Bài học lớn nhất được rút ra đó là sự phối hợp, c ộng đồng trách nhiệm
giữa các cấp chính quyền, bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ và Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam trên cơ sở quyết tâm chính trị cao của Nhà nước và nhân dân
cùng phấn đấu khắc phục bất bình đẳng giới và nâng cao quyền năng cho
phụ nữ. Chủ trương nhất quán của Việt Nam về bình đẳng giới và tiến bộ
phụ nữ đã một lần nữa được thể hiện thông qua việc công bố Chiến lược
quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010. Còn nhiều khó khăn
và thách thức đang đặt ra đối với Việt Nam trên chặng đường khắc phục sự
phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi lĩnh vực c ủa đời sống xã hội. Tuy
nhiên, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết tâm phấn đấu thực
hiện đầy đủ các c am kết đối với c ông ước CEDAW./.
45 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3858 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phụ nữ và nghèo đói, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính thức của phụ nữ cũng
như vai trò của giấy CNQSDĐ trong việc giải quyết tình trạng này.
15
Bảng 2. Hộ gia đình có giấy CNQSDĐ có cơ hội tiếp cận các nguồn tín
dụng chính thức tốt hơn
Nguồn tín dụng
Chính
thức
Bán
chính
thức
Tư
nhân
Tổng
Tổng số 56 10 35 100
Giấy CN QSDĐ cho mọi loại
đất
Nam giới là chủ hộ
Không 40 13 47 100
Có 62 9 29 100
Nữ giới là chủ hộ
Không 43 12 46 100
Có 51 11 39 100
→ Bảng số liệu trên đã phần nào thấy rõ được sự chênh lệch bất bình đẳng
giữa nam giới và phụ nữ trong việc sở hữu tài sản. Phụ nữ vẫn chưa có vị thế
trong gia đình và xã hội so với nam giới. Do đó mà tác động ảnh hưởng đến
đời sống của họ.
- Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở người phụ nữ. Tài sản
ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài
chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao
động cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. Như đã trình bày ở trên, do thu nhập
thấp nên người phụ nữ không thể đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu về lương
16
thực thực phẩm. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao động nặng nề đã
làm giảm sức khoẻ do đó cũng không đảm bảo được các kỹ năng cũng như
sức lao động cơ bản. Tài sản tự nhiên như đât đai, thiếu tài sản tự nhiên có
nghĩa là thiếu, không có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh
tác được. Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người
nghèo có rất ít hoặc hầu như không có các phương tiện sản xuất. Điều này đã
hạn chế khả năng lao động của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những
người có đủ phương tiện sản xuất nó cũng làm giảm thu nhập của họ. Do
không có những tài sản giá trị để bảo đảm nên người nghèo cũng có rất ít
khả năng tiếp cận với các tổ chức cho vay vốn, do thu nhập thấp nên người
phụ nữ cũng không có khả năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là thiếu hụt tài sản
tài chính. Còn tài sản xã hội, như các mối quan hệ và trách nhiệm đối với
nhau để khi cần có thể nhờ cậy và ảnh hưởng chính trị đối với các nguồn
lực, đối với người phụ nữ điều này cũng rất hạn chế, do thu nhập thấp, lúc
nào cũng phải lo chạy ăn đủ bữa nên người phụ nữ không quan tâm hoặc
không có khả năng tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội. Một điều cản
trở nữa là, hầu hết khi tham gia vào các nhóm, tổ chức nào đó cũng cần có
thời gian, trong khi Phụ nữ phải gánh vác công việc của mình như nam giới
thì họ còn gánh vác thêm công việc nhà, chăm sóc dạy dỗ con cái. Điều này
đã làm cho người người phụ nữ khó tham gia vào các hoạt động, các tổ chức
các câu lạc bộ để góp phần nâng cao đời sống của chính mình.
3.2.6. Do phụ nữ có nguy cơ dễ bị tổn thương hơn nam giới.
Ở những người phụ nữ, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm
với sự khốn cùng về vật chất và con người.
Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là gì?
17
Nó chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như
bị ngược đãi, đánh đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Nói cách khác,
những rủi ro mà người phụ nữ phải đối mặt chính là nguyên nhân khiến họ
rất dễ bị tổn thương.
Những người phụ nữ do tài sản ít, thu nhập thấp, họ chỉ có thể trang trải
hạn chế, tối thiểu các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì vậy, khi rủi
ro xảy ra họ rất dễ bị tổn thương và rất khó vượt qua được các cú sốc có hại,
những cú sốc mang tính tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ
dàng vượt qua được. Do thu nhập thấp, người phụ nữ có rất ít khả năng tiếp
cận với các cơ hội tăng trưởng kinh tế, vì thế họ thường phải bỏ thêm các chi
phí không đáng có hoặc giảm thu nhập. Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên
một tâm lý chung của người phụ nữ là sợ phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ
luôn né tránh với những vấn đề mang tính rủi ro cao, kể cả khi điều đó có
thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành công (ví dụ đầu tư vào giống lúa
mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...) chính điều này đã làm họ sống
tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng quay của thị trường và do vậy
cuộc sống của họ càng trở nên nghèo khó hơn.
3.2.7. Do người phụ nữ có vị thế thấp kém trong xã hội.
Không có tiếng nói và quyền lực, những người phụ nữ thường bị đối xử
không công bằng, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Do vậy họ thường không có tiếng
nói quyết định trong các công việc chung của cộng đồng cũng như các công
việc liên quan đến chính bản thân họ. Không có tiếng nói và quyền lực còn
thể hiện ở chỗ những người phụ nữ bị đối xử bất bình đẳng trong chính gia
đình của họ. Người phụ nữ không có quyền quyết định việc gì và phải phụ
thuộc hoàn toàn vào người chồng của họ.
18
Theo các nhà nghiên cứu xã hội, phụ nữ thường phải gánh chịu ảnh hưởng
của nghèo đói nhiều hơn so với nam giới, do họ không có quyền quyết định,
có trình độ học vấn thấp hơn và có ít cơ hội hơn…
Những người phụ nữ nghèo ở các vùng nông thôn thường ít học, đẻ nhiều
nên sức khỏe kém. Thiếu sức lao động lại không có kỹ năng nghề nên việc
làm của phụ nữ bấp bênh, thu nhập thấp. Từ đó thiếu cơ hội nâng cao kỹ
năng và trình độ… Tất cả những yếu tố đó tạo thành cái vòng luẩn quẩn
nghèo đói đối với nhiều thế hệ phụ nữ.
Sức khỏe hạn chế, văn hóa thấp và thiếu vốn làm ăn là những đặc điểm
trong số phận mỗi người. Do vậy, hướng về phụ nữ nghèo nông thôn bằng
những việc làm có ý nghĩa thiết thực như các điển hình trên đây là hết sức
cấp bách và cần được coi là một nội dung quan trọng của các chính sách
kinh tế-xã hội liên quan ở các cấp, ở mỗi cộng đồng. Bởi điều chắc chắn là
khi cuộc sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ được cải thiện thì đó sẽ
là “nền tảng vàng” để gia đình, con cái họ phát triển, bởi người phụ nữ luôn
luôn hướng đến hạnh phúc gia đình bằng những suy nghĩ và việc làm rất cụ
thể.
3.3. Quan hệ giới và sự thiếu quyền quyết định.
3.3.1. Mối quan hệ giới.
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề giới càng trở thành
vấn đề được quan tâm, chú ý hơn cả. Cụ thể hơn cho mối quan hệ giới đó
chính là vấn đề bất bình đẳng giới. Bất bình đẳng giới diễn ra trên nhiều lĩnh
vực khác nhau của cuộc sống.
- Đầu tiên, bất bình đẳng giới được thể hiện ngay trong tỷ lệ giới tính khi
sinh. Tỷ số giới bình thường là khi có 105 đến 108 bé gái sinh ra so với 100
bé trai. Ở Việt Nam, từ những năm 2000, số liệu thống kê qua các nghiên
19
cứu cho thấy có xu hướng mất cân bằng giới tính khi sinh, thể hiện qua số
trẻ em trai sinh ra đang ngày càng tăng lên so với trẻ em gái. Theo kết quả
của cuộc Tổng Điều tra Dân số do Tổng cục Thống kê Việt Nam phối hợp
cùng Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) thực hiện vào năm 2009, tỷ số
giới tính khi sinh của Việt Nam đã tăng đột biến lên đến mức 110.6 vào năm
2009. Đặc biệt là điều này chỉ xảy ra gần đây, từ năm 2003.
- Một lĩnh vực khác mà bất bình đẳng giới thể hiện đó trong lĩnh vực chính
trị.
Tỷ lệ phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1999-2004 so
với nam giới như sau: Cấp tỉnh/ thành phố: nam chiếm 76,67% trong khi đó
nữ chỉ chiếm 22,33%; cấp quận/ huyện: nữ 20,12% còn cấp xã/ phường nữ
chiếm tỷ lệ thấp hơn: 16,56%.
- Phụ nữ tập trung quá nhiều trong một số lĩnh vực và nghề nghiệp trong
khi đó nam giới lại tập trung trong một số lĩnh vực và nghề nghiệp khác.
Gần một nửa số lao động nữ chủ yếu tự làm sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ
này ở lao động nam là một phần ba. Ngoài lĩnh vực nông nghiệp, trong khi
thường thấy phụ nữ tự làm (26% lao động nữ và 19% lao động nam) thì
thường thấy nam giới với các việc làm hưởng lương: 41% nam giới (ngược
lại với 26% phụ nữ). Trong các lĩnh vực khác nhau, tỷ lệ phần trăm phụ nữ
lao động làm việc trong nông nghiệp và thương mại lớn hơn so với tỷ lệ
phần trăm nam giới lao động, và tình hình ngược lại trong lĩnh vực công
nghiệp thứ cấp và dịch vụ. Thậm chí trong các công việc này cũng cho thấy
sự khác biệt giới.
Ngoài ra, bất bình đẳng giữa nam và nữ giới còn được thể hiện trên rất
nhiều lĩnh vực khác như: gia đình, việc làm, nghề nghiệp…
► Nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng giới được xác định trên
những nguyên nhân cơ bản như:
20
- Từ quan niệm sống tồn tại từ xa xưa và vẫn còn rơi rớt cho đến nay nên
người phụ nữ không có nhiều cơ hội để tiếp cận y tế, giáo dục, việc làm…
nâng cao vị thế của mình.
- Bên cạnh đó, sự thay đổi chuẩn mực văn hóa chưa được rõ ràng cũng chính
là nguyên nhân cơ bản để tình trạng bất bình đẳng giới vẫn diễn ra. - Đời
sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bất bình đẳng giới.
- Một nguyên nhân nữa là các chính sách phát triển về giới vẫn có thể tạo ra
các kết cục về phân biệt giới. Các chính sách cùng các chuẩn mực xã hội
phân bố không đồng đều có thể dẫn đến tình trạng tiếp cận các nguồn lực
không đồng đều giữa nam và nữ…
► Những ảnh hưởng, hậu quả của bất bình đẳng giới trong xã hội tạo
nên nghèo đói là rất rõ ràng.
- Bất bình đẳng giới không tạo ra cơ hội tiếp cận cũng như phát triển cho
nữ giới nên không thể mang lại cơ hội ngang bằng để phát triển các lĩnh vực
trong cuộc sống như: kinh tế, văn hóa, xã hội…
- Việc không bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ làm ảnh hưởng đến vị thế
của phụ nữ, hiệu quả của công việc, phát triển kinh tế, dẫn đến nghèo đói.
Phụ nữ nghèo một phần do các lý do chủ quan như: sức khỏe, năng lực…
thì việc không được tiếp cận với những cơ hội trong cuộc sống một cách
công bằng nên hình ảnh người phụ nữ thường gắn với nghèo đói.
Vì vậy, việc xóa bỏ thói quen ngàn đời đó thực sự là một “cuộc cách
mạng” khó, đòi hỏi thời gian lâu dài.
Thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ta ngày càng có nhiều chính sách
thể hiện sự quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới, bênh vực quyền lợi cho nữ
giới, quy định các biện pháp thực hiện nhằm xoá bỏ dần những phong tục,
tập quán lạc hậu không có lợi cho những người phụ nữ…
21
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: "Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và
chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học
vấn; có cơ chế chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ
quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ;
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc".
Nhà nước và nhân dân Việt Nam lên án sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới
và đang nỗ lực loại trừ sự phân biệt đối xử với phụ nữ bằng nhiều biện pháp.
Tuy nhiên, trong đời sống xã hội, vẫn còn các hành vi đối xử bất công với
phụ nữ, đặc biệt là ở các công ty, xí nghiệp tư nhân, liên doanh nước ngoài
v.v… Các cơ quan chức năng của Nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp triệt
để hơn nữa nhằm bảo đảm cho phụ nữ quyền bình đẳng, không bị phân biệt
đối xử như pháp luật đã quy định. Các tổ chức công đoàn, nữ công và hội
phụ nữ cơ sở chủ động, tích cực trong vai trò người giám sát việc thực thi
pháp luật và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của lao động nữ.
Công tác tuyên truyền giáo dục sẽ tiếp tục được đẩy mạnh để mọi người
dân, đặc biệt là phụ nữ có thể hiểu rõ và tự bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
(Báo cáo CEDAW lần 6 - Điều 6)
Là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các
hoạt động kinh tế và dẫn đầu khi vực Châu Á Thái Bình Dương về tỷ lệ nữ
giới trong quốc hội, Việt Nam được xem như là một trong những nước tiến
bộ hàng đầu vê lĩnh vực bình đẳng giới. Nước ta có những chính sách phù
hợp nhằm đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ và nam giới và đã có những
tiến bộ đáng kể nhằm giảm khoảng cách về giới trong lĩnh vực y tế và giáo
22
dục cũng như cải thiện tình hình của phụ nữ nói chung. (Báo cáo về tình
hình giới ở Việt Nam CGA-2006).
Trong những thập kỷ gần đây, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ nổi bật
trong việc cải thiện điều kiện sống của nhân dân và giảm chênh lệch giới,
phản ánh các nỗ lực đáng kể của đất nước trong xóa đói giảm nghèo và cam
kết của Chính phủ tiến tới bình đẳng giới. Việt Nam đứng thứ 109 trong số
177 quốc gia về chỉ số phát triển con người của Chương trình phát triển liên
hiệp quốc (UNDP, 2006), thuộc nhóm các quốc gia trung bình về phát triển
con người.
Những nỗ lực trong việc thu hẹp khoảng cách giới và đầu tư vào nguồn
vốn con người đã dẫn đến việc Việt Nam được xếp hạng thứ 80 trên thế giới
(trong tổng số 136 quốc gia) về chỉ số phát triển giới (GDI) và trở thành
quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất trong việc xóa bỏ khoảng
cách giới trong vòng 20 năm trở lại đây ở vùng Đông Á. Những nỗ lực này
bao gồm việc phân phối thành công các dịch vụ giáo dục và chăm sóc sức
khỏe cho cả phụ nữ và nam giới, cải thiện khả năng tiếp cận cơ hội việc làm
và tham gia vào quá trình ra quyết định. Kết quả của những biện pháp này
thể hiện ở tỷ lệ biết đọc biết viết của người lớn cao cho cả nam lẫn nữ, số
liệu học sinh nhập học cho thấy sự khác biệt không đáng kể giữa bé trai và
bé gái, và tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội cao nhất trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương (27% từ 2002) (TCTK-Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ
nữ, 2005). Việt Nam cũng tự hào là một trong những quốc gia có tỷ lệ tham
gia kinh tế cao nhất trên thế giới: 85% nam giới và 83% nữ giới trong độ
tuổi 15 đến 60 tham gia vào lực lượng lao động trong năm 2002.
(Báo cáo phát triển Việt Nam, 2004).
3.3.2. Phụ nữ và sự thiếu quyền quyết định.
23
Sự bất bình đẳng trong quyền quyết định của người phụ nữ là một quan
điểm vốn tồn tại từ xa xưa cho đến nay trở thành một thói quen, một nếp
nghĩ ăn sâu vào trong đời sống của mỗi người và vẫn tiếp diễn cho đến nay.
Có nhiều vấn đề trong sự bất bình đẳng đối với nữ trong mối quan hệ giới
từ trước đến nay thể hiện như: việc cung cấp cơ hội giáo dục cho trẻ em gái
và phụ nữ dân tộc thiểu số; việc tiếp tục tồn tại các định kiến giới trong các
tài liệu giáo dục và sách giáo khoa…
Tuy nhiên, để giải quyết các vấn đề trên thì trước tiên chúng ta cần phải tác
động trực tiếp để làm sao mà nữ giới có được quyền quyết định cho riêng
mình.
Theo báo cáo của Ngân hàng chính sách xã hội, tính đến tháng 12/2002,
số hộ nghèo do nữ làm chủ hộ được vay vốn tín dụng chiếm khoảng 60%
(tăng 20% so với thời điểm báo cáo lần 3 và 4). Như vậy, từ việc người
phụ nữ được vay vốn tín dụng nên họ có thể tự quyết định về kinh tế trong
gia đình cũng như công việc của mình.
Trước hết với tư cách là người lao động sản xuất. Phần lớn phụ nữ nước ta
làm nghề nông. Số liệu cho biết, cứ 100 lao động nữ thì có 46 người làm
nông, con số này ở nam là 39. Trong đó, tỷ lệ nữ sản xuất ở hộ gia đình cũng
cao hơn so với nam (63% so với 53% - Viện Khoa học xã hội Việt Nam,
2007. Báo cáo phân tích số liệu điều tra về bình đẳng giới). Điều này cho
thấy khi nước ta thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu, hạn chế các khoản chi
hỗ trợ trực tiếp cho nông dân theo cam kết với WTO, đồng thời khi thị
trường mở cửa ngày càng rộng đối với nông phẩm nhập khẩu thì nguy cơ
phá sản hoặc thu nhập bấp bênh đối với nữ là cao hơn hẳn so với nam. Trên
thực tế vẫn còn nhiều rào cản xã hội đang cản trở địa vị của họ trong gia
đình và bước tiến ngoài xã hội, bằng chứng là nhiều nghiên cứu thực nghiệm
đã chỉ ra rằng địa vị của người phụ nữ nông thôn tuy được cải thiện song cơ
24
bản vẫn còn rất thấp so với nam giới. Ví dụ: đứng tên quyền sử dụng nhà
đất: vợ chiếm 7,3%, chồng là 88,6% (điều tra gia đình Việt Nam, 2006); tỷ
lệ phụ nữ tham gia vào hệ thống chính trị cơ sở là rất thấp, nhiệm kỳ 2004-
2009 phụ nữ là đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã chiếm 19,53%; tham gia
vào ủy ban nhân dân chiếm 3,9% và rất ít phụ nữ đảm nhiệm vai trò chủ tịch
hay phó chủ tịch ở cấp xã...
Theo báo cáo về tình hình giới ở Việt Nam năm 2006, dù tỷ lệ nữ giới
tham gia vào hệ thống chính trị khá cao nhưng tiếng nói và sự hiện diện của
họ vẫn chỉ ở bên lề trong bối cảnh văn hóa, chính trị với đa số là nam giới và
quyền quyết định vẫn thuộc về một số nam giới.
► Nguyên nhân của tình trạng này là:
- Do sự thay đổi các chuẩn mực văn hóa còn chưa được rõ ràng, cơ chế
tuyển dụng thiếu sự mở rộng.
Quá trình thay đổi còn tập trung vào số lượng chưa chú trọng vào xây dựng
năng lực cho phụ nữ để họ có thể thực hiện tốt chức năng của mình và có
khả năng quyết định được tốt hơn.
- Do nữ giới không có cơ hội bình đẳng trong công việc, tiếp cận giáo dục,
y tế, thời gian, tuổi tác…nên dẫn đến quyền quyết định trong kinh tế, trong
công việc, trong gia đình không cao.
Trong gia đình, có thể nói mối quan hệ vợ - chồng là mối quan hệ “chủ đạo”,
không phải chỉ vì nó là mối quan hệ được thiết lập đầu tiên để tạo nên một
“tổ chức” gọi là gia đình, mà còn vì nó là mối quan hệ sẽ chi phối toàn bộ
các mối quan hệ khác. Trước kia, ngay từ khi còn sống chung với gia đình
thì người phụ nữ cũng không được quyết định trong mối quan hệ hôn nhân
của mình, mà phụ thuộc vào cha mẹ, nếu chống lại thì được cho là vi phạm
chuẩn mực đạo đức, bất hiếu với cha mẹ. Rồi khi đã đi lấy chồng thì quyền
quyết định chủ yếu trong mọi công việc gia đình cũng phụ thuộc chủ yếu
25
vào người chồng và có thể là con trai trong gia đình nếu không may người
chồng mất đi. Và quan niệm đó cho đến ngày nay vẫn tồn tại tuy không còn
nhiều. Những năm trở lại đây hầu như người phụ nữ không còn chấp nhận
những cuộc hôn nhân dựa trên nền quan niệm ấy nữa. Họ không chấp nhận,
không phải chỉ vì những người phụ nữ đòi quyền bình đẳng, mà còn vì đàn
ông cũng không muốn hoặc không thể gánh vác vai trò “trụ cột gia đình”.
Phụ nữ ngày nay, có gia đình rồi vẫn được tự do với các mối quan hệ xã hội
bên ngoài, tự do tìm kiếm hay đón nhận cơ hội nghề nghiệp, tự do quyết
định các vấn đề tài chính.
Tuy nhiên, phụ nữ làm kinh tế gia đình được hưởng các quyền lợi như nam
giới theo quy định chung, ngoài ra không có quy định riêng nào khác.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện
pháp nhằm phát triển kinh tế hộ gia đình, đặc biệt phát triển mạnh ở khu
vực nông thôn, coi mỗi hộ gia đình là một đơn vị kinh tế, tạo việc làm
cho chính các thành viên trong gia đình, thu hút lao động tại chỗ, góp phần
xoá đói giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân dân. Các mô hình cho vay tín
dụng nhỏ từ các chương trình việc làm, xoá đói giảm nghèo, kinh tế trang
trại, đã giúp phụ nữ vừa có việc làm, vừa tăng thu nhập cho gia đình.
Ngoài ra, phụ nữ còn được sự quan tâm của các tổ chức đoàn thể. Đặc biệt
các cấp Hội phụ nữ được Chính phủ cho phép đứng ra làm tín chấp để tổ
chức cho hội viên vay vốn làm kinh tế gia đình. Hàng năm, có khoảng 30%
trong tổng số dự án nhỏ do các cấp Hội phụ nữ đứng ra tổ chức cho phụ nữ
vay. Mức thu nhập bình quân của người làm kinh tế gia đình bằng khoảng
40% - 60% và khoản thu nhập này đã đóng góp vào tăng thu nhập cho bản
thân và gia đình họ.
26
3.4. Vai trò của phụ nữ trong tấn công nghèo đói.
3.4.1. Phụ nữ ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động chính trị -
xã hội. Đây chính là vai trò quan trọng của phụ nữ trong tấn công
nghèo đói, và xóa đi khoảng cách của sự bất bình đẳng giới.
Đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công cuộc đổi
mới xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện
nay, phụ nữ Việt Nam đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là động lực thúc đẩy
chung của xã hội; vừa dung hòa những bản sắc truyền thống vốn có của
mình, vừa thích ứng với những thay đổi mới của xã hội và hội nhập với văn
hóa toàn cầu. Phụ nữ không chỉ giỏi trong công việc nhà mà còn tích cực
tham gia và gặt hái nhiều thành công trong các lĩnh vực xã hội. Vai trò của
người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước ngày càng được khẳng định một cách rõ nét hơn bao giờ hết, đặc biệt
là vai trò của họ trong tấn công nghèo đói.
Nghị quyết của Đảng chỉ rõ phụ nữ Việt Nam “là người lao động, người
công dân, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người”.)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ
nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.
Các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước về phụ nữ trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập tiếp tục khẳng định và nâng cao nhận thức của xã hội về
vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự tham gia của cả hệ thống
chính trị đối với công tác phụ nữ, đặc biệt là sự nỗ lực của bản thân phụ nữ
để chị em tham gia ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng
27
lớn hơn vai trò của mình trong tấn công nghèo đói, giúp cho sự phát triển
chung của gia đình, cộng đồng, đất nước và thực hiện bình đẳng giới.
Trong thời kỳ CNH – HĐH, người phụ nữ càng phải chịu nhiều đòi hỏi
khắt khe của xã hội hiện đại. Bên cạnh vai trò quan trọng trong gia đình,
người phụ nữ còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Phụ nữ có mặt
trong hầu hết các công việc và nắm giữ nhiều vị trí quan trọng. Ngày càng
nhiều người trở thành chính trị gia, các nhà khoa học nổi tiếng, những nhà
quản lý năng động. Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặt của người phụ nữ là
không thể thiếu như ngành dệt, may mặc, du lịch, công nghiệp dịch vụ, v.v...
“Theo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh
hành động của Hội nghị thế giới lần thứ 4 về phụ nữ tại Bắc Kinh, vai trò, vị
trí của phụ nữ Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt. Hiện nay, phụ nữ Việt Nam
góp một phần rất lớn vào quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở số nữ
chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Với hơn 50% dân số và gần 50%
lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết
các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ
máy nhà nước.
Chỉ cần điểm qua một vài con số:
Hiện có tới 33,1% đại biểu nữ trong Quốc hội (khóa XII) - cao nhất ở châu
Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế
giới; số phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên 20%. Hơn 90% phụ
nữ biết đọc, biết viết. Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ 33,95%;
tiến sĩ 25,69%. Ngay trong giới báo chí, tỷ lệ các nhà báo nữ cũng ước tính
28
tới gần 30%. Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành như giáo dục, y tế, và
dịch vụ.
Trong công tác chuyên môn, phụ nữ chiếm số đông trong các bộ môn văn
học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và kinh tế. Nếu
tính tổng số giờ làm việc của nữ giới (kể cả ở nhà và bên ngoài) cao hơn rất
nhiều so với nam giới. Có tới 71% phụ nữ từ 13 tuổi trở lên là những người
có thu nhập. Số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ đã giảm từ 37% năm 1998
xuống còn 8% năm 2004.... Đây là những con số sinh động, là bằng chứng
chứng minh hiệu quả của những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã
tạo điều kiện cho phụ nữ Việt Nam phát triển.
Trong bài phát biểu tại buổi toạ đàm “Vai trò của Phụ Nữ Việt Nam Trong
Thế Kỷ XXI” do Quỹ Phát triển Phụ Nữ Liên Hợp Quốc UNIFEM và Hội
phụ nữ Việt Nam tổ chức dưới sự hỗ trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc tại
Việt Nam, Chủ tịch Hội phụ Nữ Việt Nam – Bà Hà Thị Khiết đã tôn vinh
người phụ nữ Việt Nam: “Trong thành tựu chung của đất nước, có sự
đóng góp tích cực của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Là một lực lượng
lao động xã hội đông đảo, phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ vai trò, khả năng,
sức sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thích ứng
với sự hội nhập và phát triển theo xu thế chung của nhân loại”.
(Trích trong bài báo: “Vị trí vai trò của người phụ nữ trong xu thế hội nhập
và phát triển của đất nước”- ở báo Hậu Giang - Th.s Lê Thị Linh Trang )
“Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn trong việc
tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, HĐND, cơ quan lãnh
đạo của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã
29
hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Tỷ lệ nữ đảng viên mới kết
nạp chiếm từ 25 đến trên 30% trong tổng số đảng viên mới kết nạp. Trong
Ban chấp hành TW Đảng khoá X, có 02 nữ tham gia Ban bí thư TW Đảng,
nữ uỷ viên chính thức BCHTW Đảng chiếm tỷ lệ 7,5% dự khuyết chiếm
14,29%. Nhiệm kỳ 2006 – 2010, nhiều bộ, nghành, địa phương tỷ lệ nữ tham
gia cấp uỷ Đảng đạt từ 15 đến trên 20%; trên cả nước có 03 chị Bí thư tỉnh
uỷ, 05 chị phó bí thư Tỉnh uỷ, Thành ủy.
Trong Quốc Hội, khoá X, nhiệm kỳ 1997 – 2002, tỷ lệ phụ nữ đạt 26,2%
khoá XI, nhiệm kỳ 2002 – 2007 đã tăng lên 27,3%, đến khóa XII, nhiệm kỳ
hiện tại tỷ lệ nữ tuy chỉ còn 25,76% nhưng số đại biểu nữ giữ các trọng trách
quan trọng trong Quốc hội tăng lên: có 03 người là Uỷ viên, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, trong đó 01 Phó chủ tịch Quốc hội, 02 chủ nhiệm Uỷ ban của
Quốc hội và 72 người là uỷ viên các Uỷ ban, Hội đồng. Ở nhiệm kỳ trước,
đại biểu nữ thường chiếm tỷ lệ cao trong các uỷ ban mang tính xã hội, thì
trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII, đại biểu nữ đã tham gia vào Uỷ ban quốc
phòng và An ninh, Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường.
Số lượng nữ là thành viên UBND các cấp nhiệm kỳ 2004 – 2009 cũng tăng
lên đáng kể. Đội ngũ cán bộ, công chức nữ tăng cả số lượng và chất lượng.
Nhiều phụ nữ được bổ nhiệm đề bạt giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý trong các
cơ quan hành chính nhà nước các cấp từ TW đến địa phương.
Trong khoa học và công nghệ, tỷ lệ nữ đã tăng lên rõ rệt: Khoa học tự
nhiên 36,64%; khoa học nông – lâm, thuỷ sản 43,42%, khoa học công nghệ
33%; khoa học xã hội và nhân văn 38,27%. Trong các cơ sở nghiên cứu đã
có 6,3% cán bộ phụ trách là nữ, 10% đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nước do phụ nữ làm chủ nhiệm. Đội ngũ cán bộ khoa học nữ đã có nhiều
30
công trình nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại,
ngày càng nhiều cá nhân và tập thể các nhà khoa học nữ có công trình
nghiên cứu được nhận giải thưởng VIPHOTEC, giải thưởng Covalevskaia,
giải thưởng phụ nữ Việt Nam, Bằng lao động sáng tạo của Tổng liên đoàn
Lao động Việt Nam…
Trong ngành giáo dục đào tạo, phụ nữ chiếm tỷ lệ gần 70%. Trong công
tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, đội ngũ nữ trong ngành y tế đã phấn đấu
nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện y đức, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Trong hoạt động văn hóa thông tin, báo chí, thể thao, đội ngũ nữ văn nghệ
sỹ, nhà báo, biên tập viên, huấn luyện viên, vận động viên đã phát huy tài
năng, trí tuệ đóng góp cho sự phát triển văn hóa, thông tin, nghệ thuật, thể
thao nước nhà. Phong trào phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, văn nghệ,
thể dục thể thao quần chúng ngày càng phát triển. Đặc biệt, với thành tích
xuất sắc, đội bóng đá, bóng chuyền nữ và nhiều nữ vận động viên đã làm
rạng danh đất nước trong thi đấu thể thao khu vực và quốc tế”.
(Trích trong bài báo: “Vai trò phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế”, ở trang web Văn hiến Việt Nam-Diễn đàn trung tâm
nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc – Tác giả: Hoàng Thị Ái
Nhiên).
3.4.2. Vai trò của phụ nữ trong hoạt động kinh tế.
Trong lĩnh vực kinh tế và lao động, phụ nữ có vị trí ở mọi ngành nghề,
công việc. Trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
kinh doanh dịch vụ cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển
31
kinh tế của đất nước. Lao động nữ đã tham gia ngày càng nhiều trong khu
vực phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành và lĩnh vực kinh tế có yêu cầu kỹ
thuật, công nghệ cao và khu vực dịch vụ, khu vực kinh tế phi chính thức.
Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật
quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền
sở hữu đất đai, nhà ở, và tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc
gia đã hoàn thành báo cáo về tình hình thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Đặc biệt, hệ thống các ban
Vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được thành lập ở 45 bộ, ngành và toàn bộ 64
tỉnh, thành phố. Mạng lưới cán bộ tư vấn về giới hoạt động hiệu quả, hệ
thống pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ được tăng cường, Luật
Bình đẳng giới chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2007.
(Trích trong bài báo: “Vị trí vai trò của người phụ nữ trong xu thế hội
nhập và phát triển của đất nước”- ở báo Hậu Giang - Th.s Lê Thị Linh
Trang ).
Trong cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, đã xuất
hiện đội ngũ cán bộ nữ doanh nhân thành đạt trên các lĩnh vực. Họ là nhà
quản lý năng động – giám đốc, tổng giám đốc… các công ty, chủ doanh
nghiệp. Chị em đã năng động bám sát thị trường, nhanh nhạy nắm bắt và xử
lý thông tin, kịp thời đổi mới thiết bị và công nghệ, sản xuất những sản
phẩm có chất lượng, góp phần khẳng định thương hiệu Việt Nam trên trường
quốc tế. Nét nổi bật của đội ngũ nữ doanh nhân là không chỉ lãnh đạo sản
xuất, kinh doanh giỏi mà còn tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ
thiện chăm lo giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn vươn lên
hội nhập cùng cộng đồng.
32
3.4.3. Phụ nữ cả nước tích cực tham gia các hoạt động từ thiện,
khuyên góp vào các quỹ để giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó
khăn → làm giảm đi số hộ nghèo ở nước ta.
Thành tựu xoá đói giảm nghèo của đất nước những năm qua có sự đóng
góp to lớn của phụ nữ. Ngày càng có nhiều phụ nữ vượt nghèo thành công,
vươn lên làm giàu bằng sức lao động sáng tạo và nghị lực của chính mình,
được cộng đồng xã hội tôn vinh. Phát huy truyền thống tương thân tương ái,
phụ nữ cả nước đã đóng góp tích cực vào các hoạt động vì người nghèo.
Nhiều tập thể, cá nhân đã trở thành những điển hình tiên tiên tiến trên mặt
trận chống đói nghèo.
Hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện được các tầng lớp phụ nữ
cả nước tích cực tham gia thường xuyên có hiệu quả. Năm năm qua, phụ nữ
nước nhà đã quyên góp ủng hộ hàng trăm tỷ đồng xây dựng nhà tình nghĩa,
mái ấm tình thường, phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ đồng bào
bị thiên tai, khó khăn hoạn nạn… Nhiều việc làm từ thiện của phụ nữ, trong
đó có đóng góp lớn của phụ nữ các tôn giáo, đã góp phần giảm bớt nỗi đau
cho những người bất hạnh.
Với những đóng góp xứng đáng trong lịch sử phát triển của dân tộc, thời
kỳ kháng chiến, phụ nữ Việt Nam được Bác Hồ phong tăng Tám chữ vàng
“Anh Hùng, Bất Khuất, Trung Hậu, Đảm Đang” thời kỳ đổi mới của đất
nước, Đảng ta đã khen ngợi phẩm chất “Trung Hậu, Đảm Đang, Tài Năng,
Anh Hùng” của phụ nữ. Đó không chỉ là sự khích lệ, động viên mà còn là sự
thừa nhận và đánh giá vai trò lớn của phụ nữ Việt Nam”.
33
(Trích trong bài báo: “Vai trò phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế”, ở trang web Văn hiến Việt Nam-Diễn đàn trung tâm
nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc – Tác giả: Hoàng Thị Ái
Nhiên).
3.4.4. Phụ nữ nông thôn có vai trò quan trọng trong việc tấn công
nghèo đói.
3.4.4.1. Phụ nữ nông thôn giữ vai trò chính trong sản xuất nông nghiệp,
đã áp dụng các phương pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra
những sản phẩm có chất lượng cao.
Phụ nữ nông thôn chiếm 50,8% dân số và khoảng 49% lao động nông thôn
(năm 2002). Năm 2002, tỷ suất hoạt động kinh tế của phụ nữ nông thôn
tương đối cao, đạt 71% (phụ nữ thành thị đạt 56%).
- Với mức 65% lực lượng lao động trong sản xuất nông – lâm – ngư
nghiệp, đội ngũ cán bộ nữ khoa học, phụ nữ nông dân đã có đóng góp rất
quan trọng vào thành tựu sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp của nước ta.
(Theo báo cáo CEDAW lần 5).
- Phụ nữ nông thôn tham gia hầu hết các khâu trong sản xuất nông nghiệp,
nhiều khâu giữ vai trò chính (chiếm tới 70 - 80% lực lượng lao động) như
gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, chăn nuôi. Phụ nữ chiếm 60- 70% lao động
trong các nghề như đan lát, bện tết (mây, tre, nứa), thêu ren, ươm tơ, dệt vải,
dệt chiếu, chế biến lương thực, thực phẩm vv...
34
Phụ nữ nông dân, những người giữ vai trò chủ đạo trong trồng trọt, chăn
nuôi, dịch vụ chế biến…đã tham gia ngày càng tích cực, có hiệu quả các
hoạt động khuyến nông, các hoạt động phổ biến, hướng dẫn ứng dụng khoa
học kỹ thuật trong sản xuất… đã mạnh dạn tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ
thuật và phương pháp làm ăn mới, góp phần tạo ra sản phẩm cây trồng, vật
nuôi có giá trị kinh tế cao. Một bộ phận phụ nữ đã mạnh dạn phát triển kinh
tế trang trại và doanh nghiệp hộ gia đình, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường. Góp
phần bảo đảm an ninh lương thực và giữ vững vị trí là nước xuất khẩu gạo
trên thế giới.
Tình hình phụ nữ tham gia các hoạt động khuyến nông đã được cải thiện.
Với ưu điểm là cẩn thận, chuyên cần, chu đáo và là người tham gia vào hầu
hết các khâu trong quá trình canh tác nông nghiệp nên việc áp dụng khoa
học công nghệ của phụ nữ khá hiệu quả. Theo số liệu điều tra của Hội
LHPNVN năm 2003, cả nước có 2.796.685 phụ nữ tham gia vào hướng dẫn,
phổ biến, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới.
(Theo báo cáo CEDAW lần 5).
3.4.4.2. Phụ nữ nông thôn đã tham gia xây dựng, thực hiện kế hoạch
phát triển và hoạt động cộng đồng:
Hội LHPNVN đã có kế hoạch cụ thể hướng dẫn cho các cấp hội vận động
phụ nữ tham gia như: tích cực đi họp, chủ động tham gia bàn bạc các chủ
trương và quy định đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các biện pháp phòng,
chống tệ nạn xã hội tại địa bàn v.v... Việc ban hành Nghị định 79/2003/NĐ-
CP của Chính phủ về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (với nhiều quy định
mới) đã tạo thêm các cơ hội thuận lợi cho phụ nữ tham gia bàn bạc, quyết
35
định, thực hiện và giám sát các kế hoạch phát triển ở cơ sở. Bên cạnh đó,
phụ nữ còn có tiếng nói đại diện thông qua hoạt động và những đóng góp
của các cấp hội phụ nữ trong quản lý nhà nước ở các địa phương theo tinh
thần Quyết định số 163/HĐBT năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng và nay là
Nghị định số 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ.
Kết quả đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp của các trường đại
học, trung học và dạy nghề nông, lâm nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và
PTNT cho thấy, tỷ lệ nữ sinh trúng tuyển năm học 2002-2003 là: đại học
27,58%, cao đẳng 52,66%, trung học 52,89% và dạy nghề 27,9%. Năm
2002, tỷ lệ nữ tham gia đào tạo ở các bậc học có sự khác nhau: Tiến sĩ
18,70%, Thạc sĩ 57,4%, Đại học 11,8%, Trung học 40,8% và dạy nghề
13,4%.
(Theo báo cáo CEDAW lần 5).
3.4.4.3. Phụ nữ nông thôn ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận tín dụng để
vay vốn làm ăn → giảm đi số hộ nghèo.
Hiện nay, phụ nữ có thể vay vốn sản xuất kinh doanh từ các nguồn: quỹ
của Hội phụ nữ, nhóm phụ nữ tín dụng tiết kiệm, vốn “Ngày tiết kiệm vì phụ
nữ nghèo”, vốn ưu đãi cho hộ nghèo, Quỹ xóa đói giảm nghèo, Ngân hàng
nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng chính sách xã hội... Theo thống kê của
Hội LHPNVN, năm 2003 cả nước có 3,55 triệu phụ nữ được tiếp cận vốn
vay từ các nguồn nói trên; số phụ nữ nghèo được vay vốn là 1,04 triệu
người.
Hiện nay nhà nước đã xây dựng các chợ đường biên, chợ cá, chợ rau, chợ
nổi ở đồng bằng sông Cửu Long. Xây dựng các trung tâm buôn bán ở các
vùng hàng hóa tập trung nhằm giúp phụ nữ nông thôn mua, bán nông sản
thuận lợi tạo điều kiện phát triển kinh tế, tăng thu nhập.
(Theo báo cáo CEDAW lần 5).
36
3.4.4.4. Tỷ lệ nữ tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp ngày càng cao
hơn trước → giúp họ có thu nhập → khẳng định được vị trí của mình
trong gia đình và xã hội.
Riêng trong hoạt động tư pháp, tỷ lệ nữ thẩm phán tại Toà án Nhân dân
Tối cao chiếm 22%; tại toà án cấp tỉnh thành là 27%; tại toà án cấp quận,
huyện là 35%. Tính đến hết quý I/2003, nữ luật sư trong cả nước chiếm
20%, có 12,75% văn phòng luật sư và công ty luật do phụ nữ đảm trách.
(Theo báo cáo CEDAW lần 5).
3.4.4.5. Phụ nữ ngày nay đã được tự do kinh doanh theo ý thích, ít bị
phân biệt đối xử → thu nhập gia đình tăng lên → giảm nghèo đói.
Quy định này đã tạo ra một khung pháp lý mềm dẻo, thông thoáng hơn,
bảo đảm cho phụ nữ dễ dàng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
góp phần nâng cao địa vị của người phụ nữ trong xã hội.
Theo báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trong 4
năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, có trên 27% người mới đăng ký kinh
doanh là phụ nữ và 40% hộ gia đình tổ chức sản xuất kinh doanh phụ nữ
quản lý, điều hành. Năm 2003, ở Việt Nam, lao động nữ chiếm tỷ lệ khá cao
trong các doanh nghiệp: khu vực doanh nghiệp Nhà nước là 42%; khu vực
kinh tế tư nhân là 39%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 65%. Tỷ lệ nữ
chủ doanh nghiệp tăng so với trước: giai đoạn 1990-1995, tỷ lệ nữ chủ
doanh nghiệp là 15 - 17%; năm 2001 tỷ lệ này là 24,74%; năm 2002 tỷ lệ
này là 20%. (Theo báo cáo CEDAW lần 5).
► Những khó khăn của phụ nữ Việt Nam hiện nay:
- Hiện tại chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế cần phải được khắc phục trong
vấn đề bình đẳng giới, nhất là về mặt tư tưởng, quan điểm của con người
trong xã hội, kể cả nam giới và nữ giới.
37
Không chỉ có nam giới chưa nhận thức hoặc có thái độ không chấp nhận
vai trò, vị trí của phụ nữ mà ngay chính bản thân nhiều phụ nữ cũng hiểu
biết mơ hồ từ đó có những thái độ lệch lạc và không thể có cách giải quyết
đúng đắn các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống có liên quan đến vai trò, vị trí
về giới của mình.
Bà Rose Marie Greve, Giám đốc Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) trong
buổi tọa đàm “Vai trò của Phụ nữ Việt Nam trong thế kỷ XXI” nói trên, đã
từng nhận định:
“Đã đạt được rất nhiều thành tựu, nhưng phía trước chúng ta vẫn còn
nhiều việc phải làm. Bất bình đẳng giới vẫn còn là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến đói nghèo và là một trong những cản trở cho sự phát
triển bền vững. Người phụ nữ cần phải được bộc lộ hết khả năng của mình
cũng như thực thi và hưởng các quyền của mình. Thiếu bình đẳng về giới
gây cản trở cho phát triển và ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các thành viên
trong gia đình và xã hội. Khi ở vào thời kỳ mới, để khẳng định và phát huy
vai trò của mình, phụ nữ Việt Nam có nhiều mặt thuận lợi do sự phát triển
kinh tế mang lại, nhưng đồng thời với nó là những thử thách họ cần phải
vượt qua”.
(Trích trong bài báo: “Vị trí vai trò của người phụ nữ trong xu thế hội
nhập và phát triển của đất nước”- ở báo Hậu Giang - Th.s Lê Thị Linh
Trang ).
* Khó khăn của phụ nữ nông thôn:
- Do quá trình công nghiệp hoá và đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp
đang ngày càng bị thu hẹp. Số lượng nông dân, chủ yếu là nam giới ra thành
phố tìm việc làm ngày càng tăng, họ chỉ trở về nhà tham gia sản xuất nông
38
nghiệp trong thời gian mùa vụ nên những công việc nặng nhọc trong gia
đình đè lên vai người phụ nữ. Thời gian lao động được sử dụng của lao động
trong độ tuổi ở nông thôn đã tăng lên và đạt 77,65% (năm 2003), trong đó
nữ là 77,36%. Bình quân một phụ nữ phải dành đến 13,6 giờ/tuần (năm
2002) cho các công việc nội trợ, chăm sóc gia đình - những công việc không
đem lại thu nhập.
- Mặt khác, thu nhập của nữ nông dân nhìn chung thấp hơn và chỉ bằng
73% thu nhập của nam giới (năm 2002). Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng
xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi thuộc vào nhóm người nghèo
dễ bị tổn thương nhất.
- Phụ nữ dân tộc thiểu số còn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới vì ít
quyền quyết định, trình độ học vấn và cơ hội cũng ít hơn. Về mặt luật pháp
và chính sách, không có sự phân biệt đối xử giữa nông thôn và thành thị
trong việc tiếp cận giáo dục. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng khá phổ biến
ở nông thôn là khi gia đình gặp khó khăn về kinh tế thì học sinh nữ thường
phải nghỉ học đi làm nhiều hơn nam.
- Phụ nữ nông thôn còn thụ động, ít có cơ hội tham gia vào quá trình giao
đất một phần là do chưa nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình
trong vấn đề đất đai, mặt khác do phong tục, tập quán lâu đời của nông thôn
Việt Nam, người chồng thường là chủ hộ, nên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của hộ gia đình, cũng như sổ địa chính của địa phương đều chỉ
đăng ký tên chủ hộ. Tình trạng này đã gây khó khăn cho phụ nữ khi họ cần
thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn, chia quyền sử dụng đất khi ly hôn,
khi đi lấy chồng hoặc nhận thừa kế quyền sử dụng đất khi người chồng qua
đời.
Một thực tiễn khá phổ biến hiện nay ở nước ta là đối với đồng bào dân tộc
thiểu số cũng như đồng bào ở vùng nông thôn, người con gái khi đi lấy
39
chồng trong nhiều trường hợp không được hưởng di sản thừa kế của bố mẹ
đẻ. Còn bản thân phụ nữ thì do có thói quen cam chịu, nên cũng không
đòi hỏi quyền thừa kế của mình. Đây là tập quán lạc hậu, tạo ra sự bất bình
đẳng trong việc thực hiện quyền thừa kế đối với phụ nữ, đòi hỏi các cơ
quan hữu quan phải có biện pháp tuyên truyền, vận động để xoá bỏ.
- Ở nông thôn Việt Nam, vẫn còn tồn tại một số phong tục tập quán với
quan niệm bất bình đẳng giữa nam và nữ và không đảm bảo được quyền lợi
của phụ nữ như quan niệm “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “tại gia tòng
phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Chính phủ Việt Nam đang vận động
xóa bỏ tập quán này và tuyên truyền người dân thực hiện theo pháp luật.
► Phương hướng trong thời gian tới:
Phải xây dựng, khẳng định và phát triển vai trò của phụ nữ Việt Nam
trong thời kỳ mới.
* Về phía xã hội:
Qua báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới: Đưa vấn đề
giới vào phát triển – thông qua sự bình đẳng giới về quyền, nguồn lực và
tiếng nói (năm 2001), ta có thể tham khảo chiến lược ba phần mà các tác giả
đã đưa ra và vận dụng hợp lý vào tình hình thực tế của Việt Nam, trong đó:
- Thứ nhất: cải cách thể chế để tạo lập quyền và cơ hội bình đẳng cho phụ
nữ và nam giới. Cải cách pháp lý sẽ tăng cường bình đẳng giới rõ nét nhất
qua: Luật hôn nhân gia đình, luật chống bạo hành, bạo lực, quyền về đất đai,
luật lao động, quyền chính trị. Việc này sẽ tạo môi trường cho sự bình đẳng
về cơ hội và quyền lực, hai yếu tố thiết yếu để đạt được bình đẳng giới trên
các phương diện khác như giáo dục, y tế và tham gia chính trị. Điều này Việt
Nam chúng ta đã và đang thực hiện tốt (thể hiện ở các văn bản luật đã được
40
thông qua và có hiệu lực thi hành, tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XII là
33,1%...); cần phát huy, nỗ lực tăng tỉ lệ nữ ở Hội đồng nhân dân 3 cấp và
các cơ quan quản lý nhà nước. Cung cấp các dịch vụ tạo thuận lợi cho việc
tiếp cận dành cho phụ nữ, như: hệ thống trường lớp, cơ sở y tế, chương trình
cho vay vốn…
- Thứ hai: Đẩy nhanh phát triển kinh tế nhằm khuyến khích tham gia và
phân bố nguồn lực công bằng hơn. Phát triển kinh tế có xu hướng làm tăng
năng suất lao động và tạo nhiều cơ hội việc làm cho phụ nữ, thu nhập cao
hơn, và mức sống tốt hơn. Đầu tư có trọng điểm vào cơ sở hạ tầng và giảm
bớt chi phí cá nhân cho phụ nữ khi thực hiện vai trò của họ trong gia đình sẽ
có thể giúp họ có thêm thời gian để tham gia vào các hoạt động khác, dù là
để tạo thu nhập hay làm công tác xã hội. Điều này cũng tạo điều kiện thuận
lợi cho việc học hành của phụ nữ. Thiết kế chính sách thị trường lao động
phù hợp, như về nghỉ đẻ, sa thải, dưỡng bệnh, nghỉ bắt buộc… trong việc
sinh đẻ để tạo điều kiện cho phụ nữ có cơ hội tham gia công việc trên thị
trường, đồng thời chăm sóc gia đình. Cung cấp bảo trợ xã hội, an sinh xã
hội phù hợp.
- Thứ ba: Thực hiện những biện pháp thiết thực nhằm khắc phục sự phân
biệt giới trong việc làm chủ các nguồn lực và tiếng nói chính trị. Nhà nước
nên thiết lập một môi trường thể chế bảo đảm khả năng tiếp cận công bằng
đến các nguồn lực và dịch vụ công cộng cho cả nam và nữ. Tăng cường
tiếng nói của phụ nữ (sử dụng sáng kiến, ý tưởng) trong quá trình hoạch định
chính sách.
Ngoài ra có thể:
41
- Mở rộng các quan hệ hợp tác giao lưu, vừa phù hợp với xu hướng thời
đại, vừa chia sẻ, trao đổi được kinh nghiệm quốc tế trong việc giài quyết các
vấn đề về giới, đồng thời lại mở ra nhiều cơ hội học tập, làm việc cho phụ
nữ. Tạo điều kiện trao đổi cởi mở các ý tưởng với phụ nữ, nâng cao tính
minh bạch trong hoach định chính sách.
- Triển khai giáo dục vấn đề về giới, bình đẳng giới và phát triển phổ biến
trong xã hội.
- Phát huy vai trò của tổ chức Hội phụ nữ, nhất là ở cơ sở.
Các chiến lược này không chỉ có thể vận dụng vào quản lý xã hội ở cấp vĩ
mô mà cón có thể vận dụng cụ thể vào hoạt động quản lý ở từng cơ sở.
* Về phía cá nhân người phụ nữ:
Mỗi thời kỳ có những cơ hội và yêu cầu mang tính lịch sử, muốn có thể
khẳng định, phát huy vai trò của mình, và giảm nghèo đói đi thì bản thân
người phụ nữ trước hết phải ý thức được đầy đủ vai trò về giới của mình,
mới có thể nắm bắt được những cơ hội, cùng với xã hội, hướng tới cách ứng
xử bình đẳng giới. Muốn vậy, phụ nữ hiện đại cần nỗ lực nhiều mặt:
- Có tri thức, văn hoá.
Chúng ta đang hướng tới phát triển nền kinh tế tri thức, phụ nữ khi có tri
thức sẽ có bản lĩnh hơn và có nhiều cơ hội lựa chọn hơn trong cuộc sống.
Chẳng hạn như khi công nghệ thông tin phát triển, nhiều công việc yêu cầu
sử dụng máy tính tăng lên, đây sẽ là cơ hội tốt cho những phụ nữ biết sử
dụng vi tính nhưng lại sẽ trở thành rào cản cho những người không biết sử
dụng.
42
- Có ý thức cầu tiến, độc lập
- Sống có mục đích
- Có khả năng giao kết thân thiện. Một số nghiên cứu hiện nay thừa nhận
mối quan hệ giữa sự tham gia tích cực của phụ nữ vào đời sống xã hội với sự
giảm bớt mức độ tham nhũng
- Có kỹ năng sống: tự tin, sáng tạo, biết hoạch định kế hoạch, biết đối mặt
với áp lực, biết chăm sóc bản thân, v.v…
Để có được những điều này phụ nữ nên chịu khó học hỏi ở nhà trường, các
tổ chức, đội nhóm, nhà văn hóa, câu lạc bộ… Tích cực tham gia vào các
hoạt động xã hội để tích lũy tri thức và kinh nghiệm sống. Mở rộng các mối
quan hệ giao lưu giao tiếp trong xã hội. Tạo thói quen suy nghĩ tích cực, sẵn
sàng chia sẻ, siêng năng lao động, rèn luyện và chăm sóc sức khoẻ cho bản
thân.
Người phụ nữ Việt Nam hiện đại trong thời kỳ mới nếu được sự hỗ trợ tích
cực từ phía khách quan, cùng với những nỗ lực chủ quan sẽ có cơ hội đóng
góp ngày càng nhiều cho xã hội, tạo vị thế cho bản thân. Hi vọng họ sẽ
không còn gặp những trở ngại về giới do những quan điểm không phù hợp
nào đó, họ sẽ không còn nghèo khó nữa, không còn phải băn khoăn trong sự
lựa chọn giữa sự nghiệp và gia đình, không còn gặp những rào cản không
cần thiết từ các chính sách xã hội. Phụ nữ – dù trong thời đại nào cũng luôn
có những vị trí không thể thay thế.
43
► Kết luận:
Qua chương 3 ta có thể rút ra một số kết luận như sau:
Phụ nữ chiếm đa số trong những người nghèo đói.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến cho phụ nữ chiếm số đông trong những
người nghèo đói như: do quan niệm xã hội về người phụ nữ và sự bất
bình đẳng giới, do trình độ học vấn, thu nhập, sức khỏe, vị thế thấp
kém… của người phụ nữ.
Tình trạng bất bình đẳng giới khiến phụ nữ thiếu đi quyền quyết định
trong mọi việc ở gia đình và xã hội, làm cho phụ nữ nghèo đói.
Phụ nữ có rất nhiều vai trò quan trọng trong việc tấn công nghèo đói
(xóa đói giảm nghèo), thể hiện trong một số lĩnh vực như: chính trị - xã
hội, kinh tế, nông nghiệp…
Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ mới, tập trung
vào các mặt chủ yếu sau đây:
- Quyền tự do và bình đẳng của phụ nữ được bảo đảm hơn. Phụ nữ được tạo
thêm điều kiện và cơ hội tham gia và có đóng góp tích cực vào các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Vai trò và địa vị của phụ nữ
trong gia đình và cộng đồng được nâng cao.
- Cải thiện rõ rệt về giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và chất lượng
cuộc sống cho phụ nữ và trẻ em gái. Việt Nam đạt được về cơ bản bình
đẳng nam nữ trong giáo dục tiểu học và đang phấn đấu thực hiện phổ cập
giáo dục trung học cơ sở. Các chỉ số về chăm sóc sức khoẻ là khá cao so với
mức thu nhập bình quân đầu người.
- Nhà nước đã áp dụng các biện pháp tích cực để khắc phục về cơ bản tình
trạng bất bình đẳng giới trong một số lĩnh vực, đặc biệt là trong tiếp cận
đất đai và phúc lợi xã hội, tạo điều kiện cho phụ nữ cùng đứng tên với chồng
44
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở và được hưởng chế độ
bảo hiểm xã hội bình đẳng như nam giới.
- Việt Nam thuộc nhóm có thành tựu tốt nhất khu vực Đông Nam Á-Thái
Bình Dương về chỉ số phát triển giới (GDI)
Một trong những yếu tố quan trọng giúp Việt Nam đạt được các kết quả
đáng khích lệ trên xuất phát từ những thành tựu của công cuộc đổi mới theo
phương châm tăng trưởng kinh tế một cách bền vững đi đôi với xoá đói giảm
nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Bài học lớn nhất được rút ra đó là sự phối hợp, cộng đồng trách nhiệm
giữa các cấp chính quyền, bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ và Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam trên cơ sở quyết tâm chính trị cao của Nhà nước và nhân dân
cùng phấn đấu khắc phục bất bình đẳng giới và nâng cao quyền năng cho
phụ nữ. Chủ trương nhất quán của Việt Nam về bình đẳng giới và tiến bộ
phụ nữ đã một lần nữa được thể hiện thông qua việc công bố Chiến lược
quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010. Còn nhiều khó khăn
và thách thức đang đặt ra đối với Việt Nam trên chặng đường khắc phục sự
phân biệt đối xử với phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy
nhiên, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết tâm phấn đấu thực
hiện đầy đủ các cam kết đối với công ước CEDAW./.
45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo CEDAW lần 5.
2. Báo cáo CEDAW lần 6.
3. Báo Dantri.com.vn, ra ngày Thứ Hai, 09/05/2011.
4. Báo cáo của Ngân hàng chính sách xã hội
5. Báo mới, ra ngày 08/ 06/ 2008.
6. Báo cáo phát triển Việt Nam, 2004
7. Báo cáo phân tích số liệu điều tra về bình đẳng giới - Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, 2007.
8. Báo cáo về tình hình giới ở Việt Nam CGA-2006.
9. Báo Phụ nữ Đà Nẵng, ra ngày Thứ sáu, 2 - 12 – 2011.
10. Số liệu của Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2004 - NHTG,
2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_6_chuog_3_csach_giam_ngheo_4034.pdf