Tiểu luận Rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam

Hiện nay, phần lớn khách hàng thường thích giải ngân bằng tiền mặt khi vay vốn bởi nó dễ sử dụng và tránh được việc kiểm soát của ngân hàng. Chính vì vậy, việc giải ngân bằng tiền mặt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nạn rửa tiền bởi nó dễ dàng tiêu xài, ẩn danh mà các cơ quan chức năng khó kiểm soát. Bởi việc giải ngân bằng tiền mặt sẽ góp phần làm gia tăng lượng tiền mặt trong nền kinh tế. Việc hạn chế cấp tín dụng bằng tiền mặt cho khách hàng là một điều các Ngân hàng thương mại cần phải quan tâm và hoàn toàn có khả năng thực hiện được. Cụ thể, cần chấp hành một cách nghiêm túc quy định của NHNN trong hạn chế thanh toán không dùng tiền mặt như trả lương, thu phí, , giải ngân thanh toán bằng chuyển khoản có đầy đủ chứng từ hợp lệ,

pdf31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3558 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nó sẽ ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động. Dù cho hoạt động rửa tiền có xu hướng biến đổi như thế nào thì ngành ngân hàng Việt Nam cũng đang đứng trước một vấn nạn rất lớn. Trong chương 2 vấn đề này sẽ được làm rõ hơn. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 12 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 2.1 Thực trạng hoạt động rửa tiền và phòng, chống rửa tiền trên thế giới: Cho tới nay, hoạt động rửa tiền đã diễn ra ở khá nhiều nước trên thế giới. Lượng tiền rửa chiếm tỷ trọng lớn trong khối lượng tiền lưu chuyển trên toàn cầu. Theo ước tính của FATF - lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính, tiền bẩn đã được rửa có thể lên tới 1500 tỷ USD mỗi năm. Năm 2001, thế giới có khoảng 70 Trung tâm hải ngoại để trốn thuế, tụ tập khoảng 40.000 ngân hàng, 44% tập trung ở vùng Caribean và Mỹ La tinh, 28% ở Châu Âu, 18% ở Châu Á, 10% ở Châu Phi-Trung Đông, kiểm soát khoảng 5.000 tỷ USD. Phần lớn các Trung tâm này đóng vai trò “ Trung tâm đặt hàng” chủ yếu phục vụ các Trung tâm tiền tệ lớn hơn như New York, London, Tokyo. Hàng năm lượng tiền nằm lại hoặc chuyển qua các Trung tâm hải ngoại để trốn thuế ước tình bằng một nửa số tiền trên toàn thế giới, biến các Trung tâm này cũng trở thành những Trung tâm rửa tiền quốc tế quan trọng. Rõ ràng, rửa tiền ngày càng trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu và hậu quả của nó đối với nền kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng. Các biện pháp tiến hành nhằm chống nạn rửa tiền là một yêu cầu hết sức bức thiết. Và sau đây là thực trạng rửa tiền tại một số nước tiêu biểu trên thế giới: 2.1.1 Rửa tiền và phòng, chống rửa tiền tại Mỹ: Trước hết, Mỹ là quốc gia đầu tiên xuất hiện nạn rửa tiền vào năm 1920. Nhưng chỉ mãi đến năm 1986, rửa tiền mới chính thức được coi là bất hợp pháp. Giới tội phạm thường xuyên che dấu các hoạt động của mình nên những số tiền được thay đổi tên họ này không được biết một cách chính xác nhưng Quỹ tiền tệ quốc tế IMF đã ước tính hàng năm số tiền ngày có thể lên đến từ 3 đến 5% tổng doanh thu toàn thế giới. Đứng trước tình trạng này, một yêu cầu cấp thiết đặt ra với Chính phủ Mỹ là phải có những qui định cụ thể phù hợp về những biện pháp hữu hiệu chống rửa tiền. Trong đó những điểm đầu tiên cần chú ý là: kết hợp hoạt động trong nước với các hoạt động của tổ chức quốc tế. Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và nghiêm khắc nhất trên thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên đều phải tuân theo. Trong đó, một trong những đạo luật quan trọng nhất liên quan đến phòng, chống rửa tiền là Luật Bí mật ngân hàng (BSA) năm 1970 và những quy tắc của nó. Mục đích của BSA là tạo ra một văn bản pháp lý tạo điều kiện điều tra tội phạm rửa tiền, trốn GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 13 thuế… bằng cách yêu cầu các tổ chức tài chính phải lưu giữ những chứng từ liên quan đến giao dịch trên 10.000 USD. Sau đó Luật được sửa đổi cho phép Chính phủ và các cơ quan chức năng có thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD trong các cuộc điều tra. Một số luật quan trọng khác trong việc phòng, chống rửa tiền tại Mỹ gồm Luật Quản lý toàn diện tội phạm năm 1984, Luật Quản lý rửa tiền năm 1986, Luật Chống sử dụng ma tuý năm 1988, Luật Chống rửa tiền Annunzio – Wylie năm 1992. Những luật và quy định về phòng, chống rửa tiền tại Mỹ luôn được bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với những thay đổi của tội phạm rửa tiền. Luật Chống rửa tiền quy định nghĩa vụ của tất cả các đối tượng, từ các cá nhân đến các tổ chức khi phát hiện có sự tham gia vào bất kỳ hoạt động rửa tiền nào và là căn cứ để tịch thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc không tuân thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền của các nhân viên của các tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự và hình sự. Về mặt dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới 100.000 USD cho việc cố tình vi phạm những quy định về báo cáo và lưu giữ chứng từ của BSA. Về mặt hình sự, người vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5 năm tù hoặc cả hai. Một trong những vụ sớm nhất và nổi tiếng nhất liên quan đến việc ngân hàng bị phạt do vi phạm các quy định và luật lệ liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Mỹ là trường hợp Ngân hàng Boston. Mặc dù đã được yêu cầu phải tuân thủ chặt chẽ hơn trong việc lưu giữ các chứng từ giao dịch vào năm 1980, song Ngân hàng Boston vẫn tiếp tục giao dịch với các ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả các ngân hàng đại lý của nó mà không hề lưu giữ hồ sơ chứng từ đến tận năm 1984. Nghiêm trọng hơn, các chi nhánh của Ngân hàng Boston đã tiếp tục thực hiện những giao dịch với những tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm. Những nhân vật này đã thực hiện những phi vụ kinh doanh bất động sản, nhưng nhân viên của Ngân hàng Boston đã không báo cáo và lưu giữ chứng từ của những giao dịch này mặc dù chúng không được loại trừ theo các quy định và luật lệ về tài chính. Đến năm 1985, Ngân hàng Boston mới thực hiện đúng các yêu cầu về phòng, chống rửa tiền theo các quy định, luật lệ nên cuối cùng đã bị kết án và bị phạt 500.000 USD. Gần đây nhất vào tháng 5/2013, 17 quốc gia đã chung tay cùng điều tra lật tẩy mạng lưới chuyển tiền trên mạng Liberty Reserve - nơi được cho là đã “rửa” 6 tỉ USD cho các băng nhóm tội phạm từ trộm cắp đến kinh doanh khiêu dâm trẻ em. Liberty Reserve có trụ sở tại Costa Rica, là ngân hàng trực tuyến có uy tín khá cao trong cộng đồng người tiêu dùng online nhờ có hệ thống chi trả trực tuyến bảo mật tốt và an toàn bậc nhất. Tuy nhiên, cũng vì những ưu điểm này mà Liberty Reserve được thế giới ngầm sử dụng vào mục đích rửa tiền. Được biết, khách hàng của Liberty Reservekhông cần phải dùng giấy tờ tùy thân để đăng ký trở thành thành viên, truy cập GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 14 vào website Liberty Reserve để mua tiền ảo rồi dùng tiền ảo này giao dịch với nhiều người khác thông qua Liberty Reserve. Đây được coi là kẽ hở lớn nhất để bọn tội phạm lợi dụng Liberty Reserve trở thành công cụ rửa tiền cho chúng. Theo IMF, số lượng tiền được “rửa” phi pháp của các tổ chức tội phạm ngầm trên thế giới chiếm khoảng 2-5% giá trị tài sản toàn cầu, tương đương 500 đến 1.500 tỉ USD. Gafi - một tổ chức tài chính chống “rửa” tiền với 31 quốc gia thành viên, có trụ sở tại Paris, chuyên theo dõi hoạt động “rửa” tiền - cho biết, nhiều quan chức, chính trị gia đã từng tham gia hoặc tiếp tay cho các hoạt động “rửa” tiền và đây là một dấu hiệu tham nhũng. Từ trước tới nay, việc rửa tiền chủ yếu thông qua đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, mua bán nguyên vật liệu, giao dịch thương mại và tất cả đều phải bơm tiền vào hệ thống ngân hàng để chuyển thành “tiền sạch”. Vụ triệt phá mạng lưới Liberty Reserve hồi tháng 5 được mô tả là “vụ truy tố rửa tiền quốc tế lớn nhất trong lịch sử”. Giao dịch bằng tiền ảo nhưng Liberty Reserve, hoạt động từ năm 2006, cung cấp một hệ thống ngân hàng lý tưởng cho bọn tội phạm khi cho phép giao dịch ẩn danh và dễ dàng tiếp cận mạng lưới này. Theo Bộ Tư pháp Mỹ, cho đến khi bị đóng vào tuần trước, mạng lưới có trụ sở tại Costa Rica này có khoảng 1 triệu người sử dụng, trong đó hơn 200.000 người tại Mỹ và xử lý hơn 55 triệu giao dịch bất hợp pháp, trị giá đến 6 tỉ USD. 2.1.2 Rửa tiền-chống rửa tiền tại Anh: Tại Anh, các định chế tài chính cũng hoạt động theo những quy định về phòng, chống rửa tiền tương tự như tại Mỹ. Tháng 12/1990, nước Anh ban hành một loạt văn bản hướng dẫn các ngân hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các hoạt động rửa tiền, trong đó tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng trong việc cảnh báo cho các cơ quan quyền lực những hoạt động và giao dịch đáng ngờ. Các hướng dẫn này được xây dựng bởi Ngân hàng Trung ương Anh và các ngân hàng thương mại với sự phối hợp, tham gia của cơ quan tình báo quốc gia, hải quan, cảnh sát. Theo đó, ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất cả các khách hàng bằng mọi cách có thể, kể cả bằng cách gặp mặt trực tiếp. Hướng dẫn cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận thông tin cá nhân, trong đó hộ chiếu là hình thức được ưu tiên, ngoài ra các hình thức khác cũng được chấp nhận như thẻ nhân viên, bằng lái xe… Hơn nữa, các ngân hàng phải lưu giữ tất cả các chứng từ giao dịch trong 6 năm để phục vụ điều tra. Hệ thống luật lệ ngân hàng và các hướng dẫn thực hành giám sát của cộng đồng châu Âu yêu cầu tất cả các nhân viên ngân hàng đều phải nhận biết khách hàng của họ; đồng thời cải thiện hệ thống lưu giữ chứng từ, ngăn chặn kịp thời những hành động GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 15 đáng ngờ và tập huấn các nhân viên để họ tuân theo các luật lệ ngân hàng một cách chủ động và có thể nhận biết, báo cáo các hành động rửa tiền. Năm 2010, Chaparro bị bắt ở Colombia và bị dẫn độ sang Mỹ năm 2011. Chaparro đã thành khẩn nhận tội âm mưu rửa tiền và hiện đang chờ bị kết án trong năm 2013. Theo các công tố viên, Chaparro đã giúp điều hành một đường dây rửa tiền cho bọn buôn ma túy nhờ sự kiểm soát lỏng lẻo tại Ngân hàng HSBC ở Anh. Qua tài liệu điều tra đáng tin cậy của tòa án ở New York và California thì các nhà điều tra đã và đang lần theo dấu vết của những kẻ hoạt động cùng với Chaparro. Qua đó đã phát hiện được hệ thống rửa tiền quy mô lớn tại một trong những ngân hàng lớn nhất thế giới. Căn cứ vào tài liệu của Bộ Tư pháp Mỹ thì những tay buôn lậu ma túy đã bán "hàng" ở Mỹ, sau đó chuyển tiền mặt đến Mexico. Lúc đó, tiền mặt được gửi vào các tài khoản ngân hàng tại chi nhánh của HSBC ở Mexico. 2.1.3 Rửa tiền-chống rửa tiền tại một số nước khác: Nước Úc cũng thực hiện hệ thống báo cáo giao dịch tiền tệ tương tự như tại Mỹ. Bất kỳ một giao dịch tiền tệ nào tương đương hoặc lớn hơn 10.000 USD đều phải báo cáo. Những dữ liệu này sau đó được truyền tự động tới Cơ quan Báo cáo giao dịch tiền tệ. Tại Nhật, các ngân hàng được yêu cầu phải báo cáo tất cả các giao dịch tiền tệ trong nước vượt quá 30 triệu Yên và các giao dịch tiền tệ quốc tế vượt quá 5 triệu Yên. Hơn nữa, trong trường hợp liên quan đến ma tuý, toà án có thể kết án ngân hàng và các tổ chức tín dụng về tội rửa tiền. Các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Myanma, Indonesia, Philippin đều có các văn bản về chống rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau. Các nước này cũng đã thành lập những cơ quan chuyên trách riêng xử lý vấn đề liên quan đến phòng, chống rửa tiền như AMLO hay AMLC. Các cơ quan này có chức năng chủ yếu là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến tài sản liên quan đến buôn bán ma tuý và rửa tiền. Trong tháng 12 năm 2000 các nhà chức trách Thái Lan đã phát hiện một vị rửa tiến trị giá 7,7 tỷ Bath-tương đương 170 triệu USD-có liên quan đến khoảng 37 công ty hàng đầu mà đã đánh lừa được cả những ngân hàng giàu kinh nghiệm và các nhà chính trị. Theo một viên chức cao cấp của văn phòng hành pháp Western có trụ sở tại BangKok thì Mỹ phải mất 15 năm mới có thể đưa ra đạo luật chống rửa tiền và có hiệu lực trong khi Thái Lan đã thực hiện được tốt cả hai. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 16 Điều quan trọng nhất đối với việc thực thi pháp luật là có sự tham gia của ngân hàng. Giờ đây, qui định về việc không hỏi về tài khoản tiền mặt của khách hàng đã dần được thay thế bởi qui định hiểu biết về khách hàng với từng nhân viên ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải thông báo tất cả các giao dịch có giá trị lớn hơn 2 triệu Baht cho văn phòng chống nạn rửa tiền, đồng thời cũng phải thông báo các giao dịch đang nghi do bọn rửa tiền thực hiện nhiều giao dịch có giá trị dưới mức qui định tối thiểu. Sở địa chính Thái Lan cũng phải thông báo tất cả các hợp đống mua bán bất động sản lớn hơn 5 triệu Baht. Có thể nói văn phòng chống nạn rửa tiền Thái Lan là một mô hình đáng học tập trong khu vực. Malaysia và Indonesia cũng áp dụng mô hình nay. Hàn Quốc và Nhật Bản đã cử chuyên gia đến tham gia đến tham khảo. 2.2 Vấn nạn “ rửa tiền” và hoạt động phòng, chống “rửa tiền” tại Việt Nam: 2.2.1 Các phương thức “rửa tiền” chủ yếu tại Việt Nam: - Rửa tiền bằng phương thức vận chuyển tiền mặt: Theo Báo cáo Kiểm soát ma túy toàn cầu, có bằng chứng chứng minh một khối lượng lớn tiền mặt đã được vận chuyển dưới hình thức xách tay vào Việt Nam, điều này là hợp pháp nếu như các khoản tiền này được khai báo. Việt Nam không có đòi hỏi bất cứ một thông tin nào liên quan đến nguồn gốc hay việc sử dụng các khoản tiền được đưa vào Việt Nam. - Chuyển tiền qua ngân hàng: Cũng có nhiều trường hợp người nước ngoài mở tà khoản tại ngân hàng nhưng sau đó rút ngay ra những khoản tiền có giá trị lớn. Có trường hợp người nước ngoài thuê và sử dụng các hộ chiếu giả để rút tiền. Vì vậy, ngân hàng rất khó kiểm soát các giao dịch thực tế của khách hàng. - Rửa tiền trong lĩnh vực kim loại quý và đá quý: Khu vực bán lẻ vàng phần lớn chưa được quản lý. Thực tế, vàng được sử dụng như tiền trong lĩnh vực bất động sản. Cùng với những vụ lừa đảo liên quan đến bất động sản trong lịch sử và xu hướng các cửa hàng kinh doanh vàng bạc, trang sức, các dịch vụ chuyển tiền thì lĩnh vực này tiếp tục là đối tượng bị lạm dụng để chuyển đổi, vận chuyển và pha trộn các khoản tiền bất hợp pháp. 2.2.2 Thực trạng “rửa tiền” và Phòng, chống “rửa tiền” tại Việt Nam: “Rửa tiền” là hình thức tội phạm mang tính chất quốc tế. Nó sẵn sàng thâm nhập vào các quốc gia và gây tổn hại đến quốc gia, đặc biệt là những quốc gia mà việc kiểm soát hoạt động này còn chưa chặt chẽ, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam “rửa tiền” cũng tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng chủ yếu là qua hoạt động kinh doanh và qua hệ thống ngân hàng. Phần lớn các đồng tiền phi pháp qua hệ thống ngân hàng đều trở thành tiền sạch. Vì thế người ta gọi hệ thống ngân hàng là cỗ máy rửa tiền cho bọn tội GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 17 phạm. Rửa tiền là hình thức tội phạm có tổ chức và gây nhiều tác hại lớn cho nền kinh tế vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tội phậm, đặc biệt là buôn lậu, bành trướng hoạt động. Các nước sẽ phải chịu những khoản tổn thất khổng lồ vì các tội phạm đó. Như đã nói, rửa tiền còn làm suy yếu và ảnh hưởng đến thanh danh của hệ thống tài chính ngân hàng. Theo Cục phòng chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ở Việt Nam, khó có thể thống kê chính xác thời điểm hành vi rửa tiền xuất hiện, nhưng có những dấu hiệu cho thấy các nhóm tội phạm quốc tế đã nhắm đến Việt Nam để thực hiện hành vi rửa tiền. Hoạt động rửa tiền ở Việt Nam có những vấn đề đáng ngại sau: Việt Nam đang đối mặt với một làn sóng ngầm rửa tiền từ nước ngoài chuyển về dưới dạng kiều hối hoặc “xách tay”. Đã có nhiều cá nhân, đường dây được phát hiện, đơn cử mới đây nhất là vụ phi công của VA bị Úc bắt vì tham gia vào hoạt động rửa tiền với quy mô lớn. Lực lượng cảnh sát quốc tế Interpol cũng đưa ra cảnh báo, trong những năm qua, đã xuất hiện một số vụ rửa tiền thông qua việc chuyển tiền có nguồn gốc bất hợp pháp từ nước ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt, một số đối tượng, băng nhóm tội phạm người gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài khoản tại các ngân hàng thương mại để đồng bọn ở nước ngoài chuyển tiền vào, sau đó rút hết tiền trong các tài khoản này. Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã được Công an Đà Nẵng phát hiện vào tháng 10/2008, bắt được thủ phạm là Baggio Carlitos Linska, quốc tịch Mozambique khi tên này đến chi nhánh một ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng mở cùng lúc 2 tài khoản. Ngay sau khi mở được tài khoản, lập tức có hơn 4,1 tỷ đồng được chuyển vào. Điều đáng nghi ngờ là, đối tượng này tức tốc làm thủ tục để rút tiền. Nhận thấy giao dịch bất thường, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số tiền trên là khoản tiền bọn tội phạm đánh cắp từ một tài khoản nước ngoài. Sau đó chuyển vào Việt Nam qua hai chi nhánh ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngoài ra, tại Đà Nẵng lực lượng Công an cũng đã tiến hành tạm giữ Linska và Massamba Lendebe Vis (quốc tịch Mozambique). Đáng tiếc là Niaty Lokasso Djamba (quốc tịch Congo), người đã mở tài khoản và được chuyển số tiền hơn 3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa – Vũng Tàu đã nhanh chân tẩu thoát. Một trường hợp tiêu biểu khác là từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2006, các cơ quan chức năng đã phát hiện James Edmund Corbett (công dân Australia, tạm trú tại phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) có dấu hiệu bất thường, nghi vấn là rửa tiền. James E.Corbett đã mở các tài khoản vãng lai USD tại một số GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 18 ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua các tài khoản này, đã nhận hơn 3,2 triệu USD từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam, sau đó lần lượt chuyển cho một số công ty ở Việt Nam và ở nước ngoài. Luật Phòng, chống ''rửa tiền'' đã được Quốc hội ban hành từ tháng 7.2012 và chính thức có hiệu lực từ 1.1.2013, nhưng đến nay vẫn chưa thể triển khai vì chưa có nghị định, thông tư hướng dẫn. Do đó hoạt động phòng, chống ''rửa tiền'' vẫn được thực hiện dựa vào Nghị định 74 được Chính phủ ban hành từ năm 2005. Với các quy định mang tính định tính như hiện nay nên việc giám sát giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu ''rửa tiền'' trong lĩnh vực chứng khoán hay hoạt động ngân hàng đang trở nên khó thực hiện, hoặc mỗi nơi thực hiện một kiểu. Việc rửa tiền ngược từ Việt Nam ra nước ngoài được thực hiện dưới nhiều hình thức tinh vi như chuyển tiền cho người đi học, khám chữa bệnh, theo những nguồn tin tham khảo không chính thống thì số tiền này chủ yếu là do tham nhũng. Càng ngày thì hình thức rửa tiền ở nước ta càng có nhiều thủ đoạn tinh vi hơn và phát triển mạnh mẽ như đầu tư vào vàng, bất động sản và kênh đáng lo ngại nhất là thị trường chứng khoán. ''Rửa tiền'' là bước cuối cùng đối với loại tội phạm nhằm chuyển hóa lợi nhuận phi pháp thành hợp pháp. Tuy nhiên, những quy định phòng, chống ''rửa tiền'' cũng phải đảm bảo không gây khó khăn cho các đơn vị, tổ chức hay cá nhân kinh doanh hợp pháp. Để phát hiện các hành vi ''rửa tiền'', cơ quan chức năng cũng như các tổ chức có liên quan như NHTM, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm chủ yếu giám sát bằng biện pháp nghiệp vụ thông qua những dấu hiệu đáng ngờ của các giao dịch. Đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán, ngoài những dấu hiệu như Nghị định 74 của Chính phủ liệt kê thì thông tư 148 của Bộ Tài chính có bổ sung thêm một số dấu hiệu như tại mục b, c khoản 6, điều 9 thông tư: “b) Giao dịch mua, bán chứng khoán có dấu hiệu bất thường trong một ngày hoặc một số ngày do một cá nhân hay một tổ chức thực hiện; c) Khách hàng thực hiện chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống mà không có lý do hợp lý”... Với mục đích bổ sung thêm dấu hiệu giúp phát hiện sớm hành vi có thể là ''rửa tiền'', nhưng vô tình quy định làm khó các công ty chứng khoán khi thực hiện giám sát. Cụ thể, thông tư không định nghĩa thế nào là “giao dịch mua, bán có dấu hiệu bất thường” dẫn tới cách hiểu khác nhau giữa các công ty chứng khoán khác nhau. Một giao dịch có thể được coi là bất thường tại công ty này, nhưng lại là bình thường tại công ty khác. Thế nào là lý do hợp lý cho việc chuyển nhượng ngoài hệ thống? Nếu không liệt kê được lý do hợp lý thì có khi cơ quan chức năng kiểm tra công ty chứng GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 19 khoán cũng không thể chỉ ra sai phạm nếu có của công ty chứng khoán trong hoạt động này. Theo đánh giá của lãnh đạo một công ty chứng khoán, việc giám sát giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu ''rửa tiền'' trong lĩnh vực chứng khoán hầu như không được các công ty chứng khoán coi trọng; có chăng chỉ dừng lại ở lưu trữ số liệu giao dịch phục vụ cho các cơ quan chức năng khi có yêu cầu mà không mang tính chủ động cảnh báo. Còn với hoạt động của hệ thống ngân hàng, theo dõi giao dịch đáng ngờ có dấu hiệu ''rửa tiền'' được chú trọng hơn, do các ngân hàng - nhất là ngân hàng lớn- còn có mối quan hệ, giao dịch với tổ chức tài chính quốc tế. Do vậy yêu cầu về giám sát, phòng, chống ''rửa tiền'' được quan tâm hơn rất nhiều. Theo tổng kết của NHNN, sau 6 năm thực hiện Nghị định 74, từ năm 2005 đến 2011, đã có 774 báo cáo về giao dịch đáng nghi ngờ được báo cáo, trong đó 160 báo cáo được chuyển sang cơ quan công an liên quan tới 53 vụ việc. Tuy nhiên, về khía cạnh quản lý của NHNN cho thấy còn nhiều bất cập. Theo khoản 2, điều 9 của thông tư 22, NHNN quy định: “Căn cứ vào tính chất hoạt động kinh doanh, tổ chức báo cáo tự bổ sung các dấu hiệu đáng ngờ quy định tại khoản 1 điều này theo từng bộ phận nghiệp vụ, lĩnh vực kinh doanh”. Từ đó, các NHTM tự quy định thêm các dấu hiệu nhận biết giao dịch đáng ngờ để báo cáo. Hiệu quả của chính sách phụ thuộc vào sự chủ động từng ngân hàng do chưa có nghị định, thông tư hướng dẫn Luật Phòng, chống ''rửa tiền'' để thay thế thông tư 22. Ví dụ, có môt số ngân hàng đã cập nhật dấu hiệu “tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại không có lý do hợp lý; tài khoản của khách hàng không giao dịch, đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi hoặc chuyển tiền có giá trị lớn” theo Luật Phòng, chống rửa tiền vào quy trình báo cáo nội bộ. Nhưng cũng có nhiều NH- nhất là NH nhỏ- chưa cập nhật dấu hiệu này, mà chỉ áp dụng những dấu hiệu được liệt kê tại Nghị định 74 và thông tư 22. Do đó, báo cáo về giao dịch đáng ngờ vì vậy không theo tiêu chuẩn, chưa đáp ứng yêu cầu để theo dõi, phát hiện hành vi ''rửa tiền'' nếu có. Hệ quả để điều tra, xác minh giao dịch đáng ngờ tốn nhiều thời gian và công sức. Hiện nay dù số lượng các giao dịch đáng ngờ có liên quan đến ''rửa tiền'' lên tới con số 51.000 tỉ đồng, vẫn chưa có kỳ giao dịch nào được cơ quan điều tra kết luận là… ''rửa tiền''. Con số 51.000 tỉ đồng giao dịch đáng ngờ chỉ riêng trong năm 2012 vừa được cơ quan ngân hàng trung ương gửi lên Ban chỉ đạo Phòng, chống ''rửa tiền'' cũng là những con số cụ thể đầu tiên liên quan đến hoạt động này, được chính thức công bố cho đến thời điểm hiện nay. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 20 Cùng với 160 báo cáo giao dịch đáng ngờ có liên quan đến hoạt động ''rửa tiền'' được chuyển lên cơ quan công an xác minh, con số trên đây cho thấy quy mô của các giao dịch đáng ngờ có liên quan đến ''rửa tiền'' ngày càng tăng mạnh. Ngoài con số 160 báo cáo được đề cập ơ trên, Việt Nam cho tới nay vẫn chưa phát hiện một vụ ''rửa tiền'' cụ thể nào Bởi vào thời điểm tháng 7.2008, Trung tâm Thông tin phòng, chống ''rửa tiền'' (nay là Cục Phòng, chống ''rửa tiền'' - NHNN) sau 2 năm thành lập mới nhận được 20 báo cáo về các giao dịch đáng ngờ. Một thông tin đáng chú ý, theo Cục trưởng Cục Phòng, chống ''rửa tiền'' - ông Nguyễn Văn Ngọc - số lượng các giao dịch đáng ngờ nói trên chủ yếu thuộc lĩnh vực ngân hàng , trong khi chỉ có một vài giao dịch thuộc lĩnh vực chứng khoán và bất động sản. Con số ít ỏi ở lĩnh vực chứng khoán và bất động sản - theo người đứng đầu cơ quan phòng, chống ''rửa tiền'' - không đồng nghĩa với việc hai lĩnh vực này hoàn toàn “sạch”, mà có thể do nhân viên ở hai lĩnh vực này còn yếu năng lực thẩm định. Thực tế cho thấy, trong khi việc thu thập chứng cứ để kết tội giao dịch liên quan tới ''rửa tiền'' rất khó và đòi hỏi sự phối hợp của các bộ ngành, các báo cáo về giao dịch giá trị lớn hiện nay lại chủ yếu do các NH báo cáo lên NHNN, bao gồm cả các NH trong nước, chi nhánh NH nước ngoài và NH 100% vốn nước ngoài. “Do đó ở Việt Nam bây giờ, chưa thể đánh giá ''rửa tiền'' ở lĩnh vực nào nhiều” - ông Ngọc nói. Tại Việt Nam với bối cảnh nền kinh tế sử dụng tiền mặt nhiều, cơ hội cho tội phạm ''rửa tiền'' rất cao. Trước đây, ''rửa tiền'' thường được đánh giá liên quan đến hoạt động chuyển tiền qua biên giới, thì nay ''rửa tiền'' trong nước gia tăng gắn với hoạt động phạm pháp như buôn lậu, buôn bán ma túy, trốn thuế, đặc biệt là tham nhũng. Vì vậy để ngăn chặn hành vi ''rửa tiền'', NHNN cần phối hợp với các bộ, ngành nhanh chóng trình nghị định hướng dẫn Luật Phòng, chống ''rửa tiền'' để Chính phủ ban hành. Có vậy mới mong ngăn chặn loại tội phạm như Liberty Reserve trước khi chúng có điều kiện phát triển ở Việt Nam. 2.2.3 Đánh giá về hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam: Theo đánh giá của ông Ric Power, Việt Nam đã thực hiện nhiều bước tích cực để chống lại hoạt động rửa tiền và đã nhận được nhiều sự hỗ trợ kỹ thuật và trợ giúp xây dựng năng lực phòng chống rửa tiền từ các tổ chức quốc tế, các cơ quan hành pháp tiên tiến. Vì thế, Việt Nam đã có hướng tiếp cận tương đối tốt trong việc tăng cường sức mạnh cho hệ thống chống rửa tiền. Các nước đang phát triển thường thiếu năng lực đối phó với những vấn đề như rửa tiền, nhưng có nhiều ví dụ cho thấy hoạt động truy tố và xét xử diễn ra hiệu quả tại Việt Nam, xây dựng năng lực và huấn luyện GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 21 chống rửa tiền của Việt Nam cũng đang ở trong giai đoạn tích cực. Vấn đề phòng chống rửa tiền đã được Chính phủ Việt Nam quan tâm từ sớm, được thể hiện trong nhiều văn bản pháp lý của Việt Nam như điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 1999, điều 19 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997, Nghị định của Chính phủ về phòng chống rửa tiền năm 2005. Tuy nhiên, các quy định này chưa rõ ràng, nhiều quy định chưa được cụ thể hóa trong hoạt động của các cơ quan pháp luật nên chưa phát huy được năng lực và thẩm quyển của các cơ quan thi hành luật. Bên cạnh đó, theo bà Phạm Mai Phương, Cục Phòng chống rửa tiền cho biết: hoạt động phòng, chống “rửa tiền” tại Việt Nam vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Trong đó, Nghị định về phòng chống rửa tiền được Chính phủ đã quy định rõ các định chế tài chính phải báo cáo với Cục những giao dịch đáng ngờ và giao dịch bằng tiền mặt hoặc bằng ngoại tệ, vàng có tổng giá trị từ 200 triệu đồng trở lên, hay các giao dịch gửi tiết kiệm từ 500 triệu đồng trở lên. Hiện ở Việt Nam chưa xác định được trường hợp rửa tiền nào mà mới chỉ xác định được khoảng 20 giao dịch đáng ngờ, có dấu hiệu rửa tiền. Theo bà Phương, dù đến thời điểm này chưa có vụ việc nào bị kết luận là rửa tiền, song hoạt động này có khả năng diễn ra tinh vi và phức tạp hơn nhiều trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO. 2.2.4 Một số thách thức lớn đối với hoạt động phòng, chống rửa tiền: Theo nhận định của Cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc (UNODC), Việt Nam dễ bị tội phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt, cùng với hoạt động thương mại và đầu tư ngày càng gia tăng. Cơ quan này cảnh báo, nếu không có biện pháp nhanh và hiệu quả để đối phó với rửa tiền thì tội phạm và tham nhũng sẽ gia tăng, sự vận hành hợp pháp của lĩnh vực tài chính tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. - Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán là hai thị trường mà tốc độ phát triển của chúng rất khó dự đoán, dễ đi từ trạng thái phát triển nóng chuyển sang đóng băng. Có một luồng tiền rất lớn đã đổ vào thị trường này. Nhưng việc kiểm tra nguồn gốc của lượng tiền này không được quan tâm đúng mức. - Việt Nam chỉ mới hình thành khuôn khổ pháp lý về phòng chống rửa tiền, chưa tiếp cận được nhiều các công nghệ để chặn lọc các dữ liệu của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác nên việc kiểm tra thông tin khách hàng của các tổ chức tín dụng chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra, do tâm lý của các tổ chức tín dụng sợ mất khách hàng khi yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin, nguồn gốc khoản tiền giao dịch nên để triển khai hoạt động phòng chống rửa tiền của Việt Nam gặp nhiều khó khăn và mang tính hình thức. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 22 - Nền kinh tế Việt Nam với thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán đã gây khó khăn cho việc quản lý nguồn tiền lưu thông và tạo điều kiện cho tội phạm rửa tiền dễ dàng hơn. Theo các cơ quan, nguồn gốc chính của các khoản tiền bất hợp pháp tại Việt Nam chủ yếu là từ các nguồn sau: + Lừa đảo liên quan đến bất động sản: Các hoạt động lừa đảo liên quan đến tài sản, trên cơ sở số liệu thống kê tội phạm tiền thân là nguồn tiền bất hợp pháp khá lớn. Các phương thức phổ biến mà bọn tội phạm sử dụng bao gồm: Giả mạo chứng từ về quyền sử dụng nhà, sử dụng đất thế chấp đối với các khoản vay ngân hàng; các lời mời chào dự án đầu tư bất động sản giả mạo và các hồ sơ xin vay vốn sử dụng chữ ký giả của nhân viên ngân hàng; sử dụng chứng minh thư của người khác để lừa đảo vay vốn; người nước ngoài sử dụng chứng minh thư giả hoặc chứng minh thư lấy cắp để lừa đảo lập quỹ và sau đó bỏ trốn cùng với các quỹ này, nhân viên ngân hàng không đưa vào quỹ tiền mặt đã trả của khách hàng vay; sự thông đồng giữa các nhân viên ngân hàng tại các ngân hàng khác nhau trong việc sửa đổi chứng từ nhằm đánh lừa ngân hàng của họ... + Buôn bán ma túy: Việt Nam là điểm chu chuyển quan trọng trong đường dây buôn bán ma túy, chủ yếu là heroin và opium, chất kích thích ATS và ma túy làm từ gai dầu tại khu vực Đông Nam Á và từ đó, một khối lượng lớn được chuyển bằng tàu tới Bắc Mỹ và Châu Âu. Nhiều loại ATS khác nhau được sản xuất ở Campuchia, Trung Quốc, Lào, Miến Điện và Thái Lan cũng được chuyển lậu vào Việt Nam để tiêu thụ trong nước. Có một thị trường đen khá lớn dành cho các sản phẩm dược về tâm thần và điều này chính là môi trường nuôi dưỡng thị trường thuốc phiện bất hợp pháp trong nước. + Đánh bạc: Chơi cờ bạc là một hoạt động bất hợp pháp tại Việt Nam, trừ hoạt động trong một số ít sòng bạc quy mô nhỏ được cấp phép hoặc trò chơi điện tử dành cho người nước ngoài. Tuy nhiên, hoạt động chơi bạc bất hợp pháp vẫn xảy ra thường xuyên đối với dân cư trong nước. Đánh bạc thể thao bất hợp pháp tại Việt Nam khá phổ biến. Chính phủ đang xem xét ban hành một khuôn khổ pháp lý cho những hoạt động này và cấp phép cho các tổ chức dưới sự quản lý của Nhà nước nhằm thiết kế và tạo ra các sản phảm hấp dẫn đối với những người đặt cược. + Buôn bán ma túy và trẻ em : Theo báo cáo về buôn bán người của Bộ ngoại giao Mỹ, Việt Nam là nguồn gốc đầu tiên của những phụ nữ và trẻ em bị mua, bán cho các mục đích kinh doanh thân thể và bóc lột sức lao động, Điểm đến cuối cùng là những nước như Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Hàn Quốc. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 23 2.2.5 Một số vấn đề tồn tại trong hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam: - Vấn đề chống rửa tiền là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp với nhiều quy trình và cách thức, biện pháp đặc biệt. Bên cạnh đó, lĩnh vực này vẫn được coi là khá mới với các khái niệm, thuật ngữ chưa được phổ biến trong đại bộ phận dân chúng, thậm chí là các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Điều này không loại trừ Ban lãnh đạo của một số tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn nhận thức về công tác phòng, chống rửa tiền có những hạn chế nhất định. - Hệ thống công nghệ thông tin của phần lớn các tổ chức tín dụng chưa đáp ứng, hỗ trợ cho công tác phòng, chống rửa tiền. Việc rà soát khách hàng của nhiều tổ chức tín dụng còn thủ công, chưa tự động hóa. Yếu tố cạnh tranh và sợ mất khách hàng dẫn đến sự chưa tích cực của một số tổ chức tín dụng trong vấn đề triển khai các quy định về phòng, chống rửa tiền. - Các khái niệm, phương thức đưa ra và phạm vi triển khai thực hiện vấn đề rửa tiền vẫn còn bó hẹp và chưa được chuẩn hóa so với chuẩn mực quốc tế như các khái niệm về rửa tiền, tài sản, về đối tượng phải thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền, mức giá trị giao dịch phải báo cáo vẫn chưa hợp lý, về cập nhật thông tin khách hàng giao dịch...Điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư và cả lĩnh vực chính trị, ngoại giao. 2.3 Bài học kinh nghiệm: Hiện tại, ở các nước trên thế giới, đặc biệt là Việt Nam rất dễ bị tội phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt, cùng với hoạt động thương mại và đầu tư ngày càng gia tăng. Cơ quan này cảnh báo, nếu không có biện pháp nhanh và hiệu quả để đối phó với rửa tiền thì tội phạm và tham nhũng sẽ gia tăng, sự vận hành hợp pháp của lĩnh vực tài chính tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Theo bà Susan.J.Adams, cựu Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam, các quốc gia cần luôn cảnh giác với các dòng tài chính phi pháp này, bởi lẽ, nếu để chúng chảy vào, sớm muộn gì nền kinh tế và hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia cũng sẽ bị ảnh hưởng xấu. Ngoài ra, nó còn làm mất uy tín của quốc gia và do đó làm giảm đi những cơ hội tăng trưởng từ nguồn đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư không còn thấy cơ hội để đầu tư vào quốc gia đó nữa. Từ thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền trên thế giới và ở Việt Nam ta thấy rằng: để hoạt động phòng, chống rửa tiền ngày càng hiệu quả hơn thì phải tiến hành rất nhiều bước nhưng quan trọng nhất là nhà nước Việt Nam phải nhanh chống hoàn thiện và chuẩn hóa khung pháp lý hay các điều luật về phòng, chống rửa tiền cho phù hợp với điều kiện hiện nay và thông lệ quốc tế. Tiếp theo, Nhà nước ta cần nhanh GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 24 chóng phổ biến cụ thể các văn bản thực hiện để có thể ngăn chặn kịp thời vấn nạn “rửa tiền” đang ngày càng tinh vi hiện nay. Kết luận chung: Tội phạm rửa tiền có mặt hầu hết các nước trên thế giới với hành vi rửa tiền ngày càng tinh vi. Hiện nay các quốc gia đang có nhiều nỗ lực trong chống rửa tiền với hệ thống pháp luật và các biện pháp kiểm soát hành vi rửa tiền ngày càng phát huy hiệu quả. Mỹ là quốc gia đạt được khá nhiều thành tựu trong chống rửa tiền. Các quốc gia trong đó có Việt Nam cần có những vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của Mỹ đề giành thắng lợi trong cuộc chiến chống rửa tiền. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 25 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM 3.1 Định hướng phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam và các nước trên thế giới: Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã và đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường, chiến lược phát triển của ngành ngân hàng cũng nhất định phải đi theo một định hướng chung của nền kinh tế. Điều này đưa đến nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức cho ngành ngân hàng Việt Nam. Trong đó, vấn nạn rửa tiền cũng là một thách thức ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Trong buổi hội thảo “Thách thức và hướng tiếp cận giải pháp phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam” diễn ra ngày 18/6, bà Trần Thị Hồng Hạnh, Tổng thư ký hiệp hội ngân hàng Việt Nam cho rằng trước vấn nạn rửa tiền xuyên quốc gia ngày càng tinh vi, phòng và chống rửa tiền trở nên cấp bách. Đồng thời đó là mối quan tâm hàng đầu của lãnh đạo ban ngành tại Việt Nam. Đấu tranh phòng chống nạn rửa tiền không chỉ làm giảm đi những vụ tội phạm về tài chính mà nó còn giúp loại bỏ bớt nạn khủng bố và những loại hình tội phạm khác. Để chống lại nạn rửa tiền một cách có hiệu quả một quốc gia cần phải có những điều kiện cần phải thực hiện theo tinh thần 40 khuyến nghị của lực lượng tài chính đặc nhiệm về chống rửa tiền (FATF): Một là, các quan chức chính phủ cần phải đảm bảo rằng họ có một hệ thống luật, tài chính cần thiết và cơ sở pháp lý thực thi để chống lại nạn rửa tiền. Hai là, cần có sự tham gia của các lãnh đạo trong khu vực kinh doanh tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, để cùng hỗ trợ các ý tưởng của chính phủ chống lại tội phạm tài chính và nạn rửa tiền. Ba là, các nước cần tham gia tích cực vào các diễn đàn quốc tế và khu vực để không ngừng nâng cao hiểu biết của mình và củng cố hợp tác với các nước đối tác khác để chống lại nạn rửa tiền. Bốn là, thông qua các thỏa thuận hợp tác, các nước cần chia sẻ kịp thời các thông tin quan trong liên quan đến nạn rửa tiền và các tội phạm tài chính. Dù cho hoạt động rửa tiền có biến đổi tinh vi dưới hình thức nào đi chăng nữa thì ngân hàng vẫn là nơi ưu tiên được chọn để tiến hành rửa tiền. Do đó, để chống lại nạn rửa tiền trước hết cần phải có những giải pháp thiết thực để chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng và về lâu dài hơn nữa đó là những giải pháp phòng ngừa nhằm ngăn chặn ngay từ đầu sự phát sinh các nguồn tiền bất hợp pháp. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 26 3.2 Giải pháp phòng chống rửa tiền: 3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước: 3.2.1.1 Tăng cường thực thi và hoàn thiện dần luật phòng, chống rửa tiền: Các văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống rửa tiền của nước ta hiện đang được xây dựng theo kinh nghiệm và luật pháp quốc tế, tuy nhiên, những chuyển động của dòng tiền tại Việt Nam có những đặc thù khác, nên chăng các cơ quan chức năng nghiên cứu đặc thù của nền kinh tế, luật pháp, các tập quán giao dịch của tổ chức và người dân nhằm “Việt Nam hóa” cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao hơn. Nhà nước cần phải có những chính sách rõ ràng, nhất quán trong hoạt động phòng, chống rửa tiền; thiết lập một cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn để đảm bảo sự thống nhất trong việc thực thi các biện pháp phòng chống nạn rửa tiền. Trong đó, Ngân hàng nhà nước là cơ quan đầu mối về chính sách và chiến lược chống rửa tiền, đàm phán và thực hiện các điều ước quốc tế nhằm trao đổi thông tin, kiểm tra sự tuân thủ quy định đã đặt ra. Bộ công an là cơ quan đầu mối về ngăn chăn rửa tiền và các vấn đề vi phạm, điều tra hoạt động rửa tiền và thông báo kết quả, cung cấp thông tin cho các cơ quan và công chúng. 3.2.1.2 Gia tăng việc thực thi chính sách thanh toán không dùng tiền mặt: Trong điều kiện hiện nay ở nước ta được coi là nền kinh tế tiền mặt, nhiều giao dịch với giá trị thanh toán rất lớn cũng được thực hiện bằng tiền mặt như: Thanh toán giữa các cá nhân với nhau; gửi, rút tiền, giao dịch chuyển tiền, thanh toán giữa các tổ chức, kể cả các khoản cho vay lớn; tại các định chế tài chính; các giao dịch bất động sản đều diễn ra ở các trung tâm môi giới nhà đất không đăng ký, việc mua bán vàng bạc đá quý diễn ra ở thị trường tự do; cá nhân tham gia đấu thầu quyền sử dụng đất với các ban quản lý dự án các quận, huyện… Số lượng giao dịch và gửi tiết kiệm trên mức quy định theo Nghị định trong cả nước diễn ra hàng ngày là rất lớn, chưa nói tới việc các tổ chức không có đăng ký chính thức, cá nhân có giao dịch với số tiền lớn (thế giới ngầm) vì lợi ích riêng, không cung cấp thông tin cho Cục Phòng chống rửa tiền. Chính vì vậy việc tăng cường thực thi chính sách không dùng tiền mặt sẽ góp phần hàn chế được vấn nạn rửa tiền. Chính phủ cần đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công, thực hiện việc trả lương, phúc lợi,…qua tài khoản ngân hàng. Ngoài ra, nhà nước cần hỗ trợ trong đầu tư cho hệ thống ngân hàng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, cần có chính sách cụ thể và dự án đầu tư để liên kết các ngân hàng thống nhất phát triển các phương tiện thanh toán. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 27 3.2.1.3 Thành lập cơ quan phòng chống rửa tiền trực thuộc chính phủ: Hoạt động rửa tiền hiện nay không chỉ xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng mà nó còn len lõi vào từng lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Việc giao phó việc giải quyết vấn đề phòng chống rửa tiền cho Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền trực thuộc Ngân hàng sẽ thiếu tính bao quát và khách quan. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới có Luật chống rửa tiền đều thành lập tổ chức có chức năng tương tư như Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền ở Việ.t Nam. Đó là cơ quan tình báo tài chính và cơ quan này trực thuộc chính phủ nhằm thay mặt cho mỗi quốc gia xử lý các thông tin hay tội phạm về rửa tiền. Có như vậy thì việc trấn áp nạn rửa tiền sẽ độc lập và khách quan hơn. Hơn nữa, trong quá trình hợp tác quốc tế Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền trực thuộc Ngân hàng nhà nước sẽ không thể là cơ quan đại diện cho quốc gia vì nó không ngang tầm với các cơ quan tình báo tài chính các nước. Do vậy, cần phải có bước chuyển đổi nâng tầm Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền thành cơ quan chuyên trách về hoạt động phòng và chống rửa tiền. 3.2.1.4 Tăng cường Phòng, chống tham nhũng và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm: Tham nhũng là một trong những nguyên nhân gây ra nạn rửa tiền. Và vần đề phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam vẫn chưa được diễn ra một cách triệt để vì nó liên quan đến nhiều người ở nhiều vị trí cấp cao, dường như trở thành hệ thống. Để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả hơn thì cần phải chú trọng công tác giáo dục con người. Bên cạnh đó, nhà nước cần tăng cường tuyên truyền giáo dục cho người dân nhận diện được các hành vi tham nhũng, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Ngoài ra còn phải công khai, minh bạch trong các hoạt động của cơ quan nhà nước, đề ra một số biện pháp tránh xung đột lợi ích riêng và chung. Cụ thể, xây dựng và thực hiện quy chế tuyển dụng, đề bạt cán bộ một cách công bằng và dân chủ, quy định rõ ràng về việc kê khai tài sản của công chức. Hơn nữa, công chức phải được hưởng một chế độ đãi ngộ thõa đáng, hợp lý để họ yên tâm làm việc mà không phải lo lắng đến nhu cầu cuộc sống để hạn chế vấn đề tham nhũng. 3.2.1.5 Chủ trương nhanh chóng gia nhập tổ chức FATF: Để có thể gia nhập được FATF thì Việt Nam cần phải tuân thủ một số quy định của FATF với tư cách là một thành viên của tổ chức. Tổ chức này có một hệ thống các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền mà các thành viên đều phải tuân thủ. Cụ thể, một số vấn đề chính mà Việt Nam cần phải tuân thủ bao gồm: GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 28 Trong hệ thống luật pháp phải liệt kê được các hành vi rửa tiền và ít nhất phải bao quát được 20 hành vi phạm pháp có liên quan được đề cập trong điều luật của FATF Các hành vi phạm tội này phải được liệt kê rõ ràng với 20 tội danh. Thực hiện kê khai tài sản cán bộ công chức nhà nước ở cương vị lãnh đạo một cách triệt để, thực hiện những biện pháp chuyên môn để xác định nguồn gốc và những tài sản của họ một cách rõ ràng hơn. Các định chế tài chính phải xây dựng được những quy trình quản lý rủi ro thích hợp nhằm lưu trữ và phát hiện những giao dịch đáng ngờ, tuân thủ chuẩn mực quốc tế về quản trị ngân hàng và các định chế tài chính như là thỏa ước Basel về vốn tự có để hoạt động ngân hàng trở nên lành mạnh hơn. 3.2.2 Giải pháp từ phía ngân hàng nhà nước (NHNN): Đối với vấn đề tự do hóa chu chuyển vốn quốc tế thì NHNN nên công khai các ngân hàng đủ tiêu chuẩn để thực hiện giao dịch trên tài khoản vãng lai. Đối với những cá nhân và doanh nghiệp được tự do vay, cho vay, đầu tư và trả nợ nước ngoài cũng tiềm ẩn rủi ro về rửa tiền. để chống lại rửa tiền cần yêu cầu tất cả vốn đầu tư, lợi nhuận nhất thiết phải được thông qua tài khoản ngoại tệ mở tại NHTM trong nước được NHNN chỉ định. Bên cạnh đó, NHNN cần có giải pháp chống lại hiện tượng đô la hóa. Cụ thể, NHNN có thể giảm tỷ lệ đồng đô la trong dự trữ ngoại hối và thay bằng đồng tiền khác mạnh hơn (ví dụ: Euro, Bảng Anh) với một mức hợp lý. Đồng thời, việc giữ ổn định một mức tỷ giá và lãi suất sẽ làm cho người dân ít lo sợ sự mất giá của đồng tiền mà chuyển sang nắm giữ đồng tiền khác. NHNN phải tăng cường kiểm soát các luồng ngoại tệ của các cá nhân và doanh nghiệp thông qua các giao dịch của họ với ngân hàng. Ngoài ra, NHNN phải có các biện pháp can thiệp như khống chế các trạng thái giao dịch trên các sản phẩm phái sinh trong mỗi lần giao dịch không được vượt quá mức quy định. Quy định này nhằm hạn chế phần nào khả năng các tội phạm rửa tiền sẽ đặt lệnh với bất cứ giá nào và gây ra thiệt hại cho nền kinh tế khi giao dịch được thành công. Hơn nữa, NHNN cần có giải pháp phát huy tối đa hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC). NHNN phải quy định bắt buộc đối với tất cả các tổ chức tín dụng phải tham gia trong việc cung cấp, cập nhật thông tin, số liệu khách hàng và việc sử dụng thông tin tín dụng trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong công tác xét duyệt cấp tín dụng. Song song đó, phải tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại hơn để có thể dần hoàn thiện hệ thống CIC. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 29 Tiến xa hơn trong các giải pháp phòng, chống rửa tiền và các giải pháp phòng, chống rửa tiền điện tử. Việc tuân thủ nghiêm ngặt các điều luật cũng góp phần quan trọng trong cuộc chiến phòng, chống rửa tiền đặc biệt là tiền điện tử sẽ phát triển mạnh trong thời gian sắp tới ở Việt Nam. 3.2.3 Giải pháp từ phía các ngân hàng thương mại: 3.2.3.1 Tăng cường quản trị con người: Trong thực tế không chỉ riêng lĩnh vực ngân hàng mà các lĩnh vực khá, yếu tố con người luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong sự phát triển và là luôn là yếu tố then chốt. Dù quy trình có chặt chẽ đến đâu nhưng con người không nắm vững hoặc cố tình vi phạm thì sẽ gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Do đó quản trị con người trong phòng, chống nạn rửa tiền là một vấn đề cần phải được quan tâm hàng đầu. Trước hết, các ngân hàng thương mại cần quản trị ngay khâu tuyển chọn nhân viên, căn cứ trên chuyên môn, đạo đức, kinh nghiệm và khả năng phát triển của họ. Bên cạnh đó, đội ngũ này phải không ngừng được đào tạo, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Trong đó, chú trọng giáo dục về đạo đức nghề nghiệp, gia tăng nhiệt huyết với nghề, tránh sự cám dỗ của đồng tiền để gia tăng chất lượng nguồn nhân lực. Từng ngân hàng phải có chế độ đãi ngộ, khen thưởng nhân viên và xử lý vi phạm một cách hợp lý để họ tận tâm cống hiến cho ngành và đóng góp vào sự phát triển của ngân hàng 3.2.3.2 Đẩy mạnh việc quản trị rủi ro tại các NHTM: Các ngân hàng thương mại phải không ngừng nâng cao năng lực quản trị rủi ro của mình để có thể vững vàng đương đầu với vấn nạn rửa tiền đang ngày càng tinh vi nhưng hiện nay. Cụ thể một số vấn đề cơ bản mà ngân hàng cần phải thực hiện: Nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng, xử lý dứt điểm nợ xấu còn tồn đọng nhằm lành mạnh hóa tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh. Hoàn thiện khung pháp lý, quy trình nghiệp vụ cụ thể nhưng phải tuân theo quy định của Nhà nước và NHNN. Bên cạnh đó, các ngân hàng phải tập huấn liên tục phổ biến kiến thức mới cho nhân viên hệ thống ngân hàng. Tăng cường thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ trong ngân hàng. Hình thành bộ phận bao gồm các chuyên gia trong và ngoài nước chuyên nghiên cứu và phân tích những thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế, từ đó đưa ra những đánh giá tổng quan về nền kinh tế, xu hướng phát triển giúp ngân hàng kịp thời điều chỉnh, xây dựng chính sách và định hướng chiến lược phù hợp. Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến để theo kịp diễn biến của thời đại. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 30 3.2.3.3 Hạn chế việc cấp tín dụng bằng tiền mặt: Hiện nay, phần lớn khách hàng thường thích giải ngân bằng tiền mặt khi vay vốn bởi nó dễ sử dụng và tránh được việc kiểm soát của ngân hàng. Chính vì vậy, việc giải ngân bằng tiền mặt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nạn rửa tiền bởi nó dễ dàng tiêu xài, ẩn danh mà các cơ quan chức năng khó kiểm soát. Bởi việc giải ngân bằng tiền mặt sẽ góp phần làm gia tăng lượng tiền mặt trong nền kinh tế. Việc hạn chế cấp tín dụng bằng tiền mặt cho khách hàng là một điều các Ngân hàng thương mại cần phải quan tâm và hoàn toàn có khả năng thực hiện được. Cụ thể, cần chấp hành một cách nghiêm túc quy định của NHNN trong hạn chế thanh toán không dùng tiền mặt như trả lương, thu phí,…, giải ngân thanh toán bằng chuyển khoản có đầy đủ chứng từ hợp lệ,… 3.2.3.4 Thành lập một bộ phận có chuyên môn trong việc phân tích thông tin khách hàng: Để ngân hàng có thể nhận diện và hạn chế vấn nạn rửa tiền một cách nhanh chóng thì việc thành lập một bộ phận chuyên trách về thu thập, phân tích thông tin khách hàng là vô cùng cần thiết. Bộ phận giao dịch trực tiếp phải thu thập, nhập liệu và cập nhật thông tin khách hàng một cách nhanh chóng khi có sự thay đổi. Sau đó, bộ phận chuyên trách sẽ tiếp tục kiểm soát tính tuân thủ của quy trình để đảm bảo chất lượng thông tin, phân loại đối tượng khách hàng có giao dịch vượt hạn mức. Thông qua các thông tin tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau, bộ phận chuyên trách sẽ phân tích, đánh giá và nhận diện những đối tượng có nguy cơ rửa tiền và đưa ra các biện pháp thích hợp hỗ trợ cho các bộ phân giao dịch, bộ phận tín dụng ngăn chặn hành vi rửa tiền qua ngân hàng. Bên cạnh đó, bộ phận này cũng có trách nhiệm đào tạo và cập nhật thông tin, kỹ năng và kinh nghiệm cho các nhân viên ngân hàng về việc phòng, chống vấn nạn rửa tiền. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Các giải pháp được nêu ra trên đây được trình bày theo phạm vi và chức năng của các cơ quan Nhà nước, NHNN, NHTM. Hoạt động phòng, chống rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng chỉ là một phần trong hoạt động phòng, chống rửa tiền trong cả nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Các giải pháp về phòng chống rửa tiền muốn phát huy được hiệu quả một cách tốt nhất thì cần phải có sự hỗ trợ và phối hợp giữa các ban ngành, các cấp với nhau cùng thực hiện. Dù cho trong ngắn hạn hay dài hạn thì yếu tố con người luôn được đặt lên hàng đầu và việc tạo ra môi trường kinh tế, xã hội “sạch” phải luôn được đi song song với nhau. GVHD: PGS.TS Trương Thị Hồng Nhóm 3.2 – Lớp K22 NH Đêm 1 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí ngân hàng. 2. Thời báo ngân hàng. 3. Giải pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam – Nguyễn Thị Tố Nga. 4. Website: 5. Website: ửa_tiền 6. Website Vietinbank: 7. Website Báo Lao Động: 8. Website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfrua_tien_nhom_3_2_nhqt_2899.pdf
Luận văn liên quan