Tiểu luận Phân tích việc sử dụng đòn bẩy tài chính tại công ty

Khối lượng giao dịch của thị trường tiền tệ toàn cầu không ngừng phát triển. Điều này được kết hợp với sự phát triển của thương mại quốc tế và bãi bỏ các hạn chế tiền tệ ở nhiều nước. Hằng ngày, khối lượng của giao dịch ngoại hối trên thế giới là khoảng 3000 tỷ đô la Mỹ. Khoảng 80% tất cả các giao dịch đầu cơ, nhằm mục đích thu lợi nhuận từ sự khác biệt tỷ giá hối đoái. Việc này đã thu hút nhiều người tham gia với cả hai tổ chức tài chính và đầu tư cá nhân. Do tốc độ phát triển nhanh của công nghệ thông tin và truyền thông trong hai thập kỷ qua, thị trường đã tự thay đổi hẳn. Giờ đây nghề nghiệp của người giao dịch ngoại tệ đã không còn là 1 bí mật, mà đã trở nên gần như phổ biến. Việc giao dịch tiền tệ gần đây đã không chỉ thu hút các ngân hàng độc quyền lớn nhất, mà còn là sự phổ biến rộng rãi thông qua hệ thống giao dịch điện tử ngày nay. Các ngân hàng lớn nhất cũng thích giao thương trong các hệ thống điện tử giao dịch cá nhân song phương. Hằng ngày, khối lượng giao dịch của các ngân hàng quốc tế lớn với hàng tỷ USD như – Ngân hàng Deutsche, Ngân hàng Barclays , Ngân hàng Liên bang Thụy Sĩ, Citibank, Ngân hàng Chase Manhattan, Ngân hàng Standard Chartered.

doc45 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3367 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích việc sử dụng đòn bẩy tài chính tại công ty, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng 7,3 lần, giá tiêu dùng: 2,2 lần, USD: 1,5 lần, lãi suất tiết kiệm gần 2,2 lần. Nhiều cơ quan quản lý cho rằng giá nhà ở được đẩy lên cao, chủ yếu là do hiện tượng đầu cơ, kích giá, tâm lý mua bán theo tin đồn diễn ra phổ biến. Giá cao là vì không minh bạch Tuy nhiên, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, nguyên nhân chính dẫn đến giá bất động sản tăng cao trong thời gian dài vừa qua không phải do giới đầu cơ. Nếu do đầu cơ thì chỉ có thể gây sốt giá trong thời gian ngắn và chỉ có thể đẩy giá lên 10-15% chứ không thể tăng đến hàng trăm phần trăm và kéo dài trong nhiều năm được. Bởi vậy, nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là do quản lý bất động sản không minh bạch, không hiệu quả Nhiều chuyên gia quốc tế cũng khẳng định, tốc độ tăng dân nhập cư nhanh, nhu cầu về nhà ở ngày càng lớn nhưng hạn chế trong quản lý Nhà nước về thị trường bất động sản, về quy hoạch, xây dựng là nguyên nhân khiến giá bất động sản, nhất là nhà ở tăng cao. Để hoàn thành một dự án bất động sản thông thường phải mất từ 3-5 năm xây dựng và khoảng 3 năm triển khai các loại thủ tục hành chính. Thời gian kéo dài, thủ tục phức tạp, tham nhũng trong lĩnh vực đất đai còn nhiều và quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất còn yếu kém... là những lý do làm giá bất động sản ở Hà Nội, Tp.HCM thuộc “top cao” nhất của thế giới. Tính minh bạch của thị trường bất động sản Việt Nam nói chung còn thấp, thời gian chuẩn bị đầu tư cũng là yếu tố quan trọng tác động về giá. Tại Hà Nội, giai đoạn chuẩn bị đầu tư dự án tương đối khó khăn, phiền hà và mất nhiều thời gian. Hơn nữa, chi phí đất ở Hà Nội tương đối cao. Điều đó làm giá bán nhà ở cũng cao. Khi nền kinh tế phát triển, nhiều người có kỳ vọng kinh tế thời gian tới sẽ tốt hơn, thu nhập cao hơn nên đưa dòng tiền vào đầu tư, đặc biệt là bất động sản nhằm bảo toàn vốn. Số lượng người dân chuyển về các thành phố lớn để sinh sống, làm việc, học hành ngày càng lớn. Nhu cầu chỗ ở ngày càng cao, trong khi diện tích đất trong nội thành ngày càng hạn chế, việc đền bù, giải toả ngày càng tốn kém, lạm phát cao khiến giá nhà ngày càng tăng. Trong thời điểm thị trường đình trệ, giá nhà ở cũng khó giảm xuống mức mà người dân với thu nhập trung bình có thể tiếp cận được. Đây cũng là nguyên nhân khiến thị trường bất động sản còn khó khăn, mặc dù đến nay, thị trường này đã hoàn toàn thuộc về người mua, giá giảm mạnh và nguồn cung phân khúc trung cấp đã nhiều hơn. Theo thống kê của Công ty CBRE, trong quý 1/2012 thị trường nhà ở tại Hà Nội chứng kiến mức điều chỉnh giá giảm lớn nhất kể từ năm 2008. Thống kê cho thấy 53% số căn hộ chào bán mới có giá dưới 1.000 USD/m2, một hiện tượng ít gặp kể từ “cơn sốt” nhà đất năm 2007. Sang quý 2, giá bán tiếp tục ở mức thấp với 100% số căn hộ chào bán mới có giá dưới 30 triệu đ/m2 và một nửa trong số này có giá dưới 20 triệu đ/m2. Các vị trí hấp dẫn như Mỹ Đình, Định Công và Cầu Giấy có giá chào bán khá hợp lý ở quanh mức 1.000 USD/m2. Nhiều chủ đầu tư đang nghiêm túc cân nhắc việc giảm kích thước và mức độ hoàn thiện căn hộ nhằm giảm giá tổng thể của cả căn. Hạ giá vẫn khó thanh khoản Song trên thực tế, sự hạ giá vẫn chưa thể xua tan không khí ảm đạm của thị trường bất động sản. Ông Lê Hoàng Hoán, Tổng giám đốc Tập đoàn Đất Việt lý giải, thị trường bất động sản đang sa lầy trong một nghịch lý là cơ cấu sản phẩm hàng hóa không phù hợp với nhu cầu sử dụng, thiếu hàng hóa có quy mô vừa và nhỏ, có giá cả phù hợp với đa số nhu cầu của người dân. Khi mà khả năng đầu cơ đến hạn, dù nguồn cầu dồi dào nhưng thị trường vẫn không thể thanh khoản, bởi nhu cầu của người dân hiện nay là trên dưới 1 tỷ đồng/căn hộ nhưng thị trường lại chủ yếu là căn hộ từ 2-3 tỷ đồng. Vì thế, thị trường rơi vào khủng hoảng vừa thừa vừa thiếu. Điều đó cho thấy, không chỉ người thu nhập thấp mà những người có thu nhập trung bình cũng khó có cơ hội sở hữu nhà ở. Chị Hoàng Ngân Hà ở Thanh Xuân, Hà Nội chia sẻ, hiện nay, trên thị trường, có không ít dự án chung cư mới chào bán với giá khoảng 20 triệu đ/m2, thấp hơn nhiều so với mức giá của một vài năm trước đây nhưng tính ra vẫn lên tới hàng tỷ đồng một căn, vượt quá xa khả năng chi trả của hầu hết người làm công ăn lương như tôi. Còn đất thổ cư thuộc nội thành Hà Nội, giờ ít nhất cũng có giá 70-80 triệu đồng/m2. Như vậy, tính theo thu nhập trung bình của người dân cả nước (ước khoảng 1.200 USD/năm) thì muốn có 30 m2 đất nội thành, phải đổi bằng 90 năm làm việc mà không chi tiêu. Trong khi đó, chính sách hỗ trợ tín dụng, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức cải thiện nhà ở còn nhiều hạn chế. Do vậy, những người thu nhập 5-10 triệu đồng/tháng đừng mơ có nhà. Với giá nhà ở và mức lương như hiện nay, lương cỡ Bộ trưởng cũng phải mất 40 năm mới mua được nhà. Hiện tại, nếu xét chỉ số giá nhà/thu nhập của người dân thì ở Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với các nước trên thế giới và khu vực. Ở Việt Nam khoảng 26,6, trong khi ở khu vực Nam Á là 6,25, Đông Á là 4, 14, châu Phi là 2,21, châu Âu, Trung Đông và Bắc Mỹ là 6,25, Mỹ Latinh và Caribê là 2,38 mà theo tính toán của Liên hợp quốc thì chỉ số giá nhà/thu nhập của người dân khoảng từ 3-4 là hợp lý. Trong khi đó, nhu cầu về nhà ở của người dân là rất lớn. Theo ước tính của Bộ Xây dựng, tại khu vực đô thị vẫn còn khoảng 7 triệu người có nhu cầu thuê, thuê mua nhà với tổng diện tích nhà ở khoảng 150 triệu m2. Riêng Hà Nội cần 5,5 triệu m2, tương đương 110 ngàn căn hộ cho công nhân trong các khu công nghiệp. Cả nước vẫn còn 7,42% nhà đơn sơ, tương ứng với hơn 1,6 triệu căn hộ; còn có 10,64% tổng số căn hộ có diện tích dưới 30 m2/căn... Phân khúc nhà ở trung bình và dưới trung bình còn rất nhiều tiềm năng để phát triển trong lâu dài . Do đó, việc các doanh nghiệp bất động sản chuyển hướng cơ cấu kinh doanh vào các phân khúc và các thị trường nhiều tiềm năng Việc định hướng và phát triển dòng sản phẩm vào phân khúc thị trường bình dân trong giai đoạn hiện nay là điều không dễ thực hiện, đòi hỏi các doanh nghiệp phải giải quyết được bài toán chi phí tăng cao. Các doanh nghiệp rất cần được sự hỗ trợ và khuyến khích từ Bộ Xây dựng và Chính phủ để giải quyết các vấn đề về quy hoạch, diện tích nhà ở, cách tính tiền sử dụng đất và giảm thiếu các chi phí phát sinh để giúp hạ giá thành sản phẩm, từ đó hạ được giá bán đầu ra mà vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm 1.3. Thị trường vàng : Sàn vàng như một sới bạc Đa số nhà đầu tư trên các sàn vàng đều thua và cũng đa số không hiểu vì sao họ bị thua. Thực ra, nguyên nhân chính là đa số nhà đầu tư hầu như không có hiểu biết gì về lĩnh vực mình đang “kinh doanh”. Trong đó, nghiệp vụ đòn bẩy tài chính là yếu tố giúp người ta có thể với số tiền nhỏ nhưng vẫn tham gia mua bán được số lượng vàng lớn. Chính yếu tố này giúp người ta thắng nhanh, nhưng thua cũng rất nhanh.“Đòn bẩy tài chính như con dao nhiều lưỡi chứ không chỉ hai lưỡi. Nếu khéo dùng, nó giúp nhà đầu tư có thể tận dụng để làm vốn kinh doanh. Nếu lạm dụng, thì sẽ trở thành đánh bạc” 2. Nguyên nhân sàn vàng tại Việt Nam đóng cửa 2.1. Nguyên nhân và bất cập đối vàng dự trữ tại Việt Nam Tỷ lệ nắm giữ vàng thuộc DTNHNN còn ở mức khiêm tốn và chưa tương xứng với quy mô phát triển của thị trường vàng trong nước. Hoạt động can thiệp bình ổn giá vàng của Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng còn đơn điệu, chỉ mới thực hiện dưới 2 hình thức bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu vàng mà không thực hiện can thiệp bán vàng thuộc DTNHNN ra thị trường hoặc mua từ thị trường bổ sung DTNHNN cấp giấy phép nhập khẩu có hạn ngạch cho từng doanh nghiệp kinh doanh vàng. NHNN mới chỉ chú trọng vào việc bảo toàn giá trị vàng thuộc DTNHNN dưới dạng bảo quản trong kho, mà chưa chú trọng đến hoạt động đa dạng hóa các hình thức đầu tư dự trữ vàng thuộc DTNHNN nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao mức độ sinh lời đối với nghiệp vụ này. NHNN chưa có qui định cụ thể về sử dụng vàng thuộc DTNHNN để đầu tư trên thị trường quốc tế hay can thiệp thị trường vàng trong nước vào những thời điểm cần thiết. Quy mô DTNHNN mỏng, thường ở mức từ 8-12 tuần nhập khẩu. Trong khi đó, vay nợ nước ngoài ngày càng cao. Vàng dự trữ chiếm tỷ lệ nhỏ trong DTNHNN và chỉ để trong kho nhằm hỗ trợ cán cân thanh toán quốc tế kịp thời khi cần thiết. Chưa triển khai các nghiệp vụ đầu tư vàng trên thị trường quốc tế.  Suốt giai đoạn 1999 đến 2002, thị trường vàng trong nước tương đối trầm lắng, không xảy ra các cơn sốt giá và NHNN không phải thực hiện can thiệp thị trường vàng. Kể từ tháng 4/2002 giá vàng quốc tế đã tăng trở lại nhưng NHNN đã điều tiết và ổn định được thị trường vàng thông qua hoạt động cấp giấy phép xuất nhập khẩu vàng cho doanh nghiệp. Các nghiên cứu về đầu tư vàng dự trữ chưa được triển khai. Đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch địch chính sách về quản lý DTNHNN còn rất mỏng, các hoạt động có liên quan như công tác hạch toán kế toán và thống kê DTNHNN còn nhiều bất cập, chưa có quy định và phần mềm kế toán quả trị DTNHNN nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư DTNHNN và dự trữ vàng. 2.2. Những bất cập và rủi ro đối với hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản của các TCTD ( tổ chức tín dụng ) 2.2.1. Hoạt động của Sàn giao dịch vàng * Về môi trường pháp lý: Các văn bản quy phạm pháp luật  hiện hành không cấm việc thành lập và hoạt động của sàn giao dịch vàng. Tuy nhiên, hiện nay, cũng chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào điều chỉnh trực tiếp về việc thành lập và hoạt động của Sàn giao dịch vàng. Có một số văn bản pháp luật có liên quan đến vấn đề này như sau: Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999 của Chính phủ (Nghị định 174) về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, Nghị định 158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 quy định về Sở giao dịch hàng hoá,  Luật chứng khoán và Luật các tổ chức tín dụng * Những bất cập và rủi ro:  + Về địa vị pháp lý: Hầu hết các sàn giao dịch vàng không được tổ chức dưới hình thức một pháp nhân, mà thường là một bộ phận trực thuộc Tổ chức tín dụng. Đối chiếu các quy định về Sở giao dịch hàng hoá với các sàn giao dịch vàng của các tổ chức tín dụng, việc thành lập và hoạt động của các sàn giao dịch vàng của Tổ chức tín dụng còn tồn tại nhiều vấn đề, cơ sở pháp lý của việc thành lập và hoạt động của sàn giao dịch vàng chưa có đầy đủ. + Rủi ro của hoạt động kinh doanh Sàn giao dịch vàng Việc thành lập và hoạt động của sàn giao dịch vàng trong thời gian vừa qua chứa đựng rủi ro rất lớn cho cả nhà đầu tư và các TCTD do quy chế hoạt động chưa chặt chẽ, chưa xây dựng được cơ chế bảo hiểm rủi ro cho cả nhà đầu tư và TCTD đã thành lập sàn giao dịch vàng. Do vậy, trước những diễn biến phức tạp và những rủi ro do hoạt động sàn giao dịch vàng (hay còn gọi là kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước), Ngày 30/12/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có thông báo về việc dừng hoạt động sàn giao dịch vàng. 2.2.2. Hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài Theo thông báo số 369/TB-VPCP, NHNN đã có Thông tư số 01/2010/TT-NHNN ngày 7/1/2010 về việc bãi bỏ Quyết định 03/2006/QĐ-NHNN và Quyết định 11/2007/QĐ-NHNN về kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Theo đó, các NHTM, Công ty kinh doanh vàng phải chấm dứt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài kể từ ngày Thông tư có hiệu lực. Mọi hoạt động kinh doanh trên tài khoản ở nước ngoài chỉ phục vụ mục đích tất toán trạng thái kinh doanh vàng trên tài khoản của các đơn vị. 2.2.3. Hoạt động xuất nhập khẩu vàng Chính sách quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng trong thời gian qua đã có tác động tích cực đến biến động giá vàng trong nước cũng như góp phần bình ổn thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu vàng trang sức mỹ nghệ được thực hiện theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, không cần có giấy phép của NHNN. Do đặc điểm rất dễ chuyển đổi hình thức từ các loại vàng nguyên liệu khối, thỏi, hạt, miếng sang thành vàng trang sức, mỹ nghệ để lợi dụng quy định thông thoáng về việc không cần cấp giấy phép xuất nhập khẩu, đã xuất hiện hành vi xuất nhập khẩu lậu vàng biến tướng. Với vai trò đặc biệt của vàng trong giai đoạn hiện nay, việc quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu dưới bất kỳ dạng nào là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo thị trường vàng hoạt động ổn định, đảm bảo công bằng đối với các NHTM, các công ty kinh doanh vàng. 2.2.4. Hoạt động sản xuất vàng miếng Với số lượng hạn chế các đơn vị được phép sản xuất vàng miếng như hiện nay, thực tế xảy ra tình trạng nhu cầu mua bán vàng miếng tăng cao mà các đơn vị này không sản xuất đáp ứng đủ thị trường. Do vậy, giá vàng có lúc đã bị đẩy lên cao hơn giá vàng quốc tế. Ngoài ra, bất cập của hoạt động sản xuất vàng miếng còn thể hiện ở chỗ chưa có tiêu chuẩn chung cho vàng miếng sản xuất trong nước nên đã tạo nên thế độc quyền tự nhiên cho vàng miếng SJC. Đồng thời, khi uy tín và chất lượng chưa được công nhận theo tiêu chuẩn chung gây khó khăn cho việc xuất khẩu vàng nếu có. 2.2.5. Hoạt động huy động, cho vay bằng vàng Việc ban hành QĐ432 / 2000 / QĐ-NHNN đã tạo cơ sở pháp lý cho các TCTD huy động vàng trong dân cư, sử dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có một số vấn đề phát sinh cần được chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn như sau: NHNN cần sửa đổi QĐ432 theo hướng huy động vốn của TCTD thực hiện theo hình thức phát hành giấy tờ có giá cần được thực hiện theo một văn bản thống nhất NHNN cần nghiên cứu đề xuất điều chỉnh giảm tỷ lệ chuyển đổi nguồn vốn huy động bằng vàng thành nguồn vốn bằng tiền cho phù hợp với thực tế. Bài học nằm lòng Mỗi nhà đầu tư có mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau và họ cần nắm được chính xác mức độ chấp nhận rủi ro của mình. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, việc áp dụng đòn bẩy tài chính có thể đem lại hiệu quả cao hơn đối với nhóm người trẻ tuổi có độ chấp nhận rủi ro cao vì có thể giúp nhóm này đa dạng hóa danh mục đầu tư theo thời gian. Ở các nước phát triển, nhà đầu tư cá nhân vào các quỹ quản lý tài sản thường phải làm các test liên quan tới mức độ chấp nhận rủi ro, qua đó nhà quản lý tiền có thể đưa ra các sản phẩm phù hợp với từng đối tượng. Cần tuân thủ kỷ luật đầu tư. Đây là yếu tố tiên quyết nếu bạn sử dụng đòn bẩy. Thứ nhất, bạn cần tuân thủ việc cắt lỗ: xác định mất mát tối đa và có sự cắt lỗ hợp lý khi thị trường diễn biến không theo ý đồ đầu tư, ít nhất là đối với phần vốn vay. Thứ hai, không sử dụng đòn bẩy để mua trung bình giá khi thị trường đi xuống vì điều này chỉ khiến cho các khoản nợ ngày càng trầm trọng. Thứ ba, tránh việc sử dụng đòn bẩy gấp thếp. Nhiều nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy và thành công trong một vài phiên giao dịch đầu và tiếp tục “gấp thếp”, tiếp tục sử dụng đòn bẩy với mức độ cao tương đương hay cao hơn trên toàn bộ phần vốn và lãi đạt được. Thực tế thì những người sử dụng đòn bẩy sau một vài lần thành công có xu hướng cho rằng vận may sẽ tiếp tục đến và mình sẽ rút khỏi thị trường khi đang trên đỉnh cao, nhưng trong phần lớn các trường hợp điều này không xảy ra. Một diễn biến không đúng ý đồ của nhà đầu tư sẽ khiến cho một phần lớn tài sản bay hơi chỉ trong một lần sai sót. Hạn chế tối đa việc sử dụng đòn bẩy vào các tài sản không có tính thanh khoản. Nếu đầu tư vào các tài sản này, nhà đầu tư cần nắm được họ sẽ đối mặt với cả 3 rủi ro chính là rủi ro mất giá, rủi ro đòn bẩy và rủi ro thanh khoản. Việc sử dụng đòn bẩy nên tập trung vào các tài sản có tính thanh khoản cao như cổ phiếu blue chip so với cổ phiếu penny, hay các bất động sản có tính thanh khoản cao so với các bất động sản ở địa bàn có cầu mua thấp. Nên bắt đầu sử dụng thử đòn bẩy với quy mô nhỏ để thử nghiệm và việc sử dụng đòn bẩy nên là một phần của một kế hoạch đầu tư có kỷ luật và có tính khả thi. Việc sử dụng đòn bẩy cần có kế hoạch rõ ràng, nhà đầu tư cần phác thảo ra các trường hợp sẽ xảy ra trong tương lai và hành động của họ trong từng trường hợp. Bạn cũng nên sử dụng đòn bẩy khi thị trường có xu hướng rõ ràng. Nếu bạn đi ngược xu hướng hay đám đông thị trường, ngay cả khi bạn đúng thì cũng sẽ mất một thời gian trước khi diễn biến thị trường hợp với ý đồ của bạn. Ngay trong đợt khủng hoảng vừa qua tại Mỹ, nhiều quỹ đầu tư đã xác định sớm sự đổ vỡ của bong bóng nhà đất và thị trường chứng khoán từ những năm 2001 – 2002, tuy nhiên chỉ sau 5 - 6 năm (2007 - 2008) các dấu hiệu của bong bóng mới trở nên rõ ràng. Chỉ một số ít người bán khống xác định đúng thời điểm và trường vốn mới đạt được thành công. Tránh việc sử dụng đòn bẩy tối đa: Đây là sai lầm mà những người mới sử dụng đòn bẩy thường hay gặp phải. Việc sử dụng đòn bẩy quá khả năng chịu đựng về tài chính thường xảy ra khi thị trường không diễn biến theo ý đồ. Trên thực tế, một nguyên lý khi sử dụng đòn bẩy 50% vốn tự có, 50% vốn vay là nhà đầu tư luôn phải duy trì khoảng 40% tài sản dưới dạng tiền gửi/tiền mặt để giảm rủi ro đầu tư và có vốn để duy trì danh mục khi diễn biến của thị trường đi ngược với nhận định. Thứ nhất, việc sử dụng vốn vay nên dùng để đầu tư vào các dự án có tính khả thi và độ an toàn thu hồi vốn cao thay vì đầu tư vào các tài sản rủi ro. Đây là điều nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã học được trong đợt suy giảm vào năm 2008 khi các doanh nghiệp đã dùng vốn vay để đầu tư tài chính, đầu cơ nguyên vật liệu hay bất động sản. Những biến động giá ngược chiều và tính thanh khoản kém của các thị trường đã khiến cho nhiều doanh nghiệp hàng đầu như REE, SAM, GMD phải chịu những khoản lỗ lớn dù họ vẫn hoạt động tương đối hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh chính của mình. Thứ hai, các cơ chế kiểm soát việc sử dụng đòn bẩy tài chính cũng cần được tuân thủ một cách kỷ luật và chặt chẽ hơn. Khác với cá nhân, doanh nghiệp và người quản lý (tổng giám đốc) là hai cá thể độc lập. Ngay cả khi doanh nghiệp phá sản thì tài sản của người quản lý cũng không bị ảnh hưởng (với giả định họ không nắm cổ phiếu của doanh nghiệp). Vì lẽ đó, người quản lý thường có xu hướng chấp nhận mức độ rủi ro cao hơn nhiều so với khả năng chịu đựng của doanh nghiệp, và theo đó rủi ro phá sản với doanh nghiệp cũng cao hơn. Các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp hiện đại cần được áp dụng triệt để để giảm thiểu rủi ro trên trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính không chỉ cho các tài sản có tính rủi ro cao mà còn cho cả các dự án kinh doanh của doanh nghiệp. Tìm kiếm lợi nhuận từ đầu tư vào các tài sản rủi ro hay các hình thức khác là một công việc không hề đơn giản và đòn bẩy tài chính không phải là công cụ khiến cho việc tìm kiếm siêu lợi nhuận dễ dàng hơn. Lợi nhuận cao luôn đi kèm với rủi ro cao, nhà đầu tư nên thuộc lòng những biện pháp kiểm soát rủi ro trước khi nghĩ tới việc thu lợi nhuận. Xa rời nguyên tắc trên sẽ là bước đầu tiên đưa nhà đầu tư tham gia thị trường với tư cách một “con bạc” thay vì đầu tư với mục đích cải thiện lợi nhuận và giảm bớt rủi ro. CHƯƠNG IV : TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1991 – 2012 1.Chu kỳ thăng trầm của bất động sản 1.1.Cơn sốt 1993-1994 Cơn sốt đất 1993 – 1994: Cơn sốt này diễn ra trong hoàn cảnh Luật đất đai năm 1993 ra đời cho phép việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất dễ dàng hơn. Trước đó, quyền sử dụng đất của người dân và tổ chức chưa được pháp luật quy định và việc mua bán chuyển nhượng đất bị cấm. Do vậy, các hoạt động mua bán thường diễn ra ngấm ngầm và hoàn toàn tự phát. Luật đất đai 1993 có hiệu lực, tác động mạnh mẽ đến thị trường bất động sản ở phân khúc Đất và Quyền sử dụng đất. Một nguyên nhân khác có thể lý giải cho việc bùng nổ giá nhà đất năm 1993 và 1994 là kinh tế bắt đầu có những chuyển biến khác tích cực. Đây được xem là thời hoàng kim của tăng trưởng kinh tế khi GDP năm 1993 tăng tới 8,1%, năm 1994 tăng 8,8% và đỉnh điểm năm 1995 tăng 9,5%. Tăng trưởng mạnh của GDP khiến người ta tin vào tương lai sáng lạn của nền kinh tế đã thúc đẩy giá nhà đất tăng mạnh. 1.2. Giai đoạn đóng băng 1995 – 1999 Sau cơn sốt mạnh thị trường bất động sản Việt Nam bước vào giai đoạn đóng băng kéo dài 5 năm. Nguyên nhân do các chính sách vĩ mô và sự biến động của nền kinh tế. Nghị định 18/1995/NĐ-CP ban hành ngày 13/02/1995 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh về Quyền và Nghĩa vụ của các tổ chức trong và ngoài nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất đã làm cho giới đầu cơ chùn tay. Nhà đầu cơ phải bán đất để trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, có lẻ yếu tố chính tác động đến thị trường nhà đất trong khoảng thời gian này là những biến động vĩ mô. GDP năm 1995 vẫn tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng rất cao (9,5%) tuy nhiên lạm phát lại bắt đầu bùng nổ trở lại khi tăng tới 16,9%. Lúc đó các dấu hiệu bất ổn của kinh tế khu vực Đông Á bắt đầu xuất hiện. Tăng trưởng xuất nhập khẩu có dấu hiệu suy giảm. Trước tình hình lạm phát chính sách tiền tệ cũng bị thắt chặt khiến lãi suất tăng mạnh. Tăng trưởng tín dụng năm 1995 chỉ còn 24%, năm 1996 còn 17,57%, thấp hơn nhiều so với mức 40% của năm 1994. Cũng trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng GDP bắt đầu chậm dần từ năm 1996 và đạt mức thấp nhất 4,8% vào năm 1999. Đây cũng là giai đoạn kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh bởi khủng hoảng tài chính Đông Á 1997. 1.3. Bùng nổ 2001- 2002 Bùng nổ 2001-2002: Sau giai đoạn đóng băng kéo dài 5 năm thị trường bất động sản bắt đầu chuyển mình vào năm 2000 và bùng nổ vào giai đoạn 2001– 2002. Nguyên nhân của cơn sốt lần này cũng xuất phát từ sự kỳ vọng vào sự phục hồi của nền kinh tế và dòng vốn nước ngoài đổ vào được cải thiện. Chủ trương cho Việt Kiều mua nhà khiến người ta kỳ vọng một dòng vốn lớn bên ngoài sẽ đổ về nước để đầu tư bất động sản. Trong giai đoạn này cũng chính là năm bùng nổ việc đầu tư vào đất dự án và cơ sở hạ tầng. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này cũng bắt đầu có dấu hiệu khả quan. Năm 2000, tăng trưởng GDP đạt 6,8% cao hơn nhiều so với mức 4,8% của năm 1999 và kể từ đó tăng trưởng GDP bắt đầu được cải thiện. Thêm vào đó, tăng trưởng tín dụng được mở rộng sau khi xuống mức thấp nhất chỉ còn 10% vào năm 1999. Lạm phát năm 2001 và 2002 cũng xuống mức rất thấp. Điều này khiến người ta kỳ vọng vào chu kỳ của phục hồi kinh tế.  1.4. Nguội lạnh 2002 – 2006 Sóng tăng bất động sản 2001-2002 dường như đã đi quá đà. Giá nhà đất được thổi lên quá cao đến mức nhiều người đánh bất động sản Việt Nam được đánh giá là “đắt nhất thế giới”. Vì vậy, thị trường rơi vào một giai đoạn trầm lắng từ 2002 đến 2006. Theo số liệu thống kê: Năm 2003 giao dịch địa ốc thành công giảm 28%, năm 2004 giảm 56% và năm 2005 giảm 78%! Khác với đợt đóng băng trước đó, tăng trưởng kinh tế giai đoạn này vẫn được duy trì khá tốt, lạm phát ở mức thấp và tăng trưởng tín dụng vẫn khá cao. Nguyên nhân chính dẫn đến sự trầm lắng của thị trường được cho là đã tăng quá mạnh trước đó và các chính sách can thiệp của các cơ quan quản lý. Chẳng hạn như Tp.HCM ban hành một số biện pháp can thiệp vào thị trường bất động sản như chỉ thị 05 ngày 15/4/2002 về chấm dứt thí điểm phân lô lẻ để bán. Các chính sách này đánh trúng vào điểm yếu của giới đầu cơ làm thị trường đóng băng. 1.5. Sốt nhà đất 2007 – 2010 Sau 4 năm trầm lắng thị trường bất động sản Việt Nam lại xuất hiện một cơn sốt mạnh sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Cơn sốt này diễn khi nền kinh tế đang trong đà tăng trưởng mạnh, dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào lớn và tăng trưởng tín dụng cao. Liên tục trong 3 năm 2005, 2006 và 2007 tăng trưởng GDP đều vượt 8%, đây là thời kỳ có mức tăng trưởng cao thứ 2 từ trước tới nay. Cùng với tăng trưởng kinh tế khả quan thì dòng vốn cũng ủng hộ cho thị trường bất động sản bùng nổ. Tăng trưởng tín dụng năm 2007 lên tới hơn 50%, còn năm 2008 dù kìm chế vẫn tăng gần 30%. Cũng trong khoảng thời gian này thị trường chứng khoán bùng nổ mạnh mẽ; dòng kiều hối, dòng vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp (FDI) và gián tiếp (FII) cùng chảy vào Việt Nam rất lớn. Theo Tổng cục Thống kê, số vốn FDI đăng ký vào lĩnh vực bất động sản chiếm 10 tỷ USD chiếm 42% vốn đăng ký, năm 2008 hai con số này tương ứng là 25 tỷ USD, chiếm hơn 40% tổng số vốn đăng ký. Điều này cho thấy thị trường bất động sản Việt Nam đang được sự quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư quốc tế. Bên cạnh đó hai dòng vốn quan trọng khác là dòng vốn đầu tư gián tiếp và dòng kiều hối với tổng cộng hơn 10 tỷ USD đã thổi bùng cơn sốt giá nhà đất năm 2007 và nửa đầu 2008. 1.6. Sồi sụt từ 2008 và suy giảm mạnh từ 2011 Cơn sốt từ 2007 phần lớn xuất phát từ yếu tố đầu cơ và chính sách tín dụng dễ dãi và cuối cùng nền kinh tế phải trả giá. Bóng ma lạm phát xuất hiện từ cuối năm 2007 là dấu chấm hết cho cơn sốt nhà đất. Lạm phát thực sự bùng nổ vào đầu năm 2008 khiến NHNN phải thắt chặt lại chính sách tiền tệ. Lãi suất tăng vọt, các ngân hàng thương mại hạn chế cho vay, dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) nước ngoài ngừng chảy vào Việt Nam tác động mạnh đến thị trường bất động sản. Giữa năm 2008 giá nhà đất bắt đầu lao dốc, đặc biệt ở phân khúc căn hộ cao cấp. Giá đất ở nhiều khu vực trước đó chỉ trong thời gian ngắn đã giảm 30-40%. Nhiều doanh nghiệp bất động sản trên bờ vực phá sản còn nợ xấu của ngân hàng thì có nguy cơ tăng vọt. Gói kích thích kinh tế năm 2009 và chính sách hỗ trợ lãi suất đã khiến cho thị trường hồi sinh có tính chất cục bộ. Tp.HCM giá nhà đất vẫn gần như trầm lắng, còn tại Hà Nội và Đà Nẵng giai đoạn cuối năm 2009 và đầu năm 2010 tăng mạnh trở lại nhờ dòng tiền nóng được NHNN bơm ra mạnh để hỗ trợ nền kinh tế. Lạm phát lại bùng nổ vào năm 2011 và chính sách thắt chặt tiền tệ đã dập tắt cơn sốt cục bộ ở Đà Nẳng và Hà Nội. Không những vậy, NHNN buộc các tổ chức tín dụng phải giảm tỷ trọng cho vay khu vực phi sản xuất về 16% khiến nguồn vốn cho bất động sản gần như cạn kiệt; giá nhà đất bắt đầu suy giảm; nhiều doanh nghiệp bất động sản bên bờ vực phá sản. Như vậy, chỉ trong vòng 20 năm trở lại đây thị trường nhà đất Việt Nam đã trải qua 6 lần sốt giá và suy giảm. Sự biến động của giá bất động sản thường gắn liền với các chính sách vĩ mô và biến cố trong nền kinh tế. 2. Chu kỳ thăng trầm của thị trường vàng tại Việt Nam 2.1. Thời kỳ trước 1991 Trước năm 1991, NHNN chưa ban hành các quy định về quản lý DTNHNN và quản lý vàng thuộc DTNHNN nhưng thực hiện quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng. Chỉ các xí nghiệp quốc doanh mới được mua, bán vàng với số lượng hạn chế. Tuy nhiên hoạt động buôn bán vàng bất hợp pháp vẫn phổ biến. "Điều lệ quản lý ngoại hối" ban hành năm 1988 đã xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh vàng. NHNN quản lý hoạt động kinh doanh vàng thông qua việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh vàng cho doanh nghiệp. Các đơn vị kinh tế quốc doanh có liên quan đến khai thác, tinh luyện vàng và các hộ cá thể nếu có đủ điều kiện được kinh doanh vàng nữ trang. Đồng thời cho phép thành lập các công ty kinh doanh vàng bạc trực thuộc Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố lớn. NHNN bắt đầu cho phép một số đơn vị, địa phương nhập khẩu vàng và cho phép thành lập Tổng Công ty vàng bạc đá quý Việt Nam năm 1989.   2.2. Thời kỳ từ năm 1991 đến năm 1999 Năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết định thành lập Quỹ điều hòa ngoại tệ (bản chất của quỹ này là quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước) nhằm mục đích chính là để can thiệp bình ổn tỷ giá và giá vàng. Để ổn định thị trường vàng, năm 1993 Chính phủ ban hành Nghị định  63/CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Mọi đối tượng thuộc đủ điều kiện đều được kinh doanh vàng trên thị trường và chịu sự quản lý chuyên ngành của NHNN. Tuy nhiên hoạt động xuất nhập khẩu vàng vẫn được quản lý chặt chẽ nhằm tạo chủ động cho NHNN trong việc điều hành chính sách tỷ giá và tiền tệ. Các hoạt động can thiệp mua, bán ngoại tệ và vàng của NHNN để bình ổn tỷ giá và giá vàng trong thời kỳ này diễn ra mạnh mẽ, nhất là trong những năm đầu của thập kỷ 90, góp phần ổn định giá cả, đẩy lùi lạm phát, tạo dựng lòng tin của dân chúng nhằm thúc đẩy đầu tư sản xuất và phát triển kinh tế của đất nước. 2.3. Thời kỳ từ 1999 đến nay Ngày 30/8/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 86/1999/NĐ-CP về quản lý DTNHNN. Nghị định 86/1999/NĐ-CP và Quyết định 653 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện Nghị định 86 đã xác lập những nguyên tắc cơ bản trong quản lý DTNHNN được nêu dưới đây: Vàng được coi là một thành phần thuộc DTNHNN. NHNN là cơ quan quản lý DTNHNN nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn DTNHNN.  Công tác quản lý DTNHNN được tập trung vào ba nguyên tắc theo thông lệ quốc tế là Bảo toàn dự trữ ngoại hối, Bảo đảm tính thanh khoản và Sinh lời thông qua các nghiệp vụ đầu tư.  DTNHNN được lập thành hai quỹ, gồm: (i) Quỹ dự trữ ngoại hối được sử dụng để đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, điều hòa nguồn ngoại hối với Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng khi cần thiết, thực hiện các nghiệp vụ đầu tư trên thị trường quốc tế, tạm ứng cho ngân sách Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu ngoại hối đột xuất, cấp bách của Nhà nước theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; và (ii) Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng được sử dụng để can thiệp thị trường ngoại tệ và thị trường vàng trong nước nhằm ổn định tỷ giá và giá vàng theo mục tiêu của chính sách tiền tệ, điều hòa nguồn ngoại hối với Quỹ dự trữ ngoại hối khi cần thiết và thực hiện các nghiệp vụ đầu tư ngắn hạn.   Vàng thuộc DTNHNN phải là vàng tiêu chuẩn quốc tế; Các tổ chức đối tác được lựa chọn để gửi ngoại tệ và vàng, ủy thác đầu tư phải là tổ chức được xếp hạng tín  nhiệm quốc tế cao,… Sau khi ban hành Nghị định 86/CP, vàng tiêu chuẩn quốc tế là một thành phần của DTNHNN. Toàn bộ số dư Quỹ can thiệp vàng được chuyển vào Quỹ  bình ổn tỷ giá và giá vàng. Năm 2002, Thống đốc NHNN đã  cho điều chuyển một phần từ Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng sang Quỹ dự trữ ngoại hối để đầu tư trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, NHNN chưa tiến hành bất kỳ hoạt động can thiệp nào đối với thị trường vàng trong nước cũng như chưa tiến hành bất kỳ hoạt động đầu tư nào đối với số vàng thuộc DTNHNN. NHNN cũng không mua bổ sung vàng dự trữ. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán thế giới Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán trao đổi các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia ” thị trường”. Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges Bỉ, tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một tiếng Pháp là “Bourse” tức là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers Bỉ, ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London Anh, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu. Sự phát triển của thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khoán… với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra sơ khai ngay cả khi ở ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ở Mỹ cho đến năm 1921, khu chợ này được chuyển từ ngoài trời vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập. Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, cácphương thức giao dịch ở các Sở giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch, các Sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ công kết hợp \/ói máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia. Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán Thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên, lúc xuống, vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán Thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng rồi đến “ngày thứ năm đen tối ” tức ngày 29/10/1929 đã làm cho thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho mãi tới chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng hồi phục dần và phát triển mạnh và rồi cho đến năm 1987 một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán. Thế giới điên đảo với “ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê gớm, mất lòng tin và phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Theo quy luật tự nhiên, sau gần hai năm mất lòng tin, thị trường chứng khoán Thế giới lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên Thế giới sụt kinh khủng tuy ở mỗi khu vực và mỗi nước ở những mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khoán toàn cầu và cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước. Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông nam Á phát triển vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980 - đầu năm 1990. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên Thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước. Song cũng có một số thị trường chứng khoán có sự trục trặc ngay từ ban đầu như thị trường chứng khoán Thái Lan, Inđônêsia, hoạt động trì trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoá và do không được quan tâm đúng mức, thị trường chứng khoán Philippine kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hoạt động của 2 Sở giao dịch chứng khoán Makita và Manila, thị trường chứng khoán Balan, Hungari gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp, … Có thể nói, Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20 / 07 / 2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28 / 07 / 2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/04/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4 tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường với lời nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận. thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến130 điểm. Lý do chính là ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà đầu tư trong nước, trong khi "room" cũng hết. Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng). Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân. Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước.. Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam non trẻ này đã có “màn trình diễn” tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có lại được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm. Năm 2006 , TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng 152,4% Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường. Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên Hastc. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006. Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật Mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) Đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12- 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng. Tính đến phiên 29/12/2006, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Còn tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng. Xét riêng về mức vốn hoá cổ phiếu, toàn bộ thị trường chứng khoán chính thức Việt Nam với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, tương đương với 13,8 tỷ USD. Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường. VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên giao dịch có nhiều biến động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ giao động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm, Hastc-Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được mức tăng trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào cuối năm 2006. Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng. TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên. Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các c ơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.Tính từ đầu năm đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai đoạn chính. Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã CPH, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường CK có nguy cơ thừa "hàng". TCK Việt Nam là thị trường tăng trưởng tệ nhất châu Á tính từ đầu năm 2009 đến nay. Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm tới 30%. Tuy nhiên một số công ty vẫn có kết quả kinh doanh tốt và giá cổ phiếu của những công ty này hiện vẫn ở trong mức rất hấp dẫn. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục đi xuống trong năm 2009. Chỉ số Vn-Index từ đầu năm đến nay hạ 22%, mức hạ tệ nhất so với các thị trường châu Á khác. Giá trị giao dịch cổ phiếu trung bình trong ngày tháng 2/2009 tại Sàn giao dịch chứng khoán TPHCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội chỉ là 13 triệu USD. Tổng giá trị vốn hoá thị trường rơi xuống mức khoảng 10 tỷ USD, không một cổ phiếu niêm yết nào có giá trị vốn hoá thị trường lớn hơn 1 tỷ USD và chỉ có 4 cổ phiếu có giá trị vốn hoá hơn 500 triệu USD. Nhà đầu tư nước ngoài đã giảm bán, sau khi bán ra số cổ phiếu với tổng giá trị 127 triệu USD trong khoảng thời gian từ tháng 9/2008 đến hết tháng 12/2008, nhà đầu tư nước ngoài chỉ bán ra lượng cổ phiếu có giá trị khoảng 2 triệu USD từ đầu năm đến nay. Nguyên nhân chính cho điều này là phần lớn tiền đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, nếu không tính đến những quỹ đóng, đã rút hết khỏi thị trường Việt Nam (Quỹ đầu tư chứng khoán PXP Vietnam Emerging Equity Fund mới đây cho phép nhà đầu tư rút cổ phiếu ra và sau đó họ có thể bán số cổ phiếu này). Chưa hết thông tin về lợi nhuận các công ty không mấy tích cực. Tăng trưởng doanh số khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước nhưng lợi nhuận hoạt động chỉ tăng 8%. Thua lỗ ở các khoản đầu tư địa ốc và chứng khoán đẩy lợi nhuận ròng giảm 25%. Trong số 329 công ty niêm yết, 23 công ty thua lỗ, trong đó có cả một số công ty trước đây từng được nhà đầu tư nước ngoài hết sức ưa chuộng như Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE), Công ty cổ phần Gemadept (GMD) và Công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SAM). Tuy nhiên cũng có một số công ty công bố lợi nhuận ấn tượng, đây là những công ty có hoạt động kinh doanh đi theo hướng thế mạnh và không đầu tư vào thị trường bất động sản và ngân hàng.Một số nhà đầu tư mạo hiểm có thể tiếp tục tham gia vào thị trường với mục tiêu dài hạn, họ có thể mua một số cổ phiếu của các công ty tốt. Tuy nhiên theo đánh giá của HSBC thị trường chứng khoán Việt Nam năm nay sẽ vẫn khó khăn. Suốt 2 tháng đầu năm 2009, thị trường chứng khoán luôn trong tình trạng ảm đạm, èo uột. Cảnh vắng lặng tại sàn giao dịch cho thấy thị trường chứng khoán đã không còn sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong thời điểm này. Bởi trong suốt năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục chuỗi ngày suy giảm với mức độ ngày càng trầm trọng hơn. Nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường, các ngân hàng bán cổ phiếu giải chấp… tất cả những yếu tố này đã làm thị trường giảm sâu. Tính chung cho cả tháng 2/2009 VN Index đã mất 57,47 điểm (18,95%) so với phiên cuối tháng 1. Bất ngờ, sáng (11/3) thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam trở nên rất sôi động, mở đầu cho một loạt các phiên tăng điểm của thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư đã chứng kiến một tháng 3 tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11/2008. VN-Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh trong hai tuần cuối tháng, mức tăng kỷ lục trong nửa năm qua. Lịch sử hình thành thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối ( viết tắt là FOREX- FOReign EXchange market) -Là thị trường liên ngân hàng nhằm trao đổi một ngoại tệ sang các ngoại tệ khác, được hình thành vào năm 1971 với việc bãi bỏ các thỏa thuận Bretton Woods và chuyển sang tỷ giá cố định cho đến tỷ giá nổi. Nói chung, tập hợp các đối tác giao dịch thị trường để đổi lấy việc trao đổi các khoản tiền quy định của đồng tiền tệ một quốc gia khác theo thỏa thuận trên việc xác định tỷ giá trong ngày. Việc trao đổi tỷ giá của một loại tiền tệ này ứng với loại tiền tệ khác được xác định bởi các nhân tố thị trường - cung và cầu. . Khối lượng giao dịch của thị trường tiền tệ toàn cầu không ngừng phát triển. Điều này được kết hợp với sự phát triển của thương mại quốc tế và bãi bỏ các hạn chế tiền tệ ở nhiều nước. Hằng ngày, khối lượng của giao dịch ngoại hối trên thế giới là khoảng 3000 tỷ đô la Mỹ. Khoảng 80% tất cả các giao dịch đầu cơ, nhằm mục đích thu lợi nhuận từ sự khác biệt tỷ giá hối đoái. Việc này đã thu hút nhiều người tham gia với cả hai tổ chức tài chính và đầu tư cá nhân. Do tốc độ phát triển nhanh của công nghệ thông tin và truyền thông trong hai thập kỷ qua, thị trường đã tự thay đổi hẳn. Giờ đây nghề nghiệp của người giao dịch ngoại tệ đã không còn là 1 bí mật, mà đã trở nên gần như phổ biến. Việc giao dịch tiền tệ gần đây đã không chỉ thu hút các ngân hàng độc quyền lớn nhất, mà còn là sự phổ biến rộng rãi thông qua hệ thống giao dịch điện tử ngày nay. Các ngân hàng lớn nhất cũng thích giao thương trong các hệ thống điện tử giao dịch cá nhân song phương. Hằng ngày, khối lượng giao dịch của các ngân hàng quốc tế lớn với hàng tỷ USD như – Ngân hàng Deutsche, Ngân hàng Barclays , Ngân hàng Liên bang Thụy Sĩ, Citibank, Ngân hàng Chase Manhattan, Ngân hàng Standard Chartered. Một tính chất quan trọng của thị trường ngoại hối có vẻ kỳ lạ nhưng lại ổn định. Mọi người đều biết rằng, một trong những tính chất của thị trường chứng khoán đó là sự giảm đột ngột và cho thấy rất rõ ràng trong cuộc khủng hoảng gần đây. Tuy nhiên, không giống như thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối không sụt giảm. Nếu các cổ phiếu là giảm giá trị, không thành công cho các công ty phát hành và nhà đầu tư. Nếu đồng đô la giảm xuống, điều này có nghĩa là loại tiền tệ khác đã trở nên mạnh hơn, ví dụ: vào cuối năm 2008 - đầu năm 2009 đồng đô la đã tăng 10% so với tất cả các loại tiền tệ. Tuy nhiên, thị trường sẽ không sụp đổ, thương mại vẫn tiếp tục bình thường. Đây là sự ổn định của thị trường với các giao dịch kinh doanh liên quan: tiền - hàng hóa với việc thanh toán hoàn toàn và luôn được giao dịch thường xuyên. Điều chính yếu của ưu điểm thị trường ngoại hối là có thể đạt được thành công bền vững với sức mạnh trí tuệ. Thị trường ngoại hối hoạt động 24/24, nó không liên quan trực tiếp đến những giờ làm việc nhất định của thị trường chứng khoán, giao dịch diễn ra giữa các ngân hàng nằm ở các phần khác nhau của thế giới. Tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái là sự thay đổi đáng kể diễn ra rất thường xuyên, cho phép thực hiện một số giao dịch mỗi ngày. Nếu bạn có công nghệ giao dịch đáng tin cậy, thì bạn có thể kinh doanh hiệu quả mà không gì có thể so sánh được. Không phải vô cớ mà các ngân hàng lớn nhất mua thiết bị điện tử đắt tiền và gồm hàng trăm người giao dịch trong các lĩnh vực khác nhau của thị trường ngoại hối. Ngày nay, các chi phí ban đầu vào kinh doanh này là rất nhỏ. Thật vậy, để được đào tạo giao dịch ban đầu, bạn cần một máy tính, mở tài khoản và tạo ra một khoản tiền gửi trị giá dưới vài ngàn đô la. Bạn sẽ không bao giờ có thể khởi động bất kỳ kinh doanh khác với số tiền như vậy. Nhiều dịch vụ cung cấp trong lĩnh vực này, và để tìm một nhà môi giới đáng tin cậy - là một điều rất thực tế. Phần còn lại phụ thuộc vào từ chính người giao dịch. Như trong bất kỳ khác của kinh doanh ngày nay, tất cả phụ thuộc vào chính bạn. Hệ thống tiền tệ quốc tế đã đi một chặng đường dài trong thiên niên kỷ của lịch sử nhân loại, nhưng chắc chắn ngày hôm nay đã trải qua một số thay đổi thú vị và không thể tưởng tượng trước đó. Hai thay đổi chính xác định một hình ảnh mới của hệ thống tiền tệ thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_phan_tich_viec_su_dung_don_bay_tai_chinh_trong_doanh_nghiep_.doc
Luận văn liên quan