sách. Đây không
phải là vốn do người thực hiện bỏ ra nên có thể họ sẽ không quan tâm tới hiệu
quả của vốn đầu tư, bên cạnh đó có thể xảy ra hiện tượng rút lõi công trình...
+ Phát hành trái phiếu nước ngoài chủ yếu để cho vay lại các dự án lớn
của các doanh nghiệp theo mục tiêu phát triển của nhà nước. Tuy nhiên, người
trực tiếp đi vay là chính phủ, do đó, doanh nghiệp được vay lại có thể sẽ sử dụng
vốn không hiệu quả so với v iệc tự đi vay.Việc không trả được nợ của doanh
nghiệp sẽ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ, và tăng thêm gánh nặng nợ nước ngoài
của quốc gia.
VD: Năm 2005, Chính phủ đã phát hành thành công 750 triệu USD trái
phiếu quốc tế. Chính phủ đã dành toàn bộ cho Tập đoàn Vinashin vay lại.
Vinashin là Doanh Nghiệp chủ lực của ngành công nghiệp đóng tàu đang phát
triển rất nhanh tại Việt Nam. Chính phủ cũng đặt kỳ vọng với nguồn vốn này sẽ
đưa Vinashin và ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Tuy
17
nhiên khoản vay 750 tr iệu USD đã bị sử dụng vào mục đích khác không theo
đúng dự án và kế hoach.
Điển hình là khoản 42,8 t ỉ đồng cho Công ty Hoàng Anh – Vinashin thực
hiện giao dịch mua thép. Tuy nhiên chỉ lập hồ sơ khống mua bán 4.500 tấn thép
với Công ty cổ phần đầu tư thương mại Cửu Long nhưng thực chất không có
giao dịch nào. Số tiền 42,8 tỉ được sử dụng để nhập hai nhà máy nhiệt điện cũ
(thực chất là rác thải công ngh iệp độc hại) cho dự án Nhà máy nhiệt đ iện Sông
Hồng - Nam Định.
Cố ý làm trái trong việc cho Công ty Vận tải Viễn Dương vay 106 tỉ đồng
từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế để thực hiện dự án hoán cải tàu Bạch Đằng
Giang gây thất thoát lớn vốn đầu tư của dự án này.
Sử dụng 1.000 tỉ đồng vay từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế để mua lại
khoản nợ của các đơn vị thành v iên và bản thân công ty mẹ, trong đó có nhiều
khoản là nợ xấu tại ngân hàng. Đáng chú ý việc mua lại này được thực hiện
ngay trong ngày ký hợp đồng vay vốn trái phiếu quốc tế. Theo TTCP thì việc
mua nợ trên là trái với quy chế mua bán nợ; sử dụng không đúng mục đích
khoản vay trái phiếu quốc tế; có nhiều dấu hiệu cố ý làm trái quy định của pháp
luật, dùng thủ đoạn hoán đảo nợ đã mua để che giấu thiệt hại.
2.2. Nguồn tài trợ phát triển của các Chính phủ và tổ chức
tài chính quốc tế
2.2.1. Đặc điểm
Do xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, ngày nay, quan hệ kinh tế
giữa quốc gia với quốc gia, giữa 1 quốc gia với các tổ chức quốc tế trở nên phổ
biến. Trên phương diện kinh tế, điều này mở rộng và gia tăng nguồn vốn chảy
vào trong nước. Đây chính là nguồn tài trợ rất tốt cho các DAPT.
Nguồn tài trợ này di chuyển thường từ những nước phát triển sang những
nước đang phát triển và kém phát triển. Đối với những nước phát triển, điều này
giúp họ gia tăng hiệu quả sử dụng vốn. Còn đối với các nước kém phát triển, thì
18
đây là nguồn vốn giúp cải th iện và phát tr iển nền kinh tế trong nước còn khó
khăn.
Nguồn tài trợ này luôn đi kèm với màu sắc chính trị biểu hiện ra thành
những điều kiện trao đổi mà nước tài trợ đưa ra cho nước nhận tài trợ.
Nguồi tài trợ từ nước ngoài bao gồm:
- Nguồn tài trợ từ các Chính phủ nước ngoài qua hợp tác song
phương hoặc đa phương.
- Nguồn tài trợ từ các Tổ chức tài chính quốc tế như: WB, ADB,
IMF…
2.2.2. Các hình thức tài trợ
2.2.2.1. Nguồn vốn ODA
Đặc điểm
Đây là hình thức tài trợ phổ biến nhất là thông qua hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA).Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là hoạt động hợp tác phát triển
giữa Nhà Nước hoặc Chính phủ một nước với các Chính Phủ nước ngoài, các tổ
chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia.
- Lãi suất cho vay rất thấp khoảng từ 0.25-2%/năm, thời gian cho vay cũng
như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả, ân hạn từ 8-10năm)
- Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại thấp
nhất là 25% của tổng số vốn ODA
- Mục tiêu chính là g iúp các nước tiếp nhận phát tr iển kinh tế, nâng cao
phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: Xoá đói,
giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật
như giao thông vận tải, thông tin liên lạc…
19
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh
vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra đ ịnh hướng chiến lược, chính sách và những
lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở
tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thu hút và sử
dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. 5 lĩnh vực ưu tiên
thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi,
lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và
phát triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao
công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Phân loại
Căn cứ vào tính chất tài trợ:
ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA mà nước tiếp nhận
không phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ.
ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là khoản vay với các
điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ bảo đảm “yếu tố
không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối
với các khoản vay không ràng buộc.
ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản
vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng
tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay
có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
20
Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Hỗ trợ cơ bản: Là loại ODA dành cho việc thực hiện nhiệm vụ chính của
các chương trình, dự án đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như
đường sá, cầu, cảng,…. Loại ODA này thường là các khoản vay ưu đãi.
Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại ODA được thực hiện nhằm chuyển giao tri thức,
chuyển giao công nghệ, phát triển năng lực, phát triển thể chế, nghiên cứu tiền
đầu tư các chương trình dự án, phát triển nguồn nhân lực,… Loại ODA này
thường là ODA không hoàn lại.
Căn cứ vào nhà tài trợ:
ODA song phương: Là loại ODA được Chính phủ một nước tài trợ trực
tiếp cho Chính phủ nước khác.
ODA đa phương: Là loại ODA do các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên
chính phủ tài trợ cho Chính phủ của một nước.
ODA của các tổ chức phi chính phủ: Là loại ODA do các tổ chức phi
chính phủ cung cấp.
Tính cho đến nay, Việt Nam có 51 nhà tà i trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ
song phương và 23 nhà tài trợ đa phương. Trong đó:
- Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-
đa, Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua,
Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-di- lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban
Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Xin-ga-po.
- Các nhà tài trợ đa phương gồm:
Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế
giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB),
Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển
quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ
OPEC), Quỹ Kuwait;
21
Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao
uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc
(UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO),
Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của
Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội
phạm của Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc
(UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF), Quỹ Quốc tế và Phát tr iển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới
(WHO).
A.Ưu điểm
Nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài này phù hợp với dự án phát triển do đây
là nguồn vốn có lãi suất thấp, thời gian sử dụng dài. Đặc biệt thích hợp cho các
DAPT tại các nước đang phát tr iển như Việt Nam, thiếu vốn đề phát triển kinh
tế.
Ví dụ:
Dự án trồng rừng Việt Đức tại tỉnh quảng ninh. Mục tiêu của dự án là góp
phần trồng rừng và bảo vệ đất tại các tỉnh thông qua việc giúp người sử dụng đất
đã được phân loại có hiệu quả kinh tế và bền vững về sinh thái. Đồng thời tạo
công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho nhân dân địa phương.
Đây là một dự án viện trợ quốc tế có quy mô tương đối lớn.Thời gian thực
hiện dự án được tiến hành trong 5 năm từ năm 2000-2004. Tổng kinh phí đầu tư
22,8 tỷ đồng, trong đó kinh phí viện trợ của chính phủ Đức là 19,3 tỷ đồng, kinh
phí đối ứng của tỉnh 3,5 tỷ đồng. Với mục tiêu trồng, khoanh nuôi, xúc tiến tái
sinh rừng và quản lý bền vững 4.500 ha rừng. Quy mô dự án được triển khai tại
33 thôn, bản của 8 xã thuộc 2 địa phương là Đông Triều và Móng Cái. Sau này,
dự án đã được mở rộng thêm tại các huyện gồm Tiên Yên, Bình Liêu và Ba Chẽ.
22
Bên cạnh đó còn có một số dự án như: Bảo tồn và Phát triển tài nguyên nông
nghiệp ( ARCD), Dự án Giảm nghèo khu vực miền Trung, Phân cấp giảm nghèo
đã đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, hỗ trợ sản xuất, an ninh lương
thực, đào tạo cán bộ cấp xã, huyện trong vùng dự án, dự án 327 (PAM) đã góp
phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống cát lấp, cát bay; Các dự án cấp nước
và vệ sinh môi trường đã đầu tư hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho người
dân vùng nông thôn và thành thị.
B.Nhược điểm
- Chịu ảnh hưởng, sức ép từ nước viện trợ về mặt k inh tế-chính trị, quốc
phòng…: Các nước giàu khi v iện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến
lược như mở rộng th ị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu
về an n inh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có
chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế
(những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế -
chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).
- Nước tiếp nhận đầu tư dễ rơi vào tình trạng nợ nước ngoài thậm chí không
có khả năng trả nợ nếu không có chính sách sử dụng và phân bổ hợp lý.
Ví dụ: Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn
ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch
thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý
thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự
án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn
này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
- Do các nguồn vốn tài trợ này đã được thiết kế cho những mục tiêu cụ thể
do vậy chỉ sử dụng cho những chương trình dự án theo thỏa thuận với bên tài
23
trợ. Ngoài ra nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA
nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận,
đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nh ưng họ có thể
tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
- Giải ngân vốn ODA tại Việt Nam còn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn
mức trung bình của thế giới và khu vực đối với một số nhà tà i trợ cụ thể. Theo
Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ giải ngân trung bình của khu vực là 20%, trong khi
Việt Nam chỉ đạt 14%. Và tỷ lệ g iải ngân thấp là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tổng chi ngân sách nhà nước năm 2009 lên đến trên 530.000 tỉ đồng,
tăng 8,5% so với dự toán, tương đương 31,7% GDP.
BIỂU ĐỒ C AM KẾT, KÝ KẾT, G IẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
19
9
3
19
9
4
19
9
5
19
9
6
19
9
7
19
9
8
19
9
9
20
0
0
20
0
1
20
0
2
20
0
3
20
0
4
20
0
5
20
0
6
20
0
7
20
0
8
Năm
T
ri
ệu
U
S
D Cam kết
Ký kết
Giải ngân
Theo Bộ KH-ĐT, năm 2009, một số đơn vị có mức giải ngân ODA thấp
dưới 40% là Bộ GTVT (38%), Bộ Y tế (27,9%), Thành phố Đà Nẵng (6,66%),
Thành phố Cần Thơ (11,6%), Thành phố Hà Nội (36%).
Bộ GTVT chủ trì 38 dự án ODA thì có tới 27 dự án mới giải ngân bằng
20% kế hoạch năm, 6 dự án đạt mức giải ngân từ 20-40% kế hoạch năm.
24
Các dự án giải ngân ODA thấp là dự án hành lang ven biển phía Nam
(0,03%), cầu Nhật Tân (0,96%), cảng Cái Mép- Thị Vải (2,57%), quốc lộ 3 mới
Hà Nội - Thái Nguyên (7,15%).
Thành phố Hà Nội đang quản lý 19 dự án ODA quan trọng. Năm 2009,
Hà Nội sẽ phả i thực hiện 631 tỷ đồng nhưng 4 tháng đầu năm, mới g iải ngân
đuợc 36% kế hoạch năm.
Trong đó, điển hình chậm giải ngân vốn ODA là dự án phát triển cơ sở hạ
tầng đô thị Bắc Thăng Long- Vân Trì mới đạt 5%, dự án phát triển công nghệ
thông tin và truyền thông, tiểu phần thành phố Hà Nội m ới đạt có 1%, dự án
trường cao đẳng dạy nghề Hàn Quốc- Thành phố Hà Nội đạt 10%, dự án phát
triển giao thông đô thị Hà Nội mới đạt 12%.
Bộ KH-ĐT cho rằng, những nguyên nhân cơ bản dẫn tới g iải ngân chậm
ODA là do cơ chế, chính sách trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng còn nhiều bất hợp
lý, năng lực của cả cơ quan chủ quản và các nhà thầu còn hạn chế, cơ chế bố trí
vốn đối ứng chưa hợp lý.
- Do có nhiều ưu đãi nên hiệu quả sử dụng vốn thấp:
tình trạng này được phản ánh là sự thiếu quyền hạn, thụ động hoặc trách nhiệm
chưa được quy định rõ giữa các cấp các ngành thiếu trách nhiệm.
2.2.2.2. Nguồn tài trợ từ WB, IMF
A. Nguồn tài trợ từ WB
Ngân hàng Thế giới, viết tắt là WB, là một tổ chức tài chính đa phương có
mục đích trung tâm là thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở các nước đang phát
triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở các nước này.
Nhóm Ngân hàng thế giới bao gồm năm tổ chức:
+ Ngân hàng quốc tế Về khôi phục và phát triển (IBRD)
+ Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA)
+ Nghiệp đoàn Tài chính quốc tế ( IFC)
25
+ Cơ quan Bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA),
+ Trung tâm quốc tế Giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID),
- Những hoạt động chính: WB thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và xã
hội ở các nước đang phát triển thông qua trợ giúp kĩ thuật, cho vay vốn dự án
đối với các chính phủ. WB huy động vốn từ những thị trường tà i chính quốc tế
và sử dụng chúng trong các dự án phát triển ở các nước đang phát triển. Tất cả
các khoản vay của WB đều phải hoàn trả với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường.
- Các thể thức cho vay chủ yếu:
+ Vay vốn đầu tư: dựa trên những dự án của chính phủ các nước tiếp
nhận. Khoản vốn này có lãi suất cao hơn lãi suất thị trường với thời hạn 15 - 20
năm; thời gian ân hạn tới 5 năm.
+ Vay vốn điều chỉnh : trợ giúp chương trình cải cách kinh tế của các nước
tiếp nhận nhằm khôi phục tăng trưởng kinh tế và cán cân thanh toán của nước đi
vay. Kể từ khi có suy thoái k inh tế toàn cầu những năm 1980, WB mở rộng
phạm vi hoạt động cho vay tới những khoản vay điều chỉnh ngành và cơ cấu.
+ Đồng tài trợ: WB phối hợp với khu vực tư nhân, tổ chức song phương
hoặc đa phương, và các tổ chức chính phủ tài trợ cho một số chương trình của
mình.
+ Quỹ tín thác: được đóng góp từ những quốc gia tài trợ, tổ chức đa
phương, các tổ chức phi chính phủ, quỹ và tổ chức tư nhân khác tập trung vào
những dự án trợ giúp kĩ thuật ở các nước đang phát triển. Hiện nay, IBRD có
trên 850 quỹ tín thác.
+ Trợ giúp kĩ thuật: cung cấp nguồn lực và chuyên gia cho các nước đang
phát triển để xây dựng những thể chế cần thiết cho quá trình phát tr iển. Những
chương trình này tập trung vào phát triển khu vực tư nhân, bảo vệ môi trường và
xoá đói giảm nghèo. Trợ giúp kĩ thuật chiếm khoảng 10% các khoản cho vay.
Chỉ cho vay đối với các nước thành viên; nếu là tư nhân vay thì phải được nhà
26
nước bảo lãnh, vv. Mục đích cho vay không chỉ nhằm thăng bằng cán cân thanh
toán và phát triển kinh tế, mà còn nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế về tiền tệ.
- Ưu điểm của các khoả n vay từ ngâ n hàng thế giới
+ Đây là tổ chức cho vay với mục đích giúp đỡ các quốc gia hội nhập vào
nền kinh tế thế giới rộng lớn hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế dài hạn để giảm
đói nghèo ở các quốc gia đang phát triển.
+ Hện nay WB cũng cung cấp các khoản vay để cải tiến tổng thể các
chính sách kinh tế ngoài những khoản vay cải tổ này chú trọng tới v iệc chuyển
các nguồn tài nguyên có giới hạn vào các dự án đầu tư ít tốn kém hơn để giảm
thâm hụt ngân sách, ngăn chặn lạm phát hoặc củng cố các tổ chức chính phủ.
Bằng cách điều chỉnh những lệch lạc này, các khoản vay để điều chỉnh này có
thể giúp nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển sử dụng các nguồn lực hiệu
quả hơn và bảo đảm phát triển lâu dài.
+ Chính phủ của những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc dân
trên đầu người trên 1305 USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có
lãi suất chỉ cao hơn lãi suất mà tổ chức này đã đi vay một chút. Chính phủ của
các nước nghèo, có thu nhập quốc dân trên đầu người dưới 1305 USD/năm
(trong thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của IDA. Các khoản vay sẽ
không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới 35-40 năm.
+ IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị
trường nhưng là vay dài hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một
sự bảo đảm đối với các nhà đầu tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ
đầu tư vào dự án.
+ MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi
thương mại) để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước
đang phát triển.
- Nhược điểm của những khoản vay từ WB
27
+ Ngân Hàng Thế Giới chỉ cho các quốc gia đang phát triển và đang trong
giai đoạn chuyển tiếp vay tiền.
- Các khoản vốn mà WB cho Việt Nam vay
Chương trình quốc gia của Ngân hàng Thế giới hoàn toàn phù hợp với Kế
hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội Năm năm của Chính phủ Việt Nam giai đoạn
2006 -2010, tập trung vào:
cải thiện môi trường kinh doanh
đẩy mạnh hòa nhập xã hội
đẩy mạnh quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường
nâng cao công tác quản trị
Theo đề nghị của Chính phủ, Ngân hàng đã nâng cao những khoản tài
chính đầu tư vào hạ tầng trong năm tài chính 2010 – 2011, với lượng cho vay
lên tới 1,8 tỷ đôla Mỹ cho công tác phát triển năng lượng, giao thông và đô th ị,
tăng 25% về khối lượng so với mức hỗ trợ trong ba năm tài chính trước cộng lại.
Đến cuối năm tài chính 2009, chương trình đã triển khai 45 hoạt động và tổng
cam kết là 5,5 tỷ đôla Mỹ
Trong số này, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển cam kết hỗ trợ lên tới 750
triệu đôla Mỹ, bao gồm ha i khoản vay phát triển chính sách (DPL) nhằm hỗ trợ
cải cách về đầu tư công và khu vực năng lượng. Thúc đẩy khâu lựa chọn, chuẩn
bị, thực hiện và g iám sát các dự án đầu tư công là những việc làm cần th iết để
hiện đại hóa công tác quản trị. Khoản vay DPL thứ hai sẽ cơ cấu lại th ị trường
năng lượng, nâng cao tính cạnh tranh của nó và cải thiện tính hiệu quả và bền
vững trong sử dụng năng lượng. Ngoài ra, Ngân hàng cũng làm chủ tọa cuộc
họp Nhóm các nhà tài trợ (CG) với cam kết cao kỷ lục là 8 tỷ đô la hỗ trợ phát
triển
Ngày 30/12/2009 – Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Ngân hàng Thế
giới (NHTG) ký kết thỏa thuận tín dụng cho khoản vay lớn nhất của NHTG cho
Việt Nam từ trước đến nay và cũng là khoản vay đầu t iên từ Ngân hàng Tái
28
Thiết và Phát Triển Quốc Tế (IBRD) thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới. Khoản
vay mới được thông qua này là khoản vay chính sách phát triển với tổng giá trị
là 500 triệu đô la Mỹ để hỗ trợ chương trình cải cách đầu tư công tại Việt Nam
Mục tiêu chính của chương trình vay vốn này, bao gồm hai khoản vay mà
đây là khoản vay thứ nhất, là để hỗ trợ một loạt các giải pháp chính sách hứa
hẹn sẽ củng cố hoạt động đầu tư công ở Việt Nam. Tạo ra một nền tảng cho một
khuôn khổ pháp lý hoạt động tốt giúp quản lý đầu tư công hiệu quả, củng cố chu
trình của dự án, cải thiện tính minh bạch, giám sát và đánh giá dự án và hỗ trợ
đối tác công-tư cũng là mục tiêu các dự án này đề ra.
Các lĩnh vực dự kiến được cải thiện trong khuôn khổ chương trình cải
cách cũng được thảo luận rộng rãi với nhiều đối tác phát triển, bao gồm rà soát
về môi trường cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn công, quản lý
môi trường, chuẩn bị và thẩm định dự án, đấu thầu, quản lý tài chính công,
khuôn khổ pháp luật cho khối tư nhân tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng, và giám sát
và đánh giá dự án
Tổng số tiền: 500 triệu đô la Mỹ
Thời gian ân hạn: 10 năm
Thời hạn vay: 25 năm
Phí quản lý : 0,25% tổng số tiền vay.
Lãi suất: LI BOR (6 tháng) theo đơn vị t iền vay cộng biên độ
vay dao động (0,17%).
B . Nguồn tài trợ từ IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế (tiếng Anh: International Monetary Fund, viết tắt
IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi
tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài
chính khi có yêu cầu.
29
IMF chịu trách nhiệm đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính và tiền tệ
quốc tế, hệ thống thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái g iữa các đồng tiền tạo
điều kiện giao thương giữa các nước. IMF tìm cách duy trì ổn định và phòng
ngừa khủng hoảng kinh tế; hỗ trợ giải quyết khủng hoảng một khi xảy ra; thúc
đẩy phát triển và giảm đói nghèo
- Các hình thức cho vay của IMF
+ Các khoản cho vay ưu đãi: Từ thập niên 80 đối với các nước hội viên
nghèo Quỹ đặt ra loại cho vay dành riêng gọi là ESAF – FASR nhưng sau này
Từ năm 1999 Các nước nghèo có thể vay với lãi suất ưu đãi hỗ trợ phát
triển và xoá đó i nghèo PRGF (Poverty Reduction and Growth Facility) và sáng
kiến hỗ trợ các nước nghèo đang mắc nợ nặng nề HIPC (Heav ily Indebted Poor
Countries Init iat ive) dựa trên các nghiên cứu về chiến lược giảm đó i nghèo
PRSP (Poverty Reduction Strategy Papers) do nước sở tại tiến hành dưới sự cố
vấn của các tổ chức xã hội và các đối tác phát triển bên ngoài nhằm đưa ra một
cơ cấu chính sách kinh tế xã hội toàn diện phục vụ cho việc thức đẩy phát triển
và giảm đói nghèo. Khả năng vay của các nước thành viên phụ thuộc vào quota
mà nước đó đóng góp cho IMF. Trong những năm gần đây, các khoản vay lớn
nhất của IMF được thực hiện qua PRGF với lãi suất chỉ 0,5% và thời hạn từ 5,5
đến 10 năm.
+ Các khoản cho vay k hông ưu đãi : Ngoại trừ PRGF, các công cụ cho
vay khác của IMF đều sử dụng lãi suất thị trường, gọi là 'rate of charge', dựa trên
lãi suất SDR (Special Drawing Rights). SDR được tạo ra từ hệ thống ngân hàng
quốc tế nhằm giải quyết sự dao động quá lớn giữa các đồng tiền. Các khoản cho
vay không ưu đãi được cung cấp thông qua 4 công cụ: Stand-By Arrangements
(SBA), Extended Fund Facility (EFF), Supplementa l Reserve Facility (SRF) và
Compensatory Financing Facility (CFF).
Ngày nay, người ta phân ra thành các loại tín dụng sau:
30
+ Tín dụng thông thường: nước được vay phải có chương trình điều chỉnh
kinh tế ngắn hạn; mức tối đa được vay là 100% cổ phần của nước đó tại quỹ;
thời hạn 3 - 5 năm; ân hạn 3 năm với lãi suất khoảng 5 - 7,5%.
+ Vốn vay bổ sung: mức vay có thể từ 100% đến 350% cổ phần của nước
đó, tuỳ theo mức độ thiếu hụt; thời hạn 3 - 5 năm; ân hạn 3,5 năm; lãi suất theo
lãi suất thị trường.
+ Vay dự phòng: tố i đa được 62,5% cổ phần; thời hạn 5 năm; ân hạn 3,5
năm; lãi suất thị trường.
+ Vay dài hạn: nước đi vay phải có chương trình điều chỉnh k inh tế trung
hạn và mọi khoản vay phải theo sát với v iệc thực hiện chương trình theo từng
quý, từng năm. Mức vay bằng 140% cổ phần; thời hạn 10 năm; ân hạn 4 năm;
lãi suất 6 - 7,5% năm.
+ Vay bù đắp thất thu xuất khẩu: cho các nước đang phát triển có đột biến
thiếu hụt cán cân thương mại trong năm. Mức vay tối đa bằng 100% cổ phần;
thời hạn và lãi suất như tín dụng thông thường.
+ Vay chuyển tiếp nền kinh tế: loại tín dụng mới xuất hiện để hỗ trợ cho
các nước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường; thời hạn
vay 5 năm; ân hạn 3,25 năm; lãi suất thị trường.
Ngoài ra, còn một số loại tín dụng khác như vay để duy trì dự trữ điều
hoà, vay để điều chỉnh cơ cấu,vv.
Những khoản vay của Việt Nam từ IMF
Chính quyền Sài gòn gia nhập IMF năm 1956. Năm 1976, CHXHCN
Việt nam chính thức kế tục chân hội viên của Việt nam tại IMF và được quyền
hưởng các khoản vay từ IMF. Trong giai đo ạn 1976-1981, IMF đã cho Việt nam
vay khoảng 200 triệu USD nhằm giải quyết những khó khăn trong cán cân
thanh to án. Trong suốt thờ i gian từ 1985 đến tháng 10/1993, quan hệ g iữa VN -
IMF được duy trì thông qua đối thoại chính sách chủ yếu dưới h ình thức tham
khảo thường ni ên về kinh tế v ĩ mô.
Tháng 10/1993, Việt nam đã nối lại quan hệ tà i ch ính với IMF. Trong giai
đoạn 1993-2004, IMF đã cung cấp cho Việt nam 4 khoản vay với tổng vốn cam
31
kết 1.094 t riệu USD, trong đó, chương trình vay cuối cùng là Tăng trưởng và
Giảm nghèo PRGF kết thúc vào tháng 4/2004.
Từ tháng 4/2004 đến nay, quan hệ Việt nam - IMF tiếp tục được duy trì
tốt đẹp mặc dù giữa hai bên không còn chương trình vay vốn. Hai bên vẫn
thường xuyên tiến hành trao đổi các đoàn cấp cao. Bên cạnh đó, IMF vẫn rất
tích cực tiến hành các hoạt động tư vấn chính sách và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt
nam.
Năm 2009, IMF đã tiến hành hai đợt phân bổ SDR tổng thể và đặc biệt
vào các tháng 8 và 9 nhằm giúp các nước hội viên tăng dự trữ ngoại hối, chống
đỡ trước tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Qua
hai đợt phân bổ này, Việt Nam được phân bổ tổng cộng hơn 267 triệu SDR,
trong đó, phân bổ thông thường gần 244 triệu SDR và phân bổ đặc biệt hơn 23
triệu SDR.
BẢNG SỐ LIỆU CÁC KHOẢN CHO VAY CỦA IMF GIAI ĐOẠN 1993 -
2004
(Đơn vị: Triệu USD)
TÊN KHOẢN VAY NGÀY KÝ
KẾT
SỐ CAM
KẾT
1. Chuyển đổi hệ thống (STF) 06/10/1993 34
2 Dự phòng (SBA) 06/10/1993 157
3. Điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) 11/11/1994 535
4. Tăng trưởng và Xóa đói Giảm
nghèo (PRGF)
13/04/2001 368
Tổng cộng 1.094
Loại m ượn Ngày chấp
nhận
Hạn cuối Mượn được
nhận
Mượn thực sự
ESAF 11/11/1994 10/11/1997 362 242
32
Stand-by 06/10/1993 11/11/1994 145 109
Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004
Tiền mượn 8 34 52 52 49
Tiền lời 1.4 4 3.6 3 3
BẢNG SỐ LIỆU PHÂN BỔ SDR
TT Đợt phân bổ Giá trị Đơn vị Thời
gian
1 Phân bổ tổng thể 243.965.055 SDR 28/8/2009
2 Phân bổ đặc biệt 23.168.946 SDR 9/9/2009
Tổng cộng 267.134.001 SDR
Đặc biệt ngoại v iệc hỗ trợ về vốn thì IMF còn có nhiều dự án Hỗ trợ kỹ thuật
của IMF cho Việt nam. Trước khi nối lại quan hệ tín dụng, IMF đã cử nhiều
đoàn chuyên gia kinh tế vào giúp Việt nam xây dựng các chương trình kinh tế,
trong đó có các biện pháp chống lạm phát. IMF cũng đã nhận đào tạo một số cán
bộ của các ngành kinh tế tổng hợp về kiến thức kinh tế thị trường và cùng với
UNDP thực hiện trợ giúp kỹ thuật cho NHNN và Bộ tài chính trị giá 1,9 triệu
Đôla Mỹ dưới hình thức cử các chuyên gia tư vấn ngắn, trung và dài hạn về
nghiệp vụ chính sách đồng thời tổ chức các khoá tập huấn, hội thảo trong nước
cũng như các khảo sát tại các nước có những kinh nghiệm về phát triển kinh tế
trong thời kỳ quá độ tương tự như Việt nam.
Dự án VIE/93/007 về “Tăng cường thể chế và chính sách tài chính” được hỗ trợ
của IMF/UNDP đã đem lại những kết quả đáng khích lệ trong các lĩnh vực điều
hành và quản lý tiền tệ, xây dựng các thị trường vốn, quản lý ngoại hối, hệ thống
thanh toán, thanh tra ngân hàng trung ương, chế độ báo cáo, thống kê tiền tệ....
- Ưu điểm của những khoản vay từ IMF
+ Tất cả các quốc gia thành viên (giàu và nghèo) đều có thể kêu gọi các
dịch vụ và nguồn tài trợ của IMF. Điều nà y tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc
gia nghèo khó và các quốc gia đang t rong quá trình phát triển có thể vay vốn với
33
những ưu đãi nhất đ ịnh về lã i suất từ đó có thể đầu t ư phát triển kinh tế, các
nước phát t riển tìm tới IMF chủ yếu là để có được sự tư vấn chính xác và hiệu
quả cho các hoạt động tà i chính ngân hàng của mình, đảm bảo tính linh hoạt
trong hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính tiền tệ của to àn cầu .
- Nhược điểm của những khoản vay từ IMF
+IMF chỉ đóng vai trò giám sát hệ thống tiền tệ thế giới bằng cách giúp
duy trì một hệ thống thanh toán có trật tự giữa tất cả các quốc gia, và cung cấp
các khoản vay cho các thành viên đang gặp phải vấn đề th iếu hụt nghiêm trọng
về cán cân thanh toán
+ Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế chỉ quan tâm đến những vấn đề về chính sách.
Do vậy Quỹ cung cấp các khoản vay cho các quốc gia thành viên đang có vấn đề
ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán nước ngoài của họ và cố gắng đạt được
khả năng chuyển đổi đầy đủ t iền tệ của các thành viên trong hệ thống tỷ g iá hối
đoái linh hoạt.
2.3.Vay Ngân hàng thương mại (NHTM)
2.3.1. Đặc điểm
Khác với NHPT, các NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận bằng cách
huy động vốn trong dân chúng. Do đó, việc tài trợ cho các dự án nằm trong hoạt
động tín dụng của các NHTM. Nguồn tín dụng này lại được tài trợ từ nguồn huy
động vốn trung và dài hạn của chính các NHTM có được. Như vậy rủi ro cho
việc tài trợ DA đối với NHT M là khá lớn. Vì thế chính bản thân các NHTM
cũng phải cân nhắc rất kỹ khi đầu tư vào những DAPT căn cứ vào tiềm lực của
mình. Vốn của NHTM vì thế có chi phí vốn lớn, nó tham gia 1 phần nhỏ vào
tổng kinh phí đầu tư cho DAPT. Những DAPT đặt tính xã hội lên trên thường
không thu hút được sự chú ý của nguồn tài trợ này.
2.3.2. Ưu điểm
34
+ Nguồn vốn của NHTM kết hợp với các nguồn vốn khác là biện pháp
hiệu quả đố i với dự án phát triển có tính sinh lời và hiệu quả cao thông qua việc
tạo áp lực trả lãi.
+ Tài trợ của NHTM sẽ hạn chế bao cấp của Nhà nước, hạn chế gánh
nặng nợ nần của quốc gia, hạn chế tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác
thường gắn liền với tài trợ của Nhà nước.
2.3.3. Nhược điểm
+ Thời gian sử dụng vốn ngắn, lãi suất cao.
+ So với các nguồn vốn khác, nguồn vốn vay từ NHTM thường kèm theo
điều kiện vay vốn có tài sản đảm bảo
2.3.4. Ví dụ
Công trình thủy điện Sơn La là công trình thủy điện lớn nhất ở VN. Công
suất đạt khoảng 10 ty Kwh/ năm góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Trong giai đoạn huy động vốn cho dự án vào năm 2007, tập đoàn
điện lực VN (EVN) và 4 NHTM Việt Nam (Agribank, VCB, BIDB, Viet inbank)
đã ký hợp đồng vay vốn thương mại với tổng giá trị 17500 tỷ đồng. Thời hạn
vay là 15 năm, thời gian ân hạn là 5 năm, lãi suất vay bằng lãi suất huy động tiết
kiệm 12 tháng ( trả lãi sau) bình quân của các NH cho vay cộng với phí 2.5%/
năm. Dự án thủy điện Sơn La có công suất = 2400 MW do EVN làm chủ đầu tư,
tổng đầu tư 43083 tỷ đồng. Bên cạnh vay vốn thương mại trong nước, nguồn
vốn để thực hiện DA còn được thu xếp từ vay ngân sách 5000 tỷ đồng để đền bù
di dân, vay NHPT 4000 tỷ đồng, vốn tự tích lũy và vốn trái phiếu 9823 tỷ đồng,
vay thương mại nước ngoài để mua sắm thiết bị 6760 tỷ đồng.
2.4. Nguồn khác
Dự án phát triển mang lại lợi ích to lớn cho người hưởng lợi, ví dụ đường
giao thông nông thôn, nhà máy chế biến nông sản,.. Vì vậy người hưởng lợi sẽ
đóng góp cho dự án. Nguồn tài trợ này có ý nghĩa quan trọng đối với thành công
35
của dự án phát triển, bởi vì nó gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của người
hưởng lợi, của chính quyền địa phương với dự án.
III. Thực trạng huy động và sử dụng các nguồn tài
trợ DAPT tại Việt Nam
Thực tế cho thấy, Việt nam cho đến nay vẫn là 1 quốc gia đang phát triển.
Nhu cầu đầu tư cho phát triển kinh tế luôn là ưu t iên hàng đầu của quốc gia.
Tổng vốn đầu tư cho phát triển k inh tế chiếm đến 45% GDP cả nước ( khoảng
90 000 tỷ VND). Trong khi đó, DAPT tại Việt Nam lại rất lớn cả về số lượng và
qui mô. Vì thế mà một đặc điểm dễ nhận thấy là, nguồn tài trợ cho các DAPT tại
Việt Nam bao gồm nhiều loại nguồn đến từ nhiều tổ chức khác nhau. Điều này
vừa giúp đa dạng hóa cơ cấu nguồn vốn thỏa mãn cung vốn cho DA vừa làm
tăng tính hiệu quả hoạt động cho các DAPT.
15.70%
6.90%
8.20%
26.80%
42.40%
6.50%
2.80%
3.40%
11.10%
17.60%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Cơ cấu vốn
ĐTPTXH
Cơ cấu Vốn
ĐTPTXH so với GDP
Vốn đầu tư xã hội cho phát triển nền kinh tế vn 2010
-
Vốn dân cư &
tư nhân
Vốn FDI
Vốn DNNN
Vốn tín dụng
ĐT
Vốn NSNN
Cơ cấu nguồn tài trợ cho DAPT tại Việt Nam chủ yếu gồm:
+ Nguồn từ NSNN được xem xét đến đầu tiên. Nhà nước chủ động thiết
lập DAPT và phân bổ kinh phí ngân sách cho các dự án dựa trên mức độ quan
trọng đối với nền kinh tế.
36
chi NSNN cho các chương trình quốc gia 2009
6.22
43.63
15.82
1.49
7.74
10.2
4.5
4.350.44
3.761.85
Xóa đói giảm
ngheo
Việc làm
Nước sạch & MT
Dân số và KHHGD
Phòng chống
bệnh XH
VSATTP
Văn hóa
GD&ĐT
Phòng chống tội
phạm
Phòng chống ma
túy
Năng lượng
Nhìn vào hình vẽ trên, ta thấy, các DAPT tập trung chủ yếu cho những
chương trình mục tiêu quốc gia như chương trình giáo dục đào tạo( 43.63 tỷ
VND), phòng chống bệnh XH (15.82 tỷ VND), chương trình nước sạch (10,2 tỷ
VND)...
+ Nguồn tài trợ từ các Chính phủ và tổ chức tài chính quốc tế cũng là
nguồn tài trợ quan trọng cho các DAPT. Nguồn này thường được phân bổ cho
các DAPT cơ sở hạ tầng, giao thông, đô thị … Những dự án có qui mô lớn đòi
hỏi trường vốn và cả sự hỗ trợ về kỹ thuật hiện đại cũng như trình độ quản lý
cao.
+ Nguồn tài trợ từ các NHTM có tính ưu tiên thấp hơn. Các DA mang
qui mô lớn đem lại tính kinh tế cao đồng thời không ảnh hưởng đến lợi ích xã
hội sẽ tìm kiếm nguồn tài trợ này. Hiện tượng các NHTM cùng nhau đồng tài trợ
cho các DA lớn tại Việt nam ngày càng trở nên phổ biến. Nguyên nhân chính
yếu xuất phát từ việc đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh của chính các NHTM. Vì
vậy, các DAPT về điện lực, xây dựng các nhà máy sản xuất … thường được các
NHTM nhắm tới.
Bất cập lớn nhất hiện nay của các DAPT của Việt nam chính là tính hiệu
quả sử dụng vốn. Rắc rối gặp phải thường diễn ra ở những DAPT sử dụng
37
nguồn vốn từ NSNN và vốn ODA. Biểu hiện của việc sử dụng vốn không hiệu
quả đó chính là tình trạng thất thoát vốn, mất kiểm soát nguồn vốn. Điều này tất
yếu dẫn đến chất lượng công trình của DA không được đảm bảo.
Điển hình năm 2006, vụ án PMU18 là một trong những vụ án điển hình
về việc tham nhũng t iền dự án, chất lượng công trình không đảm bảo. Hay các
nguồn vốn vay từ WB, ADB cho các dự án phát triển nông thôn, miền núi.
Thêm đó là chương trình 135 - Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã
đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ngoài những thành tựu
đạt được thì cũng có những công trình do không được tính toán, tìm hiểu kỹ về
sự thuận lợi của vùng, miền đã gây ra sự lãng phí lớn kh i mà các công trình
không phát huy được hiệu quả của nó trong việc phát triển kinh tế - xã hội vùng
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Kết quả kiểm toán chương trình 135 giai đoạn II:
Gần 14 tỉ đồng vi phạm.
Tương tự, câu chuyện chương trình 135, tại huyện Mộc Châu, Sơn La,
cán bộ phụ trách triển khai chương trình đã không tuân thủ đúng Nghị quyết của
HĐND tỉnh, nghiệm thu trước khối lượng tại các công trình, thực hiện giám sát
khi chưa đủ năng lực. Ở huyện Văn Chấn, Yên Bái có tình trạng bán vật tư đầu
tư cho công trình 135 để lập quỹ thôn, quyết toán kinh phí vượt so với thực tế
thực hiện, thu tiền của người dân sai quy định. Huyện Thanh Sơn và Yên Lập,
tỉnh Phú Thọ có tình trạng giữ lại tiền của dân, lập chứng từ quyết toán không
phù hợp với thực tế phát sinh, người dân phải chịu th iệt hại trong mùa trồng
chuối phấn do có chỉ đạo, hướng dẫn không hợp lý... Ông Lê Minh Khái, Phó
tổng KTNN khẳng định có tình trạng vi phạm về tài chính, quyết toán sai, chi sai
định mức, lãng phí vốn đầu tư trong quá trình triển khai Chương trình 135.
KTNN đã kiến nghị thu hồi nộp ngân sách nhà nước các khoản xuất toán với số
tiền 675 triệu đồng; giảm cấp phát, thanh toán 482 triệu đồng; đề nghị các địa
phương bố trí nguồn để hoàn trả vốn cho chương trình 135 là 2 tỷ đồng.. .
Theo các báo cáo tại phiên họp, từ 2006 đến 2010, tiền rót cho Chương
trình 135 giai đoạn 2 lên tới hơn 14.000 tỉ đồng. Nguồn lực của tất cả các
38
chương trình xoá đói giảm nghèo không nhỏ, bình quân từ 2 tỉ đến 10 tỉ
đồng/xã/năm (với 1.850 xã và 2.500 thôn bản).
Theo báo cáo của Chính phủ đến hết năm 2009 kết quả đạt được về các
chỉ tiêu của chương trình 135 so với mục tiêu đề ra đến năm 2010 là: 100%
người dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được trợ giúp miễn phí (mục tiêu là
95%); Tỉ lệ hộ nghèo g iảm từ 47% đầu năm 2006 xuống còn 31,2% năm 2009
(mục tiêu tỉ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 30%); Tỉ lệ hộ đạt mức thu nhập bình
quân đầu người 3,5 triệu đồng/năm là 67,5% (mục tiêu đạt trên 70%).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dapt_5692.pdf