Khu vực hoá và toàn cầu hoá là hai xu hướng nổi bật trong quan hệ kinh tế
quốc tế của vài thập kỷ qua. Mặc dù hai xu hướng này có tác động không giống
nhau đến từng khu vực và mỗi quốc gia nhưng không một khu vực , quốc gia nào
trên thế giới có thể đứng ngoài hai xu hướng này. Quá trình hội nhập kinh tế sẽ
tạo ra những cơ hội và thuận lợi lớn mà nếu các quốc gia biết tranh thủ, khai thác
sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy, các quốc gia đều nỗ lực hoà
nhập vào xu thế chung với mục đích tận dụng tối đa sự hợp tác quốc tế để tăng
cường sức mạnh dân tộc.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2539 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình hình thành đồng tiền chung EURO, SDR, ACU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lên đến 3 tỉ đôla ngày 30/7/2001.
(2) Philíppin: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla - pêsô giá trị
23/48
lên đến 3 tỉ đôla ngày 27/8/2001.
(3) Malaysia: Nhật Bản đã đạt được thỏa thuận hoán đổi đôla - ringgit giá
trị lên đến 1 tỉ đôla ngày 5/10/2001, bổ sung cho thỏa thuận hoán đổi trị giá 2,5 tỉ
đôla theo Sáng kiến Miyazawa mới.
Ngoài ra, Nhật và Trung Quốc vẫn tiếp tục thương lượng về thỏa thuận
hoán đổi yên-nhân dân tệ. Nhật Bản sẽ tiếp tục đàm phán song phương với các
nước thành viên để thiết lập mạng lưới thỏa thuận hoán đổi song phương.
Khủng hoảng EMS 1992-93 là một lời nhắc nhở: các thỏa thuận tiền tệ khu
vực gắn một số đồng tiền quốc gia thông qua các biên độ tỷ giá có thể gặp phải
những khó khăn nghiêm trọng kể cả khi có các thiết chế hỗ trợ. Đối với các nước
đang phát triển, không dễ gì lặp lại kinh nghiệm của châu Âu, dù có hay không
có sự giúp đỡ của các nước G-3. Tuy nhiên nguy cơ khủng hoảng tài chính, cùng
với sự thiếu vắng các tiến bộ thực sự trong cải cách cơ cấu tài chính quốc tế đã
đưa việc xây dựng các cơ chế phòng hộ tập thể ở cấp khu vực trở nên cấp thiết ở
các thị trường đang nổi, nhất là Đông á. Những sáng kiến và tiến bộ nêu trên của
Đông á dù còn khiêm tốn nhưng là một bước đi quan trọng trong nỗ lực hợp tác
khu vực để ổn định tài chính, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của khủng hoảng, là
những tiền đề quan trọng để tiến tới một cơ chế liên kết tỷ giá chặt chẽ hơn trong
tương lai.
1.4 Khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập với một chính
sách tiền tệ và một đồng tiền thống nhất
Trên thực tế, khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập và một
đồng tiền thống nhất ở ASEAN chưa có dấu hiệu trở thành hiện thực trong tương
lai gần. ý tưởng này mặc dù đã thu hút được một sự quan tâm nào đó và đã được
các cuộc họp ASEAN bàn tới nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ "nghiên
cứu tính khả thi". Về khả năng hình thành một ngân hàng trung ương độc lập, ở
châu á cũng đã xuất hiện đề xuất thiết lập một Viện tiền tệ châu á, tương tự như
24/48
Viện tiền tệ châu Âu của EU trước đây. Viện này sẽ chịu trách nhiệm phối hợp
các chương trình cải cách và phát triển lĩnh vực tài chính tiền tệ giữa các nước
thành viên. Đây sẽ là nơi cung cấp sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các nước thành
viên, tổ chức các chương trình đào tạo, là nơi để các nước thành viên đàm phán
các hiệp định chung, đề ra các tiêu chuẩn trong lĩnh vực tài chính. Viện này cũng
có thể sẽ tham gia vào việc thanh toán giữa các ngân hàng trung ương các nước
thành viên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một đề xuất của các nhà nghiên cứu mà
chưa hề có một biện pháp cụ thể để đưa đề xuất đó thành hiện thực.
Về đồng tiền chung, hiện các nước ASEAN đang cân nhắc hai khả năng: sử
dụng một đồng tiền bản tệ hoặc hình thành một đồng tiền mới.
Về khả năng lấy một đồng bản tệ trong khu vực làm đồng tiền chung thì
đồng đôla Singapore được xem là "ứng cử viên sáng giá" nhất, với lý do nền
kinh tế Singapore có khả năng cạnh tranh cao, dịch vụ và công nghệ cao chiếm
tỷ trọng lớn, chính sách kinh tế vĩ mô thông thoáng và hiệu quả, cơ chế quản lý
ngoại hối linh hoạt, dự trữ ngoại tệ và thặng dư thương mại lớn. Tuy nhiên, một
số ý kiến khác cho rằng quy mô kinh tế và thị trường tài chính tiền tệ của
Singapore quá nhỏ, đồng đôla Singapore chưa hoàn toàn chuyển đổi tự do nên
khó có thể đảm nhận vai trò đồng tiền chung khu vực. Mặt khác, việc khu vực
hoá đồng đôla Singapore sẽ làm cho quy mô lưu thông của đồng tiền này lớn
hơn, gây khó khăn cho chính phủ nước này trong việc điều hành chính sách tài
chính tiền tệ. Đây cũng là nguyên nhân mà chính phủ Singapore ngần ngại trong
việc chấp thuận đồng tiền nước mình trở thành đồng tiền chung khu vực.
Khả năng thứ hai là hình thành một đồng tiền mới cho ASEAN như kiểu
đồng Euro. Tuy nhiên, hiện nay chưa xuất hiện hình thái chuẩn bị nào cho một
đồng tiền như vậy và các nước ASEAN mới chỉ tích cực nghiên cứu tìm ra giải
pháp cho việc triển khai ý tưởng này dựa trên kinh nghiệm phát hành đồng Euro
mà thôi.
Tóm lại, ASEAN có những tiền đề đầu tiên để hình thành một liên minh
25/48
tiền tệ. Nếu đứng trên phương diện lý thuyết, nghiên cứu của các nhà kinh tế sử
dụng các chỉ số tổng hợp của một khu vực tiền tệ tối ưu về mức độ tự do di
chuyển các yếu tố sản xuất, mức độ linh hoạt của giá cả và tiền lương, mức độ
trùng hợp của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng, và mức độ thương mại nội bộ đã
cho thấy rằng các chỉ số trên của ASEAN hiện nay tương đương với EU trước
khi ký Hiệp ước Masstricht. ASEAN thậm chí còn có mức độ linh hoạt về giá cả
và tiền lương cao hơn EU, và do đó khả năng điều chỉnh khi xảy ra khủng hoảng
cũng nhanh hơn. Cụ thể là các nước ASEAN thường chỉ mất khoảng 2 năm để
điều chỉnh và phục hồi trong khi chỉ một nửa số các cú sốc xảy ra với các nước
EU được điều chỉnh trong vòng 2 năm, còn lại phải mất nhiều thời g ian hơn. Các
nước ASEAN cũng cho thấy có mức độ trùng hợp về chu kỳ kinh tế cao hơn các
nước EU. Còn đứng trên phương diện thực tế, một sự so sánh giữa các giai đoạn
phát triển của EU và ASEAN, như trên đã phân tích, cũng cho thấy rằng các
nước ASEAN hoàn toàn có những điều kiện cần thiết để tạo dựng một liên minh
tiền tệ. Tuy nhiên, con đường để đi đến một liên minh tiền tệ sẽ rất nhiều khó
khăn, trở ngại, đòi hỏi các nước trong khu vực phải có những chính sách, biện
pháp phù hợp và những bước đi cụ thể. ở thời điểm hiện tại, có thể dự kiến một
lộ trình và một số biện pháp sơ bộ như sau.
III.2 Lộ trình của việc ra đời đồng tiền chung ASEAN
2.1 Dự kiến lộ trình chung
Từ kinh nghiệm của EU, có thể dự đoán rằng tiến trình thiết lập một liên
minh tiền tệ của ASEAN nhìn chung cũng sẽ tương tự như những gì mà EMU đã
trải qua, nghĩa là cũng sẽ phải có một thời kỳ thống nhất các thị trường hàng hoá,
vốn và sức lao động, điều chỉnh kinh tế để chuẩn bị hội nhập, thiết lập một hình
thức liên kết tỷ giá, hình thành một thể chế siêu quốc gia để điều khiển tập trung
chính sách kinh tế của các nước thành viên.
Quá trình điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một điều kiện quan trọng để
hình thành một đồng tiền chung. Các nước ASEAN sẽ cần phải bắt tay thực hiện
26/48
các chương trình hợp tác từ một giai đoạn sớm hơn EU, do ở ASEAN không có
nước nào có thể đóng vai trò trung tâm trong việc hoạch định các chính sách
kinh tế vĩ mô, có một ngân hàng trung ương đóng vai trò quan trọng như Ngân
hàng Bundesbank ở châu Âu và có một đồng tiền có thể làm trụ cột cho các đồng
tiền khác trong khu vực như đồng Mark Đức ở châu Âu. Do đó, các nước
ASEAN sẽ phải sớm hình thành các cơ chế phối hợp với mức độ hợp tác cũng sẽ
phải chặt chẽ hơn. ASEAN sẽ sớm phải triển khai các cơ chế đa phương chứ
không thể chỉ là các cơ chế song phương để chuẩn bị cho sự ra đời của các thể
chế chung (một quỹ tiền tệ chung hoặc một ngân hàng trung ương của khu vực),
thoả thuận các quy định, các quy chế để vận hành thể chế đó hiệu quả.
Thống nhất các thị trường hàng hoá, vốn và sức lao động cũng là một điều
kiện hết sức quan trọng để các nước ASEAN có thể thu được đầy đủ những lợi
ích của một liên minh tiền tệ. Các nước ASEAN kém thuận lợi hơn EU ở chỗ
chênh lệch trong trình độ phát triển kinh tế của các nước ASEAN nghiêm trọng
hơn nhiều so với các nước Tây Âu. Do vậy, quá trình hội nhập kinh tế sẽ khó
khăn hơn và phải tính đến đặc điểm và điều hoà được nhu cầu khác nhau của tất
cả các nước thành viên.
Với những đặc điểm trên, lộ trình tiến tới một liên minh tiền tệ ở ASEAN sẽ
có những bước đi khác với châu Âu. Nếu như ở châu Âu, các cơ chế liên kết tiền
tệ như Con rắn tiền tệ, Hệ thống tiền tệ châu Âu được triển khai từ những năm
1970 còn mục tiêu về thị trường tự do mãi tới năm 1987 mới được chính thức
đưa ra trong "Đạo luật châu Âu thống nhất" thì ở ASEAN, giai đoạn hình thành
thị trường chung lại được triển khai trước.
Giai đoạn hình thành thị trường chung của ASEAN sẽ kéo dài hơn các nước
châu Âu, do sự chênh lệch về trình độ phát triển của các nước này quá lớn. Song
một khi đã đạt được thị trường chung, những khác biệt lớn về trình độ phát triển
kinh tế được thu hẹp, ASEAN sẽ xây dựng một liên minh tiền tệ trong khoảng
thời gian rút ngắn hơn Liên minh châu Âu. Với kinh nghiệm của châu Âu,
27/48
ASEAN cũng sẽ không phải mất nhiều năm "thử nghiệm" các bước đi về hợp tác
tiền tệ và tỷ giá. Hợp tác tiền tệ và tỷ giá hối đoái sẽ được tiến hành dần dần,
song song với quá trình xây dựng thị trường chung. ở thời điểm hiện tại, có thể
dự kiến một lộ trình sơ bộ cho đồng tiền chung ASEAN như sau:
2008: Hoàn thành việc tạo lập một thị trường hàng hóa tự do lưu thông giữa
các nước ASEAN theo chương trình thuế quan có hiệu lực chung.
2020: Hoàn thành việc xây dựng khu vực đầu tư ASEAN, đồng thời cũng
hoàn thành việc xây dựng thị trường tự do lưu thông về hàng hoá, vốn và sức lao
động. Trong giai đoạn này đồng thời triển khai hợp tác trong lĩnh vực tài chính
tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
2030: Các nước hoàn thành điều chỉnh kinh tế theo các tiêu chí kinh tế vĩ
mô cụ thể để chuẩn bị hội nhập. Hình thành Ngân hàng Trung ương ASEAN, bắt
đầu điều hành tập trung một số chính sách tiền tệ và tỷ giá, đưa ra (nhưng chưa
lưu thông) một đồng tiền chung chính thức. Triển khai các công việc chuẩn bị
cho việc lưu hành đồng tiền chung.
2035: Lưu hành một đồng tiền chung trong ASEAN, hoàn thành liên minh
tiền tệ ASEAN.
3.2 Một số phương án trong lĩnh vực hợp tác tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
Riêng về lĩnh vực hợp tác tiền tệ và tỷ giá hối đoái, từ kinh nghiệm của
châu Âu, các nhà kinh tế đã nghiên cứu và đưa ra một số đề xuất cho giai đoạn
chuẩn bị một đồng tiền chung. Việc áp dụng đề xuất nào sẽ quyết định cụ thể
hơn nữa các bước đi trong lộ trình tiến tới đồng tiền chung. Đối với ASEAN, có
thể xem xét một số phương án sau đây:
3.2.1 Phương án 1: Neo giá vào một rổ tiền tệ chung.
Đề xuất này do nhà kinh tế học Williamson (1999, 2000) đưa ra với mục
đích xây dựng một cơ chế tương tự như Hệ thống tiền tệ châu Âu EMS, với
những đặc điểm như: xây dựng một cơ chế tỷ giá hối đoái neo giá vào một rổ
tiền tệ chung bao gồm đôla Mỹ, Yên Nhật và Euro. Tỷ trọng các đồng tiền này
28/48
trong rổ sẽ dựa vào tỷ trọng thương mại của cả khu vực, chứ không phải của
từng quốc gia ASEAN với Mỹ, Nhật và EU. Mỗi nước thành viên sẽ tự đưa ra
một tỷ giá trung tâm so với rổ tiền tệ này và phải cam kết duy trì tỷ giá này trong
một biên độ mà mình tự lựa chọn. Tuy nhiên, khi xảy ra các cuộc tấn công đầu
cơ ở quy mô lớn, cho phép tạm thời ngừng neo giá với điều kiện nước này cam
kết sẽ đưa tỷ giá về mức ban đầu. Cơ chế này cho phép cùng tồn tại nhiều cơ chế
tỷ giá hối đoái khác nhau ở các nước thành viên khác nhau như tỷ giá cố định
(Malaysia), thả nổi có điều tiết (S ingapore, Philipin, Việt Nam), neo giá với biên
độ dao động cho phép (Inđônêxia)..., và cho phép các nước thành viên được điều
chỉnh tỷ giá và biên độ dao động trong trường hợp thực sự cần thiết. Việc cho
phép điều chỉnh tỷ giá và biên độ dao động này dựa trên kinh nghiệm từ cuộc
khủng hoảng của EMS năm 1992-1993 khi một số thành viên buộc phải rút khỏi
cơ chế và biên độ dao động sau này đã phải mở rộng từ ±2.5% lên tới ±15%. Cơ
chế này cũng đòi hỏi phải xây dựng một hình thức tương tự như hạn mức tín
dụng thời hạn rất ngắn của châu Âu nhằm hỗ trợ các đồng tiền thành viên trong
trường hợp xảy ra đầu cơ tiền tệ.
Cơ chế này sẽ có tác dụng làm giảm bớt sự biến động của tỷ giá danh nghĩa
cũng như tỷ giá thực tế nội bộ khu vực khi tỷ giá của các đồng tiền chính (đôla,
yên, euro) biến động. Nó cũng sẽ giúp các nước thành viên hội nhập hơn về mặt
kinh tế, và cùng với sự ổn định tỷ giá, sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc
hình thành một đồng tiền chung ở ASEAN.
Tuy nhiên, các công việc còn lại để đi đến một liên minh tiền tệ sẽ còn khá
nhiều, bao gồm: hình thành một thể chế tiền tệ khu vực và cho ra đời một đơn vị
tiền tệ khu vực, sau đó khi các nước thành viên hoàn thành giai đoạn điều chỉnh
kinh tế vĩ mô để hội nhập, sẽ tiếp tục phát triển thể chế tiền tệ đó lên thành một
ngân hàng của khu vực và đơn vị tiền tệ được phát triển lên thành đồng tiền
chung của khu vực.
3.2.2 Phương án 2: Cơ chế tỷ giá hối đoái ASEAN.
29/48
Cơ chế này được xây dựng dựa trên đề xuất của các nhà kinh tế Oh và
Harvie (2001) về một cơ chế tỷ giá tương tự như Cơ chế tỷ giá hối đoái của
EMS. Cơ chế này sẽ có những đặc điểm như sau:
Hình thành một đồng tiền chung ASEAN ở dạng chuẩn bị tương tự như đơn
vị tiền tệ châu Âu ECU, là một rổ tiền tệ bao gồm đồng tiền các nước thành viên.
Tỷ trọng các đồng tiền nên được tính toán theo tỷ trọng thương mại của một
nước trong tổng thương mại của khu vực, chứ không nên theo tỷ trọng GDP do
sự chênh lệch về GDP giữa các nước quá lớn.
Tỷ giá trung tâm của đồng tiền các nước thành viên sẽ không do các nước
thành viên tự quyết định mà do một Viện tiền tệ ASEAN, tương tự như Viện tiền
tệ châu Âu EMI, quyết định. Biên độ dao động sẽ rộng hơn trong đề xuất trên,
chẳng hạn là ± 15% như trong giai đoạn sau 1993 của ERM. Viện tiền tệ này
cũng sẽ điều hành và phối hợp các chính sách về tiền tệ và tỷ giá mà các nước
thành viên đã thống nhất. Đồng thời viện này cũng phải đảm nhận trách nhiệm là
người cho vay cuối cùng, cung cấp các phương tiện tín dụng giải ngân nhanh
trong trường hợp khẩn cấp như đầu cơ tiền tệ ở quy mô lớn.
Công việc còn lại sẽ chỉ là thành lập một Ngân hàng trung ương ASEAN
thay thế cho Viện tiền tệ ASEAN và phát hành một đồng tiền chung dựa trên đơn
vị tiền tệ ASEAN đã thiết lập khi các nước thành viên đã đạt được một mức độ
hội tụ cần thiết theo các tiêu chí cụ thể đã thống nhất.
Cũng như phương án 1, đề xuất này sẽ giảm bớt sự biến động tỷ giá hối
đoái thực tế cũng như danh nghĩa. Đề xuất này sẽ giúp các nước đạt được một
mức độ hội nhập cao hơn trong một thời gian ngắn hơn, do đã xuất hiện từ sớm
một đơn vị tiền tệ khu vực và một thể chế khu vực về tiền tệ và tỷ giá.
Tuy nhiên, với sự chênh lệch về trình độ phát triển như hiện nay, các nước
ASEAN sẽ dễ dàng chấp nhận một rổ tiền tệ với 3 đồng t iền chính được sử dụng
rộng rãi hơn là một rổ tiền tệ gồm đồng tiền các nước ASEAN. Hơn nữa, đề xuất
về một rổ các đồng tiền ASEAN cũng đòi hỏi khá nhiều nước phải từ bỏ cơ chế
30/48
tỷ giá thả nổi có điều tiết hiện hành để áp dụng một chính sách tỷ giá chung.
Các vấn đề của Việt Nam trong tiến trình hội nhập ASEAN - hướng tới
hình thành một đồng tiền chung.
Trong tiến trình hội nhập ASEAN, hướng tới việc hình thành một đồng tiền
chung, Việt nam cần phải :
-Chủ động xây dựng một chiến lược hội nhập phù hợp
Chiến lược hội nhập là định hướng chính sách tổng thể lâu dài cho quá trình
hội nhập của một quốc gia vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Chiến
lược này bao gồm những nội dung liên quan đến mục tiêu, phương châm, bước
đi và biện pháp theo đuổi.
Trước hết, cần xác định mục tiêu lâu dài và mục tiêu từng giai đoạn của quá
trình hội nhập. Những mục tiêu này không thể tách rời những mục tiêu chiến
lược của đường lối chính trị-kinh tế của đất nước và phải nhằm phục vụ những
mục tiêu chiến lược đó.
Chiến lược hội nhập cần đề ra những phương châm và bước đi thích hợp
của quá trình hội nhập đối với từng giai đoạn. Một nguyên tắc quan trọng là các
bước đi của quá trình hội nhập phải đồng bộ và phù hợp với tiến trình cải cách,
điều chỉnh toàn diện bên trong, đảm bảo hai tiến trình này không trái ngược, triệt
tiêu hiệu quả của nhau mà hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Các bộ phận của chiến lược
hội nhập là chính sách thương mại, chính sách đầu tư, sản xuất kinh doanh, lưu
thông phân phối, chính sách tài chính, chính sách trợ cấp, chính sách giá cả, quy
định về quyền sở hữu trí tuệ, chính sách xuất nhập cảnh và lưu trú, các thủ tục
hành chính, hệ thống tư pháp…phải vận hành ăn khớp, thống nhất vì mục tiêu,
phương châm chung, có tính toán kỹ các hậu quả kinh tế-xã hội có thể xảy đến
khi thực hiện tiến hành hội nhập.
-Tích cực xây dựng lộ trình Hội nhập phù hợp
Lộ trình thực hiện các yêu cầu của các thể chế quốc tế gồm 3 loại: (1) lộ
trình tích cực (3-5 năm), (2) lộ trình trung bình (5-7 năm) và (3) lộ trình chậm
31/48
(7-10 năm). Chọn lộ trình nào là tuỳ thuộc vào sự cân nhắc hiệu quả và các hệ
quả xã hội.
Nhìn chung, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Việt Nam cần một lộ
trình tích cực để rút ngắn con đường phát triển, chống tụt hậu.
-Chủ động đàm phán đa phương và song phương có hiệu quả với các nước và
các tổ chức khu vực, toàn cầu
Cần chuẩn bị kỹ các phương án đàm phán về từng lĩnh vực, vấn đề, sản
phẩm. Khôn khéo vận dụng quy chế xử lý tranh chấp và đòi hỏi hoàn thiện các
quy chế đó có lợi cho các nước đang phát triển . Tranh thủ đạt được những cách
giải thích có lợi cho mình về những thuật ngữ và khái niệm còn mơ hồ, có thể
giải thích nhiều cách khác nhau, trong các hiệp định quốc tế và các quy tắc toàn
cầu hóa.
Muốn vậy, cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau:
2.1 Điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thương mại
Chính sách thương mại của Việt Nam hiện nay còn nhiều điểm bất cập,
không phù hợp với thông lệ quốc tế và còn thiếu nhiều quy định được các nước
thừa nhận và sử dụng rộng rãi. Để quá trình tham gia AFTA của Việt Nam
hướng tới hình thành đồng tiền chung, thu được lợi ích lớn nhất, hạn chế những
tác động tiêu cực của tự do hoá thương mại khu vực, việc điều chỉnh và hoàn
thiện chính sách thương mại cần phải theo hướng thông thoáng, có tính ổn định
và phù hợp với thông lệ trong buôn bán khu vực và quốc tế đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình.
Việc điều chỉnh chính sách thương mại cần tuân theo những nguyên tắc sau:
- Điều chỉnh chính sách thương mại phải đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội,
nghĩa là phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, phục vụ
cho quá trình phát triển kinh tế không gây nên những bất ổn, biến động mạnh,
ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.
32/48
- Tuân thủ các quy định không những của Hiệp định CEPT mà cả các Hiệp
định và Thoả thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và hướng tới những quy định
của WTO. Điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thương mại của Việt Nam
cần tập trung vào các vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, chính sách thương mại cần chú trọng hơn tới mục tiêu nâng cao
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, hay nói cách khác là bên cạnh tốc độ
tăng trưởng cần chú ý hơn tới chất lượng tăng trưởng. Cho tới nay, xuất nhập
khẩu thường được bàn đến trên phương diện lượng (tốc độ tăng trưởng, kim
ngạch xuất khẩu,...) trong khi các vấn đề mang tính quyết định như hiệu quả và
sức cạnh tranh mới được đề cập một cách rất chung, chưa được chi tiết hoá biện
pháp cụ thể. Các biện pháp và công cụ chính sách thời gian tới, đặc biệt là các
biện pháp khuyến khích xuất khẩu cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả cũng như sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Thứ hai, chính sách thương mại còn cần khai thác triệt để thế mạnh của
chính sách kinh tế nhiều thành phần để tăng cường tính năng động và khả năng
thích ứng nhanh. Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là
chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép cạnh tranh một ngành
sản xuất không hiệu quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành
khác có hiệu quả hơn. Quá trình này sẽ diễn ra một cách suôn sẻ hơn, với chi phí
thấp hơn nếu nền kinh tế có được tính năng động và khả năng thích ứng cần
thiết. Đối với nước ta, hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu khai thác được
hết thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Chính sách thương mại
một mặt cần thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp quốc doanh,
mặt khác cần khuyến khích sự phát triển của các thành phần khác trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu, trong đó đặc biệt chú trọng tới các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh để tận dụng triệt để tiềm năng và khả năng thích ứng nhanh của họ.
Thứ ba, chính sách thương mại cũng cần hướng tới một sự thay đổi căn bản
về đối tượng và phương thức quản lý nhập khẩu. Hiện nay để điều tiết hàng hoá
33/48
xuất nhập khẩu, chúng ta còn dùng nhiều biện pháp phi thuế quan. Các công cụ
này đều là đối tượng phải bãi bỏ trong tiến trình hội nhập.
Tiến trình loại bỏ các hàng rào phi thuế cần được tiến hành kết hợp chặt chẽ
với việc cắt giảm thuế quan. Chính phủ và các Bộ ngành cần xem xét loại bỏ
những biện pháp không cần thiết, đơn giản hoá các biện pháp còn lại, tạo điều
kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu. Trước hết, chúng ta nên bắt đầu bằng các
biện pháp quản lý hành chính, tiếp đến là các biện pháp phi thuế quan phổ thông
như giấy phép, hạn ngạch. Đối với những mặt hàng vẫn cần duy trì giấy phép,
Bộ Thương mại tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành chức năng cải tiến các
thủ tục cấp giấy phép, bãi bỏ cơ chế "xin - cho", tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp Việt Nam xuất nhập khẩu.
Việt Nam cần tự do hoá hoàn toàn quyền kinh doanh xuất nhập khẩu để tất
cả các mặt hàng không phải chịu hạn chế định lượng (trừ các mặt hàng vì lý do
sức khoẻ, an ninh, môi trường) và được nhập khẩu tự do với mức thuế suất thích
hợp. Đối với những mặt hàng cần được bảo hộ để duy trì sự tồn tại và phát triển
của các ngành sản xuất trong nước cũng cần loại bỏ dần các quy định về giấy
phép nhập khẩu và hạn ngạch, chuyển sang bảo hộ bằng thuế quan cao trong thời
gian đầu sau đó, cắt giảm dần thuế quan để tránh tư tưởng trông chờ vào bảo hộ
của các doanh nghiệp và thực hiện các cam kết theo CEPT. Đồng thời trong
khuôn khổ AFTA, Việt Nam cùng với các nước ASEAN sẽ ký các Hiệp định
thừa nhận các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, chất lượng của nhau, xoá bỏ
những rào cản kỹ thuật trong thương mại nội bộ khối.
Đồng thời, Việt Nam cần bổ sung, hoàn thiện chính sách thương mại bằng
các công cụ quản lý xuất nhập khẩu tiên tiến như hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt
đối, thuế chống phá giá, thuế chống trợ cấp, phí môi trường và các biện pháp
chống chuyển giá đối với một số loại hàng hoá nhập khẩu để bảo hộ sản xuất
trong nước, bảo đảm thương mại công bằng và bảo vệ môi trường. Đây là công
cụ được các nước dùng phổ biến và không bị loại bỏ trong quá trình thực hiện
34/48
CEPT/AFTA. Như vậy, chính sách thương mại của Việt Nam cần phải loại bỏ
các quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời bổ sung những công
cụ quản lý tiên tiến được các nước thừa nhận và áp dụng.
2.2 Sửa đổi và hoàn thiện hệ thống thuế
Một trong những yêu cầu của quá trình thực hiện CEPT/AFTA hướng tới
hình thành đồng tiền chung là phải điều chỉnh hệ thống thuế, mà quan trọng nhất
là thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Đồng thời, hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay
vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý cần phải sửa đổi và hoàn thiện.
Việc điều chỉnh hệ thống thuế phải đáp ứng một số nguyên tắc:
- Điều chỉnh hệ thống thuế của Việt Nam phải thúc đẩy quan hệ thương mại
giữa Việt Nam và các nước trong khu vực ASEAN, tăng cường sức cạnh tranh
so với các nước trong khu vực để thu hút đầu tư nước ngoài.
- Phát huy nội lực của nền kinh tế và đóng góp nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết phải đi cùng với việc điều
chỉnh các loại thuế nội địa hợp lý hơn, chống thất thu thuế để không ảnh hưởng
đến nguồn thu ngân sách Nhà nước.
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải là công cụ điều tiết xuất nhập khẩu để
tiến tới bỏ hạn chế xuất nhập khẩu theo hạn ngạch và định hướng.
Những điều chỉnh về chính sách thuế được xác định theo hai mục tiêu
chính: cố gắng hạn chế phần giảm thu ngân sách khi thực hiện các cam kết về
giảm thuế nhập khẩu, đồng thời sử dụng hệ thống thuế như một công cụ kinh tế
vĩ mô để khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng hóa Việt Nam. Hai mục tiêu này cần được thực hiện thông qua
toàn bộ hệ thống thuế vì tác động đến các nhà sản xuất và xuất khẩu không chỉ
có thuế xuất khẩu, nhập khẩu mà cả các loại thuế khác.
Trước hết, hệ thống thuế cần phải được điều chỉnh một cách toàn diện, khắc
phục những bất cập của tất cả các sắc thuế nhằm hạn chế thất thu thuế cho ngân
35/48
sách Nhà nước, đồng thời tạo sự công bằng cho các doanh nghiệp, thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển.
Trong thời gian qua, chính sách thuế, với vai trò là công cụ quản lý vĩ mô
trong nền kinh tế đã thể hiện rất rõ sự ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, tăng khả năng
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, khuyến khích đầu tư
vốn vào sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, bước đầu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu theo hướng: giảm xuất khẩu hàng nguyên liệu thô, tăng xuất khẩu
hàng hoá đã qua chế biến có giá trị gia tăng cao, tận dụng nguyên liệu và lao
động trong nước. Tuy nhiên, những thành tựu nói trên vẫn còn thấp so với tiềm
năng và khả năng phát triển của nước ta. Để tiếp tục khuyến khích đầu tư sản
xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, đón trước quá trình hội nhập và hạn
chế tối đa các bất lợi cho sản xuất trong nước khi trở thành thành viên AFTA
cũng như WTO, trong thời gian tới chính sách thuế nên điều chỉnh theo hướng
sau:
- Tiếp tục mở rộng những ưu đãi về thuế gián thu (cụ thể là áp dụng thuế
suất 0% thuế giá trị gia tăng, không thu thuế xuất khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt
với hầu hết hàng xuất khẩu, không thu thuế giá trị gia tăng, xử lý hoàn thuế giá
trị gia tăng, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nguyên liệu và máy
móc, thiết bị nhập khẩu dùng để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu,...) tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp giảm giá thành của hàng hoá xuất khẩu, tăng sức cạnh
tranh về giá của hàng hoá Việt Nam so với các nước khác trong khu vực. Theo
đó, sẽ thu hẹp mặt hàng chịu thuế xuất khẩu, tiến tới chỉ thu thuế xuất khẩu đối
với dầu thô, đá quý, kim loại và phế liệu kim loại, da trâu bò sống, một số sản
phẩm gỗ sơ chế. Đối những mặt hàng còn tiếp tục thu thuế xuất khẩu sẽ tiếp tục
được nghiên cứu xử lý theo hướng giảm bớt mức thuế suất thuế xuất khẩu. Tiếp
tục áp dụng thuế giá trị gia tăng 0% và hoàn thuế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào
36/48
của những hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu vào các Khu chế xuất, thúc đẩy việc
xuất khẩu sản phẩm nội địa vào Khu chế xuất.
- Duy trì và tăng mức ưu đãi về thuế trực thu đối với các nhà đầu tư sản
xuất, chế biến hàng xuất khẩu, đặc biệt là đối với những ngành Việt Nam có lợi
thế về nguồn nguyên liệu và lao động. Ví dụ, những doanh nghiệp có tỷ trọng
sản phẩm xuất khẩu cao và sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước sẽ được áp
dụng thuế suất ưu đãi hoặc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng
đất. Thực hiện bảo hộ có chọn lọc, có hiệu quả để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
đầu tư theo hướng hiệu quả nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước để tiến tới mở rộng xuất khẩu
sản phẩm ra thị trường nước ngoài.
Trước mắt, các cơ quan chức năng sẽ nghiên cứu để tăng thuế suất thuế
nhập khẩu những mặt hàng cần khuyến khích đầu tư trong tương lai, giảm thuế
suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng đã được bảo hộ trong thời gian dài nhưng
chưa phát triển nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh hàng
hóa của Việt Nam với các nước trong khu vực, hiện tại là chiếm lĩnh thị trường
xuất khẩu đã có, tiến tới mở rộng thị trường xuất khẩu mới và tăng dần tỷ trọng
xuất khẩu những thị trường quen thuộc. Việc điều chỉnh thuế suất này phải tính
đến các cam kết cắt giảm thuế quan CEPT của Việt Nam, nhưng nói chung khi
xây dựng các Danh mục hàng hoá của Việt Nam, các cơ quan chức năng đã tính
tới vấn đề bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước.
Biểu thuế nhập khẩu cần được đơn giản hoá các mức thuế tức là giảm dần
số lượng các mức thuế suất khác nhau. Việc này sẽ tạo điều kiện quản lý tốt hơn,
tránh thất thu thuế. Đồng thời, giảm mức chênh lệch giữa biểu thuế ưu đãi và đặc
biệt ưu đãi để hạn chế sự lệch lạc về nguồn nhập khẩu từ những nước được
hưởng ưu đãi thuần tuý về thuế nhập khẩu mà ít dựa trên chất lượng và tính năng
sử dụng của hàng hóa. Hơn nữa, cần có chính sách miễn giảm thuế hợp lý. Hiện
37/48
nay, vẫn còn một số mặt hàng được xét miền giảm thuế theo mục đích sử dụng
và những mục tiêu cần ưu tiên hỗ trợ. Các quy định về xét miễn giảm thuế quá
phức tạp. Điều này dễ gây ra tình trạng gian lận, khai sai mục đích sử dụng để
được hưởng ưu đãi, gây thất thu cho ngân sách. Vì vậy, cần quy định các trường
hợp miễn giảm một cách rõ ràng và khoa học hơn. Nên chăng, với những mục
tiêu cần ưu tiên, hỗ trợ, Nhà nước nên trợ cấp qua ngân sách, không nên sử dụng
công cụ thuế để trợ giá.
2.3 Điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài
Một trong những cơ hội của Việt Nam khi tham gia thực hiện AFTA là tăng
cường thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ từ các nước ASEAN mà còn nhiều
quốc gia khác. Tuy nhiên, cơ hội này không chỉ dành riêng cho Việt Nam mà cho
tất cả các quốc gia ASEAN vì mỗi quốc gia đều có những lợi thế riêng vì vậy, để
tận dụng được cơ hội này, Việt Nam phải tích cực điều chỉnh chính sách đầu tư
nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thông thoáng.
Mục tiêu của Việt Nam từ nay đến năm 2005 thu hút khoảng 11 tỷ USD
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (vốn thực hiện), chính sách đầu tư của Việt Nam
trong thời gian tới phải điều chỉnh theo hướng:
- Mở rộng, đa dạng hoá các lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở
thêm kênh thu hút vốn (bao gồm cả việc mở dần thị trường chứng khoán) phù
hợp với những cam kết trong quá trình hội nhập. Trong đó, khuyến khích mạnh
đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu, chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện
tử, vật liệu mới, viễn thông, phát triển hạ tầng...
- Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung để tạo dựng môi trường kinh doanh
ổn định, bình đẳng giữa các loại hình đầu tư, tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi
phí đầu tư, tiến tới áp dụng một giá thống nhất cho cả hình thức đầu tư trong
38/48
nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài, cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản
hoá... Bên cạnh đó, cần loại bỏ dần và cam kết không đặt ra bất kỳ hạn chế nào
khác đối với việc thành lập và hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài (về hình thức đầu tư, phương thức góp vốn, thị trường tiêu thụ, chính sách
ngoại hối, tỷ lệ nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu, công nghệ, lao động...). Nguyên tắc
Đối xử quốc gia và quy chế Tối huệ quốc trong đầu tư phải được thực hiện đầy
đủ.
- Đơn giản hoá thủ tục đầu tư, mở rộng diện các dự án đầu tư được đăng ký
cấp phép, bãi bỏ các giấy phép không cần thiết gây cản trở, ách tắc đối với hoạt
động đầu tư và công khai hoá các chính sách, quy định đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đảm bảo nhất quán về chính sách đầu tư từ Trung ương đến các địa
phương.
- Thủ tục sau khi cấp phép, đặc biệt trong vấn đề giải phóng mặt bằng, thu
đổi ngoại tệ phải được đơn giản hoá rõ rệt.
- Cung cấp thông tin kinh doanh cũng như nhanh chóng hoàn thiện công tác
hành chính, đảm bảo các yếu tố trong sạch, trách nhiệm, giải thích rõ ràng và khả
năng có thể dự đoán trước. Việt Nam phải phát triển hệ thống khuyến khích đầu
tư, cung cấp thông tin ra các nước về cơ hội và môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Cho đến nay, các nhà đầu tư vẫn chưa có đủ thông tin thông qua Internet hoặc
các websites.
- Về vấn đề chuyển giao công nghệ, Chính phủ xem xét bãi bỏ các quy định
hạn chế việc chuyển giao công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam,
chẳng hạn như quy định trong khoản 2, Điều 81 của Nghị định 24/2000/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 2000 liên quan đến giới hạn góp vốn bằng công nghệ.
Theo đó, Chính phủ nên bãi bỏ quy định khống chế giá trị công nghệ chuyển
giao dùng để góp vốn không được vượt quá 20% vốn pháp định. Việc bãi bỏ giới
39/48
hạn về tỷ lệ góp vốn bằng giá trị công nghệ sẽ tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam, đồng thời thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ hiện đại từ
nước ngoài vào trong nước.
2.4 Điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ
Chính sách tài chính - tiền tệ, đặc biệt là chính sách tỷ giá hối đoái có vị trí
quan trọng hàng đầu trong các chính sách thương mại. Trong quá trình hội nhập
AFTA hướng tới hình thành đồng tiền chung, nền kinh tế nước ta đang gặp nhiều
khó khăn nghiêm trọng: trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế, chi phí sản xuất đều
rất cao, làm cho giá hàng Việt Nam cao hơn, khả năng cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia
kinh tế, để thoát khỏi tình trạng hiện nay, tự do hoá kinh tế nhanh và quyết liệt
hơn kết hợp với phá giá vừa phải tỷ giá danh nghĩa là giải pháp phù hợp nhất.
Tuy nhiên, việc phá giá tiền tệ là một trong những quyết định hết sức khó khăn
và nhạy cảm vì nó liên quan đến rất nhiều khía cạnh của hoạt động kinh tế, xã
hội và đời sống của dân chúng. Do đó, cần phải nghiên cứu thận trọng trước khi
quyết định có phá giá nội tệ hay không. Trong năm 2001, tỷ giá danh nghĩa của
đồng tiền Việt Nam đã được cho xuống giá từ từ khoảng 4%. Trong hiện trạng
nền kinh tế Việt Nam hiện nay có thể thực hiện phá giá thêm 15 -20% vì phá giá
trong bối cảnh hiện nay sẽ cho phép giải quyết một loạt các vấn đề nan giải trong
nền kinh tế và xã hội: nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển nền kinh
tế sang phát triển hướng ngoại, cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh của khu
vực doanh nghiệp, củng cố hệ thống ngân hàng, tăng thu nhập cho nông dân, tạo
ra thêm nhiều việc làm, giảm tỷ lệ đô thị hoá và các tệ nạn trong xã hội. Ngoài
ra, phá giá tiền tệ trong bối cảnh thặng dư ngoại tệ hiện nay đi kèm với chính
sách tài chính - tiền tệ chặt sẽ không kéo theo tâm lý đầu cơ ngoại tệ, không làm
tỷ lệ lạm phát tăng ngoài tầm chấp nhận được. Tuy vậy, phá giá nội tệ sẽ có
những ảnh hưởng tiêu cực đến các khoản nợ Chính phủ bằng ngoại tệ, đến thu
40/48
nhập cố định của người lao động và sự ổn định xã hội. Đây là những yếu tố Việt
Nam cần xem xét khi quyết định phá giá trong giai đoạn hiện nay. Nhìn một cách
tổng thể, chúng ta sẽ được lợi nhiều hơn khi phá giá thêm đồng tiền Việt Nam
kết hợp với toàn bộ các chính sách kể trên.
Trong điều kiện Việt Nam tham gia AFTA , hướng tới hình thành đồng t iền
chung, vấn đề chúng ta quan tâm nhất là phá giá tiền tệ làm nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế. Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế đều khẳng định
phá giá tiền tệ chủ động, đủ tầm trong bối cảnh chưa phát sinh những mất cân
bằng kinh tế trầm trọng sẽ có tác dụng rất lớn tới tăng cường sức cạnh tranh của
nền kinh tế, tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu vì phá giá tiền tệ làm cho chi
phí sản xuất trong nước thấp hơn giá cả quốc tế.
Trước hết, phá giá tiền tệ là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Kinh
nghiệm ở Việt Nam từ khi đổi mới cũng cho thấy ảnh hưởng tích cực của các
cuộc phá giá (năm 1987-1988, năm 1991 và từ năm 1997 đến nay) tới tăng
trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng mặc dù phá giá tiền tệ là
giải pháp quan trọng trong giai đoạn hiện nay, nhưng tiếp tục xây dựng và thực
hiện những giải pháp khác để động viên xuất khẩu vẫn là nhiệm vụ cần thiết và
cấp bách vì như đã nói ở trên, phá giá tiền tệ phải đi kèm với tự do hoá toàn diện
thì mới phát huy hết hiệu quả của nó.
Phá giá t iền tệ làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, cho phép giảm hàng
rào bảo hộ mậu dịch và đầu tư, tiến tới chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế. Sức cạnh tranh của một nền kinh tế thường được đo bằng tỷ lệ giữa chi
phí sản xuất trong nước và giá cả quốc tế. Khi đồng tiền bị đánh giá cao và kéo
dài, chi phí sản xuất trong nước sẽ cao hơn giá cả quốc tế, tức là nền kinh tế mất
sức cạnh tranh. Trong nhiều năm, việc đánh giá cao nội tệ ở Việt Nam đòi hỏi
phải tăng thêm bảo hộ sản xuất nội địa, trong khi đó, bảo hộ sản xuất nội địa lại
bóp méo và kìm hãm các hoạt động xuất nhập khẩu đồng thời sẽ khuyến khích
41/48
đánh giá cao nội tệ ở mức cao hơn. Đây là vòng xoáy rất nguy hiểm cần phải
thoát ra. Vì vậy, để tăng sức cạnh tranh và đảo ngược xu hướng bảo hộ mậu dịch
và đầu tư hiện nay, phá giá tiền tệ là con đường cơ bản nhất. Phá giá tiền tệ làm
tăng nhanh sức cạnh tranh của nền kinh tế, giảm được các sức ép phải ưu đãi và
bảo hộ sản xuất nội địa, từ đó cho phép giảm dần các hàng rào bảo hộ và đầu tư,
tiến tới thoả mãn từng bước những điều kiện hội nhập AFTA, hướng tới hình
thành đồng tiền chung của khu vực.
2.5 Hoàn thiện cơ chế thị trường và ổn định các điều kiện kinh tế vĩ mô
Việc tham gia CEPT/AFTA của Việt Nam đã tác động tích cực đến việc
hình thành và hoàn thiện cơ chế thị trường ở Việt Nam. Tuy vậy, đến nay cơ chế
thị trường của Việt Nam vẫn còn sơ khai, nền kinh tế chưa được vận hành hoàn
toàn theo cơ chế thị trường. Lãi suất và tỷ giá hối đoái chưa hoàn toàn được hình
thành theo cơ chế thị trường, vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước. Các thủ tục
hành chính vẫn còn quá rườm rà, cơ chế “xin-cho” đã được khắc phục nhưng vẫn
còn tồn tại, tệ tham nhũng, cửa quyền,... Nhìn chung, Việt Nam vẫn còn nhiều
khác biệt và bất cập so với các nước khác về cơ chế, chính sách, hệ thống luật
pháp cũng như thực tiễn hoạt động kinh tế. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với Việt
Nam trong quá trình thực hiện CEPT/AFTA là tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới cơ
chế và hoàn thiện cơ chế thị trường một cách đồng bộ, hoàn chỉnh, phù hợp với
thông lệ quốc tế, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam. Chúng ta
cần phải xem xét lại một cách toàn diện thể chế kinh tế hiện hành để sửa đổi
những điều không phù hợp, bổ sung những luật lệ, chính sách mới để đảm bảo sự
nhất quán, hoàn chỉnh của chính sách kinh tế. Ngoài ra, cần tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường công nghệ,
loại bỏ cơ chế “xin-cho” và những phương thức điều hành kinh tế của thời kỳ
bao cấp để lại.
42/48
Trong một cơ chế thị trường như trên, ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển kinh tế. Chính sách tài chính-tiền tệ được thực hịên
nhằm đảm bảo quản lý tốt thâm hụt ngân sách, duy trì mức lạm phát thấp, quản
lý được nợ nước ngoài và duy trì tỷ giá hối đoái cạnh tranh. Các yếu tố như: tốc
độ tăng trưởng, tốc độ gia tăng xuất khẩu, mức lạm phát, cán cân thương mại,...
cần giữ ổn định ở một con số hợp lý nhất, tuỳ từng chỉ tiêu. Nếu đảm bảo được
mức thâm hụt ngân sách Nhà nước ở mức 5% GDP và ở mức lạm phát hàng năm
ở một con số có thể coi như đảm bảo giữ vững ổn định về kinh tế.
Cùng với sự ổn định về chính trị và xã hội, ổn định kinh tế sẽ là một trong
những lợi thế của Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam trong quá trình thực
hiện AFTA.
Trong những năm gần đây, mặc dù cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã có sự
chuyển dịch tích cực một phần do tác động của quá trình hội nhập kinh tế khu
vực, tuy vậy, trong cơ cấu kinh tế này nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ lệ cao so
với các nước trong khu vực. Với một cơ cấu kinh tế như vậy, Việt Nam sẽ gặp
nhiều bất lợi trong quan hệ thương mại với các nước trong khu vực. Vì vậy,
chúng ta cần phải tận dụng những tác động tích cực của việc tham gia AFTA để
đẩy mạnh quá trình chuyển dịch kinh tế hơn nữa. Chúng ta đang hướng tới một
nền kinh tế với cơ cấu hiện đại trong đó các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm
tỷ lệ cao với mục tiêu năm 2020 về cơ bản đưa Việt Nam trở thành một nước
công nghiệp
2.6 Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thuơng mại
Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội buôn bán
hàng hóa và dịch vụ thương mại, bao gồm các hoạt động chủ yếu như: thông tin
thương mại, hội chợ, triễn lãm, quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hoá, tư vấn
và môi giới thương mại, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao năng lực kinh
43/48
doanh,...Đương nhiên hoạt động xúc tiến thương mại gắn liền với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, đồng thời là trách nhiệm của chính doanh nghiệp. Song
không chỉ ở nước ta mà nhiều doanh nghiệp của các nước khác cũng không có
khả năng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm thị trường
và bạn hàng do thiếu kinh nghiệm nghiệp vụ, thiếu vốn. Do đó, Nhà nước không
những cần chia sẻ, gánh vác mà còn quản lý và định hướng cho hoạt động quan
trọng này.
Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại trong
thời gian tới, Nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại cần chú ý một số
điểm sau:
Thứ nhất, quán triệt đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xúc
tiến thương mại ở tất cả các cấp độ kể cả Trung ương và chính quyền địa
phương, các tổ chức xúc tiến thương mại và các doanh nghiệp trong tình hình
hiện nay là vô cùng cần thiết. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia AFTA với mục
tiêu tự do hóa về thương mại và đầu tư, không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các
nước ASEAN, đều rất quan tâm đến lĩnh vực xúc tiến thương mại nhằm mục
đích hỗ trợ cho doanh nghiệp đón nhận được những cơ hội kinh doanh, giành
phần thắng trong cuộc cạnh tranh thương mại trong khu vực.
Thứ hai, Nhà nước sớm thống nhất, hoàn chỉnh thể chế và năng lực hành
động của hệ thống xúc tiến thương mại trên cơ sở chiến lược xuất khẩu của cả
nước, của từng ngành, từng địa phương ở những cung độ ngắn, trung, dài hạn.
Thứ ba, xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động xúc tiến thương mại. Hiện
nay ở trong nước, kể cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh rất thiếu địa điểm có
trang thiết bị, phương tiện và tiện nghi để có thể tổ chức những cuộc triển lãm
thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Thứ tư, đào tạo đội ngũ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp từ ngoại
ngữ, kiến thức luật pháp thương mại quốc tế, nghệ thuật đàm phán,...
44/48
2.7 Phát triển kinh tế - xã hội tạo việc làm để giải quyết thất nghiệp
Phát triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm là giải pháp cơ bản nhất, quan
trọng nhất, quyết định việc tăng, giảm chỗ làm việc. Do vậy, phải thực hiện các
hoạt động nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tạo
mở việc làm nhằm đạt mục tiêu ổn định việc làm cho người đã có việc làm và
tạo 5 - 5,5 triệu chỗ làm việc mới trong 5 năm. Nhà nước cần tập trung một số
chương trình phát triển kinh tế trọng điểm tạo việc làm, thu hút nhiều lao động
bao gồm:
Thứ nhất, các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn
- Tập trung thâm canh hơn 8 triệu ha đất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi, đặc biệt là những vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng
hoá, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế trang trại.
- Đầu tư, khai thác tiềm năng của các tỉnh đồng bằng để phát triển nuôi
trồng thuỷ sản, khai thác tiềm năng biển, mở rộng nghề đánh bắt ngoài khơi, tạo
việc làm và tăng kim ngạch xuất khẩu.
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh
mương, giao thông nông thôn, các công trình phúc lợi nhằm tăng thời gian sử
dụng lao động.
Thứ hai, các chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ
Phát triển công nghiệp và dịch vụ đóng vai trò quyết định đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng lao động và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế. Theo định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2001-2005, trong lĩnh vực việc làm cần chú trọng các chương trình:
- Chương trình xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao, chủ yếu ở các
vùng kinh tế động lực, các đô thị lớn, thu hút lao động có trình độ cao để tăng
sức cạnh tranh.
45/48
- Chương trình xây dựng và phát triển các trung tâm văn hoá, thể thao, các
khu du lịch.
- Các công trình kinh tế-xã hội trọng điểm của Nhà nước: đường Hồ Chí
Minh, thuỷ điện Sơn La, hoá dầu Dung Quất, sân bay, bến cảng,... thu hút nhiều
lao động.
Thứ ba, các chương trình mở rộng, phát triển làng nghề, xã nghề, phố
nghề, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm mới và việc làm thêm cho
người lao động, từng bước rút dần lao động nông thôn ra khỏi khu vực nông
nghiệp.
2.8 Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động giải quyết việc làm
Trong tình hình nước ta hiện nay, xuất khẩu lao động là một giải pháp mang
lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Những năm gần đây, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu
được hơn 30.000 lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp. Đối với
người lao động, việc đi xuất khẩu lao động giúp họ có nguồn thu nhập cao, tích
luỹ vốn để cải thiện đời sống và điều kiện làm việc. Đối với Nhà nước, xuất khẩu
lao động trong thời gian qua đã giảm được khoản đầu tư trong nước cho việc đào
tạo nghề và tạo việc làm, đồng thời nguồn ngoại tệ quốc gia cũng được bổ sung
hơn 1 tỷ USD mỗi năm do người lao động chuyển về nước. Tuy vậy, hoạt động
xuất khẩu nước ta đang gặp nhiều khó khăn. Về mặt khách quan, sự cạnh tranh
giữa các quốc gia tại các thị trường tiếp nhận lao động ngày càng gay gắt. Về
mặt chủ quan, hoạt động này của Việt Nam còn nhiều hạn chế về chất lượng lao
động, cơ chế, chính sách, sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng đối
với các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động,...Vì vậy, để đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu trong thời gian tới, một số giải pháp đưa ra là:
-Hoàn thiện hệ thống văn bản về xuất khẩu lao động, ban hành sửa đổi, bổ
sung những cơ chế chính sách cho phù hợp với sự vận động của thị trường, đó là
chính sách đầu tư phát triển thị trường cần có các quy định về tái đầu tư cho các
46/48
doanh nghiệp xuất khẩu lao động từ nguồn thuế doanh nghiệp phải nộp từ hoạt
động xuất khẩu lao động trong 5 năm. Hỗ trợ cho doanh nghiệp từ Quỹ đầu tư
phát triển thị trường của Bộ, ngành, địa phương. Thêm vào đó, Nhà nước cần
tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhất là cơ chế về tài chính để
nâng cao khả năng hoạt động và tạo sự chủ động cho doanh nghiệp xuất khẩu, ví
dụ cho phép các doanh nghiệp áp dụng phí môi giới theo thông lệ quốc tế tuỳ
tình hình thị trường.
-Việc sắp xếp và tổ chức lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động dựa trên
cơ sở hoạt động của các doanh nghiệp (các tiêu chí về chất lượng tuyển chọn,
đào tạo, giáo dục định hướng cho lao động và các bộ quản lý lao động ở nước
ngoài, chấp hành chế độ tài chính, chế độ đăng ký hợp đồng, chế độ báo cáo, quy
mô lao động đi từng thị trường,..). Tiến hành thanh tra kiểm tra, kiểm tra định kỳ
hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Các Bộ, ngành, địa phương
chủ quản cần lựa chọn sắp xếp lại doanh nghiệp xuất khẩu lao động đảm bảo số
lượng phù hợp nhưng chất lượng cao.
-Tăng cường trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong xây dựng,
quản lý, chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Đầu tư về
cơ sở vật chất và cán bộ, đáp ứng nhiệm vụ mở cửa thị trường và quản lý hoạt
động xuất khẩu lao động. Quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động. Chỉ đạo, xử lý các vướng mắc, vi phạm của doanh
nghiệp, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hiện tượng tiêu cực.
47/48
KẾT LUẬN
Khu vực hoá và toàn cầu hoá là hai xu hướng nổi bật trong quan hệ kinh tế
quốc tế của vài thập kỷ qua. Mặc dù hai xu hướng này có tác động không giống
nhau đến từng khu vực và mỗi quốc gia nhưng không một khu vực , quốc gia nào
trên thế giới có thể đứng ngoài hai xu hướng này. Quá trình hội nhập kinh tế sẽ
tạo ra những cơ hội và thuận lợi lớn mà nếu các quốc gia biết tranh thủ, khai thác
sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy, các quốc gia đều nỗ lực hoà
nhập vào xu thế chung với mục đích tận dụng tối đa sự hợp tác quốc tế để tăng
cường sức mạnh dân tộc.
Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ cũng đã và đang
khuyến khích sự ra đời của các liên minh tiền tệ. Sau sự ra đời của Liên minh
tiền tệ châu Âu, lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy rằng ở ASEAN có thể hình
thành một liên minh tiền tệ. Nhưng cho dù ASEAN đã có những tiền đề cần thiết
để hình thành một liên minh tiền tệ và nhận thức được rõ những lợi ích mà việc
tham gia vào một liên minh tiền tệ như vậy đem lại thì con đường để tiến tới
một liên minh tiền tệ thành công rõ ràng vẫn rất chông gai. Châu Âu đã phải mất
gần nửa thế kỷ để vượt qua những khó khăn và hình thành một liên minh như
thế. ASEAN cũng sẽ phải đối mặt với những thách thức không kém phần to lớn.
Nhưng cũng cần nhớ rằng nếu như các nước châu Âu đã phải mất hàng thế kỷ để
công nghiệp hoá thành công thì nhiều nước ASEAN chỉ phải mất vài thập kỷ để
hoàn thành công việc đó. Tương tự như vậy, chúng ta có thể hy vọng rằng con
đường tiến tới một liên minh tiền tệ ASEAN sẽ không quá dài như với EMU.
Bất chấp những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
khu vực, AFTA sẽ vẫn được hoàn thành theo đúng lịch trình đã đề ra, thậm chí
còn sớm hơn so với mốc năm 2008 ban đầu. Cùng với AFTA, Sáng kiến Chiang
Mai là những bước tiến đầu tiên tới một liên minh tiền tệ trong tương lai, mặc dù
48/48
ở giai đoạn này, các nước ASEAN vẫn được phép theo đuổi các mục tiêu và áp
dụng các chính sách kinh tế độc lập với nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính,
tiền tệ. Quá trình hình thành một liên minh tiền tệ nhất thiết sẽ lâu dài và bao
gồm nhiều giai đoạn. Các nước ASEAN mới chỉ đi những bước đầu tiên nhưng
với kinh nghiệm của EU và khả năng "rút ngắn thời gian" của khu vực này, đồng
tiền chung ASEAN chắc chắn sẽ không phải là một đích đến quá xa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_thuyet_trinh_tcqt_nhom_1_sua_2634.pdf