Tiểu luận San hô trên Biển Đông

Ở cấp độ khu vực, ô nhiễm và rác biển trong vùng Biển Đông và hoạt động đánh bắt trái phép, bừa bãi và lén lút cả ở trong và ngoài vùng biển của Việt Nam đều đe dọa tới các rạn san hô. Ở cấp độ toàn cầu, sự biến đổi khí hậu đã làm gia tăng sự axit hóa đại dương, sự mất canxi của các vùng rạn, tăng nhiệt độ không khí và đại dương, dâng cao mực nước biển và làm biển đổi thời tiết và các quy luật bão. Các vùng rạn của Việt Nam đã có hiện tượng tẩy trắng san hô nghiêm trọng. Sự phát triển tràn lan của các sinh vật xâm lấn và gây bệnh cũng làm tăng các mối đe dọa. Những mối đe dọa đang gia tăng này không thể chỉ giải quyết một cách cục bộ mà cần sự phối hợp, có chiến lược và sự ủng hộ ở các cấp từ địa phương tới toàn cầu.

pdf21 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5316 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận San hô trên Biển Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG…………………….  TIỂU LUẬN San hô trên Biển Đông 2 I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Các bãi san hô là lớp bảo vệ vùng biển, cung cấp protein, các chất có thể chế tạo dược phẩm, thuốc men, quan trọng hơn là đóng góp cho ngành du lịch. Khoảng 1/3 tất cả các chủng loại sống ở đại dương có liên hệ tới san hô. Những mối đe doạ chính là đánh bắt huỷ diệt (dùng chất độc, thuốc nổ, xung điện), đánh bắt quá mức, ô nhiễm từ đất liền ... Các rạn san hô bị suy thoái và huỷ diệt kéo theo sự suy giảm đa dạng sinh học cũng như nguồn lợi hải sản do nhiều loài cá không còn bãi đẻ. Cũng theo WRI, ước tính Việt Nam có khoảng 1.122km2 rạn san hô và khoảng 300 loài san hô. Tuy nhiên, chỉ 1% rạn san hô có thể được phân loại là ở trong tình trạng tốt. Các vấn đề tổng quan bao gồm phân bố rạn san hô, hình thái và cấu trúc, phân vùng đa dạng sinh học, hiện trạng khai thác, sử dụng và những mối đe dọa đối với hệ sinh thái rạn san hô, hiện trạng bảo tồn thiên nhiên rạn san hô. Với những lợi ích mà san hô mang lại cho con người, hiện trạng các rạn san hô hiện nay đang đứng rất nhiều vấn đề: khai thác sao cho hợp lý, phát triển nó theo đúng tiềm năng sẵn có, bảo vệ và giữ gìn các rạn san hô. Với những lý do trên việc chọn đề tài “san hô trên Biển Đông” có ý nghĩa thiết thực, góp phần nhỏ vào chiến lược bảo vệ và phát triển hợp lý san hô trên biển Đông. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài. 2.1. Mục đích - Đưa ra được những nét khái quát, những kiến thức sơ lược cơ bản về san hô trên biển Đông. - Nêu ra được thực trạng san hô trên biển Đông hiện nay. 3 - Kiến nghị một số giải pháp bảo vệ và phát triển bền vững các rạn san hô trên biển Đông. 2.2. Nhiệm vụ - Xác định phương pháp luận nghiên cứu và tổng quan khu vực nghiên cứu về san hô mà cụ thể ở đây là Biển Đông - Thu thập, xử lý, phân tích tài liệu, so sánh có lựa chọn để làm rõ hiện trạng khai thác và sử dụng san hô biển Đông hiện nay. - Đề xuất kiến nghị một số giải pháp bảo vệ và phát triển các rạn san hô hiện nay. 3. Giới hạn của đề tài. - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: san hô trên Biển Đông - Giới hạn nghiên cứu của đề tài: + Giới hạn nội dung: bước đầu đưa ra những hiểu biết về san hô, phân tích thực trạng của các rạn san hô hiện nay. Từ đó đưa ra những nhận định khái quát bước đầu về xu thế phát triển san hô trên vùng Biển Đông. + Giới hạn không gian: toàn bộ khu vực biển Đông II.NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ BIỂN ĐÔNG. Biển Đông là một biển lớn, lớn thứ nhất trong các biển thuộc khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 2 trên thế giới, sau Biển San Hô ở phía đông nước Australia. Biển Đông có diện tích lớn lại nằm ở vị trí địa lý đặc biệt nên nó đã trở thành nguồn tài nguyên rất quan trọng đối với các nước trong khu vực được hưởng những lợi ích từ biển.Đó là một điều kiện vô cùng quan trọng và thuận lợi để phát triển một nền kinh tế biển phong phú và đa dạng, từ việc đánh bắt đến nuôi trồng và chế biến hải sản, khai thác dược liệu và khoáng sản đồng thời cũng phù hợp cho việc phát triển du lịch và nghỉ mát nội địa cũng như quốc tế. 4 Tuy là một biển nhiệt đới mang tính chất nóng và mặn nhưng biển Đông vẫn có một nguồn sinh vật rất phong phú và đa dạng chẳng khác những phần lưu vực trên cạn. Nguồn sinh vật biển Đông có một đa dạng sinh học điển hình trên thế giới với rất nhiều các loại sinh vật phù du, rong, động vật đáy, cá, bò sát, có vú, chim, cây nước mặn, cỏ biển, san hô. Đặc biệt san hô đã xác định được khoảng 350 loài trong đó có rất nhiều giống loài: giống acropara: 47 loài; giống monipora có 31 loài; song nhiều giống chỉ có 1 loài: cynaria leptoria, diaseris, stylophora. Đây là một loài sinh vật biển có giá trị rất cao trong khu vực Biển Đông. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Khái niệm san hô San hô là các động vật biển thuộc ngành ruột khoang, lớp san hô (Anthozoa),dài từ 2 milimet cho đến vài centimet, tồn tại dưới dạng các thể polip nhỏ giống hải quỳ, thường sống thành các quần thể gồm nhiều cá thể giống hệt nhau. Các cá thể này tiết ra cacbonnat canxi để tạo bộ xương cứng, xây nên các rạn san hô tại các vùng biển nhiệt đới. San hô sống trong biển nông, ở độ sâu khoảng 30m, có thể sinh sống ở những vùng biển lạnh nhưng sinh trưởng nhanh ở những vùng nước biển ấm có dòng nước chảy nhanh, nhiệt độ cao và trong sạch. các rạn san hô được tạo dựng từ các bộ xương san hô và được gắn với nhau bởi các lớp Các loài san hô phụ thuộc vào tảo vàng đơn bào và tạo rạn (san hô đá) thường được tìm thấy tại các rạn san hô - các cấu trúc lớn bằng cacbonat canxi tại các vùng biển nhiệt đới nôngcacbonat canxi do tảo coralline (họCorallinaceae) tiết ra. Rạn san hô là các hệ sinh thái biển cực 5 kỳ đa dạng, là nơi sinh sống của hơn 4.000 loài cá, vô số loài thích ti (Cnidaria), thân mềm, giáp xác và nhiều động vật khác 2. Phân loại và cách kiếm ăn. 2.a) phân loại: San hô nằm trong lớp Anthozoa và được chia thành hai phân lớp, tùy theo số xúc tu (tua cảm) hoặc những đường đối xứng, và một loạt các bộ tương ứng với kiểu xương ngoài, loại tế bào châm và phân tích di truyền ti thể. Gồm có san hô 8 xúc tu và san hô hơn 8 xúc tu. - Phân lớp san hô với 8 xúc tu được gọi là san hô tám ngăn(Octocorallia) hay san hô mềm (Alcyonaria) và bao gồm các bộ san mềm (Alcyonacea), san hô sừng (Gorgonacea) và san hô lông chim (Pennatulacea). - Những loài có nhiều số xúc tu lớn hơn 8 và là bội của 6 được gọi là san hô sáu ngăn (Hexacorallia) hay san hô tổ ong (Zoantharia). Nhóm này bao gồm các loài san hô đá (san hô tạo rạn) (Scleractinia), san hô tổ ong (Zoanthidea) và hải quỳ. 2.b) Cách kiếm ăn: Tuy san hô có thể dùng các tế bào châm (nematocyst) tiết chất độc tại các xúc tu để bắt phù du, loại động vật này thu nhận phần lớn dưỡng chất từ loại tảo đơn bào cộng sinh có tên tảo vàng đơn bào (zooxanthella). Do đó, hầu hết san hô phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời và phát triển ở các vùng nước trong và nông, thường ở độ sâu không tới 60 m (200 ft). Xung quanh miệng có các xúc tu (người xưa gọi là hoa) chứa các tế bào châm (thích ty bào) nhằm bắt giữ các sinh vật nhỏ bé trong môi trường khi 6 chúng đến gần và tiếp xúc các xúc tu. Những sinh vật nổi đó là những rong biển rất nhỏ sống một cách cộng sinh với san hô: san hô cung cấp cho rong những muối khoáng lọc từ nước biển, rong nẩy nở nhờ quang hợp và trở thành thực phẩm cho san hô. 3. Lịch sử Mặc dù san hô xuất hiện lần đầu tiên vào kỷ Cambri cỡ 542 triệu năm trước (Ma), nhưng các hóa thạch là cực hiếm cho tới tận kỷ Ordovic, khoảng 100 triệu năm muộn hơn, khi các bộ san hô bốn tia(Rugosa) và san hô vách đáy (Tabulata) trở nên phổ biến. San hô vách đáy xuất hiện trong các lớp đá vôi và đá phiến sét chứa canxi thuộc các kỷ Ordovic và Silur, và thông thường tạo thành các lớp đệm thấp hoặc các khối tạo nhánh kề bên san hô bốn tia. Số lượng của chúng bắt đầu suy giảm trong giai đoạn giữa kỷ Silur và cuối cùng chúng tuyệt chủng vào cuối kỷ Permi, khoảng 250 Ma. Các bộ xương của san hô vách đáy được tạo thành từ một dạng khoáng hóa của cacbonat canxi gọi là canxit. San hô bốn tia trở thành nhóm thống lĩnh vào giữa kỷ Silur, và bị tuyệt chủng vào đầu kỷ Trias. San hô bốn tia tồn tại dưới dạng đơn độc và quần thể, và giống như san hô vách đáy, bộ xương của chúng cũng được tạo thành từ từ canxit. San hô đá (Scleractinia) lấp đầy các hốc sinh thái bị bỏ trống do sự tuyệt chủng của san hô bốn tia và san hô vách đáy. Các hóa thạch của chúng có thể được tìm thấy với số lượng nhỏ trong các lớp đá từ kỷ Trias, và trở thành tương đối phổ biến trong các lớp đá từ kỷ Jura và các kỷ muộn hơn. Các bộ xương của san hô đá được tạo thành từ một dạng của cacbonat canxi gọi là aragonit. Mặc dù về mặt địa chất chúng là trẻ hơn so với san hô vách 7 đáy và san hô bốn tia, nhưng bộ xương từ aragonit của chúng lại khó bảo tồn hơn và vì thế hồ sơ hóa thạch của chúng là ít hoàn hảo hơn. Ở một giai đoạn nhất định trong quá khứ địa chất, san hô đã từng rất phổ biến, cũng như san hô hiện đại trong các vùng nước trong và ấm khu vực nhiệt đới tại một số nơi nhất định của thế giới ngày nay. Giống như san hô hiện đại, các tổ tiên của chúng cũng tạo rạn đá ngầm, một số trong chúng hiện nay là các cấu trúc lớn trong các loại đá trầm tích. Các ám tiều (rạn đá ngầm) cổ đại này không được tạo thành chỉ hoàn toàn bằng san hô. Tảo, hải miên và các dấu tích còn lại của nhiều loài động vật da gai, động vật tay cuộn, động vật hai mảnh vỏ, động vật chân bụng và bọ ba thùy đã từng sinh sống trên các ám tiều này được bảo tồn trong chúng. Điều này làm cho một số san hô là các hóa thạch chỉ mục hữu ích, giúp cho các nhà địa chất có thể xác định niên đại của các lớp đá mà trong đó chúng được tìm thấy. 4. Cấu tạo. Tuy một đầu san hô trông như một cơ thể sống, nhưng nó thực ra là đầu của nhiều cá thể giống nhau hoàn toàn về di truyền, đó là các polip. Các polip là các sinh vật đa bào với nguồn thức ăn là nhiều loại sinh vật nhỏ hơn, từ sinh vật phù du tới các loài cá nhỏ. Polip thường có đường kính một vài milimet, cấu tạo bởi một lớp biểu mô bên ngoài và một lớp mô bên trong giống như sứa được gọi là ngoại chất. Polip có hình dạng đối xứng trục với các xúc tu mọc quanh một cái miệng ở giữa - cửa duy nhất tới xoang vị (hay dạ dày), cả thức ăn và bã thải đều đi qua cái miệng này. Dạ dài đóng kín tại đáy polip, nơi biểu mô tạo một bộ xương ngoài được gọi là đĩa nền. Bộ xương này được hình thành bởi một vành hình 8 khuyên chứa canxi ngày càng dầy thêm (xem ở dưới). Các cấu trúc này phát triển theo chiều thẳng đứng và thành một dạng ống từ đáy polip, cho phép nó co vào trong bộ xương ngoài khi cần trú ẩn. Polip mọc bằng cách phát triển khoang hình cốc (calices) theo chiều dọc, đôi khi chia thành vách ngăn để tạo một đĩa nền mới cao hơn. Qua nhiều thế hệ, kiểu phát triển này tạo nên các cấu trúc san hô lớn chứa canxi, và lâu dài tạo thành các rạn san hô. Sự hình thành bộ xương ngoài chứa canxi là kết quả của việc polip kết lắng aragonit khoáng từ các ioncanxi thu được từ trong nước biển. Tuy khác nhau tùy theo loài và điều kiện môi trường, tốc độ kết lắng có thể đạt mức 10 g/m² polip/ngày (0,3 aoxơ/ yard vuông/day). Điều này phụ thuộc mức độ ánh sáng, sản lượng ban đêm thấp hơn 90% so với giữa trưa. Các xúc tu của polip bẫy mồi bằng cách sử dụng các tế bào châm được gọi là nematocyst. Đây là các tế bào chuyên bắt và làm tê liệt các con mồi như sinh vật phù du, khi có tiếp xúc, nó phản ứng rất nhanh bằng cách tiêm đủ mạnh để gây tổn thương cho con người. Các loài sứa và hải quỳ cũng có nematocyst. Chất độc mà nematocyst tiêm vào con mồi có tác dụng làm tê liệt hoặc giết chết con mồi, sau đó các xúc tu kéo con mồi vào trong dạ dày của polip bằng một dải biểu mô co dãn được được gọi là hầu Các polip kết nối với nhau qua một hệ thống phức tạp gồm các kênh hô hấp tiêu hóa cho phép chúng chia sẻ đáng kể các chất dinh dưỡng và các sinh vật cộng sinh.. 5. Sinh sản 5.a) Hữu tính 9 San hô chủ yếu sinh sản hữu tính, với 25% san hô phụ thuộc tảo (san hô đá) tạo thành các quần thể đơn tính trong khi phần còn lại là lưỡng tính. Khoảng 75% san hô phụ thuộc tảo "phát tán con giống" bằng cách phóng các giao tử (trứng và tinh trùng) vào trong nước để phát tán các quần thể san hô ra xa. Các giao tử kết hợp với nhau khi thụ tinh để hình thành một ấu trùng rất nhỏ gọi là planula, thường có mầu hồng và hình ôvan; một quần thể san hô cỡ trung bình mỗi năm có thể tạo vài nghìn ấu trùng này để vượt qua xác suất rất nhỏ của việc ấu trùng tạo được một quần thể mới. Ấu trùng planula bơi về phía ánh sáng, thể hiện quang xu hướng tính dương, lên đến vùng nước bề mặt nơi chúng trôi dạt và phát triển một thời gian trước khi bơi trở lại xuống phía đáy biển để tìm một bề mặt mà nó có thể bám vào đó và xây dựng một quần thể mới. Nhiều giai đoạn của quá trình này có tỷ lệ thất bại lớn, và mặc dù mỗi quần thể san hô phát tán hàng triệu giao tử, chỉ có rất ít quần thể mới được hình thành. Thời gian từ khi phóng giao tử cho đến khi ấu trùng định cư thường là 2 hoặc 3 ngày, nhưng có thể kéo dài đến 2 tháng. Ấu trùng san hô phát triển thành một polip san hô và cuối cùng trở thành một đầu san hô bằng cách sinh sản vô tính tạo các polip mới. Hầu hết các loài san hô, mà không phải san hô đá, đều không phát tán giao tử. Các loài này phóng tinh trùng nhưng giữ trứng, cho phép phát triển các ấu trùng planula lớn hơn để sau này khi thả ra sẽ đủ sẵn sàng để lắng xuống. Ấu trùng phát triển thành polip san hô và cuối cùng trở thành đầu san hô bằng mọc chồi vô tính và phát triển để tạo ra các polip mới. San hô phải phụ thuộc vào các dấu hiệu môi trường, tùy theo từng loại, để xác định thời gian chính xác để giải phóng các giao tử vào trong 10 nước. Có hai phương pháp mà san hô dùng để sinh sản hữu tính, chúng khác nhau ở chỗ giao tử cái có được giải phóng hay không: + San hô gieo rắc, phần lớn trong chúng sinh sản hàng loạt, phụ thuộc nặng nề vào các dấu hiệu môi trường, do ngược lại với san hô ấp trứng, chúng giải phóng cả tinh trùng lẫn trứng vào trong nước. San hô sử dụng các dấu hiệu dài hạn như độ dài thời gian ban ngày, nhiệt độ nước, và/hoặc tốc độ thay đổi nhiệt độ; và dấu hiệu ngắn hạn thông thường nhất là chu kỳ trăng, với lúc mặt trời lặn điều khiển thời gian giải phóng. Khoảng 75% các loài san hô là san hô gieo rắc, phần lớn trong chúng là phụ thuộc tảo vàng đơn bào hay san hô tạo rạn. Các giao tử với sức nổi dương trôi nổi về phía bề mặt nơi sự thụ tinh diễn ra để tạo thành các ấu trùng planula. Các ấu trùng planula bơi về phía ánh sáng bề mặt để đi vào các dòng chảy, nơi chúng ở lại khoảng 2 ngày, nhưng có thể tới 3 tuần, và trong một trường hợp đã biết là 2 tháng, sau đó chúng chìm xuống và biến hóa thành các polip và tạo thành các quần thể mới. + San hô ấp trứng thông thường nhất là không phụ thuộc tảo vàng đơn bào (không tạo rạn), hoặc một số san hô phụ thuộc tảo vàng đơn bào trong các khu vực có tác động của sóng hay luồng chảy mạnh. San hô ấp trứng chỉ giải phóng tinh trùng, với sức nổi âm, và có thể lưu trữ trứng đã thụ tinh trong vài tuần, giảm bớt nhu cầu đối với các sự kiện sinh sản đồng bộ hàng loạt, nhưng nó vẫn có thể xảy ra. Sau khi thụ tinh thì san hô giải phóng các ấu trùng planula đã sẵn sàng chìm lắng xuống. 5.b) Vô tính Tại các đầu san hô, các polip giống hệt nhau về di truyền sinh sản vô tính để phát triển quần thể. Điều này được thực hiện bằng nảy mầm hay mọc chồi (khi một polip mới mọc ra từ một polip trưởng thành), hoặc phân 11 chia (thành 2 polip lớn bằng polip ban đầu), cả hai được minh họa trong hình về Orbicella annularis. + Mọc chồi: Mở rộng kích thước của quần thể san hô. Nó diễn ra khi corallite mới mọc ra từ polip trưởng thành. Khi polip mới phát triển nó sinh ra xoang vị (dạ dày), tua cảm và miệng. Khoảng cách giữa các polip mới và trưởng thành tăng lên, và cùng với nó là coenosarc (cơ thể chung của quần thể; xem hình minh họa tại phần cấu tạo). Việc mọc chồi có thể diễn ra theo các cách sau: + Phân chia theo chiều dọc bắt đầu với mở rộng polip ra, sau đó phân chia xoang vị. Miệng phân chia và các tua cảm mới hình thành. Khác biệt với điều này là mỗi polip phải hoàn thiện phần bị mất của mình về cơ thể và bộ xương ngoài. + Mọc chồi nội tua cảm hình thành từ các đĩa miệng của polip, nghĩa là cả hai polip có cùng kích thước và nằm trong cùng một vòng tua cảm. + Mọc chồi ngoại tua cảm tạo thành từ đáy của polip, và các polip mới là nhỏ hơn. +Phân chia theo chiều ngang diễn ra khi các polip và bộ xương ngoài phân chia theo chiều ngang thành hai phần. Điều này có nghĩa là một polip có đĩa nền (đáy) còn polip kia có đĩa miệng (đỉnh). Hai polip mới cũng phải tự hoàn thiện các phần bị mất. + Phân đôi diễn ra ở một số san hô, đặc biệt là trong họ Fungiidae, trong đó quần thể có khả năng tự tách thành 2 hay nhiều quần thể trong các giai đoạn đầu của sự phát triển của chúng.Cả quần thể san hô có thể sinh sản vô tính qua sự phân mảnh hay thoát ra ngoài, khi một mảnh vỡ từ một đầu san hô được sóng đem đi nơi khác có thể tiếp tục phát triển tại địa điểm mới. 12 +Polip thoát ra ngoài diễn ra khi một polip từ bỏ quần thể và tái thiết lập trên một nền mới để tạo ra quần thể trưởng thành mới. +Phân mảnh, trên thực tế có thể coi như là một kiểu của phân đôi, với các cá thể bị vỡ ra khỏi quần thể do bão hay trong các tình huống khác mà việc vỡ ra này có thể xảy ra. Các cá thể tách biệt có thể bắt đầu cho các quần thể mới. 6. Thực trạng khai thác san hô biển đông 6.a) Nguy cơ từ hoạt động đánh cá Mối đe dọa lớn nhất đối với rạn san hô là hoạt động đánh cá không bền vững. Các hoạt động đánh bắt cá quá mức làm thay đổi kích cỡ, số lượng cá, và thành phần loài trong quần xã rạn san hô. Điều này đã làm cho hệ sinh thái san hô mất cân bằng, tạo điều kiện cho các sinh vật khác như tảo biển phát triển. Kết quả là tảo biển, đã từng được cá kiểm soát, trở nên lấn át trên các dải đá ngầm tại nhiều khu vực. Mặt khác, do sản lượng đánh bắt giảm, ngư dân buộc phải thay đổi phương pháp để bắt đủ cá nhằm đáp ứng nhu cầu của họ. Đánh bắt cá bằng mìn, bằng xyanua và các hoá chất độc hại khác, sử dụng lưới muro-ani (buộc vào rạn san hô các túi nặng để xua đuổi cá ra ngoài các khe nứt) và sử dụng lưới vét, lưới rà cũng đã phá huỷ nhiều rạn san hô. Theo ước tính của Sam Mamauag, nhà sinh học thuộc Liên minh Động vật biển Quốc tế tại Philippines, để bắt được một con cá sống bằng xianua, chúng ta phải đánh đổi bằng một mét vuông san hô. 6.b) Ấm hoá toàn cầu và hiện tượng "tẩy trắng" Mối đe doạ lớn thứ hai và sẽ là nguyên nhân phá hủy các rạn san hô mạnh nhất trong thời gian tới là hiện tượng “tẩy trắng san hô'' làm san hô chết hàng loạt, do lượng nước thải đổ ra biển tăng làm tăng độ đục của nước 13 biển, giảm lượng ánh sáng tới được chỗ san hô, nhưng tác động mạnh nhất vẫn là do nhiệt độ đại dương tăng đột ngột. San hô có thể chịu được nhiệt độ từ 25-29 độ C, phụ thuộc vào địa điểm. Các thí nghiệm cho thấy san hô bắt đầu tẩy trắng khi nước biển đạt tới nhiệt độ 32 độ C. Tẩy trắng san hô là hiện tượng phá vỡ mối quan hệ cộng sinh giữa san hô và tảo đơn bào. Tảo đơn bào sống trong các mô của san hô, cung cấp cho chúng thức ăn để tăng trưởng và duy trì màu sắc khoẻ mạnh bình thường. Tẩy trắng san hô làm mất dần màu sắc san hô khi tảo đơn bào bị đẩy khỏi mô san hô, để lộ bộ xương trắng. 6.c) Tác động của sự phát triển các thành phố và thị trấn ven biển Sự phát triển của các thành phố và thị trấn ven biển làm phát sinh một loạt những đe doạ cho các dải san hô ở gần đó. Do không gian ở đó bị giới hạn, các dự án sân bay và công trình khác thường được xây dựng trên các rải san hô. Xây dựng, cải tạo đường bờ biển làm xáo trộn lớp trầm tích, che phủ san hô. Tại nhiều vùng, các hệ sinh thái san hô đang bị khai thác làm vật liệu xây dựng, như cát và đá vôi, sản xuất xi măng, phục vụ các công trình xây dựng mới. 6.d) Khai thác và vận tải cũng hủy diệt san hô San hô cũng là vật trang trí được con người ưa thích. Thường khi đi nghỉ tại các vùng biển nhiệt đới có những rạn san hô đẹp, một số người muốn mua một số đồ lưu niệm bằng san hô mang về nhà. Để thoả mãn nhu cầu của du khách, dân địa phương đã khai thác san hô với quy mô thương mại và chọn san hô sao cho có thể kiếm được nhiều tiền nhất. 14 Các vụ tràn dầu, rò rỉ dầu vào nước biển, mỏ neo của tàu thuyền cũng như việc các con tàu đi biển cỡ lớn bị mắc cạn cũng tàn phá một phần lớn các dải đá ngầm san hô. Trong giai đoạn dài, tràn dầu có thể làm tổn thất các quần xã rạn san hô nhiều hơn so với các dạng xáo trộn khác. Các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện rằng sơn được phủ lên đáy nhiều con tàu cũng đóng góp vào quá trình hình thành độc tố thiếc Tributyl, cùng các hoá chất khác có hại cho san hô. Ngoài ra, những nơi không chịu tác động trực tiếp của con người, các rạn san hô có thể bị đe doạ bởi sự suy giảm những rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và các nơi cư trú có liên quan khác gần đó, sóng thần và các sự cố tự nhiên khác đã góp phần phá huỷ các rạn san hô, gây tác động toàn bộ hệ sinh thái biển. * Ở nước ta, Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường , dọc bờ biển dài gần 3.200 km của Việt Nam hiện nay có khoảng khoảng 1.222km2 rạn san hô với trên 400 loài san hô khác nhau, gồm 80 giống, 17 họ và Việt Nam được coi là một trong nước có nhóm các loài san hô vào loại đa dạng nhất thế giới. Vùng biển phía Bắc, san hô phân bố rộng ở phía đông đảo Cát Bà, Vịnh Hạ Long, chân đảo Cô tô, Bạch Long Vĩ... Chỉ tính riêng ở Vịnh Hạ Long đã có 101 loài thuộc 40 giống, 12 họ san hô. Vùng biển phía Nam, từ Đà Nẵng trở vào, các nhà khoa học đã ghi nhận có 177 loài thuộc 72 giống san hô cứng, trong đó 66 giống thuộc nhóm san hô tạo rạn. Ngoài khơi Nha Trang, còn có loại san hô đỏ cực kỳ quý hiếm. 15 TSKH. Nguyễn Tác An, nguyên Viện trưởng Viện Hải Dương học Việt Nam từng cảnh báo: "Chưa bao giờ nguồn san hô nước ta lại đứng trước thách thức sống còn như hiện nay. Mỗi năm, mất hơn 50 tấn san hô chưa kể mất san hô đen ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải Phòng. Theo đà này, 20 năm nữa san hô không còn trong vùng biển Việt Nam". Chưa bao giờ nguồn san hô nước ta lại đứng trước thách thức sống còn như hiện nay. Những rạn san hô mất đi, đồng nghĩa với sự cạn kiệt các nguồn lợi thủy sản. San hô bị tận diệt bằng thủ công và bằng mìn thì rạn nào cũng tan tành. Biển miền Trung ngày nào cũng có ngư dân đi lấy san hô. Từng ngày biển mất Trước thực trạng khai thác trái phép rạn san hô dẫn tới nguy cơ hủy diệt đa dạng sinh thái biển, UBND TP. Đà Nẵng vừa quyết định khoanh vùng bảo vệ và ra lệnh cấm đánh bắt hải sản, khai thác san hô khu vực biển thuộc bán đảo Sơn Trà, trong đó vùng bảo vệ nghiêm ngặt (vùng lõi) 82ha thuộc khu vực Hòn Sụp, Bãi Bụt, Hục Lỡ, Vũng Đá và Đông Bãi Bắc từ bờ ra 300 mét ở độ sâu trung bình 12 mét. . 7. Ảnh hưởng môi trường tới san hô và tầm quan trọng của san hô. 7.a) Môi trường ảnh hưởng đến san hô: San hô rất nhạy cảm với các thay đổi trong môi trường tự nhiên; do đó, chúng thường được các luật môi trường bảo vệ. Một rạn san hô có thể dễ dàng bị ngập trong tảo nếu trong nước có quá nhiều dinh dưỡng. San hô cũng sẽ chết nếu nhiệt độ nước thay đổi vượt quá 1-2 độ ra ngoài khoảng bình thường, hoặc nếu độ mặn trong nước giảm. Dấu hiệu ban đầu của ứng 16 suất môi trường là việc san hô thải tảo vàng đơn bào; không có tảo đơn bào cộng sinh của mình, các mô san hô sẽ mất mầu và để lộ mầu trắng của bộ xương cacbonat canxi, một hiện tượng được gọi là san hô bạc màu. Mỏ neo của các tàu thuyền hay do nghề cá cũng làm ảnh hưởng xấu đến san hô. Hốc sinh thái hẹp mà san hô chiếm lĩnh, và sự phụ thuộc vào sự trầm lắng cacbonat canxi, có nghĩa rằng chúng rất nhạy cảm đối với sự thay đổi độ pH của nước. Do lượng CO2 trong khí quyển tăng, hiện tượng axít hóa đại dương, khiCO2 tan trong nước làm giảm độ pH, đang xảy ra tại nước trên bề mặt các đại dương. Độ pH thấp làm san hô bị giảm khả năng tạo xương cacbonat canxi, và trong trường hợp tột cùng, những bộ xương này còn bị phân rã hoàn toàn. Các nhà khoa học e ngại rằng, nếu không có sự cắt giảm mạnh và sớm đối với CO2 từ hoạt động của con người, hiện tượng axít hóa đại dương sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc tiêu diệt các loài cùng các hệ sinh thái san hô. Một sự kết hợp của các thay đổi về nhiệt độ, ô nhiễm, sự lạm dụng bởi những người lặn biển và các nhà sản xuất đồ kim hoàn đã dẫn tới sự hủy diệt của nhiều rạn san hô trên thế giới. Điều này đã làm tăng tầm quan trọng của ngành sinh học san hô. Riêng các biến đổi về khí hậu có thể gây ra thay đổi về nhiệt độ đủ để hủy diệt san hô. 7.b) Tầm quan trọng của san hô: b.1 Đa dạng sinh học Các rạn san hô là một trong những hệ sinh thái giàu đa dạng sinh học nhất trên trái đất. Những tập đoàn san hô là nơi cộng sinh của nhiều sinh vật. Chúng chỉ chiếm chưa đầy 1% diện tích đại dương, nhưng lại là mái nhà cho 25% các loài sinh vật biển. b.2 Giá trị kinh tế 17 Phần lớn người nghèo trên thế giới cũng như ở ven biển Đông sinh sống tại các vùng ven biển thuộc các khu vực đang phát triển, có nguồn Protein phụ thuộc trực tiếp vào các loài sinh vật sống ở rạn san hô. Ở các nước đang phát triển, các rạn san hô cung cấp khoảng 1/4 tổng lượng cá đánh bắt, ước tính cung cấp thực phẩm cho 1 tỷ người ở châu Á. Các rạn san hô là sức hấp dẫn chính đối với các thợ lặn, những người câu cá giải trí và những kỳ nghỉ hè (một số những bãi biển đẹp nhất được tạo thành do sự xói mòn tự nhiên của các rạn san hô gần đó). San hô cũng là nơi cung cấp nguồn dược liệu cho y học bởi có nhiều hoá chất được những sinh vật này tạo ra với mục đích tự bảo vệ. San hô đang thực sự được dùng trong cấy ghép mô xương, và các hoá chất tìm thấy ở một vài loài hữu ích đối với xử lý virut. Các hoá chất của những loài liên quan đến rạn san hô có thể đưa ra hướng điều trị mới cho các bệnh bạch cầu, ung thư da, và các bệnh u bướu khác. Hệ sinh thái rạn san hô còn là nơi cung cấp nhiều sản phẩm kinh tế khác, từ san hô, vỏ sò làm thành đồ trang sức và đồ mỹ thuật du lịch đến cá và san hô sống nuôi trong bể kính; cát và đá vôi dùng trong công nghiệp xây dựng. Tuy nhiên, các hoạt động khai khoáng thường phá vỡ những nơi cư trú này. b.4) Bảo vệ dải bờ biển Các dải san hô làm thành vùng đệm cho dải bờ biển liền kề trước những tác động của sóng biển và những cơn bão. Trong trường hợp các đảo san hô vòng, san hô cung cấp nền móng cho chính bản thân đảo. b.5) Bảo vệ khí hậu 18 Nước biển hòa tan khí carbon dioxide (CO2) của khí quyển. San hô tạo xương sống theo phản ứng hóa học giữa carbon dioxide and calcium (Ca) để sinh ra carbonate calcium (CaCO3). Nhờ phản ứng đó, san hô tham gia vào công cuộc giảm khí carbon dioxide, một khí có hiệu ứng nhà kính các hoạt động kỹ nghệ con người thải ra. b.6) Rạn san hô hỗ trợ, phụ thuộc nhiều hệ sinh thái khác nhau Thông thường, các rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển có mối liên hệ vật lý và sinh học: các rạn san hô như những đê chắn sóng tạo điều kiện cho các rừng ngập mặn ven biển phát triển; chất canxi của rạn cung cấp cát và trầm tích để rừng ngập mặn và cỏ biển sinh trưởng trên đó và các quần xã rừng ngập mặn và cỏ biển cung cấp năng lượng đưa vào hệ sinh thái ven biển và nơi đẻ trứng, nuôi con và kiếm ăn cho nhiều loài sinh vật có quan hệ với rạn san hô. b.7 Các ý nghĩa văn hóa khác Nhiều dân tộc coi san hô là một vật thiêng liêng. Ở một số nơi, người ta tin rằng san hô giúp nhà nông thu gặt được mùa và thủy thủ ra khơi mang san hô sẽ không gặp bão, san hô màu đỏ thẫm giúp máu chảy điều hòa trong mạch, san hô hồng ảnh hưởng đến quả tim, nơi cảm xúc tập trung. 8. San hô nhân tạo San hô nhân tạo là các san hô do con người tạo ra với mục đích bảo tồn, nghiên cứu, tạo môi trường cho các động vật sống trong san hô và triển lãm cho khách du lịch xem. Các kỹ thuật làm san hô nhân tạo như làm từ giá thể, một chất làm từ pozzolana và xi măng và canxi hiđrôxit, hay cấy giống đều được áp dụng rộng rãi hiện nay. Khi làm san hô nhân tạo cần trách các tảo biển bám vào vì nó sẽ làm hại tới san hô và làm dơ nó. Các hồ san hô 19 nhân tạo hiện đang rất thu hút khách du lịch về thế Việt Nam cùng hợp tác với Nga tạo ra hồ san hô nhân tạo ở Nha Trang. Tuy san hô chậm chạp hồi phục như một ngày nào đó nó sẽ hồi phục hoàn toàn. 20 IV. KẾT LUẬN Ở cấp độ khu vực, ô nhiễm và rác biển trong vùng Biển Đông và hoạt động đánh bắt trái phép, bừa bãi và lén lút cả ở trong và ngoài vùng biển của Việt Nam đều đe dọa tới các rạn san hô. Ở cấp độ toàn cầu, sự biến đổi khí hậu đã làm gia tăng sự axit hóa đại dương, sự mất canxi của các vùng rạn, tăng nhiệt độ không khí và đại dương, dâng cao mực nước biển và làm biển đổi thời tiết và các quy luật bão. Các vùng rạn của Việt Nam đã có hiện tượng tẩy trắng san hô nghiêm trọng. Sự phát triển tràn lan của các sinh vật xâm lấn và gây bệnh cũng làm tăng các mối đe dọa. Những mối đe dọa đang gia tăng này không thể chỉ giải quyết một cách cục bộ mà cần sự phối hợp, có chiến lược và sự ủng hộ ở các cấp từ địa phương tới toàn cầu. Việc phục hồi các rạn san hô ở Việt Nam có giá trị to lớn đối với sinh kế của cộng đồng ven biển và toàn quốc, đặc biệt là tăng năng suất nghề cá, giảm xói mòn vùng bờ và làm lợi cho ngành giải trí và du lịch. Điều này chỉ xảy ra khi những lợi ích của việc thay đổi được định lượng cụ thể và rõ ràng, được công bố tới khắp các bên liên quan – từ địa phương tới quốc gia và quốc tế. Vì mức độ tổn hại nghiêm trọng của các rạn san hô ở Việt Nam, vì sự phân bố rộng khắp của chúng dọc theo bờ biển và nhiều đảo, vì số lượng lớn các cộng đồng ven biển phụ thuộc vào các vùng rạn và vì chi phí can thiệp cao, cần có những chương trình phối hợp nhịp nhàng. Các chương trình đó nên bao gồm, nhưng không nhất thiết chỉ là, các khu bảo tồn biển và quản lý tổng hợp vùng bờ. Thông tin về các hoạt động cần được phổ biến thông qua tích cực trao đổi kinh nghiệm, học hỏi từ sự phát triển của các quốc gia vùng nhiệt đới khác và tham gia các nỗ lực trong khu vực và quốc tế để giải quyết các mối đe dọa nảy sinh từ bên ngoài. Trên thế giới có một kho kinh nghiệm quý báu 21 của các nước (những phương thức hiệu quả nhất, những thành công và thất bại), và rất nhiều trong số này có giá trị đối với Việt Nam. Để phục hồi rạn san hô và phát triển những lợi ích của chúng, cần có sự định giá toàn diện các rạn san hô và sử dụng cách tiếp cận hệ sinh thái. Các chi phí kinh tế và xã hội của các phương thức hiện tại đang áp dụng và các lợi ích cụ thể của việc phục hồi rạn san hô cần được minh chứng và liên kết với các cơ chế tài chính. Những mối quan hệ và liên kết của các quần thể rạn và các hệ thống rạn cần được chứng minh và giải thích rõ ràng, công khai. Tương tự như vậy đối với những tác động của các sự kiện và các hoạt động ảnh hưởng đến năng suất rạn san hô. Vì vậy mỗi chúng ta cần quan tâm đến vần đề biển Đông nói chung và san hô nói riêng và hãy có những cách bảo vẹ riêng của mình nhé!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbien_dong_3_2205.pdf
Luận văn liên quan