Đây là vấn đề cốt lõi, vì trước đây tỷ giá USD/VND thường xuyên ổn định tại mức
trần so với giá NHNN công bố, khách hàng không quan tâm tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ
giá. Tuy nhiên, sang năm 2007 và đầu năm 2008, thị trường chứng kiến sự biến động và
đảo chiều mạnh mẽ của VND so với đồng Đôla Mỹ, tỷ giá USD/VND giảm xuống giao
dịch tại mức sàn. Nguyên nhân là do lượng lớn ngoại tệ từ các hoạt động đầu tư trực tiếp,
gián tiếp nước ngoài, kiều hối đổ vào các NHTM làm xuất hiện dư thừa ngoại tệ do mất
cân đối cung cầu. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề
rủi ro tỷ giá, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu trong ngành thuỷ sản, dệt may, cà
phê. và các ngành sản xuất, xuất khẩu khác. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp Việt Nam
vẫn chưa có thói quen hay nói chính xác hơn là chưa quan tâm tới phòng chống rủi ro đối
với các hoạt động ngoại tệ của mình.
Hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam đều phải vay ngoại tệ hàng trăm triệu USD
hoặc EUR để đầu tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp này sau khi vay ngoại tệ thường
bán số ngoại tệ này chuyển sang VND để tiến hành hoạt động đầu tư dự án, đến kỳ trả nợ
họ phải mua lại s ố ngoại tệ đó bằng VND. Trong thời gian tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, rõ ràng sẽ có sự biến động về cả lãi s uất cho vay và cả tỷ giá hối đoái. Nếu
sử dụng công cụ phái sinh như hoán đổi lãi s uất hoặc công cụ kỳ hạn hay quyền chọn về
ngoại tệ thì các doanh nghiệp sẽ bảo hiểm được rủi ro lãi s uất trong trường hợp nếu lãi
suất vay là thả nổi và khi lãi s uất thị trường đã tăng lên như hiện nay hoặc bảo hiểm được
rủi ro tỷ giá khi ngoại tệ có xu hướng giảm xuống vào thời điểm doanh nghiệp bán ngoại
tệ.
35 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2122 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phương thức hoạt động của công cụ tài chính phái sinh tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng tiền định giá, tức là lãi suất VND
• r y là lãi suất của đồng tiền yết giá, tức là lãi suất USD
Ta có tỷ giá có kỳ hạn được xác định bởi công thức sau:
F = S(1 + r d )/(1+ r y ) (1)
University of Economic, Ho Chi Minh City 13
Công thức (1) dựa trên cơ sở lý thuyết cân bằng lãi suất (interest rate parity –
IRP). Lý thuyết này nói rằng chênh lệch lãi suất giữa hai quốc gia phải được bù đắp bởi
chênh lệch tỷ giá giữa hai đồng tiền để những người kinh doanh chênh lệch giá
không thể sử dụng hợp đồng kỳ hạn kiếm lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch lãi suất.
Chúng ta có thể sử dụng lý thuyết này để chứng minh công thức (1). Chẳng hạn
nếu lãi suất ngắn hạn ở VND cao hơn lãi suất ngắn hạn ở Mỹ thì, theo IRP, đồng tiền
Việt Nam (VND) sẽ giảm giá so với USD đủ để ngăn chận các nhà kinh doanh chênh
lệch giá di chuyển vốn từ Mỹ sang Việt Nam và sử dụng thị trường kỳ hạn để “khóa
chặt” khoản thu nhập từ kinh doanh chênh lệch lãi suất. Trong trường hợp này nhà kinh
doanh chênh lệch giá sẽ thực hiện một số giao dịch như sau:
• Bỏ ra một số tiền là p dollar Mỹ
• Đổi sang VND theo tỷ giá giao ngay S sẽ được p*S đồng
• Đầu tư pS đồng trên thị trường tiền tệ Việt Nam với lãi suất r VND và
thu lại pS(1+r VND ) đồng khi đáo hạn
• Chuyển số VND thu được sang dollar Mỹ theo tỷ giá có kỳ hạn F được
p(1+ r VND )S/F dollar Mỹ.
Nếu không di chuyển vốn sang Việt Nam nhà kinh doanh sử dụng p dollar Mỹ đầu
tư trên thị trường tiền tệ ở Mỹ với lãi suất r USD và thu được p(1 + r USD ) dollar Mỹ
khi đáo hạn.
Nếu p(1 + r VND )S/F > p(1 + r USD ) thì các nhà kinh doanh chênh
lệch giá sẽ di chuyển vốn đầu tư sang Việt Nam. Do đó, để ngăn chận không cho các
nhà kinh doanh chênh lệch giá thu lợi nhuận trời cho, chênh lệch lãi suất trên thị trường
tiền tệ phải được bù đắp bởi chênh lệch tỷ giá trên thị trường hối đoái sao cho thị trường
luôn ở trạng thái cân bằng, tức là:
p(1+ r VND )S/F = p(1 + r USD )
⇒ F = S(1 + r VND )/(1 + r USD ) (2)
Nếu tổng quát hóa công thức (2) cho hai loại tiền tệ bất kỳ nào đó, thay vì cho
USD và VND, ta sẽ được công thức (1). Nói chung tỷ giá có kỳ hạn phụ thuộc vào tỷ giá
giao ngay và lãi suất đồng tiền yết giá và đồng tiền định giá. Trên thị trường tiền tệ, lãi
suất đồng tiền định giá có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn lãi suất đồng tiền yết giá. Dựa vào
công thức (1), chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Nếu lãi suất đồng tiền định giá lớn hơn lãi suất đồng tiền yết giá:
r d > r y => 1+r d> 1+r y => (1+r d )/ (1+r y ) >1 => F > S . Khi đó người ta nói
có điểm gia tăng tỷ giá có kỳ hạn.
University of Economic, Ho Chi Minh City 14
Nếu lãi suất đồng tiền định giá nhỏ hơn lãi suất đồng tiền yết giá:
r d 1+r d(1+r d )/ (1+r y ) F < S . Khi đó người ta nói
có điểm khấu trừ tỷ giá có kỳ hạn.
Kết hợp hai trường hợp trên chúng ta thấy rằng tỷ giá có kỳ hạn có thể tóm
tắt như sau: F = S + Điểm kỳ hạn, trong đó điểm kỳ hạn có thể dương hoặc âm và
được xác định dựa trên cơ sở tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất giữa hai đồng
tiền định giá và yết giá.
Từ những nhận xét trên đây một số ngân hàng thương mại ở Việt Nam, chẳng hạn
như Ngân hàng Á Châu, đưa ra cách tính tỷ giá có kỳ hạn của họ như sau:
Tỷ giá có kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + Điểm kỳ hạn
Ở đây, có hai trường hợp xác định tỷ giá có kỳ hạn: tỷ giá mua có kỳ hạn và tỷ giá
bán có kỳ hạn. Để tiện việc tính toán, chúng ta đặt:
• Fm, Sm lần lượt là tỷ giá mua có kỳ hạn và tỷ giá mua giao ngay .
• Fb, Sb lần lượt là tỷ giá bán có kỳ hạn và tỷ giá bán giao ngay.
• Ltg(VND), Lcv(VND) lần lượt là lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
đồng Việt Nam.
• Ltg(NT), Lcv(NT) lần lượt là lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ.
• N là số ngày của hợp đồng có kỳ hạn.
Chúng ta có các công thức xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán kỳ hạn thường được
áp dụng trong thực tiễn giao dịch như sau:
1. Tỷ giá mua có kỳ hạn
Fm = +
( ) − ( )
100 ∗ 360
(3)
2. Tỷ giá bán có kỳ hạn
Fb = +
( ) − ( )
100 ∗ 360
(4)
Trong công thức (3) và (4) trên đây, người ta giả định năm tài chính có 360 ngày
và lãi suất được tính theo %/năm. Để minh họa cho việc sử dụng công thức xác định tỷ
University of Economic, Ho Chi Minh City 15
giá kỳ hạn, chúng ta xem xét tình huống sau đây: Ngày 04/08/200x tại Vietcombank có tỷ
giá giao ngay và lãi suất kỳ hạn 3 tháng trên thị trường tiền tệ như sau:
USD/VND: 15888 – 15890
VND: 6,9 – 9,6%/năm
USD: 2,6 – 4,6%/năm
Công ty A muốn mua trong khi công ty B muốn bán USD kỳ hạn 3 tháng. Làm thế
nào xác định tỷ giá kỳ hạn mà Vietcombank sẽ chào cho hai khách hàng này? Công ty A
muốn mua USD kỳ hạn 3 tháng nên ngân hàng chào tỷ giá bán có kỳ hạn 3 tháng. Tỷ giá
này được xác định theo công thức (4) đã trình bày trên đây. Trong đó Sb = USD/VND =
15890, Lcv(VND) = 9,6%/năm, Ltg(USD) = 2,6%/năm, và N = 3 tháng = 90 ngày.
Fb = +
( ) − ( )
100 ∗ 360
= 1580 +
15890(9,6 − 2,6)90
100 ∗ 360
= 16168
Công ty B muốn bán USD kỳ hạn 3 tháng, Vietcombank sẽ xác định và chào cho
công ty B tỷ giá mua kỳ hạn 3 tháng. Tỷ giá mua kỳ hạn được xác định theo công thức
(3) vừa nêu trên đây, trong đó Sm = USD/VND = 15888, Ltg(VND) = 6,9%/năm,
Lcv(NT) = 4,6%/năm và N = 90.
Fm = +
( ) − ( )
100 ∗ 360
= 15888 +
15888(6,9− 4,6)90
100 ∗ 360
= 15981
1.3 Sử dụng giao dịch kỳ hạn
Hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn thường được ngân hàng áp dụng để đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ kỳ hạn của khách hàng. Chẳng hạn, một nhà xuất khẩu có một hợp đồng
xuất khẩu trị giá 120.000USD ba tháng nữa sẽ đến hạn thanh toán. Giả sử thị trường
ngoại hối được thả nổi và tỷ giá USD/VND ba tháng nữa như thế nào không ai có thể
đoán được. USD có khả năng lên giá cũng có khả năng xuống giá so với VND. Nếu USD
lên giá so với VND thì tốt cho nhà xuất khẩu, nhưng nếu USD xuống giá so với VND thì
nhà xuất khẩu sẽ bị thiệt hại. Để tránh thiệt hại do biến động tỷ giá USD/VND, nhà xuất
University of Economic, Ho Chi Minh City 16
khẩu thoả thuận bán USD cho ngân hàng theo hợp đồng kỳ hạn. Ngân hàng mua USD
của nhà xuất khẩu theo tỷ giá mua kỳ hạn được thoả thuận trước và cố định trong suốt
thời hạn giao dịch. Nhờ vậy nhà xuất khẩu tránh được rủi ro tỷ giá.
Ngược lại với nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu lo sợ USD lên giá sẽ làm cho
chi phí nhập khẩu tăng lên. Để tránh rủi ro tỷ giá, nhà nhập khẩu liên hệ và thoả thuận
mua ngoại tệ, USD, kỳ hạn từ ngân hàng. Ngân hàng sẽ bán số ngoại tệ kỳ hạn vừa mua
của nhà xuất khẩu cho nhà nhập khẩu theo tỷ giá bán kỳ hạn. Tỷ giá này là tỷ giá được
xác định trước và cố định trong suốt kỳ hạn giao dịch. Nhờ vậy, nhà nhập khẩu tránh
được rủi ro tỷ giá do tỷ giá biến động.
1.4 Hạn chế của giao dịch kỳ hạn
Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn thoả mãn được nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách
hàng mà việc chuyển giao được thực hiện trong tương lai. Tuy nhiên, do giao dịch kỳ hạn
là giao dịch bắt buộc nên khi đến ngày đáo hạn dù bất lợi hai bên vẫn phải thực hiện hợp
đồng. Chẳng hạn trong tình huống trên đây, nếu đến ngày đáo hạn, tỷ giá giao
ngay trên thị trường lớn hơn tỷ giá kỳ hạn (19621) Saigonimex bị thiệt nhưng vẫn phải
thực hiện hợp đồng bán ngoại tệ cho ngân hàng theo tỷ giá 19621, thay vì bán theo tỷ giá
giao ngay lúc này cao hơn tỷ giá kỳ hạn. Ngược lại, nếu tỷ giá giao ngay vào ngày đáo
hạn nhỏ hơn tỷ giá kỳ hạn (19801), Cholimex vẫn phải mua ngoại tệ của ngân hàng theo
tỷ giá cao hơn, thay vì mua theo tỷ giá giao ngay, lúc này thấp hơn tỷ giá kỳ hạn.
Một điểm hạn chế nữa là hợp đồng kỳ hạn chỉ đáp ứng được nhu cầu khi nào
khách hàng chỉ cần mua hoặc bán ngoại tệ trong tương lai còn ở hiện tại không có nhu
cầu mua hoặc bán ngoại tệ. Đôi khi trên thực tế, khách hàng vừa có nhu cầu mua bán
ngoại tệ ở hiện tại đồng thời vừa có nhu cầu mua bán ngoại tệ ở trong tương lai. Chẳng
hạn, một nhà xuất nhập khẩu hiện tại cần VND để thanh toán các khoản chi tiêu trong
nước nhưng đồng thời cần ngoại tệ để thanh toán hợp đồng nhập khẩu ba tháng nữa sẽ
đến hạn. Đáp ứng nhu cầu này, nhà xuất nhập khẩu có thể liên hệ với ngân hàng
thực hiện hai giao dịch:
Bán ngoại tệ giao ngay để lấy VND chi tiêu trong nước
Mua ngoại tệ kỳ hạn để ba tháng sau có ngoại tệ thanh toán hợp đồng nhập
khẩu đến hạn.
Trong hai giao dịch trên, giao dịch thứ nhất là giao dịch hối đoái giao ngay, giao
dịch thứ hai là giao dịch hối đoái kỳ hạn. Rõ ràng trong tình huống này chỉ với giao dịch
hối đoái giao ngay hay chỉ với giao dịch hối đoái kỳ hạn chưa thể đáp ứng được nhu cầu
giao dịch của khách hàng, mà phải kết hợp cả hai loại giao dịch này lại với nhau mới đáp
University of Economic, Ho Chi Minh City 17
ứng được nhu cầu của khách hàng. Sự kết hợp này hình thành nên một loại giao dịch mới,
đó là giao dịch hoán đổi.
2. Hợp đồng hoán đổi
2.1 Khái niệm
Ở Việt Nam giao dịch hoán đổi chính thức ra đời từ khi Ngân hàng nhà nước ban
hành Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái kèm theo Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN7
ngày 10 tháng 01 năm 1998. Theo quyết định này, giao dịch hoán đổi là giao dịch hối
đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch: giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số
lượng đồng tiền này với đồng tiền khác, trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao
dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký hợp đồng.
Quyết định 17 đã mở đường cho các ngân hàng thương mại tiến hành triển khai
thực hiện các giao dịch hoán đổi ngoại tệ ở Việt Nam. Năm 1998 là năm thị trường ngoại
hối ở Việt Nam có nhiều biến động, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông
Nam Á. Khách hàng có nhu cầu thực hiện giao dịch hoán đổi với ngân hàng có thể là các
công ty xuất nhập khẩu, các ngân hàng khác hoặc là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét hai tình huống cơ bản đưa đến nhu cầu thực hiện giao
dịch hoán đổi của khách hàng.
Tình huống 1: Công ty Saigonimex vừa thu ngoại tệ 90.000USD từ một hợp đồng
xuất khẩu. Hiện tại công ty cần VND để chi trả tiền mua nguyên liệu và lương cho công
nhân. Ngoài ra, công ty biết rằng ba tháng nữa sẽ có một hợp đồng nhập khẩu đến hạn
thanh toán. Khi ấy công ty cần một khoản ngoại tệ 80.000USD để thanh toán hợp đồng
nhập khẩu. Để thoả mãn nhu cầu VND ở hiện tại và USD trong tương lai, ở thời điểm
hiện tại Saigonimex có thể thoả thuận với ngân hàng hai loại giao dịch:
• Bán 90.000USD giao ngay để lấy VND chi tiêu ở thời điểm hiện tại.
• Mua 80.000USD kỳ hạn để có USD thanh toán hợp đồng nhập khẩu sẽ đến hạn
sau ba tháng nữa.
Tình huống 2: Công ty Cholonimex đang cần ngoại tệ 90.000USD để chi trả cho
một hợp đồng nhập khẩu đến hạn. Ngoài ra, công ty biết rằng ba tháng nữa sẽ có một hợp
đồng xuất khẩu đến hạn thanh toán. Khi ấy công ty sẽ có một khoản ngoại tệ
thu về 80.000USD cần bán để lấy VND. Để thoả mãn nhu cầu USD ở hiện tại và VND
trong tương lai, ở thời điểm hiện tại Cholonimex có thể thoả thuận với ngân hàng hai loại
giao dịch:
University of Economic, Ho Chi Minh City 18
• Mua 90.000USD giao ngay để có USD thanh toán hợp đồng nhập khẩu đến hạn.
• Bán 80.000USD kỳ hạn để có VND chi tiêu sau ba tháng nữa.
Khách hàng có thể thực hiện từng loại giao dịch riêng lẻ nhằm thoả mãn nhu cầu
ngoại tệ và VND. Tuy nhiên, nếu thực hiện riêng lẻ từng loại giao dịch giao ngay và giao
dịch kỳ hạn thì ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận đến hai loại hợp đồng, theo đó
khách hàng bán giao ngay và mua kỳ hạn hoặc mua giao ngay và bán kỳ hạn với cùng
một loại ngoại tệ. Giao dịch riêng lẻ này khiến cho khách hàng phải chịu thiệt hai lần do
chênh lệch giữa giá bán và giá mua và những phiến toái trong thoả thuận hợp đồng giao
dịch. Thay vì thực hiện giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn riêng biệt, ngân hàng kết
hợp hai loại giao dịch này lại trong một hợp đồng, gọi là hợp đồng hoán đổi tiền tệ.
2.2 Phương thức thực hiện.
Trong hợp đồng giao dịch hoán đổi, hai bên ngân hàng và khách hàng thỏa thuận
với nhau một số nội dung chính như sau:
Thời hạn giao dịch – Thời hạn giao dịch hoán đổi có thể từ 3 ngày đến 6
tháng. Nếu ngày đáo hạn rơi vào ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ thì hai bên sẽ thoả thuận
chọn một ngày đáo hạn thích hợp và thời hạn hợp đồng sẽ tính trên số ngày thực tế.
Điều kiện thực hiện – Giao dịch hoán đổi áp dụng đối với khách hàng có
đủ các điều kiện sau: (1) có giấy phép kinh doanh, (2) xuất trình các chứng từ chứng
minh nhu cầu sử dụng ngoại tệ, (3) mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản VND ở ngân hàng,
(4) trả phí giao dịch theo qui định, (5) duy trì một tỷ lệ đặt cọc tối đa không quá 5% trị
giá hợp đồng để bảo đảm việc thực hiện hợp đồng, và (6) ký hợp đồng giao dịch hoán đổi
với ngân hàng.
Ngày thanh toán – Trong giao dịch hoán đổi, ngày thanh toán bao
gồm hai loại ngày khác nhau: ngày hiệu lực và ngày đáo hạn. Ngày hiệu lực là ngày
thực hiện thanh toán giao dịch giao ngay trong khi ngày đáo hạn là ngày thực hiện thanh
toán giao dịch có kỳ hạn.
University of Economic, Ho Chi Minh City 19
Xác định tỷ giá hoán đổi – Một hợp đồng hoán đổi liên quan đến hai loại
tỷ giá: tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn. Tỷ giá giao ngay là tỷ giá do ngân hàng niêm
yết tại thời điểm giao dịch do hai bên thoả thuận. Tỷ giá có kỳ hạn được tính trên cơ sở tỷ
giá giao ngay, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ, và số ngày thực tế của hợp
đồng.
Quy trình thực hiện giao dịch hoán đổi – Tại ngân hàng thương mại quy
trình thực hiện giao dịch hoán đổi tiến hành qua các bước sau đây:
Khách hàng có nhu cầu thực hiện giao dịch hoán đổi đến liên hệ với phòng
kinh doanh tiền tệ của ngân hàng.
Căn cứ vào cung và cầu ngoại tệ, phòng kinh doanh tiền tệ sẽ chào giá và
kỳ hạn cụ thể cho khách hàng.
Nếu khách hàng đồng ý giá cả thì hai bên sẽ ký hợp đồng hoán đổi.
Có hai trường hợp xảy ra hợp đồng hoán đổi như vừa trình bày trong hai tình
huống trên đây. Ở tình huống 1 ngân hàng mua giao ngay và bán có kỳ hạn. Ở tình huống
2 ngân hàng bán giao ngay và mua có kỳ hạn.
Để thực hiện giao dịch hoán đổi với khách hàng, ở ngày hiệu lực ngân hàng phải
thu thập thông tin tỷ giá và lãi suất để xác định tỷ giá và chào cho khách hàng. Giả sử vào
ngày hiệu lực có tỷ giá và lãi suất như sau:
USD/VND: 15805 – 15810
USD: 4,6 – 5,2
VND: 7,8 – 10,6
Nếu Saigonimex và Cholonimex đồng ý thực hiện giao dịch hoán đổi với ngân
hàng với trị giá hợp đồng hoán đổi là 80.000USD, các giao dịch diễn ra như sau:
Vào ngày hiệu lực:
Ngân hàng bán giao ngay 80.000USD cho Cholonimex theo tỷ giá
giao ngay USD/VND=15810 và nhận được: 80.000 x 15810 = 1.264.800.000VND trong
khi Cholonimex nhận 80.000USD.
Ngân hàng mua giao ngay 80.000USD của Saigonimex theo tỷ giá
mua USD/VND =15805 và nhận 80.000USD trong khi Saigonimex nhận được: 80.000 x
15805 = 1.264.400.000VND.
University of Economic, Ho Chi Minh City 20
Ngân hàng xác định và chào tỷ giá mua kỳ hạn (Fm) cho Cholonimex và tỷ
giá bán kỳ hạn (Fb) cho Saigonimex:
Fb = +
( ) − ( )
100 ∗ 360
= 15810 +
15810(10,6 − 4,6)90
100 ∗ 360
= 16047
Fm = +
( ) − ( )
100 ∗ 360
= 15805 +
15805(7,8 − 5,2)90
100 ∗ 360
= 15908
Vào ngày đáo hạn (3 tháng sau):
• Ngân hàng nhận lại 80.000USD và chi cho Cholonimex một số VND bằng
80.000 x 15908 = 1.272.640.000VND
• Ngân hàng giao lại 80.000USD cho Saigonimex và nhận lại số VND bằng
80.000 x 16047 = 1.283.760.000VND.
2.3 Ưu – Nhược điểm của hợp đồng hoán đổi.
Trong giao dịch hoán đổi, các bên tham gia bao gồm ngân hàng và khách hàng đều
có những lợi ích nhất định. Với khách hàng lợi ích thể hiện ở chỗ khách hàng thỏa mãn
được nhu cầu ngoại tệ hoặc nội tệ của mình ở thời điểm hiện tại, tức là vào ngày hiệu lực,
đồng thời cũng thỏa mãn nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ vào này đáo hạn. Điều
này giống như hợp đồng kỳ hạn, do đó khách hàng có thể phòng ngừa được rủi ro biến
động tỷ giá.
Đối với ngân hàng lợi ích thể hiện ở chỗ một mặt ngân hàng đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng góp phần nâng cao uy tín và gia tăng giá trị thương hiệu của mình.
Mặt khác, ngân hàng có thể kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giá mua và bán ngoại tệ.
Như đã trình bày, giao dịch hoán đổi là một sự kết hợp giữa giao dịch giao ngay
và giao dịch kỳ hạn. Bản thân giao dịch hoán đổi chỉ giải quyết được nhược điểm của hợp
đồng giao ngay là có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương
lai, đồng thời khắc phục được nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãn
nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, cũng như giao dịch kỳ
hạn, giao dịch hoán đổi vẫn còn hạn chế ở hai điểm:
• Nó là hợp đồng bắt buộc yêu cầu các bên phải thực hiện khi đáo hạn bất chấp tỷ
giá trên thị trường giao ngay lúc đó như thế nào. Điền này có mặt lợi là bảo hiểm được
University of Economic, Ho Chi Minh City 21
rủi ro ngoại hối cho khách hàng nhưng đồng thời đánh mất đi cơ hội kinh doanh nếu như
tỷ giá biến động trái với dự đoán của khách hàng.
• Nó chỉ quan tâm đến tỷ giá ở hai thời điểm: thời điểm hiệu lực và thời điểm đáo
hạn, mà không quan tâm đến sự biến động tỷ giá trong suốt quảng thời gian giữa hai thời
điểm đó. Chính hạn chế này khiến cho hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi chỉ có thể
là công cụ bảo hiểm rủi ro và thích hợp với nhu cầu bảo hiểm rủi ro của khách hàng hơn
là nhu cầu kinh doanh hay đầu cơ kiếm lời từ sự biến động tỷ giá. Để bổ sung cho hạn
chế này của giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi ngân hàng phát triển thêm một loại
công cụ khác, đó là hợp đồng tương lai (còn gọi là hợp đồng giao sau).
3. Hợp đồng tương lai.
Trong bài 12 chúng ta đã bàn luận về việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn để quản lý rủi
ro biến động giá cả trên thị trường hàng hóa và thị trường chứng khoán cũng như quản lý
rủi ro ngoại hối trong các giao dịch ngoại tệ, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư
và tín dụng. Có thể nói hợp đồng kỳ hạn được thiết kế như là một công cụ hữu hiệu để
quản lý rủi ro. Thế nhưng do quá chú trọng đến công dụng quản lý rủi ro nên hợp đồng
kỳ hạn đánh mất đi cơ hội kinh doanh hay đầu cơ. Đây là hạn chế hay nhược điểm quan
trọng của hợp đồng kỳ hạn. Nhược điểm này có thể tránh được nếu doanh nghiệp sử dụng
hợp đồng tương lai.
3.1 Khái niệm.
Có thể nói hợp đồng tương lai là hợp đồng kỳ hạn được chuẩn hóa về loại tài
sản cơ sở mua bán, số lượng các đơn vị tài sản cơ sở mua bán, thể thức thanh toán, và kỳ
hạn giao dịch. Hợp đồng kỳ hạn không được chuẩn hóa, các chi tiết là do hai bên đàm
phán và thoả thuận cụ thể. Một số điểm khác biệt cơ bản giữa hợp đồng kỳ hạn
và hợp đồng tương lai có thể liệt kê như sau:
• Hợp đồng tương lai được thỏa thuận và mua bán thông qua người môi giới.
Hợp đồng kỳ hạn được thỏa thuận trực tiếp giữa hai bên của hợp đồng.
• Hợp đồng tương lai được mua bán trên thị trường tập trung. Hợp đồng kỳ
hạn trên thị trường phi tập trung.
• Hợp đồng tương lai được tính hàng ngày theo giá thị trường
(marking to market). Hợp đồng kỳ hạn được thanh toán vào ngày đáo hạn.
Như đã trình bày ở trên, hợp đồng kỳ hạn được thỏa thuận trực tiếp giữa hai
bên của hợp đồng. Điều này không đúng đối với các hợp đồng tương lai. Nhà đầu tư
University of Economic, Ho Chi Minh City 22
muốn mua hay bán hợp đồng tương lai sẽ liên lạc với công ty môi giới. Công ty môi giới
sẽ chỉ thị cho người mua bán trên sàn giao dịch thực hiện lệnh mua hay bán hợp đồng
tương lai. Hoạt động giao dịch được thực hiện thông qua một tổ chức trung gian gọi là
công ty thanh toán bù trừ (clearing house) theo sơ đồ sau:
Tiền Tiền
Tài sản cơ sở Tài sản cơ sở
3.2 Cơ chế giao dịch.
Tất cả các hợp đồng tương lai đều thực hiện giao dịch ở Sở giao dịch có tổ chức.
Sở giao dịch là người đề ra qui chế và kiểm soát hoạt động của các hội viên. Hội viên của
Sở giao dịch là các cá nhân, có thể là đại diện của các công ty, ngân hàng thương mại hay
cá nhân có tài khoản riêng. Sở giao dịch giới hạn số lượng hội viên và, vì thế, quyền hội
viên có thể được mua bán cho thuê hay ủy quyền giao dịch lại cho các nhà giao dịch
không phải hội viên. Các công ty môi giới có quyền cử đại diện của mình ở sàn giao dịch.
3.3 Đặc điểm.
Mặc dù các hợp đồng có kỳ hạn thường rất linh hoạt về phương diện thời hạn và
số tiền giao dịch nhưng chúng hạn chế về mặt thanh khoản (liquidity) bởi vì các bên tham
gia hợp đồng không thể bán hợp đồng khi thấy có lời cũng không thể hủy bỏ hợp đồng
khi thấy bất lợi. Trong khi đó, hợp đồng tương lai có tính thanh khoản cao hơn bởi vì
phòng giao hoán sẵn sàng đứng ra “đảo hợp đồng” bất cứ khi nào có một bên yêu cầu.
Khi đảo hợp đồng thì hợp đồng cũ bị xóa bỏ và hai bên thanh toán cho nhau phần chênh
lệch giá trị tại thời điểm đảo hợp đồng.
Đặc điểm này khiến cho hầu hết các hợp đồng tương lai đều tất toán thông qua đảo
hợp đồng, chỉ có khoản 1,5% hợp đồng tương lai được thực hiện thông qua chuyển giao
ngoại tệ vào ngày đến hạn. Cũng chính đặc điểm này khiến hợp đồng tương lai nói chung
là công cụ thích hợp cho các nhà đầu cơ. Nhà đầu cơ dự báo một loại ngoại tệ nào đó lên
giá trong tương lai sẽ mua hợp đồng tương lai loại ngoại tệ đó. Ngược lại, nhà đầu cơ
khác lại dự báo ngoại tệ ấy xuống giá trong tương lai sẽ bán hợp đồng tương lai. Sở giao
dịch với tư cách là nhà tổ chức và trung gian trong giao dịch sẽ đứng ra thu xếp các loại
hợp đồng này.
3.4 Sử dụng giao dịch tương lai để quản lý rủi ro ngoại hối.
Mua HĐ
tương lai
Công ty
thanh toán bù
Bán HĐ
tương lai
University of Economic, Ho Chi Minh City 23
Chúng ta biết rằng hợp đồng tương lai là một công cụ thực hiện đầu cơ. Còn khả
năng phòng ngừa rủi ro thì sao? Bởi vì hợp đồng tương lai chỉ cung cấp giới hạn cho một
vài ngoại tệ và một vài ngày thanh toán trong năm nên khả năng phòng ngừa rủi ro của
nó hơi hạn chế. Tuy nhiên, hợp đồng tương lai vẫn có thểsử dụng như là một công cụ
phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Nguyên lý chung là khi có một khoản phải trả bằng ngoại tệ
và lo sợ rằng ngoại tệ đó sẽ lên giá khi khoản phải trả đến hạn thì nên mua một hợp đồng
tương lai ngoại tệ đó. Bằng cách này có thể tạo ra hai trạng thái ngoại tệ trái ngược
nhau: trạng thái âm khi nợ một khoản phải trả và trạng thái dương khi mua hợp đồng
tương lai với cùng loại ngoại tệ đó. Hai trạng thái ngoại tệ trái chiều nhau ấy sẽ tự hóa
giải rủi ro. Trường hợp có một khoản phải thu, thay vì khoản phải trả, thì làm ngược lại.
Quản lý rủi ro ngoại hối đối với khoản phải trả
Hợp đồng giao sau tuy không dễ thoả thuận giao dịch như hợp đồng kỳ hạn nhưng cũng
có thể sử dụng để quản lý rủi ro ngoại hối đối với một số ngoại tệ có giao dịch trên
thịtrường giao sau. Để có thể phòng ngừa rủi ro ngoại hối đối với một khoản phải trả
bằng ngoại tệ, doanh nghiệp có thể thực hiện mua ngoại tệ theo hợp đồng giao sau có trị
giá và thời hạn tương đương với khoản phải trả. Khi đáo hạn, có hai khả năng xảy ra:
• Nếu ngoại tệ lên giá so với nội tệ thì doanh nghiệp sẽ có lợi do biến động tỷ
giá từ hợp đồng giao sau, nhưng bị thiệt từ sự gia tăng chi phí của khoản phải trả. Khi ấy,
doanh nghiệp lấy lợi từ hợp đồng giao sau bù đắp cho thiệt của khoản phải trả. Nhờ vậy
tổn thất do rủi ro ngoại hối được giảm thiểu hay có thể kiểm soát.
• Nếu ngoại tệ giảm giá so với nội tệ thì doanh nghiệp sẽ bị thiệt do mua hợp
đồng giao sau, nhưng có lợi từ khoản phải trả do biến động tỷ giá làm giảm chi phí của
khoản phải trả. Khi ấy doanh nghiệp lấy lợi từ khoản phải trả bù đắp cho thiệt của hợp
đồng giao sau. Nhờ vậy tổn thất do rủi ro ngoại hối được giảm thiểu hay có thể kiểm soát.
Tương tự, doanh nghiệp cũng có thể sử dụng hợp đồng giao sau như là công cụ
phòng ngừa rủi ro ngoại hối đối với khoản phải thu.
Quản lý rủi ro ngoại hối đối với khoản phải thu
Để có thể bảo hiểm rủi ro ngoại hối đối với một khoản phải thu bằng
ngoại tệ, doanh nghiệp có thể thực hiện bán ngoại tệ theo hợp đồng giao sau có trị giá
và thời hạn tương đương với khoản phải thu. Khi đáo hạn, có hai khả năng xảy ra:
• Nếu ngoại tệ lên giá so với nội tệ thì doanh nghiệp sẽ có lợi do biến động tỷ
giá từ khoản phải thu nhưng bị thiệt do bán ngoại tệ theo hợp đồng giao sau. Lấy lợi
từhợp đồng này bù đắp cho thiệt của hợp đồng kia.
University of Economic, Ho Chi Minh City 24
• Nếu ngoại tệ giảm giá so với nội tệ thì doanh nghiệp sẽ có lợi do bán ngoại tệ
theo hợp đồng giao sau nhưng bị thiệt do biến động tỷ giá của khoản phải thu bằng
ngoại tệ. Lấy lợi từ hợp đồng này bù đắp cho thiệt của hợp đồng kia. Tuy nhiên, do hợp
đồng giao sau giao dịch trên thị trường theo trị giá đã được chuẩn hóa nên thường trị giá
khoản phải thu và trị giá hợp đồng giao sau không khớp với nhau theo một tỷ lệ nhất định
nên hợp đồng giao sau chỉ có thể giúp cắt giảm hay kiểm soát rủi ro chứ chưa hẳn hoàn
toàn loại trừ rủi ro.
3.5 Khả năng thực hiện hợp đồng tương lai ở Việt Nam.
Giao dịch tương lai như đã trình bày trên đây được thực hiện phổ biến ở các nước
có thị trường tài chính phát triển. Ở đó giao dịch tương lai không chỉ được thực hiện trên
thị trường ngoại hối mà còn được thực hiện trên thị trường chứng khoán và thị trường
hàng hoá. Nhờ vậy thị trường có thêm một loại công cụ để đầu cơ và phòng ngừa rủi ro
biến động tỷ giá. Ở Việt Nam hiện tại chưa thực hiện loại giao dịch này nhưng tương lai
liệu loại giao dịch này có khả năng được thực hiện hay không? Điều này còn tùy thuộc
vào nhiều thứ nhưng trong đó có ba điều kiện cơ bản để loại giao dịch này có thể được
đưa ra thị trường hay không:
1. Thứ nhất là khả năng nhận thức về loại giao dịch này. Để giao dịch hay hợp
đồng tương lai được đưa ra thị trường điều kiện tiên quyết là các bên có liên
quan phải nhận thức hay hiểu rõ về loại giao dịch này. Các bên liên quan ở đây bao gồm:
Nhà hoạch định chính sách, sở giao dịch và khách hàng. Nhà hoạch định chính
sách là những người đại diện quản lý về mặt nhà nước có nhận thức đúng đắn về loại
giao dịch này mới có thể cho phép thực hiện. Nếu không, giao dịch này không thể thực
hiện vì lý do đơn giản là Nhà nước “không cho phép”. Sở giao dịch đóng vai trò là người
tổ chức thực hiện và đảm bảo công bằng trong giao dịch cũng phải nhận thức rõ về loại
giao dịch này. Nếu không, sẽ không có ai đứng ra tổ chức và như thế không thể có thị
trường cho loại giao dịch này. Cuối cùng khách hàng tham gia giao dịch là thành phần
quan trọng nhất trên thị trường có nhận thức rõ được loại giao dịch này mới tích cực tham
giao giao dịch và làm cho thị trường trở nên sôi động.
2. Thứ hai là mức độ hiệu quả của thị trường. Mức độ hiệu quả của thị trường
chính là mức độ phản ứng nhanh nhạy của tỷ giá đối với tất cả thông tin có liên quan.
Mức độ hiệu quả của thị trường nhằm đảm bảo sự công bằng trong giao dịch, có như vậy
mới thu hút được khách hàng tham gia giao dịch. Nếu thị trường hiệu quả thì tỷ giá phản
ánh nhanh với tất cả thông tin có liên quan. Dó đó, không ai có thể lợi dụng ưu thế về
thông tin để chiến thắng người khác. Kết quả là mọi người giao dịch trên thị trường đều
bình đẳng nhau về thông tin và đảm bảo được sự công bằng trong giao dịch.
University of Economic, Ho Chi Minh City 25
3. Thứ ba là cơ sở hạ tầng phục vụ giao dịch. Cơ sở hạ tầng phục vụ giao dịch
bao gồm phần cứng là điạ điểm và cơ sở vật chất phục vụ giao dịch và phần mềm là các
qui định, thể chế giao dịch và hệ thống thanh toán bù trừ phục vụ giao dịch hàng ngày.
Trong ba điều kiện trên đây, điều kiện thứ nhất là điều kiện cần và là điều kiện tiên
quyết. Điều kiện này có thể đạt được bằng cách nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm ở các
nước sau đó quảng bá rộng rãi cho công chúng trong nước thông qua hệ thống giáo dục,
hội thảo chuyên đề và các phương tiện thông tin đại chúng. Điều kiện thứ hai là điều kiện
đủ và là điều kiện cực kỳ quan trọng nhằm đảm bảo sự sôi động và thành công của thị
trường. Không may là điều kiện này rất khó đạt được vì nó phụ thuộc vào sự phát triển
khách quan về quy mô và sự hoàn hảo của thị trường. Cuối cùng điều kiện thứ ba cũng là
điều kiện đủ nhưng chỉ là chuyện nhỏ nếu như hai điều kiện đầu đã có.
4. Hợp đồng quyền chọn.
4.1 Khái niệm.
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người mua nó có quyền nhưng không
bắt buộc, được mua hoặc được bán:
• Một số lượng xác định các đơn vị tài sản cơ sở
• Tại hay trước một thời điểm xác định trong tương lai
• Với một mức giá xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng.
Tại thời điểm xác định trong tương lai, người mua quyền có thể thực hiện hoặc
không thực hiện quyền mua (hay bán) tài sản cơ sở. Nếu người mua thực hiện quyền mua
(hay bán), thì người bán quyền buộc phải bán (hay mua) tài sản cơ sở. Thời
điểm xác định trong tương lai gọi là ngày đáo hạn; thời gian từ khi ký hợp đồng
quyền chọn đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của quyền chọn. Mức giá xác định
áp dụng trong ngày đáo hạn gọi là giá thực hiện (exercise price hay strike price).
4.2 Phân loại.
Quyền chọn cho phép được mua gọi là quyền chọn mua (call option), quyền
chọn cho phép được bán gọi là quyền chọn bán (put option).
• Quyền chọn mua trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng
không phải nghĩa vụ, được mua một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trước
một thời điểm trong tương lai với một mức giá xác định.
University of Economic, Ho Chi Minh City 26
• Quyền chọn bán trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng
không phải nghĩa vụ, được bán một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trước một
thời điểm trong tương lai với một mức giá xác định.
Đối với quyền chọn mua, ta có người mua quyền chọn mua (holder) và
người bán quyền chọn mua (writer). Đối với quyền chọn bán, ta cũng có người
mua quyền chọn bán và người bán quyền chọn bán. Một cách phân loại khác
là chia quyền chọn thành quyền chọn kiểu châu Âu (European options) và kiểu
Mỹ (American options).
• Quyền chọn kiểu châu Âu (European options) là loại quyền chọn chỉ có
thể được thực hiện vào ngày đáo hạn chứ không được thực hiện trước ngày đó.
• Quyền chọn kiểu Mỹ (American options) là loại quyền chọn có
thể được thực hiện vào bất cứ thời điểm nào trước khi đáo hạn.
Quyền chọn có thể được dựa vào các tài sản cơ sở như cổ phiếu, chỉ
số cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối, kim loại quý hay nông sản. Nhưng
nhìn chung nếu phân theo loại tài sản cơ sở thì có thể chia quyền chọn thành quyền
chọn trên thị trường hàng hoá, quyền chọn trên thị trường tài chính và quyền chọn
trên thị trường ngoại hối.
Ví dụ: Quyền (kiểu Mỹ) chọn mua 100 cổ phiếu IBM với giá thực hiện 50
USD, ngày đáo hạn 1/5/200X. Người mua quyền chọn này sẽ có quyền mua 100 cổ
phiếu IBM với giá 50 USD vào bất cứ thời điểm nào cho đến hết ngày 1/5/200X.
Quyền chọn có thể được mua bán trên thị trường tập trung (như Thị trường
quyền chọn Chicago – CBOE, Thị trường HĐ tương lai quốc tế London –
LIFFE, ...) hay các thị trường phi tập trung (OTC).
4.3 Quyền chọn trên thị trường ngoại hối
Chúng ta đã thấy mặc dù hợp đồng có kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi và hợp
đồng tương lai có thể sử dụng để phòng ngừa rủi ro ngoại hối, nhưng vì là những
hợp đồng bắt buộc thực hiện khi đến hạn nên nó cũng đánh mất đi cơ hội kinh
doanh, nếu như tỷ giá biến động thuận lợi. Đây là nhược điểm lớn nhất của hợp
đồng có kỳ hạn và hợp đồng tương lai. Để khắc phục nhược điểm này, một số ngân
hàng thương mại đã nghiên cứu đưa ra một dạng hợp đồng mới, hợp đồng
quyền chọn tiền tệ (currency options contract).
Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên tỷ giá hối đoái được Sở Giao
Dịch Chứng Khoán Philadelphia đưa ra đầu tiên vào năm 1983. Ngày nay thị
trường quyền chọn là một trong những phân khúc thị trường có tốc độ phát triển
University of Economic, Ho Chi Minh City 27
nhanh nhất trên thị trường hối đoái toàn cầu và nó chiếm khoản chừng 7% doanh
số giao dịch hàng ngày.
Nói chung, quyền chọn (options) là một công cụ tài chính cho phép người
mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc, được mua (call) hay bán (put) một công
cụ tài chính khác ở một mức giá và thời hạn được xác định trước. Người bán hợp
đồng quyền chọn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng nếu người yêu cầu. Bởi vì
quyền chọn là một tài sản tài chính nên nó có giá trị và người mua phải trả
một khoản chi phí nhất định (premium cost) khi mua nó.
Quyền chọn có thể áp dụng cho nhiều loại thị trường với nhiều loại hàng hóa
khác nhau. Do vậy có nhiều loại quyền chọn khác nhau theo những loại thị trường
khác nhau, chẳng hạn quyền chọn trên thị trường hàng hoá, quyền chọn trên
thị trường chứng khoán và quyền chọn trên thị trường ngoại hối. Ở đây chỉ đề
cập đến quyền chọn trên thị trường ngoại hối với hai hình thức khác nhau: quyền
chọn mua (call option) và quyền chọn bán (put option). Quyền chọn mua là kiểu
hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc,
được mua một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn được xác định
trước. Quyền chọn bán là kiểu hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có
quyền, nhưng không bắt buộc, được bán một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và
trong thời hạn được xác định trước. Nếu tỷ giá biến động thuận lợi người mua sẽ
thực hiện hợp đồng (exercise the contract), ngược lại người mua sẽ không thực
hiện cho đến khi hợp đồng hết hạn.
Ở đây cũng cần thiết phân biệt hai kiểu hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng
quyền chọn theo kiểu Mỹ và hợp đồng quyền chọn theo kiểu châu Âu. Hợp đồng
quyền chọn theo kiểu Mỹ (American Options) cho phép người mua nó có quyền
thực hiện hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng hết hạn. Trong khi
quyền chọn theo kiểu châu Âu (European Options) chỉ cho phép người mua thực
hiện hợp đồng khi hợp đồng đến hạn (at maturity).
Giá trị của quyền chọn tùy thuộc vào tỷ giá thực hiện (exercise or strike
price) và sự biến động của tỷ giá trên thị trường. Tỷ giá biến động có thể làm cho
quyền chọn trở nên sinh lợi (in-the-money), hòa vốn (at-the-money) hoặc lỗ vốn
(out-of-the- money). Nếu đặt E là tỷ giá thực hiện và S là tỷ giá trên thị trường giao
ngay, chúng ta có các trường hợp có thể xảy ra như sau đối với một hợp đồng
quyền chọn:
• Quyền chọn mua:
1. S > E ⇒ hợp đồng sinh lợi
University of Economic, Ho Chi Minh City 28
2. S = E ⇒ hợp đồng hòa vốn
3. S < E ⇒ hợp đồng lỗ vốn
• Quyền chọn bán:
1. S < E ⇒ hợp đồng sinh lợi
2. S = E ⇒ hợp đồng hòa vốn
3. S > E ⇒ hợp đồng lỗ vốn.
4.4 Sử dụng giao dịch quyền chọn để quản lý rủi ro ngoại hối.
4.4.1 Phòng ngừa rủi ro ngoại hối đối với khoản phải trả
Để phòng ngừa rủi ro ngoại hối đối với khoản phải trả doanh nghiệp có thể thương
lượng với ngân hàng mua quyền chọn mua. Khi ấy ngân hàng, bên bán quyền, sẽ xem xét
chào cho doanh nghiệp, bên mua quyền, một quyền chọn mua có nội dung bao gồm :
- Trị giá quyền chọn (K), bằng hoặc tương đương trị giá khoản phải trả
- Tỷ giá thực hiện (E)
- Phí mua quyền bằng K.P trong đó P là phí mua quyền chọn tính trên mỗi đồng
ngoại tệ
- Kiểu quyền chọn (kiểu Âu hoặc Mỹ)
- Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T), bằng hoặc tương đương thời hạn
của khoản phải trả.
Tất cả những nội dung này của quyền chọn đã được hai bên thỏa thuận
trước. Ở thời điểm thỏa thuận, tỷ giá giao ngay trên thị trường đã biết nhưng ở thời điểm
đến hạn tỷ giá giao ngay trên thị trường chưa biết.
4.4.2 Phòng ngừa rui ro ngoại hối đối với khoản phải thu.
Để phòng ngừa rủi ro ngoại hối đối với khoản phải thu, doanh nghiệp có
thể thương lượng với ngân hàng mua quyền chọn bán. Khi ấy ngân hàng, bên bán quyền,
sẽ xem xét chào cho doanh nghiệp, bên mua quyền, một quyền chọn bán có nội dung bao
gồm :
- Trị giá quyền chọn (K), bằng hoặc tương đương trị giá khoản phải thu
- Tỷ giá thực hiện (E)
- Phí mua quyền bằng K.P trong đó P là phí mua quyền chọn tính trên mỗi đồng
University of Economic, Ho Chi Minh City 29
ngoại tệ
- Kiểu quyền chọn (kiểu Âu hoặc Mỹ)
- Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T), bằng hoặc tương đương thời hạn
của khoản phải thu.
Tất cả những nội dung này của quyền chọn đã được hai bên thỏa thuận
trước. Ở thời điểm thỏa thuận, tỷ giá giao ngay trên thị trường đã biết nhưng ở thời điểm
khoản phải đến hạn tỷ giá giao ngay trên thị trường chưa biết.
Tóm lại, thông qua hợp đồng quyền chọn, doanh nghiệp có thể kiểm soát
được rủi ro ngoại hối bằng cách giới hạn tối đa chi phí nội tệ đối với khoản phải trả ở
mức bằng trị giá khoản phải trả nhân với tỷ giá thực hiện và công thêm chi phí mua
quyền chọn mua ; và giới hạn tối thiểu giá trị nội tệ của khoản phải thu ở mức bằng trị giá
khoản phải thu nhân với tỷ giá thực hiện và trừ đi chi phí mua quyền chọn bán.
Ví dụ 1: Công ty xuất khẩu, Export Co. Ltd, có hợp đồng xuất khẩu trị giá 1 triệu
USD sẽ đến hạn thanh toán sau 6 tháng, tỷ giá giao ngay (USD/VND) ở thời điểm hiện
tại: 15990 – 15992 trong khi tỷ giá giao ngay (USD/VND) khi hợp đồng đến hạn chưa
biết vì chưa xảy ra.
• Ở thời điểm giao dịch : Để tránh rủi ro ngoại hối, công ty liên hệ với ACB mua
quyền chọn bán có những nội dung, do ACB xác định và chào cho Export Co. Ltd, như
sau :
- Trị giá quyền chọn (K): 1 triệu USD
- Tỷ giá thực hiện (E): 16.010
- Phí mua quyền chọn (P) tính trên mỗi đồng ngoại tệ : 20 đồng. Tổng chi phí mua
quyền chọn bằng 1 triệu x 20 đồng = 20 triệu đồng.
- Kiểu quyền chọn: kiểu Mỹ
- Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T): 6 tháng.
Ở thời điểm này, Export Co. Ltd đã bỏ ra tổng chi phí 20 triệu đồng để
mua công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Mặc dù, lúc này thời điểm đáo hạn chưa xảy
ra nhưng công ty biết trước được khi đáo hạn có hai khả năng xảy ra và các giao dịch khi
quyền chọn đáo hạn như sau:
• Ở thời điểm đáo hạn :
- Nếu tỷ giá mua giao ngay S m < E = 16.010 thì doanh nghiệp sẽ thực
hiện quyền chọn bán. Khi ấy giá trị của khoản phải thu quy ra nội tệ là
V = 1 x 16.010 = 16.010 triệu VND, bất chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao
University of Economic, Ho Chi Minh City 30
nhiêu. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu
VND để mua quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải thu chỉ còn và được cố
định ở mức 16.010 – 20 = 15.990 triệu VND. Nhờ vậy, rủi ro ngoại hối được kiểm soát.
- Nếu tỷ giá mua giao ngay S m > E = 16.010 thì doanh nghiệp không thực hiện
quyền chọn bán, mà bán ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi ấy giá trịkhoản
phải thu quy ra nội tệ là V(S m ) = 1 triệu USD x S m = S m triệu VND. Cần lưu ý
rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND để
mua quyền chọn nên giá trị khoản phải thu quy ra nội tệ chỉ còn bằng (S m - 20) triệu
VND. Giá trị này chưa được cố định nhưng bị chận dưới tối thiểu ở mức 15.990
triệu VND, do S m > 16.010. Do đó, rủi ro ngoại hối cũng được kiểm soát.
Kết quả là dù tỷ giá giao ngay khi hợp đồng xuất khẩu đến hạn là bao nhiêu đi nữa
thì trị giá hợp đồng xuất khẩu qui ra VND vẫn nằm ở mức tối thiểu là 15.990 triệu VND.
4.5 Ưu, nhược điểm.
Sử dụng hợp đồng quyền chọn như là giải pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối
có ưu điểm là giúp công ty vừa kiểm soát được rủi ro ngoại hối vừa giúp công ty
tận dụng được cơ hội đầu cơ nếu như tỷ giá biến động thuận lợi. Có thể nói hợp
đồng quyền chọn, với tính chất linh hoạt của nó, là hợp đồng cho phép công ty đạt
được cả hai mục tiêu: phòng ngừa rủi ro và đầu cơ. Tuy nhiên, nhược điểm của nó
là công ty phải bỏ chi phí ra mua quyền chọn, cho dù có thực hiện hay không thực
hiện quyền chọn.
Tư vấn lựa chọn - Hợp đồng quyền chọn bán có thể được lựa chọn sử dụng
như là giải pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối khi nào có một thị trường quyền chọn
tập trung hoặc phi tập trung sẵn sàng cho loại giao dịch này. Mặt khác, nếu sự biến
động tỷ giá của một loại ngoại tệ nào đó so với nội tệ rất khó dự đoán thì công ty
nên chọn hợp đồng quyền chọn như là giải pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối.
III. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ
VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH ĐỀ PHÒNG
RỦI RO HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách ngoại hối đóng vai trò rất
quan trọng, làm sao để vừa tranh thủ được các nguồn vốn quốc tế, thúc đẩy hoạt động
thương mại, đầu tư, du lịch, kiều hối, nhưng lại phải đảm bảo được chủ quyền của đồng
Việt Nam, thực hiện được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trong thời gian qua, chính
sách ngoại hối đã có những thay đổi quan trọng, một số quy định đã thông thoáng hơn,
mở ra nhiều nghiệp vụ mới, đặc biệt là các nghiệp vụ phái sinh ngoại hối.
University of Economic, Ho Chi Minh City 31
Tuy nhiên cho đến nay, ở Việt Nam các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn sơ khai, kém
phát triển thể hiện ở doanh số giao dịch thấp, thậm chí ở một số NHTM mặc dù đã triển
khai nghiệp vụ option nhưng không có giao dịch. Mặc dù trên thế giới các nghiệp vụ phái
sinh để bảo hiểm rủi ro tỷ giá như forward, swap, futures , option đã được sử dụng phổ
biến từ rất lâu với doanh số hàng ngày lên tới hàng trăm tỷ USD. Chính vì vậy, việc ứng
dụng các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro tỷ giá tại Việt Nam đang gặp nhiều khó
khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do:
Một là, thiếu nhu cầu thực sự từ phía khách hàng.
Đây là vấn đề cốt lõi, vì trước đây tỷ giá USD/VND thường xuyên ổn định tại mức
trần so với giá NHNN công bố, khách hàng không quan tâm tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ
giá. Tuy nhiên, sang năm 2007 và đầu năm 2008, thị trường chứng kiến sự biến động và
đảo chiều mạnh mẽ của VND so với đồng Đôla Mỹ, tỷ giá USD/VND giảm xuống giao
dịch tại mức sàn. Nguyên nhân là do lượng lớn ngoại tệ từ các hoạt động đầu tư trực tiếp,
gián tiếp nước ngoài, kiều hối đổ vào các NHTM làm xuất hiện dư thừa ngoại tệ do mất
cân đối cung cầu. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề
rủi ro tỷ giá, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu trong ngành thuỷ sản, dệt may, cà
phê... và các ngành sản xuất, xuất khẩu khác. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp Việt Nam
vẫn chưa có thói quen hay nói chính xác hơn là chưa quan tâm tới phòng chống rủi ro đối
với các hoạt động ngoại tệ của mình.
Hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam đều phải vay ngoại tệ hàng trăm triệu USD
hoặc EUR để đầu tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp này sau khi vay ngoại tệ thường
bán số ngoại tệ này chuyển sang VND để tiến hành hoạt động đầu tư dự án, đến kỳ trả nợ
họ phải mua lại số ngoại tệ đó bằng VND. Trong thời gian tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, rõ ràng sẽ có sự biến động về cả lãi suất cho vay và cả tỷ giá hối đoái. Nếu
sử dụng công cụ phái sinh như hoán đổi lãi suất hoặc công cụ kỳ hạn hay quyền chọn về
ngoại tệ thì các doanh nghiệp sẽ bảo hiểm được rủi ro lãi suất trong trường hợp nếu lãi
suất vay là thả nổi và khi lãi suất thị trường đã tăng lên như hiện nay hoặc bảo hiểm được
rủi ro tỷ giá khi ngoại tệ có xu hướng giảm xuống vào thời điểm doanh nghiệp bán ngoại
tệ.
Hai là, thiếu cơ sở pháp lý.
Trong vài năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cho phép các NHTM
được thực hiện nhiều nghiệp vụ mới như quyền chọn ngoại hối, quyền chọn vàng, hoán
đổi lãi suất. Tuy nhiên cơ sở pháp lý cho nghiệp vụ phái sinh còn chưa đầy đủ, ngoại trừ
chỉ có giao dịch hoán đổi lãi suất đã có quy chế của NHNN là Quyết định số
1133/2003/QĐ-NHNN, ngày 30/09/2003. Mặc dù hiện nay tất cả các NHTM đều được
thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, tuy nhiên chỉ được thực hiện quyền chọn giữa
ngoại tệ và ngoại tệ, còn quyền chọn giữa ngoại tệ và VND thì phải được sự cho phép từ
University of Economic, Ho Chi Minh City 32
phía NHNN. Trên thực tế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường chuyển đổi ngoại tệ
ra VND để phục vụ hoạt động đầu tư sản xuất trong nước mà hầu như không chuyển đổi
từ ngoại tệ ra ngoại tệ. Đây cũng là trở ngại lớn đối với các NHTM làm cho doanh số
giao dịch quyền chọn rất thấp.
Ba là, thiếu kiến thức, hiểu biết về công cụ phái sinh.
Sản phẩm phái sinh trong phòng chống rủi ro là một sản phẩm khá mới và phức
tạp đối với thị trường Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cũng như các NHTM phải có
hệ thống thông tin dự báo tỷ giá quốc tế nhanh, chính xác, cập nhật liên tục; phải có công
cụ đo lường và cảnh báo rủi ro tỷ giá, lãi suất; đội ngũ các nhà quản lý, các giao dịch viên
chuyên nghiệp, Thực tế có nhiều NHTM được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối
từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được. Đối với các doanh nghiệp thì việc hiểu
biết các công cụ phái sinh để phòng chống rủi ro còn nhiều hạn chế.
Điều kiện để phát triển các công cụ phái sinh ngoại hối tại Việt Nam
Từ thực tế trên, để ứng dụng và phát triển công cụ phái sinh tại Việt Nam cần phải
có các điều kiện sau:
Thứ nhất, về khách quan.
Tỷ giá thị trường phải biến động tới mức đủ để các doanh nghiệp phải quan tâm
chú ý tới vấn đề bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Các NHTM cũng rất muốn triển khai các sản
phẩm dịch vụ mới nhưng không thể "cố ép" khách hàng sử dụng khi thực sự họ không có
nhu cầu.
NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tạo ra một thị trường ngoại
hối phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ. NHNN cần tiếp tục nới rộng biên độ dao
động so với tỷ giá bình quân và thường xuyên điều chỉnh linh hoạt biên độ này cho phù
hợp với thị trường hơn. Đây là cơ sở để NHTM cũng như doanh nghiệp quen dần với các
công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá. Bên cạnh đó, NHNN cần nghiên cứu ban hành những
quy tắc cơ bản nhất trong giao dịch phái sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp
với điều kiện thị trường của Việt Nam hiện nay, để có hành lang pháp lý chung cho hoạt
động của các NHTM. Cho phép các NHTM chủ động thực hiện quyền chọn ngoại hối
giữa ngoại tệ và VND khi có nhu cầu phái sinh. Tránh để các NHTM thực hiện nghiệp vụ
mới một cách riêng lẻ theo sự hiểu biết của ngân hàng, dẫn đến tình trạng không thống
nhất, dễ gây ra tranh chấp khi có sự cố xảy ra.
NHNN cần tăng cường hơn nữa vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát và điều hành nhằm hình
thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên
thị trường. Ngân hàng Nhà nước tham gia thị trường với tư cách là người mua, người bán
cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
University of Economic, Ho Chi Minh City 33
Hai là, về phía các NHTM
Cần tiếp cận khách hàng, tổ chức hội thảo để giới thiệu và tư vấn nhằm mục đích
vừa nâng cao nhận thức của khách hàng về rủi ro tỷ giá vừa giúp cho khách hàng hiểu
biết về các công cụ phái sinh ngoại hối. Phát triển các công cụ phái sinh và thị trường
phái sinh là giúp cho các doanh nghiệp có thêm cơ hội lựa chọn loại hình giao dịch hối
đoái phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Khi sử dụng các công cụ phái sinh doanh nghiệp
có được sự lựa chọn về tỷ giá mong muốn. Mặt khác, cần tập trung ưu tiên đào tạo và bồi
dưỡng cho các cán bộ trực tiếp kinh doanh trên thị trường hối đoái quốc tế về các công cụ
phái sinh nói chung và phái sinh ngoại hối nói riêng, vì đây là những sản phẩm mới, phức
tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng. Ngoài ra cần trang bị thêm những kiến thức và
kinh nghiệm về thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ quốc tế, kỹ năng phân tích kỹ
thuật, phân tích cơ bản trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp và phân tích thông tin để dự đoán xu
hướng diễn biến của thị trường nhằm sử dụng các công cụ phái sinh một cách hiệu quả
nhất. Thông qua đó để có thể tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ cho khách hàng của mình hiểu
biết hơn về thị trường ngoại hối.
Ba là, về phương tiện, thiết bị.
Ngoài những phương tiện, thiết bị hiện có của Reuters, Thomson, SowJones News
hay Metastock, cần trang bị thêm phần mềm xử lý, quản lý rủi ro và tính phí đối với các
nghiệp vụ phái sinh. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trên thị
trường ngoại hối quốc tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về hệ thống phân tích quản
lý rủi ro đối với các công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn ngoại hối, công
cụ tương lai ngoại hối nói riêng.
University of Economic, Ho Chi Minh City 34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu giảng dạy chương trình Fulright niên khóa
2006 – 07
2. Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 3/2011.
3. Diễn đàn khoa Khoa học Quản lý trường Đại học Kinh
tế Quốc dân.
4. Tạp chí phát triển Kinh tế UEH.
5. Website HSBC Việt Nam.
University of Economic, Ho Chi Minh City 35
MỤC LỤC
Lời nói đầu ............................................................................................. 1
I. Rủi ro tỷ giá………………………………………………………………2
1. Khái niệm ....................................................................................... ..2
2. Nguyên nhân .................................................................................. ..2
3. Rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ................ .4
4. Tác động của rủi ro tỷ giá .................................................................. .5
II. Phương pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng công cụ phái sinh ................ .9
1. Hợp đồng kỳ hạn.............................................................................. 9
2. Hợp đồng hoán đổi.......................................................................... 16
3. Hợp đồng tương lai ......................................................................... 20
4. Hợp đồng quyền chọn...................................................................... 24
III. Thực trạng thị trường ngoại hối và việc sử dụng các công cụ phái sinh
đề phòng rủi ro hối đoái ở Việt Nam. ..................................................... 29
Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................................... 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bh35_detai2_5_2_2012_2_3801.pdf