Với quan điểm truyền thống về chủ thể của luật quốc tế thì chúng ta không có gì phải
tranh luận thêm nhiều. Các chủ th ể này đã tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế trong
suốt quá trình hoàn thiện pháp luật quốc tế qua các thời kì cho đến nay. So với quan điểm
truy ền thống thì quan điểm hiện đại gặp nhiều tranh cãi rào cản và tranh cãi. Dù là quan
điểm nào thì các quan điểm cũng đều hướng đến mục đích góp phần hoàn thiện pháp luật
quốc tế.
Không thể phủ nhận những ưu điểm khi thừa nhận các chủ thể luật quốc tế theo quan
điểm truyền thống. Bên cạnh những ưu điểm, chủ thể luật quốc tế theo quan điểm truyền
thống hiện nay không còn hoàn toàn phù hợp. Trong suốt quá trình phát triển, luật quốc tế
dần dần cho thấy những hạn chế của mình khi các quan hệ pháp luật quốc tế ngày càng phát
triển quan điểm truyền thống dần dần lộ ra những khuy ết điểm của mình. Một số chủ thể
không phải là chủ thể truyền thống nhưng phát triển rất mạnh và có vai trò lớn với quốc tế
như: cá nhân, c ông ty xuyên quốc gia, tổ chức quốc tế phi chính phủ một khi phát sinh các
vấn đề trong quan hệ quốc tế, nếu các thực thể này không được thừa nhận sẽ dẫn đến việc
xử lý các vấn đề này khó khăn.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4539 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan điểm về chủ thể của luật quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Phạm vi quyền năng của mỗi tổ chức do chính các quốc gia
thành viên thỏa thuận và được quy định trong các điểu ước quốc tế thành lập nên chúng.
Các tổ chức liên chính phủ có quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Quyền cơ bản của tổ chức quốc tế liên chính phủ:
– Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế;
– Quyền được tiếp nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận các
quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên của tổ chức cử đến;
– Quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao;
– Quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau;
– Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp quốc;
– Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với nhau và
giữa thành viên với tổ chức quốc tế.
– Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia ký kết
với các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế khác.
Nghĩa vụ cơ bản của các tổ chứ liên chính phủ:
– Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
– Tôn trọng các quyền của các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác và các chủ thể
khác của luật quốc tế.
– Thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ này góp phần nâng cao vai trò và hiệu quả
hoạt động của tổ chức quốc tế liên chính phủ
2.3 Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và các thực thể có quy chế
pháp lý – chính trị đặc biệt khác
2.3.1 Các dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết
Dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết là dân tộc mới có chủ quyền dân
tộc chứ chưa có chủ quyền quốc gia. Khi tham gia quan hệ quốc tế và thực hiện các chức
năng chính trị của mình, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết được luật
quốc tế hiện đại thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành
Tiểu luận luật quốc tế K10504
11
lập một quốc gia dân tộc độc lập, có chủ quyền. Để trở thành chủ thể của luật quốc tế, các
dân tộc này phải đáp ứng được các điều kiện sau:
– Một là, dân tộc đó phải đang bị quốc gia, dân tộc khác áp bức, bóc lột. Nghĩa là
trên thực tế dân tộc đó đang bị một dân tộc hay quốc gia khác đô hộ, chi phối, áp
đặt mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của dân tộc mình. Đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc này hoàn toàn bị lệ thuộc vào dân
tộc, quốc gia đang nắm quyền cai trị, bóc lột họ. Dân tộc bị bóc lột không có
quyền và không thể thực hiện được ý chí của mình một cách độc lập với các dân
tộc hay quốc gia đô hộ mình. Trên thực tế đang tồn tại một
– Hai là, trên thực tế đang tồn tại một cuộc đấu tranh với mục đích giải phóng dân
tộc, giành quyền tự quyết và thành lập một quốc gia độc lập
– Ba là, đã thành lập được cơ quan lãnh đạo phong trào, đại diện cho dân tộc đó
trên trường quốc tế. Nghĩa là cuộc đấu tranh của dân tộc phải có tổ chức chặt chẽ,
thống nhất thể hiện thông qua một cơ quan đại diện cho quyền lợi, ý chí của dân
tộc đó trong các quan hệ quốc tế, độc lập với quốc gia, dân tộc đang đô hộ họ. cơ
quan lãnh đạo phong trào sẽ vạch ra đường lối, chủ trương kháng chiến giải
phóng dân tộc, thành lập một quốc gia độc lập trong tương lai.
Khi tham gia vào quan hệ quốc tế, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập có các
quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản sau đây:
Quyền cơ bản của các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập:
– Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ
dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị mình;
– Được pháp luật quốc tế bảo vệ và bảo đảm trong phạm vi và mức độ nhất định như
việc Luật Quốc tế đang bảo vệ và bảo đảm cho quyền năng chủ thể như những quốc
gia độc lập khác. Được các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, các tổ chức quốc
tế...giúp đỡ;
– Quyền được thiết lập những quan hệ với các chủ thể khác của LQT hiện đại;
– Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên chính
phủ;
– Được tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế và độc lập trong
quá trình thực thi luật quốc tế.
Nghĩa vụ cơ bản của các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập :
– Tôn trọng nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
– Tôn trọng các quyền của các dân tộc khác, của các chủ thể khác của luật quốc tế
2.3.2 Các thực thể khác
Ngoài các chủ thể đã nêu trên thì còn có một số chủ thể đặc biệt như Hong Kong, Ma
Cao, Monaco… Đây là các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt. Các vùng lãnh thổ
này là một bộ phận cấu thành của một quốc gia khác, trong lịch sử là một một phận quốc
gia, gắn liền với quá trình xâm lược của một quốc gia khác. Các vùng lãnh thổ này có chế
Tiểu luận luật quốc tế K10504
12
độ pháp lý đặc biệt mà khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế thì có tư cách chủ thể luật
quốc tế, bình đẳng với các chủ thể khác của luật quốc tế và tham gia chủ yếu vào các quan
hệ kinh tế, văn hóa, tôn giáo…
Để có thể có cái nhìn cụ thể hơn, xin lấy Vantican làm một ví dụ điển hình cho chủ thể
đặc biệt này.
Vantican là chủ thể đặc biệt của luật quốc tế, có tư cách chủ thể và được xác định là
"quốc gia về hình thức".
Vantican chính thức được thành lập trên cơ sở 3 điều ước quốc tế ký kết giữa Thủ tướng
Bonito Mussolini và Hồng y Pierre Gasparri ngày 11/2/1929:
– Hiệp ước Lateran công nhận "chủ quyền" của "quốc gia thành phố Vatican";
– Hiệp định xác định quan hệ giữa Chính phủ Italia với Giáo hội Thiên chúa, quy
chế của Giáo hội trên lãnh thổ Italia ( Hiệp định này sửa đổi ngày 18/2/1984)
– Hiệp định liên quan đến vấn đề tài chính. Nội dung các điều ước quốc tế trên
được ghi nhận và khẳng định trong Hiến pháp của Italia năm 1947.
Vatican nằm lọt trong thành phố Rome của Italia, diện tích lãnh thổ nhỏ nhất trên thế
giới, dân cư Vantican chỉ khoảng 800 người, trong đó trên 450 người có quốc tịch Vantican.
Tuy nhiên, quốc tịch Vantican không thực sự là mối liên hệ pháp lý hai chiều , bền vững
giữa công dân với nhà nước, mà được xác định mang tính tạm thời, trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ của cá nhân đó tại Vantican. Một cá nhân có quy chế công dân Vantican trong
thời gian làm việc cho Vantican và chấm dứt khi thực hiện xong nhiệm vụ được giao.
Bộ máy chính quyền Vatican được tổ chức khá đặc biệt. Giáo hoàng là người đứng đầu
Vatican, nắm quyền lực tuyệt đối, được bầu trọn đời bởi Mật nghị Hồng y gồm các Hồng y
dưới 80 tuổi. Các thành viên quan trọng của chính phủ đều do Giáo hoàng bổ nhiệm, bao
gồm Ngoại trưởng, Chủ tịch Hội đồng giáo phận và Thủ hiến Vatican. Hiện tại, Vatican có
2 lực lượng giữ gìn an ninh: lực lượng cảnh sát của vùng và lính Thụy Sĩ. Lính Thụy Sĩ là
quân đội chính thức của Vatican, chịu trách nhiệm bảo vệ Giáo hoàng, canh gác các lối ra
vào Vatican,...
Vatican không có lực lượng hải quan và không quân, việc phòng thủ bên ngoài do Italia
chịu trách nhiệm. Vatican có quyền lực hoàn toàn và riêng biệt trong phạm vi lãnh thổ của
mình. Italia có nghĩa vụ tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của Vatican.
Trong quan hệ đối ngoại, Vatican tham gia ký kết và gia nhập nhiều điều ước quốc tế đa
phương, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới, tham gia hoạt động của
các tổ chức quốc tế với tư cách quan sát viên ( Liên hợp quốc, Tổ chức nông nghiệp và
lương thực thế giới, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của LHQ) và là thành viên của
nhiều tổ chức quốc tế khác
Từ những phân tích trên cho thấy Vantican chỉ là một thiết chế mang tính tôn giáo. Sở dĩ
nó được cho là chủ thể của luật quốc tế vì trong giai đoạn lịch sử phát triển của luật quốc tế,
Vantican đóng vai trò quan trọng khi trở thành trung gian hòa giải một số tranh chấp, bất
Tiểu luận luật quốc tế K10504
13
hòa trong quan hệ quốc tế. Do đó, họ được phép tham gia một số điều ước quốc tế nhất
định.
Tiểu luận luật quốc tế K10504
14
PHẦN 3: CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ THEO
QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI VÀ ĐÁNH GIÁ QUAN
ĐIỂM.
Song song với quan điểm truyền thống và đã được pháp luật quốc tế ghi nhận về chủ thể
của Luật quốc tế. Hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều quan điểm mới, cho rằng: “ Cá nhân,
pháp nhân (các công ty đa quốc gia, các công ty xuyên quốc gia) và các tổ chức phi chính
phủ cũng được xem là chủ thể của Luật quốc tế” Trong phần này, bỏ qua quan điểm truyền
thống đã được Luật quốc tế công nhận, chúng tôi sẽ chú trọng làm rõ và giải thích theo
quan điểm mới hiện nay.
1. CÁ NHÂN
1.1 Cá nhân trong quan hệ pháp luật quốc tế
Có thể nói từ sau thế kỷ XX, đặc biệt là sau thế chiến thứ Hai, Luật về Nhân quyền đã
được đặt ra, như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 (Điều 6), Công ước quốc tế về
quyền dân sự và quyền chính trị 1966 (Điều 2), Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của kiều
dân và gia đình, thành viên gia đình của họ 1990 (Điều 8)... đồng nghĩa với việc quyền con
người không còn chỉ là đối tượng điều chỉnh của hệ thống Pháp luật quốc gia nữa mà nằm
trong sự điều chỉnh của toàn thế giới. Chính điều này đã làm dấy lên một câu hỏi : Cá nhân
con người có phải là chủ thể Luật quốc tế hay không?
Và một số học giả, Luật gia đã đưa ra quan điểm của mình để bảo về cho ý kiến “ Cá
nhân cũng là chủ thể Luật quốc tế” :
Theo L.Oppenhame “Mặc dù chủ thể chính của luật quốc tế là quốc gia nhưng
nhà nước có thể xem cá nhân như một chủ sở hữu các quyền và nghĩa vụ quốc tế và
trong khuôn khổ đó công nhận cá nhân là một chủ thể của luật quốc tế ” và để khẳng
định quan điểm trên, ông cũng đưa ra ví dụ “Những cá nhân làm nghề cướp biển
trước hết chịu trách nhiệm pháp lý theo những qui tắc của luật quốc tế, chứ không
phải nội luật của nhiều quốc gia khác nhau.” 3
Giáo sư người Nhật Sh.Oda cho rằng “Sau Đại chiến thế giới thứ nhất hình thành
một quan điểm mới theo đó cá nhân là chủ thể các trách nhiệm về những vi phạm
chống trật tự pháp luật thế giới và cá nhân phải bị truy tố và trừng phạt theo luật quốc
tế” 4
Hiện nay, cá nhân chưa được chính thức công nhận là chủ thể của Luật quốc tế nhưng
trên thực tế một số Điều ước Quốc tế có quy định một số quyền và trách nhiệm pháp lý
quốc tế trong một số trường hợp nhất định. Các quyền quốc tế của cá nhân xuất phát từ
những nguyên tắc và điều luật chung của luật quốc tế được công nhận và khẳng định trong
các Điều ước đa phương và trong một loạt các điều ước song phương khác.
3 Oppenhame L.Luật quốc tế T.I.M. 1893. tr 259
4 Oda Sh.The Individual in International Law. London. 1978. Tr. 471
Tiểu luận luật quốc tế K10504
15
Ta có thể dễ dàng bắt gặp những quy định về quyền và trách nhiệm pháp lý quốc tế của
cá nhân trong các điều ước quốc tế có liên quan đến con người, cụ thể như:
– Theo Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người 1950 bất kỳ cá nhân nào
đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội đồng Châu Âu về quyền con người.
– Theo Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948, những
cá nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm mưu, kích động và
những ý định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt mà không phụ thuộc vào
việc kẻ đó là lãnh đạo một quốc gia hay tư nhân
– Theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 cá nhân có quyền được đưa
đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án quốc tế
về biển…
Cá nhân không tham gia ký kết các Điều ước quốc tế, không tham gia vào quá trình lập
pháp quốc tế nhưng không thể lấy lý do đó để phủ nhận việc công nhận tư cách chủ thể của
cá nhân trong Luật quốc tế. Bởi vì, khi tham gia vào Luật quốc tế cá nhân không bắt buộc
phải có và cũng không thể có đầy đủ các quyền năng như của một quốc gia được, cá nhân
chỉ có thể thực hiện một phần quyền và nghĩa vụ nhất định phù hợp với khả năng của một
con người. Nhưng việc trao cho cá nhân các quyền và trách nhiệm pháp lý phải đảm bảo
duy trì được trật tự xã hội bởi cá nhân còn chịu ảnh hưởng bởi luật pháp của quốc gia.
1.2 Vai trò
Cá nhân là một chủ thể đặc biệt đang là sự bàn cải của các nhà làm luật trên thế về vai
trò và chủ thể của cá nhân có được xem là chủ thể của luật quốc tế không ta xét trên 4 tiêu
chí sau:
1.2.1 Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian
Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945 khẳng định cá nhân là chủ thể của trách nhiệm
pháp lý quốc tế. Theo Điều 6 thì kẻ lãnh đạo, chủ mưu, tòng phạm, tham gia vào việc soạn
thảo hay trực tiếp thực hiện kế hoạch, âm mưu chống hoà bình, chống loại người, tội phạm
chiến tranh phải chịu trách nhiệm về những hành động đó. Các công chức cao cấp thậm chí
là người đứng đầu các nhà nước cũng không thể được miễn truy tố trách nhiệm pháp lý hay
được giảm nhẹ mức độ hình phạt (Điều 8). Kẻ bị xét xử nếu hành động theo lệnh của cấp
trên hay của Chính phủ cũng không được miễn trách nhiệm pháp lý5.
1.2.2 Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích
Cá nhân có những quyền và nghĩa vụ quốc tế nhất định, có khả năng bảo đảm sự chấp
hành các điều luật quốc tế (ví dụ như qua các cơ quan toà án quốc tế). Điều đó đủ để chứng
tỏ ở cá nhân những đặc thù của một chủ thể quốc tế. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn vấn đề này khi
đi sâu xem xét mối quan hệ giữa quyền con người và luật quốc tế
5 Tạp chị nghiên cứu lập pháp số 9 năm 2000
Tiểu luận luật quốc tế K10504
16
1.2.3 Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực
Theo Điều 4 của Công ước bổ sung về chế độ nô lệ 1956, nô lệ được phát hiện có mặt
trên tàu của nước tham gia Công ước thì iso facto được tự do. Hay Công ước quốc tế về
quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1966 công nhận quyền mỗi cá nhân được:
a) Tham gia vào đời sống văn hoá
b) Sử dụng các thành tựu của tiến bộ khoa học và ứng dụng thực tiễn
c) Bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần liên quan đến các công trình khoa học, các
tác phẩm văn học- nghệ thuật mà họ là tác giả.
Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế khẳng định: “Mỗi cá nhân con người dù ở đâu đều có
quyền yêu cầu công nhận tính chủ thể pháp lý của mình” (Điều 6). Điều 23 Công ước của
các nước SNG cũng có tuyên bố tương tự
1.2.4 Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế
Hiện nay quyền con người được khẳng định trong nhiều công ước quốc tế khác nhau.
Đó là:
– Công ước Geneva về cải thiện điều kiện của thương binh, bệnh binh trong quân đội
1949
– Công ước Geneva về việc đối xử với tù binh 1949
– Công ước Geneva về việc bảo vệ dân lành trong thời chiến 1949
– Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945
– Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948
– Công ước về việc ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948
– Công ước bổ sung về xoá bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ, những tập tục giống với
chế độ nô lệ 1956
– Công ước về quyền chính trị của phụ nữ 1952
– Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hoá 1966
– Công ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị 1966
– Công ước chống tra tấn và những biện pháp mang tính dã man vô nhân đạo 1984…
Hầu hết các công ước quy định cá nhân có quyền tham gia quan hệ pháp luật quốc tế
đều liên quan đến quyền con người. Xin được phân tích kĩ khía cạnh này để làm rõ quan
điểm .
Quy định của các Điều ước quốc tế về quyền con người
Không thể có xã hội tự do nếu mỗi con người – thành viên của xã hội đó không tự do.
Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế khẳng định: “Mỗi cá nhân con người dù ở đâu đều có
quyền yêu cầu công nhận tính chủ thể pháp lý của mình”.
Các quyền cơ bản của con người trong luật quốc tế bao gồm :
– Quyền dân sự chính trị;
– Các quyền về kinh tế – xã hội – văn hóa.
Các quyền này trên thực tế đã được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế như:
Công ước về các quyền dân sự và chính trị (1966
Tiểu luận luật quốc tế K10504
17
Danh mục 44 quyền con người cần được bảo vệ bằng luật quốc tế đã được ghi nhận cụ
thể trong 3 văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người, cụ thể là: Tuyên ngôn thế giới
về quyền con người (UDHR), Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và công
ước quốc tế về các quyền kinh tế – xã hội – văn hóa (ICẺC) do Liên hiệp quốc ban hành.
Những văn bản này tạo nên Bộ luật tổng thể về nhân quyền mang lại giá trị CT-XH và lịch
sử thời đại, đồng thời mở ra cho quá trình quốc tế hóa và nội luật hóa các quyền con người
với những chuẩn mực mới trong Luật quốc tế và Luật quốc gia và ngược lại, các quốc gia
cũng xem các quyền này là những quyền cơ bản của con người để trên cơ sở đó có các biện
pháp pháp lý bảo vệ hữu hiệu.
Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948, Công ước về quyền dân sự, chính trị năm
1966 của LHQ; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966); Công ước quốc tế
về xóa bỏ mọi hình thức phân việt đối với phụ nữ (1979); Công ước về quyền trẻ em (1989
Công ước về quyền dân sự, chính trị năm 1966 đã dành phần I với duy nhất 1 điều quy định
về quyền dân tộc tự quyết với tư cách là quyền tập thể của con người. Có thể khẳng định
đây là lần đầu tiên quyền quốc gia – dân tộc được ghi nhận với tư cách là quyền con người.
Tiếp đó năm 1973, Đại hội đồng LHQ đã tiếp tục thông qua nghị quyết về cá nguyên tắc
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực truy tìm, bắt giữ, dẫn độ và trừng phạt các cá nhân phạm tội
ác chiến tranh và tội ác chống loài người. Như vậy, đây là nguyên tắc có tính đặc trưng thể
hiện nghĩa vụ hợp tác quốc tế của các quốc gia thành viên của LHQ trong các lĩnh vực đã
nêu, qua đó việc bảo vệ ANQG, AN toàn XH và bảo đảm xử lý nghiêm minh, kịp thời các
cá nhân có hành vi vi phạm các tội ác xâm phạm đến quyền con người, đến giá trị văn minh
của nhân loại.
Quy chế Tòa hình sự quốc tế (ICC) có thẩm quyền xét xử các tội phạm diệt chủng, TP
chống loài người, TP chiến tranh và TP xâm lược. ICC được thành lập ra với mục tiêu bắt
cá nhân phải chịu trách nhiệm cho các tội ác đã được liệt kê trong danh sách những tội
phạm nghiêm trọng và mức độ lớn cho những giá trị chung của con người
Các văn bản pháp lí quốc tế quan trọng luôn chú trọng vấn đề đảm bảo quyền con người
trong quá trình hợp tác, đối thoại. Những điều luật này nói đến quyền của cá nhân, điều đó
chứng tỏ chính cá nhân là chủ thể của những điều luật đó. Bên cạnh đó, các Công ước quốc
tế về quyền con người đều đòi hỏi nhà nước phải đảm bảo cho cá nhân những quyền hạn
trên
Vấn đề thực thi các Điều ước quốc tế về quyền con người
Để đảm bảo tính thực thi cho các quyền con người thì luật quốc tế đã có những cơ chế
bảo vệ và phát triển quyền con người bao gồm các thiết chế quốc tế và quốc gia cùng với hệ
thống luật quốc tế (như các điều ước quốc tế về quyền con người) và luật quốc gia tương
ứng. Nội dung cụ thể của công việc bảo vệ quyền thông qua các thiếu chế cơ bản của luật
quốc tế đó là : Quy định các nguyên tắc, nhiệm vụ và các Điều ước quốc tế để các quốc gia
tham gia kí kết và thực hiện nhằm bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, an ninh quốc gia, an ninh
quốc tế và quyền con người.
Tiểu luận luật quốc tế K10504
18
Vị thế các điều ước quốc tế tại các quốc gia khác nhau chưa thực sự thống nhất. Nếu
Hoa Kỳ xem Điều ước Quốc tế có vị thế bình đẳng với Hiến pháp thì Cộng Hòa Nam Phi
lại tuyên bố rằng một đạo luật của Quốc hội có thể ghi đè lên bất kỳ quyền hoặc nghĩa vụ
nào theo các thỏa thuận quốc tế được ký kết trước khi đạo luật đó có hiệu lực, và các quy
tắc của luật pháp quốc tế ràng buộc nước Cộng hòa Nam Phi sẽ là một phần của pháp luật
trong nước, trừ khi không phù hợp với Hiến pháp hay với một đạo luật của Quốc hội. Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka chỉ quy định trong Hiến pháp rằng:”nhà nước sẽ nỗ
lực để thúc đẩy sự tôn trọng luật pháp quốc tế và nghĩa vụ điều ước quốc tế trong các giao
dịch giữa các quốc gia.” mà không hề có bất kì quy định nào nói lên mức độ và phạm vi áp
dụng của Luật pháp quốc tế. Thậm chí, các tòa án Anh còn không xem các quy tắc của luật
pháp quốc tế là một phần của luật pháp Anh. Ngay cả trong trường hợp có sự thay đổi rõ
ràng trong các quy tắc luật pháp quốc tế trong một lĩnh vực cụ thể, tòa án cũng không được
áp dụng những quy định mới, trừ khi những quy định này đã được chấp nhận trong một đạo
luật của Quốc hội, quyết định của tòa án. Ngay cả trong trường hợp của một hiệp ước đã
được thông qua vào Luật Anh bằng cách quy định rong một đạo luật, trong trường hợp có
bất kỳ sự mơ hồ nào về ngôn ngữ, Hiệp ước đó không thể được sử dụng như là một trợ giúp
để giải thích trừ khi hiệp ước đã được quy định rõ ràng.
Phần lớn các quyền được nói đến trong các điều luật quốc tế về nhân quyền không được
đảm bảo trực tiếp bởi Công pháp quốc tế mà thông qua các điều luật của nội luật. Phần lớn
các điều luật quốc tế trong lĩnh vực quyền con người là những điều luật được tạm gọi là bất
tự thi. Bản thân chúng không đảm bảo cho cá nhân các quyền, tự do (thậm chí nếu hiến
pháp của nước đó công nhận chúng là một phần của nội luật) nếu như không có bộ máy
thực thi thích hợp. Việc thi hành các quyền của cá nhân vẫn còn là một vấn đề rắc rối mà
Tòa án ở nhiều quốc gia vẫn đang phải vật lộn.
Nơi duy nhất mà một cá nhân có thể thực thi quyền của mình theo quy định của pháp
luật Quốc tế là Tòa án trong nước. Do đó, một cách tiếp cận tích cực được thông qua bởi
các Tòa án quốc gia đối với luật pháp quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi
các quyền cá nhân. Nếu không nó sẽ là một trở ngại nghiêm trọng đến việc thực thi có hiệu
quả các quy tắc luật pháp quốc tế. Đặc biệt ở một số quốc gia thịnh vượng chung,các xu
hướng xét xử của Tòa án đang báo hiệu một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của luật
pháp quốc tế, nơi mà các tòa án quốc gia có thể phục vụ như là phương tiện để thực thi có
hiệu quả quyền của pháp luật quốc tế
Luật Quốc tế luôn gắn liền với tính chất chủ thể. Sự công nhận một cách chính thức cá
nhân là chủ thể của Luật quốc tế có vai trò trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ.
Cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều luật
quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và
trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các toà án quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó.
Thiết nghĩ ở đây nên có một cách nhìn đúng đắn và những việc làm cụ thể để quyền con
người được thực hiện mà chủ quyền của quốc gia vẫn được toàn vẹn. Và cũng cần nhấn
mạnh rằng chủ yếu không phải là tuyên bố một cách hình thức về tính chủ thể pháp lý cá
nhân, về quyền con người mà tìm các biện pháp hữu hiệu để cho quyền con người được
Tiểu luận luật quốc tế K10504
19
đảm bảo trong mối tương hỗ giữa nội luật và công pháp quốc tế, trong sự hợp tác quốc tế
giữa các tổ chức, quốc gia với nhau.
2. PHÁP NHÂN
2.1 Khái niệm
Pháp nhân chúng tôi đề cập đến với tư cách là chủ thể của luật quốc tế là hai thực thể
công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia.
Công ty đa quốc gia thường viết tắt là MNC (Multinational corporation) hoặc MNE
(Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở
ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều
quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các
nền kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong
quá trình toàn cầu hóa. Một số người cho rằng một dạng mới của Công ty đa quốc gia đang
hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn cầu.
Công ty xuyên quốc gia ( là một doanh nghiệp được cấu thành bởi các thực thể ở ít nhất
2 nước, các thực thể này hoạt động dưới một hệ thống ra quyết định chung và định hướng
chiến lược phát triển chung, chủ đầu tư thường thuộc một quốc tịch. Công ty xuyên quốc
gia bao gồm công ty mẹ ở một nước và đầu tư ra nước ngoài để thành lập công ty con
Công ty xuyên quốc gia là một chủ thể có tác động đáng kể trong các quan hệ pháp luật
quốc tế. Quan điểm công nhận công ty xuyên quốc gia thiết nghĩ là một quan điểm đúng
đắn. Điều này sẽ được làm rõ qua việc phân tích những đặc điểm và vai trò của công ty
xuyên quốc gia trong các quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, trong vấn đề này, xuất phát từ góc độ ảnh hưởng xuyên quốc gia của 2 loại
hình trên và về mặt Luật Quốc tế, vị trí pháp lý của 2 loại hình trên cũng không khác nhau
nên sau đây, chúng tôi gọi chung là công ty xuyên quốc gia, để từ đó đánh giá vai trò chủ
thể trong pháp luật quốc tế của chúng.
2.2 Đặc điểm
Công ty xuyên quốc gia (TNC) được nhiều người coi là một loại hình tổ chức quốc tế
phi chính phủ (INGOs) trong kinh tế. Giữa INGOs và TNC có những đặc điểm giống nhau.
Nhưng cũng có nhiều người tách TNC như một chủ thể phi quốc gia riêng.
Dưới đây là một số đặc điểm chủ yếu của TCN trong QHQT:
1.2.1 Tính cá nhân trong tổ chức và hoạt động:
Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động , thành phần tham gia, nguồn tài chính đóng
góp… của các TNC xuát phát chủ yếu từ nguồn cá nhân hơn là nhà nước. Điều này khiến
cho tổ chức và hoạt động của các TNC dựa trên ý chí cá nhân của những người góp vốn
hơn là ý chí quốc gia. Các TNC theo đuổi lợi ích của chính mình hơn là lợi ích của quốc
gia. Trên thực tế, có những TNC thuộc sở hữu của nhà nước hoặc do nhà nước nắm cổ phần
quyết định nhưng số lượng tương đối ít. Vì thế, tính cá nhân vẫn là đặc điểm phổ biến của
TNC.
Tiểu luận luật quốc tế K10504
20
1.2.2 Tính quốc tế trong thành phần và mục đích hoạt động:
Chủ sở hữu và thành viên góp vốn của TNC thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Mục đích
của các TNC là lợi nhuận trên thị trường quốc tế chứ không bó hẹp trong thị trường nội địa.
hoạt động của nó là xuyên quốc gia với việc khai thác thị trường quốc tế, thiềt lập chi nhánh
nước ngoài và sử dụng nguồn nhân lực đa quốc gia. Hiện nay, tỷ trọng tài sản nước ngoài
của TNC đều tăng lên. Đây là điểm giúp phân biệt TNC với các công ty quốc gia.
1.2.3 Tính tự nguyện trong thành lập và hoạt động:
Điều đó tức là mục đích, sự thành lập và nhiệm vụ đề ra, đóng góp và hoạt động chủ yếu
của các TNC chủ yếu được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận kinh tế hay dân sự một cách tự
nguyện chứ không hoàn toàn chịu chi phối, cưỡng ép của quốc gia. Tất nhiên, tính chất này
không bao gồm các TNC thuộc sở hữu nhà nước nhưng trong thực tế, các TNC đó cũng
được trao quyền tự chủ kinh doanh khá lớn.
1.2.4 Khác với các INGO có mục tiêu và chương trình nghị sự rất đa dạng, các
TNC thường chỉ có mục đích lợi nhuận:
Hoạt động của chúng chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế. Chúng có thể hoạt động trong một
hay nhiều ngành kinh tế. Tuy nhiên, nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh, ngày càng có
nhiều TNC hoạt động đồng thời trong nhiểu ngành kinh tế khác nhau. So với INGO thường
ít thay đổi về mục tiêu và chương trình nghị sự, TNC linh hoạt và dễ thay đổi hơn nhiều
trong mục tiêu và ngành nghề kinh doanh.
1.2.5 Khác với INGO ít gắn trực tiếp với chính trị, TNC có sự gắn bó đáng kể với
chính trị.
Sự chi phối lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế, mục đích lợi nhuận quá lớn của các TNC
đã quy định điều này. Không kể quá khứ gắn với chủ nghĩa đế quốc, sự can thiệp của TNC
vào công việc nội bộ nước khác là hiện tượng không hề hiếm trong thời hiện đại. Hiện nay,
các phương pháp hoạt động chính trị của các TNC thường là gây sức ép đối với nước sở tại
và vận động hành lang ở chính quốc để thay đổi chính sách và luật pháp. Ngược lại, hoạt
động của TNC cũng chịu ảnh hưởng khá lớn của môi trường chính trị chính quốc và nước
sở tại cũng như mối quan hệ chính trị giữa chúng.
1.2.6 Tính thể chế của TNC chặt chẽ hơn nhiều so với các INGO.
TNC là loại hình tổ chức kinh doanh quốc tế với tổ chức, nguyên tắc hoạt động và sự
quản lý khác hẳn với INGO. Cơ cấu tồ chức của TNC thường theo mô hình kim tự tháp với
mức độ ràng buộc cao và sự phân nhiệm rõ ràng. Chúng có hệ thống các quy định chặt chẽ
cho mọi công đoạn hoạt động từ tổ chức xuống từng cá nhân. Các nguyên tắc hoạt động
được quy định rõ ràng và có tình bắt buộc. Tính chất quan hệ trong TNC thường được thể
hiện trong điều lệ công ty, quy chế hoạt động, nội quy và các phương án kinh doanh cụ thể.
1.2.7 Các TNC hoạt động tương đối độc lập với quốc gia:
Các TNC hoạt động tương đối độc lập với quốc gia do chúng có sự chủ động về tổ chức,
tài lực và nhân lực. Chúng hoạt động vì lợi ích của bản thân nhiều hơn là vì lợi ích quốc gia.
Nhìn chung các TNC được tự do định đoạt quy mô, đối tượng và phương pháp thực hiện
hoạt động kinh doanh mà ít có sự cam thiệp của nhà nước. Sự độc lập của TNC còn được
Tiểu luận luật quốc tế K10504
21
tăng lên bởi những quy định pháp lý của nhà nước cho phép nó được quyền tự chủ kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh. Bản thân thế lực khá lớn của các
TNC cũng giúp đem tính độc lập tương đối cho chúng.
1.2.8 Tuy nhiên, hoạt động của TNC vẫn phụ thuộc vào quốc gia
Các hoạt động của TNC vẫn phụ thuộc vào quốc gia khi chịu sự điều chỉnh của luật
pháp chính quốc cũng như các nước sở tại. Tại chính quốc, các hoạt động của chúng chịu sự
kiểm soát ít nhiều của nhà nước dưới hình thức thuế hay luật chống độc quyền. Tại quốc gia
sở tại, TNC có thể bị quốc hữu hóa như trước kia hoặc những hạn chế như hiện nay về quy
mô và lĩnh vực hoạt động như ngành nghề được phép kinh doanh, tỷ lệ góp vốn tối đa, quy
định về kiểm toánn , khuyến khích về kinh tế nhưng hạn chế về chính trị và văn hóa… Các
TNC vẫn sự ủng hộ hay bảo hộ của quốc gia trong hoạt động kinh doanh trên thị trường
nước ngoài. Sự phụ thuộc của quốc gia còn biểu hiện ở chỗ nhiều khi TNC được sử dụng
như công cụ chính sách đối ngoại như bao vây, cấm vận quốc gia nào đó. Các TNC buộc
phải tuân theo quyết định của quốc gia dù điều đó trái với lợi ích của chúng.
1.2.9 Hiện nay, hoạt động của TNC ngày càng có sự liên quan gắn bó đến nhau.
Điều này được quy định bởi tính hệ thống của nền kinh tế, xu hướng thống nhất của thị
trường thế giới, quá trình phân công lao động và bởi cố gắng chính trị của nhà nước nhằm
tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Sự liên quan này có nhiều phản ánh khác nhau như
kết hợp vốn, mua cổ phần của nhau, phối hợp sản xuất, M&A, hợp đồng liên kết công nghệ,
phối hợp cùng gây áp lực chính trị… Đây là điểm khác với INGO mà hoạt động vẫn đang
còn khá riêng rẽ. Những đặc điểm trên không chỉ tạo ra “bản sắc riêng” mà còn góp phần
đem lại vai trò chủ thể QHQT cho TNC.
2.3 Vai trò quốc tế của các công ty xuyên quốc gia
Sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng lẫn chất, vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế
cùng với các tác động ngày càng tăng trong quan hệ quốc tế đang đem lại cho các công ty
xuyên quốc gia khả năng của một chủ thể QHQT. Điều này được thể hiện trên 4 tiêu chí của
chủ thể luật quốc tế là tham gia,
2.3.1 Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian,
Các công ty xuyên quốc gia bắt đầu ghi dấu ấn lớn trong quan hệ quốc tế với việc vươn
ra thị trường nước ngoài từ nửa cuối thế kỷ XIX, phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX và
đầu thế kỷ XXI.
Về mặt không gian, ngày nay, các công ty xuyên quốc gia đã “phủ sóng” hầu như khắp
mọi quốc gia trên thế giới .
Về kênh quan hệ, các công ty xuyên quốc gia tham gia vào quan hệ quốc tế không chỉ
qua quan hệ giữa các công ty xuyên quốc gia với quốc gia khác, giữa các công ty xuyên
quốc gia với công ty khác mà còn trong nội bộ công ty qua quan hệ giữa trụ sở với các chi
nhánh của mình ở nước ngoài.
Về hình thức quan hệ, đó là sự phân công lao động quốc tế, đầu tư nước ngoài, thương
mại xuyên quốc gia, giao dịch tài chính quốc tế, chuyển giao công nghệ, thu hút lao động
nước ngoài,…
Tiểu luận luật quốc tế K10504
22
Về lĩnh vực tham gia, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia không chỉ diễn ra trong
mọi ngành kinh tế lớn mà còn đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên cạnh đó, sự
tham gia của các công ty xuyên quốc gia trong chính trị - lĩnh vực quan trọng trong quan hệ
quốc tế - là rất đáng kể như đã trình bày trong phần trên. Ngoài ra, các công ty xuyên quốc
gia còn hiện diện khá lớn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều lĩnh vực khác nhau
của quan hệ quốc tế như khoa học, văn hoá, xã hội,…. Không chỉ về bề rộng, mức độ
tham gia quan hệ quốc tế của các công ty xuyên quốc gia cũng rất sâu sắc, đặc biệt trong
kinh tế. Điều này tạo khả năng cho các công ty xuyên quốc gia tham gia sâu hơn nữa vào
đời sống kinh tế, chính trị và xã hội quốc tế.
2.3.2 Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích
Tất cả các công ty xuyên quốc gia đều có mục đích lợi nhuận. Lợi nhuận chính là mục
đích cơ bản, bao trùm và xuyên suốt của các công ty xuyên quốc gia và được phản ánh
trong điều lệ, trong tổ chức và mọi hoạt động kinh doanh. Không có mục đích lợi nhuận,
không phải là các công ty xuyên quốc gia.
Trên phương diện quan hệ quốc tế, mục đích này là động lực chính hướng hoạt động
của các công ty xuyên quốc gia ra bên ngoài nhằm khai thác hơn nữa lợi nhuận trên thị
rường quốc tế. Trước kia, mục đích lợi nhuận đã khiến các công ty xuyên quốc gia góp
phần đưa quan hệ bóc lột, sự nô dịch thực dân và sự can thiệp chính trị vào quan hệ quốc tế.
Ngày nay, mục đích lợi nhuận vẫn tiếp tục quy định cố gắng mở rộng thị trường, tăng
cường hoạt động và phát triển các hình thức tác động khác nhau của chúng trong quan hệ
quốc tế. Thông qua quá trình kinh doanh quốc tế, các công ty xuyên quốc gia có những
đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế các nước như đầu tư vốn, kích thích xuất khẩu,
mở rộng sản xuất, cải tổ cơ cấu, chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng quản lý, tạo
việc làm,… Các tác dụng tích cực đó đã khiến mục đích lợi nhuận của các công ty xuyên
quốc gia dễ hoà hợp hơn với mục đích phát triển của các nước.
Đồng thời, việc giảm thiểu sự can thiệp chính trị thô bạo như trước kia cũng góp phần
làm giảm mâu thuẫn với mục đích an ninh chính trị của các nước đang phát triển. Và từ đó,
sự nghi ngại, chống đối các công ty xuyên quốc gia ở các nước này cũng giảm theo. Đó
chính là cơ hội cho các công ty xuyên quốc gia mở rộng hoạt động ra khắp thế giới để thực
hiện mục đích lợi nhuận.
2.3.3 Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực,
Các công ty xuyên quốc gia có nguồn tài lực và nhân lực riêng từ các chủsở hữu và
những người tham gia khác. Nguồn tài chính của chúng rất lớn và nguồn nhân lực của
chúng cũng dồi dào. Thậm chí, có những các công ty xuyên quốc gia có số tài sản vượt xa
GDP của nhiều nước phát triển. Đó là chưa kể xu hướng M&A đang tạo ra những các công
ty xuyên quốc gia khổng lồ trong nền kinh tế quốc tế. Các các công ty xuyên quốc gia được
luật pháp chính quốc cũng nhưnước sở tại trao cho quyền tự chủ và những thẩm quyền
riêng trong hoạt động kinh doanh. Luật pháp của chính quốc thì rộng rãi,luật pháp nước sở
tại thì khuyến khích, luật pháp quốc tế thì còn thiếu và phụ thuộc nhiều vào các nước phát
Tiểu luận luật quốc tế K10504
23
triển vốn lại là chính quốc nên càng tạo điều kiện cho sự tự trị của các công ty xuyên quốc
gia.
Cơ sở tài chính, nguồn nhân lực và những thẩm quyền như vậy đem lại cho các công ty
xuyên quốc gia khả năng độc lập trong quyết định và tự chủ trong hoạt động kinh doanh.
Các công ty xuyên quốc gia tự quyết định thị trường, mặt hàng, đối tác, tổ chức, nhân lực,
chính sách và biện pháp kinh doanh của nó ở bất kỳ nước nào mà không chịu sự áp chế
của ai, miễn là phù hợp với luật pháp. Sự độc lập và tự chủ của các công ty xuyên quốc gia
còn được thể hiện qua khả năng tác động lên quốc gia và can thiệp vào một số khu vực
thuộc thẩm quyền quốc gia. Hiện nay, cho dù vẫn phải chịu sự điều chỉnh nhất định của
quốc gia, năng lực này của các công ty xuyên quốc gia vẫn đang được củng cố nhờ xu
hướng tự do hoá thương mại, sự chào đón của các quốc gia nhận đầu tư, sự phát triển năng
lực của bản thân các các công ty xuyên quốc gia và cả xu hướng tăng cường hợp tác giữa
chúng.
2.3.4 Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế
Các công ty xuyên quốc gia có được vị trí khá lớn trong quan hệ quốc tế không chỉ nhờ
thực lực to lớn và khả năng kiến tạo các quan hệ xuyên quốc gia. Ảnh hưởng này còn được
quy định bởi nhu cầu phát triển ngày càng tăng của mọi quốc gia trên thế giới. Nhu cầu phát
triển này đã đem lại vị thế quan trọng cho các công ty xuyên quốc gia trong chính sách đối
ngoại của các quốc gia. Hơn nữa, các công ty xuyên quốc gia chủ yếu xuất phát từ các trung
tâm chính trị và kinh tế lớn của thế giới như Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhờ sự hậu
thuẫn của các thế lực này, ảnh hưởng kinh tế và tiếng nói chính trị của các công ty xuyên
quốc gia trong quan hệ quốc tế được tăng lên đáng kể.
Đáng chú ý, sau Chiến tranh Lạnh, ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia trong
quan hệ quốc tế có chiều hướng tăng lên. Nếu sự nổi lên của yếu tố kinh tế trong quan hệ
quốc tế đem lại vị thế quốc tế cao hơn cho các công ty xuyên quốc gia, thì xu thế thống nhất
của thị trường thế giới đem lại ảnh hưởng toàn cầu cho chúng. Trong khi đó, do khả năng
chi phối chính trị của kinh tế ngày một lớn nên khả năng tác động tới quốc gia và quan hệ
quốc tế của các công ty xuyên quốc gia cũng rất đáng kể. Nhìn chung, các công ty xuyên
quốc gia vẫn có khả năng tác động lên quốc gia, kể cả chính quốc lẫn nước sở tại, buộc
chúng thay đổi hay điều chỉnh hành vi đối nội và đối ngoại.
Như vậy, có hai mặt vấn đề được đặt ra của các công ty xuyên quốc gia:
Về mặt tích cực, các công ty xuyên quốc gia góp phần mở rộng mối quan hệ quốc tế,
thúc đẩy toàn cầu hóa, hình thành luật lệ trong quan hệ quốc tế...Nhất là góp phần cho việc
phát triển kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho hợp tác, hội nhập quốc tế, thúc đẩy xu hướng
thống nhất thế giới.
Về mặt tiêu cực, các công ty xuyên quốc gia góp phần tạo nên sự thống trị và lệ thuộc
mới trong quan hệ quốc tế, trong đó các nước đang phát triển có sự phụ thuộc vào các
nước có nền công nghiệp đang phát triển. Từ đó, tạo nên sự can thiệp vào chính trị và lũng
đoạn kinh tế giữa các quốc gia.
Tiểu luận luật quốc tế K10504
24
Chính những tác động hai mặt này là cơ sở để khẳng định thêm tư cách chủ thể của các
công ty xuyên quốc gia hay nói cách khác là pháp nhân.
3. TỔ CHỨC QUỐC TẾ PHI CHÍNH PHỦ
3.1 Khái niệm và đặc điểm
Các tổ chức phi chính phủ nói chung là cá nhân, tổ chức tự nguyện mà các thành viên là
cá nhân hoặc hiệp hội đến với nhau để đạt được một mục đích chung.
Họ là những thực thể đa dạng, khác nhau, từ các tổ chức cơ sở được công nhận. Một số
chỉ được tài trợ thông qua các nguồn tư nhân, trong khi những người khác dựa vào một
phần vốn của Chính phủ. Các tổ chức phi chính phủ có thể là tổ chức mở hoặc tổ chức kín
trong một số lĩnh vực nhất định.
Tổ chức phi chính phủ (Non Governmental Organization - NGO) là một tổ chức không
thuộc về bất cứ chính phủ nào.
Các tổ chức phi chính phủ ra đời với nhiều mục đích khác nhau, thông thường nhằm đẩy
mạnh các mục tiêu chính trị và (hay) xã hội như bảo vệ môi trường thiên nhiên, khuyến
khích việc tôn trọng các quyền con người, cải thiện mức phúc lợi cho những người bị thiệt
thòi, hoặc đại diện cho một nghị trình đoàn thể. Có rất nhiều tổ chức như vậy và mục tiêu
của chúng bao trùm nhiều khía cạnh chính trị, xã hội, triết lý và nhân văn.
Các tổ chức phi chính phủ hoạt động theo nhiều phương pháp khác nhau, tuy nhiên có
thể coi thuộc vào một trong hai kiểu sau. Một số chủ yếu tổ chức vận động hành lang để tạo
áp lực chính trị, số khác chủ yếu tiến hành các chương trình và hoạt động (chẳng hạn như
Oxfam là tổ chức chống nạn đói và nghèo khổ có các chương trình cung cấp phương tiện và
thức ăn, nước uống sạch cho những người bị thiệt thòi).
Quan hệ giữa các giới kinh doanh, chính phủ, và các tổ chức phi chính phủ vô cùng
phức tạp và đôi khi có sự trái nghịch, đặc biệt là khi các tổ chức phi chính phủ hoạt động đi
ngược lại với các chính phủ hay các tổ chức kinh doanh.
3.2 Vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của tổ chức phi chính phủ
Nhận thức được vai trò quan trọng của các tổ chức phi chính phủ có ảnh hưởng đến sự
thay đổi trên quy mô toàn cầu, các tổ chức quốc tế phi chính phủ đã tìm cách vượt ra ngoài
khuôn sáo rỗng đã lỗi thời và những quan niệm hạn hẹp về một tổ chức phi chính phủ là gì
và hoạt động của nó là gì mà đặt thêm câu hỏi nó có vai trò như thế nào trong các quan hệ
quốc tế. Từ cứu trợ nhân đạo đến môi trường, y tế công cộng đến giáo dục, tài chính vi mô
đến sở hữu trí tuệ, các tổ chức phi chính phủ đang lên vị trí hàng đầu của sự phát triển, có
ảnh hưởng lớn đối với cuộc sống của hàng triệu con người trên toàn thế giới.
3.2.1 Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian
Tổ chức phi chính phủ mang tính quốc tế. Tổ chức quốc tế xuất hiện trên thế giới vào
năm 1970, có phạm vi hoạt động rộng khắp thế giới. Các Tổ chức phi chính phủ mang tính
quốc tế phải tuân theo luật pháp của nước nhận sự hợp tác. Nhóm các Tổ chức phi chính
phủ mang tính chất Liên hiệp hội được thành lập trong phạm vi quốc gia, quốc tế, hay khu
vực giúp những người trong nhóm cùng hoàn cảnh, nguyện vọng, sở thích trong các hoạt
động giao lưu văn hóa, xã hội. Đặc biệt trong quá trình hội nhập.
Tiểu luận luật quốc tế K10504
25
3.2.2 Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích
Hoạt động một cách thường xuyên để thực hiện mục tiêu chung là không vì mục tiêu lợi
nhuận. Hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật.
3.2.3 Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lự:
Trong một xã hội mở, các tổ chức quốc tế phi chính phủ được mở rộng và được cải thiện
về chức năng, nhiệm vụ tùy thuộc cán cân của các lực lượng trên vũ đài chính trị. Tuy
nhiên, xét về bản chất, các tổ chức quốc tế phi chính phủ thực hiện những vai trò chính sau:
– Các tổ chức quốc tế phi chính phủ cho phép người dân cải thiện xã hội thông qua
thúc đẩy, giáo dục, thu hút sự chú ý xung quanh những vấn đề lớn của xã hội và
giám sát hoạt động của chính quyền và doanh nghiệp tư nhân.
– Các tổ chức quốc tế phi chính phủ tạo điều kiện cho người dân thuộc mọi thành
phần khác nhau biết cách hợp tác với nhau và xây dựng những kỹ năng, mối quan
hệ và sự tin tưởng cần thiết cho một chính quyền tốt.
– Các tổ chức quốc tế phi chính phủ phục vụ các lợi ích đa dạng của người dân. Họ
có thể hành động như các nhà cung cấp dịch vụ xã hội, tuyên truyền về môi
trường hay các tiêu chuẩn sinh hoạt, chuẩn mực công việc, hay như các tác nhân
cho sự thay đổi dân chủ.
– Các tổ chức quốc tế phi chính phủ thường đại diện cho lợi ích của những người
dân có thể bị gạt ra ngoài các cuộc tranh luận về chính sách quốc gia. Họ tổ chức
đối thoại công khai với người dân thuộc mọi tầng lớp kinh tế và xã hội, phụ nữ và
những người thiểu số.
– Nguồn tài chính cho các tổ chức quốc tế phi chính phủ có thể từ sự quyên tặng
của các cá nhân, các quỹ tín thác và nhân đạo tư nhân, các doanh nghiệp, các tổ
chức tôn giáo, các tổ chức quốc tế, các tổ chức quốc tế phi chính phủ khác, việc
cung cấp các hàng hóa và dịch vụ và thậm chí là chính quyền.
– Chính quyền và các tổ chức quốc tế phi chính phủ thường cộng tác với nhau như
những đối tác: Các tổ chức quốc tế phi chính phủ có thể cung cấp kỹ năng và
nhân lực tại chỗ trực tiếp thực hiện các dự án do chính quyền tài trợ. Các tổ chức
quốc tế phi chính phủ có thể trung lập về chính trị, hoặc có thể dựa trên các lý
tưởng của đảng phái và tìm cách thúc đẩy một hoặc một loạt sự nghiệp cụ thể vì
lợi ích công cộng. Trong bất cứ mô hình nêu trên nào thì điểm mấu chốt là các tổ
chức quốc tế phi chính phủ cần được hoạt động với sự kiểm soát chính trị tối
thiểu của nhà nước.
Các tổ chức quốc tế phi chính phủ xây dựng các chương trình tại địa phương và quốc tế
trong hầu như mọi lĩnh vực góp phần thúc đẩy các nguyên tắc của nền dân chủ, bao gồm:
– Nhân quyền: thông qua thúc đẩy các chuẩn mực và giám sát quốc tế đối với nạn
bạo lực và lạm dụng.
– Pháp quyền: thông qua hỗ trợ pháp lý chi phí thấp hoặc miễn phí, giáo dục cho
người dân về các quyền của họ và tuyên truyền cho những cải cách pháp lý.
Tiểu luận luật quốc tế K10504
26
- Sự tham gia của phụ nữ: thông qua việc chuẩn bị cho họ tham gia chính trị và
bảo vệ họ trước sự phân biệt đối xử về kinh tế xã hội.
– Giáo dục công dân: thông qua các chương trình giáo dục tập trung vào vai trò của
công dân trong một xã hội dân chủ và đa dạng.
– Báo chí tự do: thông qua thúc đẩy các phương tiện thông tin độc lập, đào tạo các
phóng viên và đặt ra các chuẩn mực của một nền báo chí có đạo đức.
– Phát triển đảng phái chính trị: thông qua giám sát bầu cử bởi những quan sát viên
trong nước được tập huấn và những đợt phát động đăng ký cử tri mang tính trung
lập.
– Trách nhiệm của chính quyền: thông qua tiến hành phân tích chính sách và đóng
vai trò giám sát các hành động của chính quyền.
3.2.4 Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong quan hệ pháp luật quốc tế
Dễ thấy, xu hướng tăng nhanh về lượng của các tổ chức quốc tế phi chính phủ phần nào
đã khẳng định các tổ chức quốc tế phi chính phủ có vai trò và ảnh hưởng ngày càng tăng
đối với nền kinh tế và chính trị thế giới. Ngày nay, các tổ chức quốc tế phi chính phủ, nhân
vật chính của xã hội dân sự toàn cầu, hầu như đã trở thành một bộ phận không thể phân tách
của đời sống quốc tế.
Sự tăng trưởng về số lượng và ảnh hưởng của các tổ chức phi chính phủ trong mười năm
qua là đáng kinh ngạc. Theo trích dẫn từ Tổng thư ký LHQ Kofi Annan cho thấy, các tổ
chức phi chính phủ ngày càng làm việc như các cố vấn cho các chính phủ quốc gia, tổ chức
quốc tế và Liên Hợp Quốc. Trong quá khứ, các tổ chức phi chính phủ thường triệu tập các
cuộc họp riêng biệt và tự trị cùng với các hội nghị của Liên Hợp Quốc để chương trình nghị
sự phê bình của Liên Hợp Quốc, huy động các tổ chức địa phương và ủng hộ cho những
thay đổi chính trị, xã hội và kinh tế. Các tổ chức phi chính phủ làm phong phú thêm các
cuộc thảo luận liên chính phủ với cơ sở kiến thức và vấn đề chuyên môn. Những gì bắt đầu
như tư vấn với các tổ chức phi chính phủ được lựa chọn đã phát triển thành một hệ thống
các mối quan hệ đối tác chính phủ và liên chính phủ. Liên Hiệp Quốc đã phản ứng với sự
tài trợ của các sáng kiến và dự án tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu tăng lên.
Tổ chức quốc tế phi chính phủ làm việc là rất quan trọng trong các chiến dịch huy động
công dân ở cấp cộng đồng và quốc gia. Hiện nay, các tổ chức phi chính phủ là những đóng
góp quan trọng trong nỗ lực toàn cầu để đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của
Liên Hợp Quốc. Những mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục tiểu học, bình đẳng
giới và quyền của phụ nữ, giảm các tỷ lệ tử vong ở trẻ em, cải thiện sức khỏe bà mẹ, môi
trường bền vững, tiến bộ trong cuộc chiến chống lại các bệnh như HIV/ AIDS và sốt rét, và
việc thành lập quan hệ đối tác toàn cầu cho phát triển.
Như vậy, với việc đáp ứng đủ bốn tiêu chí ở trên, từ những vấn đề nêu trên chúng ta
có thể thấy những ảnh hưởng to lớn của tổ chức phi chính phủ đối với thế giới đã vượt qua
tầm ảnh hưởng của quốc gia trong các quan hệ quốc tế, có thể đúng ra chịu trách nhiệm của
mình về nhưng hoạt đông và đồng thời đóng vai trò to lớn trong việc phát triển nhân loại và
Tiểu luận luật quốc tế K10504
27
tổ chức phi chính phủ cũng đang làm theo phương hướng mà các chủ thể truyền thống của
luật quốc tế đang cố gắng vươn tới và thực hiện.
Tiểu luận luật quốc tế K10504
28
KẾT LUẬN
Với quan điểm truyền thống về chủ thể của luật quốc tế thì chúng ta không có gì phải
tranh luận thêm nhiều. Các chủ thể này đã tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế trong
suốt quá trình hoàn thiện pháp luật quốc tế qua các thời kì cho đến nay. So với quan điểm
truyền thống thì quan điểm hiện đại gặp nhiều tranh cãi rào cản và tranh cãi. Dù là quan
điểm nào thì các quan điểm cũng đều hướng đến mục đích góp phần hoàn thiện pháp luật
quốc tế.
Không thể phủ nhận những ưu điểm khi thừa nhận các chủ thể luật quốc tế theo quan
điểm truyền thống. Bên cạnh những ưu điểm, chủ thể luật quốc tế theo quan điểm truyền
thống hiện nay không còn hoàn toàn phù hợp. Trong suốt quá trình phát triển, luật quốc tế
dần dần cho thấy những hạn chế của mình khi các quan hệ pháp luật quốc tế ngày càng phát
triển quan điểm truyền thống dần dần lộ ra những khuyết điểm của mình. Một số chủ thể
không phải là chủ thể truyền thống nhưng phát triển rất mạnh và có vai trò lớn với quốc tế
như: cá nhân, công ty xuyên quốc gia, tổ chức quốc tế phi chính phủ một khi phát sinh các
vấn đề trong quan hệ quốc tế, nếu các thực thể này không được thừa nhận sẽ dẫn đến việc
xử lý các vấn đề này khó khăn.
Từ khi bắt đầu tìm hiểu về các thực thể trong các quan hệ quốc tế như chúng tôi đã phân
tích ở trên, các thực thể này đóng vai trò rất quan trọng, độ ảnh hưởng lớn và có vị thế cao
trong việc tham gia các quan hệ pháp luật quốc tế. Có nên chăng cần mở rộng chủ thể của
luật quốc tế như chúng tôi đã nghiên cứu trong bài viết này? Theo quan điểm chủ quan của
cá nhân chúng tôi, chúng tôi tương đối đồng ý với quan điểm mới này. Chúng tôi cho rằng
việc thừa nhận cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức quốc tế phi chính phủ là
một quan điểm tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển chung toàn cầu.
Trong quá trình nghiên cứu với thời gian hạn chế, chắc chắn vẫn còn nhiều điều chưa
hoàn thiện. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung để hoàn thiện hơn.
Tiểu luận luật quốc tế K10504
29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật quốc tế Đại học luật Hà Nội năm 2006.
2. Luật quốc tế - lý luận và thực tiễn – TS. Lê Mai Anh. NXBGD năm 2005
3. Luật quốc tế (sách chuyên khảo) – ThS. Ngô Hữu Phước. NXB Chính trị Quốc gia
2010.
4. Hiến chương Liên Hợp Quốc.
5. Tiểu luận lớp K09504 về “đôi điều đánh giá quan điểm chủ thể của luật quốc tế”.
6. Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 9 năm 2000.
7. Bài viết “công ty xuyên quốc gia – chủ thể quan hệ quốc tế” - Hoàng Khắc Nam.
8. (Công ty
đa quốc gia, xuyên quốc gia, tổ chức quốc tế phi chính phủ)
9.
10.
11.
12.
relations5/ch/06/summary.aspx
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- k10504_4724.pdf