Scott (2001) cho rằng Weber (1924/1968) là “ một trong những thuyết gia về xã hội
đầu tiên chú ý đến tầm quan trọng trung tâm của tính hợp pháp trong cuộc sống xã
hội” và rằng Parsons (1960) là người đầu tiên kết nối tính hợp pháp với các mục tiêu
của tổ chức. Scott diễn giải sự nhấn mạnh của những người theo trường phái tân thể
chế đối với sự thích nghi với môi trường thể chế như là sự mở rộng của lí thuyết hệ
thống mở, mà lí thuyết này làm biến đổi tổ chức và các tư liệu về quản trị chiến lược
“bằng việc nhấn mạnh vào tầm quan trọng của bối cảnh môi trường rộng hơn khi nó
quy định, định hình, thấm nhuần và làm mới tổ chức. Những người nghiên cứu lần
đầu tiên nhận ra rằng môi trường kĩ thuật áp đặt áp lực lên tổ chưc và sau đó vào
những năm 1970 họ lại thấy rằng các tổ chức cũng chịu ảnh hưởng bởi môi trường
thể chế của chúng.
24 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự thay đổi về mặt xã hội, kĩ thuật và thể chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Sự thay đổi về mặt xã hội, kĩ
thuật và thể chế
2
Việc xem lại và tổng hợp tư liệu
Điều gì giải thích cho những thay đổi về mặt kĩ thuật và xã hội đáng kể được quan sát
ở nhiều nơi trên thế giới trong suốt thế kỉ qua? Câu trả lời cho vấn đề này là khác
nhau, phụ thuộc vào mức độ giả định rằng cuộc sống xã hội là sản phẩm của chủ
nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tập thể. Những người theo chủ nghĩa cá nhân nhìn nhận
sự thay đổi về xã hội và kinh tế như là sản phẩm của trung gian cá nhân, nơi mà
những cá nhân có mục đích và định hướng mục tiêu thực hiện những mong muốn tự
do của mình nhằm xây dựng những sắp xếp xã hội làm thỏa mãn sở thích và giá trị
của bản thân. Những người theo chủ nghĩa tập thể thì lại có cái nhìn vĩ mô và có cấu
trúc hơn. Trong khi không cần phải phủ nhận tính đại diện của cá nhân, họ nhìn nhận
hành động con người thì được quyết định phần lớn bởi tập thể. Những người theo
chủ nghĩa tập thể là những cấu trúc xã hội được xây dựng bởi con người nhằm cung
cấp sự ổn định và ý nghĩa đối với cuộc sống. Đó chính là “quy luật của trò chơi”
(North, 1990) thúc đẩy và điều khiển hành vi con người.
Áp lực và sự ảnh hưởng qua lại giữa hành vi tối đa hóa lợi ích của cá nhân với các
ảnh hưởng mang tính quyết định của tập thể - chẳng hạn, giữa hành động và cấu trúc
– là những chủ đề bất biến trong các thuyết về xã hội và kinh tế. Theo trường phải
kinh tế học, chủ nghĩa tập thể nổi lên vào cuối thế kỉ thứ 19 đáp lại những giả định
của chủ nghĩa cá nhân mang tính phương pháp luận của kinh tế học cổ điển đã nhìn
nhận con người như là những thực thể có lí trí, có xu hướng tối đa hóa lợi ích và
mang ý kiến cá nhân (Dorfman, 1963). Một vài người trong số những nhà kinh tế học
theo quan điểm tập thể “lỗi thời” – Veblen, Mitchell, Ayres – ban đầu hứng thú với
sự nổi lên và phổ biến của tập quán và thói quen “hiển nhiên”, trong khi những người
khác chẳng hạn như Commons lại tập trung vào những chuyển biến xã hội (chẳng
hạn như tổ chức công đoàn lao động và sự biến mất của chủ nghĩa độc quyền) và
xem xét cách thức mà những quy định làm việc của tập thể được thiết lập nhằm chỉ
3
rõ những nghi hoặc và bất công giữa các đảng và tầng lớp với quyền lực không tương
xứng và lợi ích khác nhau.
Trong phần tư cuối cùng của thế kỉ thứ 20, một trường phái của chủ nghĩa cá nhân
nổi lên trong các nhà xã hội học về tổ chức nhằm xác định các vấn đề về cách thức và
nguyên nhân các tổ chức tiếp nhận các sự sắp xếp về mặt thể chế tương tự nhau.
Powell và DiMaggio (1991) cho rằng chủ nghĩa cá nhân mới mẻ này được xây dựng
dựa trên nền tảng của “cuộc cách mạng về nhận thức” trong xã hội học, phương pháp
và phong tục học (Garfinkel, 1967) và lí thuyết xây dựng xã hội (Berger và
Luckmann, 1967). Các tác giả nhìn nhận sự thể chế hóa (tập thể hóa) như là một tiến
trình định hình tập thể mà xem xét các quy định, giá trị và mâu thuẫn như là thứ yếu
và ít quan trọng hơn tiến trình nhận thức. Những người theo trường phải tập thể mới
nhìn nhận sự xây dựng xã hội của chữ viết, chuẩn mực và phân tầng như là “những
thứ mà thể chế được hình thành” (Powell và DiMaggio, 1991, p. 15). Một vài người
cũng tiếp nhận phương pháp mới mang tính phổ biến mà phương pháp này lại tách
khỏi những hành động có tính mục đích và khuôn khổ của những nhóm lợi ích khác
nhau trong những thể chế đang thay đổi. Như chúng ta đã thấy, một vài học giả theo
trường phải tập thể mới bắt đầu nhìn nhận vấn đề này bằng việc xem xét mối quan hệ
qua lại giữa thuyết tiền định về cấu trúc và đại diện cá nhân.
Các học giả ở cả 2 khía cạnh đều nghiên cứu sự thay đổi về thể chế. Các học giả về
chuyển biến xnã hội tập trung vào những thay đổi về thể chế xảy ra thông qua các
cam đoan, hành động chính trị và các chiến dịch động viên cơ sở nhằm chỉ rõ chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chiến tranh, vũ khí nguyên tử, vấn đề giới tính, sự tàn phá
về môi trường và những vấn đề xã hội khác. Các học giả về công nghệ thì tập trung
vào sự ảnh hưởng qua lại của thay đổi về kĩ thuật, xã hội và thể chế trong các nghiên
cứu của mình về những cải tiến công nghê, khởi sự và sự nổi lên của ngành công
nghiệp. Các học giả ở cả 2 trường phái đều tập trung vào những tiến trình của hành
động tập thể, cũng như những hành động tìm kiếm lợi ích mà những người thực hiện
chúng nhằm ảnh hưởng lên các tiến trình trên.
4
Gần đây các học giả đã quan sát những điểm giống nhau đáng kể trong các tài liệu về
sự thay đổi về xã hội, kĩ thuật và thể chế. Họ đã vẽ ra một sơ đồ khái quát hơn và hệ
thống hơn về nền tảng chung được chia sẻ bởi những lĩnh vực này. Bằng việc xem lại
tài liệu, chương này sẽ cố gắng cung cấp một sơ đồ như thế. Chúng tôi thảo luận về
những công trình mang tính nhận thức và thực nghiệm lớn từ trường phái cũ của kinh
tế học thể chế, trường phải mới của lí thuyết thể chế được tìm thấy trong thuyết tổ
chức và xã hội học, công trình về cải tiến công nghệ và sự nổi lên của ngành công
nghiệp trong tài liệu quản trị, và tài liệu về những chuyển biến xã hội được công bố
bởi những nhà xã hội học và các nhà khoa học về mặt chính trị. Chúng tôi tập trung
vào việc xem xét những tương tác năng động giữa các thể chế, cải tiến công nghệ và
sự chuyển biến xã hội. Chúng tôi nhận diện những điểm giống và khác trong các mặt
này và chỉ ra một vài đóng góp thêm vào mà mỗi khía cạnh mang lại để hiểu hơn về
sự thay đổi thể chế.
Chúng tôi nhấn mạnh vào sự thay đổi về mặt thể chế hơn là bản thân thuyết thể chế.
Chúng tôi xem việc nghiên cứu thay đổi về thể chế là cực kì quan trọng vì vài nguyên
nhân. Thứ nhất, những thể chế trở nên quan trọng khi những vấn đề thiết yếu đang bị
đe dọa. Khi đọc Meyer và Rowan (1977), chúng ta có thể kết luận nhầm rằng những
thể chế (tổ chức) là những chuyện hoang đường mang tính biểu tượng không nhằm
phục vụ cho một mục đích hữu ích nào hơn là cung cấp một sự ngụy trang khiến cho
tổ chức trở nên xác thực bởi vì những hoạt động của nó là thỏa mãn những kì vọng
của xã hội. Ngược lại, Stinchcombe (1997) cho rằng tính chính thức và những nghi lễ
của thể chế là tăng dần cùng với tầm quan trọng cơ bản của vấn đề hay quyết định
được đưa ra, bởi vì có nhiều điều được thể chế hóa là vấn đề mà chúng quan tâm.
Nói cách khác, khi hệ thống giá trị thông báo thứ hạng của thể chế như là một thứ gì
đó được ưu tiên ao, thì những người gìn giữ thể chế sẽ có thể chính thức hóa sự phù
hợp với thể chế vào trong nghi lễ được thiết kế để theo dõi, thúc đẩy và ban hành giá
trị của thứ đó. Quyền ưu tiên càng cao thì sự chính thức hóa và nghi lễ càng cao. Một
điều càng mang tính nghi lễ cao trong một tổ chức, thì chúng lại càng ít mang tính
5
đơn thuần là một nghi lễ bởi nó càng mang tính quan trọng một cách vững
chắc…chẳng hạn trong luật pháp chứng minh: sự công bằng càng phụ thuộc vào một
lượng bằng chứng bao nhiêu thì luật pháp bằng chứng mà ở đó có sự giới thiệu về
bằng chứng đó càng mang tính chính thức bấy nhiêu.
Nguyên nhân quan trọng thứ hai để nghiên cứu về sự thay đổi thể chế là nó cung cấp
một cách thức khác đáng tin cậy để hiểu những tiến trình thay đổi trong nền kinh tế
mới nổi mà những thuyết truyền thống về tổ chức là thiếu trang bị để lí giải. Davis và
McAdam (2000) cho rằng những tiến trình sản xuất “không biên giới” ngày càng
tăng, tính ưu thế của những tiêu chuẩn đánh giá dựa trên thị trường tài hính và những
tiến trình xã hội và chính trị định hình cấu trúc và cải tiến của những tổ chức đang
làm suy yếu dần tính hữu ích mang tính biện minh của thuyết tổ chức chẳng hạn sự
phụ thuộc vào tài nguyên và sinh thái học dân số. Các lí thuyết về sự thay đổi thể chế
và chuyển biến xã hội có thể cung cấp sự giải thích phù hợp hơn với hành động tập
thể mang tính cạnh tranh và hợp tác giữa các mạng lưới tổ chức và những tác nhân
thuộc thể chế khác trong nền kinh tế hậu công nghiệp. Tuy nhiên, để nhận ra tiềm
năng này, quan điểm ổn định của lí thuyết tân thể chế với tư cách là những lực lượng
có cấu trúc nhất quán và liên tục cần phải được xem lại và phát triển. Việc tập trung
vào sự thay đổi về thể chế tương đối bị xao lãng trong các tài liệu thể chế gần đây.
Phần tiếp theo của bài giới thiệu này xác định những khái niệm cơ bản và cung cấp
một khuôn khổ cho việc phân tích sự thay đổi về thể chế. Chúng tôi xác định 4 quan
niệm khác biệt về sự thay đổi thể chế, gồm thiết kế tổ chức, sự thích ứng về mặt tổ
chức, sự phổ biến về mặt tổ chức và hành động tập thể. Phần 2 của chương xem lại
các công trình đi kèm với mỗi quan điểm. Chúng tôi bao quát cả những bài lí thuyết
sâu xa cũng như các nghiên cứu thực nghiệm. Phần kết luận của chương thảo luận về
những chủ đề lớn trong tài liệu về sự thay đổi thể chế và sự tổng hợp của các quan
điểm.
Các định nghĩa
6
North (1990, p. 2) định nghĩa các thể chế như là “quy định của trò chơi trong một xã
hội hoặc một cách chính thức hơn….đó là những quy định được thiết lập bởi con
người nhằm định hình sự tương tác của con người.” Chúng được xây dựng bởi xã hội
nhằm khiến cho cuộc sống ổn định và ý nghĩa và chúng cũng quy định và thúc đẩy
hành động. Scott (2001) mô tả những thể chế bao gồm những thành tố mang tính văn
hóa - nhận thức, chuẩn mực và quy định hay chính là những “trụ cột”. Mặc dù Scott
nhấn mạnh khía cạnh văn hóa - nhận thức của các thể chế, ông nhìn nhận “thể chế”
như là một khái niệm đa khía cạnh. Đó chính là những trụ cột nhận thức, chuẩn mực
và quy định đại diện cho 3 khía cạnh khác nhau của một thể chế đơn lẻ. Nét nổi bật
tương ứng của 3 khía cạnh này là khác biệt với những vấn đề được xác định. Chẳng
hạn, vì những người theo trường phái thể chế cũ (chẳng hạn như Commons ,
1934/1961; 1950) chỉ ra những vấn đề về thiết kế các quy tắc trong thể chế có thể thi
hành được đối với việc thiết lập những nghi hoặc và bất công giữa các đảng đối lập,
chúng tập trung vào khía cạnh quy định của các thể chế.
Những người theo trường phái tân thể chế tập trung vào khía cạnh nhận thức – văn
hóa phần lớn là vì nó thích hợp với vấn đề nghiên cứu của họ về cách thức mà những
thể chế tái sản xuất và mở rộng. Họ hầu như quan tâm đến việc những thể chế trở
thành những khuôn khổ về tinh thần hiển nhiên giúp cho việc xử lí thông tin và ra
quyết định dễ hơn và thúc đẩy con người làm cho thế giới ý nghĩa hơn. Họ nhìn nhận
những thể chế, mỗi khi được thành lập, như là những lực lượng hùng mạnh định hình
hành vi của cá nhân và tổ chức. Họ thiết lập nên cách thức mà thế giới của con người
phải trở thành, nên trở thành và thậm chí qua điểm nhận thức về việc thế giới là gì.
Những lí thuyết gia theo trường phái tân thể chế chẳng hạn như Tolbert và Zucker
(1996) tập trung vào việc thể chế hóa, đó là tiến trình mà những thể chế được phổ
biến và chính thức hóa – đó là, tiến trình mà những thể chế trở thành hiển nhiên và
được trải nghiệm bởi những con người thuộc thể chế đó như là thực tế có mục đích
hơn là được xây dựng về mặt xã hội.
7
Theo Leonid Hurwicz (1993), chúng tôi phân biệt những người trong thể chế (hay
những thực thể) với những sự sắp xếp về thể chế, với thuật ngữ thể chế là đề cập đến
sự sắp xếp về thể chế. Đây là một sự phân biệt mà không phải tất cả các học giả đều
sử dụng. Chúng tôi nghĩ rằng sự phân biệt này là quan trọng, đặc biệt về xu hướng
trong tư liệu bỏ qua hoặc không xem xét những nền tảng thể chế và pháp lí của tổ
chức. Đó chỉ là bởi bản chất của một sự sắp xếp về thể chế mà một tổ chức có thể thự
hiện như thể nó là một con người với những quyền và nghĩa vụ được thiết kế một
cách đặc biệt.
Phần khó để hiểu những thể chế chính là tính phổ biến và đa dạng của chúng. Một sự
sắp xếp về thể chế có thể là rất đơn giản (chẳng hạn, tín hiệu đèn đỏ hay chuông của
trường học) hoặc được tranh luận gay gắt và phức tạp (chẳng hạn như sinh sản vô
tính từ tế bào thân, những luật về môi trường, thực hành kiểm toán và tư vấn bởi
những công ty kế toán). Sự sắp xếp về thể chế có thể áp dụng cho những thực thể thể
chế đơn lẻ (chẳng hạn như việc thuê tuyển nội bộ trong công ty hay những chính sách
thăng tiến), những tổ chức trong một ngành hoặc dân cư (chẳng hạn như những tiêu
chuẩn công nghệ, quy định về cạnh tranh thị trường hoặc việc hình thành một tổ chức
cụ thể), tất cả những cư dân của một quốc gia (chẳng hạn, việc đánh thuế, quyền về
tài sản, luật về quyền tự do công dân), những con người trong nhiều đất nước (chẳng
hạn như luật về quyền con người, thuế quan và hiệp định thương mại, những thỏa
thuận về môi trường trên toàn thế giới, những giá trị về ngoại tệ.)
Chúng tôi định nghĩa sự thay đổi về thể chế như là sự khác nhau trong việc hình
thành, chất lượng hoặc trạng thái qua thời gian trong một thể chế. Sự thay đổi về sắp
xếp trong thể chế có thể bị quyết định bởi việc quan sát sự sắp xếp tại 2 thời điểm
hoặc nhiều hơn trong tập hợp các khía cạnh (chẳng hạn như nhận thức, chuẩn mực và
sự rõ ràng về mặt quy định) và sau đó tính toán sự khác nhau qua thời gian trong các
khía cạnh này. Nếu có sự khác biệt đáng kể, chúng tôi có thể nói rằng sự sắp xếp về
thể chế đã thay đổi. Nhiều quan điểm trong tài liệu đồ sộ về sự thay đổi thể chế tập
8
trung vào bản chất của sự khác biệt này, điều gì sản sinh ra chúng, và những hậu quả.
Điều ít được chú ý hơn sẽ liên quan đến những tiến trình của sự thay đổi về thể chế.
2 định nghĩa khác biệt về tiến trình thường được sử dụng trong tài liệu: (1) danh mục
các khái niệm hay các biến số liên quan đế những hành động và hoạt động và (2) sự
mô tả tường thuật về cách thức mà mọi thứ phát triển và thay đổi (Van de Ven,
1992). Khi định nghĩa đầu tiên được sử dụng, tiến trình thường đi kèm với “thuyết
sai số” (Mohr, 1982) về sự thay đổi, mà trong đó tập hợp những biến số độc lập giải
thích về mặt thống kê những sai số trong các tiêu chuẩn kết quả (biến phụ thuộc). Ý
nghĩa thứ hai của tiến trình thường ki kèm với sự giải thích theo “thuyết tiến trình”
về trật tự thời gian và trình tự trong đó tập hợp những sự kiện thay đổi mang tính
riêng biệt là xảy ra dựa trên câu chuyện hay sự tường thuật mang tính lịch sử (Abott,
1988; Pentland, 1999; Poole, Van de Ven, Dooley, và Holmes, 2000). Theo cách sử
dụng này, vấn đề về “cách mà sự thay đổi diễn ra” được xác định bởi việc tường
thuật trình tự thời gian những sự kiện diễn ra trong một sự sắp xếp về thể chế.
Trong việc xem lại tài liệu, chúng tôi xem các công trình cụ thể như là những thuyết
tiến trình hay thuyết biến số. Trong khi những ví dụ của thuyết tiến trình và thuyết
biến số có thể được tìm thấy trong mỗi khía cạnh của 4 khía cạnh về sự thay đổi được
xác định trong chương này, hầu hết công trình hiện nay về sự thay đổi về chể quan
tâm đến thuyết sai số. Trong khi một nghiên cứu đơn lẻ lại sử dụng thuyết sai số hoặc
thuyết tiến trình nhưng không cả hai, 2 cách tiếp cận này là không mang tính duy
nhất về lí thuyết và trong thực tế chúng có thể bổ sung cho nhau. Poole và cộng sự
(2000, chương 2) đã thảo luận sâu hơn về các phân biệt quan trọng giữa thuyết tiến
trình và sai số.
Những học giả về thể chế đã tranh luận không ngừng về việc liệu sự thay đổi về thể
chế có liên tục và mang tính tiến hóa hay không liên tục và mang tính cách mạng.
Chúng tôi tán thành với Campbell (2001) rằng sự phân biệt giữa sự thay đổi mang
tính tiến hóa và sự thay đổi mang tính cách mạng phần lớn chính là chức năng của
mức độ phân tích và phạm vi thời gian của tiến trình thay đổi. Điều hóa ra chính là sự
9
thay đổi không liên tục theo khoảng cách có thể được xem xét kĩ hơn có thể được
xem là mang tính liên tục và dần dần. Chẳng hạn, trong nghiên cứu về hậu cộng sản
ở Đông Âu và Liên minh Xô Viết cũ, Campbell va Pedersen (1996) dẫn ra rằng
những thay đổi dường như mang tính cách mạng trong các cấu trúc cầm quyền ở
quốc gia thực tế là kết quả của những thay đổi mang tính tiến hóa hơn trong những
cấu trúc rời rạc.
Một vài học giả đã phát triển những mô hình khác nhau để phân biệt những khuôn
mẫu thay đổi liên tục (lớn lên, tiến hóa) và không liên tục (trạng thái cân bằng ngắt
quãng). Chúng tôi thắc mắc là liệu những mô hình khác nhau có hữu ích hay không.
Liệu sự thay đổi bắt đầu từ mức độ lớn dần lên (chậm, dần dần) hoặc triệt để (nhanh
chóng, bất thình lình) chính là câu hỏi thực nghiệm. Sử dụng các mô hình khác nhau
để giải thích tầm quan trọng khác nhau của sự thay đổi được quan sát dựa theo đóng
góp hóa ra không phải là chiến lược tốt để xây dựng lí thuyết tổng quát và chi tiết.
Một lí thuyết đơn lẻ chắc sẽ trở nên hữu ích và thiết thực hơn nhiều. Trên thực tế, lí
thuyết trạng thái cân bằng ngắt quãng đã được xem như là một phần của hình thức
rộng hơn cả tính năng động vô tuyến phản ánh chức năng quyền lực đảo ngược. Điều
này khá thú vị, dựa vào đó có thể phát triển một lí thuyết đơn lẻ (với một cơ chế sản
sinh phổ biến) có thể giải thích những đóng góp rộng lớn đối với tầm quan trọng và
mức độ của sự thay đổi được quan sát trong thế giới thực nghiệm.
Khuôn khổ hướng dẫn việc xem lại tài liệu
Không may là việc xem xét lại của chúng tôi đối với những tài liệu ngổn ngang thuộc
nhiều lĩnh vực về sự thay đổi thể chế không thể được tích hợp thành một quan điểm
đơn lẻ. Các học giả không hội tụ cùng một vấn đề đơn lẻ hay lí thuyết thay đổi. Thay
vào đó, chúng tôi nghĩ rằng họ đồng thuận với nhau về 4 khái niệm phân biệt của sự
thay đổi về thể chế. Mỗi khái niệm chỉ ra những vấn đề khác nhau và dựa trên cơ chế
sản sinh độc đáo để giải thích sự thay đổi. Chúng tôi đặt tên cho 4 khái niệm là thiết
kế thể chế, sự thích ứng về thể chế, sự phổ biến thể chế và hành động tập thể. Những
10
khía cạnh phân biệt của 4 khái niệm này được vạch ra trong bảng 9.1 và được tóm tắt
ở dưới.
Khái niệm thiết kế thể chế tập trung vào sự sáng tạo có mục đích và sự sửa lại của
các thể chế nhằm nhận diện các mâu thuẫn và bất đồng về xã hội. Cơ chế sản sinh để
nhận diện các vấn đề về cách mà các thể chế được thiết lập và nổi lên chính là sự ban
hành có mục đích và sự xây dựng xã hội. Theo cách nhìn này, các thể chế phản ảnh
việc chạy theo những lựa chọn có ý thức và hành vi mà xã hội cho là khôn ngoan và
hợp lí.
Khái niệm sự thích nghi về thể chế giải thích cách thức và nguyên nhân mà các tổ
chức thích nghi với những lực lượng trong môi trường của mình. Scott (2001) cho
rằng kể từ công trình của Meyer và Rowan 1977, các nhà xã hội học về tổ chức đã
tập trung sự chú ý của mình vào vấn đề về cách mà môi trường của thể chế định hình
cấu trúc tổ chức. Công trình của những người theo trường phái thể chế mới này có
thể được xem là sử dụng khái niệm sự thích nghi về thể chế.
Khái niệm sự phổ biến về thể chế tập trung vào cách thức và nguyên nhân mà những
thể chế cụ thể được tiếp nhận (lựa chọn) và phổ biến (duy trì) trong dân cư.
Bảng 9.1 – Những khía cạnh phân biệt 4 khái niệm về sự thay đổi thể chế
Khía cạnh Thiết kế thể
chế
Sự thích nghi
về thể chế
Sự phổ biến
thể chế
Hành động tập
thể
Vấn đề Những hành
động và vai trò
mà những cá
nhân trong thể
chế đảm nhận
nhằm thiết lập
hoặc thay đổi
Làm thế nào
mà những tổ
chức riêng lẻ
thích nghi với
môi trường thể
chế của mình?
Tại sao những
Làm thế nào
mà những sắp
xếp về thể chế
tái sản xuất,
phổ biến hoặc
giảm sút trong
dân cư hoặc về
Làm thế nào
mà những thể
chế nổi lên để
tạo điều kiện
và dẫn dắt
những chuyển
biến xã hội
11
một sự sắp xếp
trong thể chế?
tổ chức lại sử
dụng những
thể chế tương
tự nhau?
khía cạnh tổ
chức?
Tại sao các tổ
chức lại giống
nhau?
hoặc những cải
tiến về công
nghệ?
Những người
quan trọng
trong thể chế
Những doanh
nhân đơn lẻ
với sự đại diện
có giới hạn: sự
đánh giá lẫn
nhau mang tính
phe phái
Những người
trong tổ chức
thích nghi (tiên
phong hay
phản ứng lại)
đối với môi
trường thể chế
Dân cư và
ngành của tổ
chức được thể
hiện trong
cùng một môi
trường thể chế
Mạng lưới
những người
được phân bố
và phân chia
bè phái về mặt
liên tổ chức là
những người
được gắn chặt
vào trong tiến
trình chung
của việc thiết
lập và sửa lại
những thể chế
Cơ chế sản
sinh
Sự đóng góp
về mặt xã hội
và những chiến
lược mà con
người sử dụng
nhằm giải
quyết vấn đề
và điều chỉnh
lại những bất
Niềm tin môi
trường, áp lực
hoặc những
quy định mà
những người
trong tổ chức
phải thích nghi
để trở nên hợp
pháp
Sự cạnh tranh
vì nguồnl ực
khan hiếm thúc
đẩy con người
bắt chước và
thích nghi với
những thực tế
hợp pháp của
thể chế
Sự nhận diện
vấn đề của thể
chế, rào cản
hoặc sự bất
công giữa các
nhóm doanh
nhân về xã hội
và công nghệ
12
công
Tiến trình:
trình tự sự kiện
Tiến trình biện
chứng của việc
thiết lập những
quy định làm
việc giải quyêt
các mâu thuẫn
và chỉ ra
những trường
hợp chưa từng
có
Các tiến trình
mang tính
cưỡng ép,
chuẩn mực và
bắt chước của
sự thích nghi
và thay đổi
trong nội bộ tổ
chức
Tiến trình tiến
hóa của biến
số, sự lựa chọn
và duy trì sự
hình thành thể
chế
Những sự kiện
chính trị chung
kèm với tiến
trình định hình
và thay đổi các
cấu trúc và cơ
hội cho sự cải
cách thể chế
Kết quả “Những quy
định của trò
chơi” mới tạo
điều kiện và
thúc đẩy con
người bằng
việc thay đổi
quyền, nghĩa
vụ và vai trò
của họ
Tính hợp pháp
của tổ chức
bằng việc sử
dụng những
sắp xếp về thể
chế giống nhau
Sự thể chế hóa
và giảm thể
chế hóa của
những sắp xếp
trong thể chế
đối với con
người
Tiền lệ trong
thể chế, quy
định làm việc
mới hoặc được
thay đổi, sự cải
tiến trong thể
chế
Thuyết thể chế ở đây đã vay mượn và phát triển sinh thái học và tiến hóa về tổ chức.
Những nhà sinh thái học về dân số đã sử dụng những lí lẽ phụ thuộc vào mật độ để
giải thích tính hợp pháp và sự chọn lọc cạnh tranh của các hình thức thể chế nhất
định.
Các mô hình hành động tập thể tập trung vào những tiến trình của sự thay đổi về thể
chế tại mức độ lĩnh vực liên tổ chức. Những tiến trình này được khởi xướng bởi
13
những chuyển biến xã hội và những nhà kinh doanh theo đuổi những cải tiến công
nghệ. Những học giả nghiên cứu khái niệm này ban đầu quan tâm đến cách thức
những sắp xếp thể chế mới nổi lên từ những tương tác giữa các đại diện phe phái độc
lập.
Chúng tôi cũng xem xét 4 khái niệm này của sự thay đổi thể chế theo trình tự lịch sử
mà trong đó chúng xuất hiện, bắt đầu với thiết kế thể chế, sau đó là thích ứng về thể
chế, sự phổ biến và hành động tập thể. Mỗi khi chúng xuất hiện, các khái niệm phát
triển đồng thời và thỉnh thoảng phản ứng lại với nhau.
Trước khia phân chia thành 4 khái niệm, chúng tôi thừa nhận rằng việc xem lại tài
liệu là không toàn diện. Chúng tôi chỉ tập trung vào những công trình nghiên cứu mà
chúng tôi tin là đại diện cho những đóng góp về lí thuyết mang tính dẫn đầu và
những nghiên cứu thực nghiệm mẫu mực đối với mỗi khái niệm. Tài liệu thì lại quá
nhiều để có thể bao quát hoàn toàn. Chúng tôi cũng chú ý rằng sự phân loại những lí
thuyết và những nghiên cứu không áp dụng được cho các tác giả. Chúng tôi mong là
tránh được việc phân vai cho các học giả riêng lẻ. Nhiều học giả viết và nghiên cứu
về sự thay đổi thể chế từ nhiều khái niệm. Qua thời gian, những tư duy của họ cũng
phát triển. Trong kết luận chúng tôi đề xuất rằng ban đầu những phân biệt giữa 4 khái
niệm là thô sơ và cứng nhắc, tuy nhiên chúng đang trở nên mờ nhạt hơn khi mà
những học giả nhận ra những điểm thiếu sót của mỗi khái niệm và mò mẫm một lí
thuyết tổng quát hơn về sự thay đổi thể chế.
Các khái niệm về sự thay đổi thể chế
Sự thiết kế thể chế
Các học giả nghiên cứu khái niệm sự thiết kế thể chế quan tâm đến những hành động
mà những cá nhân đơn lẻ thực hiện để thiết lập hoặc thay đổi những sắp xếp về thể
chế. Chúng tôi xem các thể chế là sự phản ánh những quyết định và hành động có lí
trí. Những học giả này định tập trung sự chú ý của họ vào những quan hệ bất công và
quyền hành không công bằng, kết quả là họ đã chuyển sự chú ý sang những tiến trình
14
biện chứng mà những quy định làm việc được phát triển để giải quyết những mâu
thuẫn. Những quy định làm việc này là không mang tính lí trí thật sự nhưng lại phản
ánh sự nhất trí về những gì là hợp lí và khôn ngoan. Chúng là “các quy định của trò
chơi” dẫn dắt và tạo điều kiện cho con người thay đổi quyền, nghĩa vụ hoặc vai trò
của họ.
Thiết kể thể chế và những người theo trường phái thể chế cũ
Khái niệm thiết kế thể chế được giới thiệu bởi những nhà kinh tế học về thể chế cũ,
và cụ thể là John R. Commons . Trong tác phẩm The Economics of Collective Action
(1950), Commons đã cố gắng để đơn giản hóa những lí lẽ mà ông đã đưa ra trong
Legal Foundations of Capitalism (1924/1968) và Institutional Economics
(1934/1961), Commons giới thiệu một “lí thuyết thực dụng và duy ý chí về các thể
chế (Van de Ven, 1993) nhằm t ìm cách hòa giải quyền lực và tự do. Commons cho
rằng những có nhân không phải là những thực thể độc lập tự có tính hiệu quả, và xã
hội không phải là một tập hợp đơn giản gồm những thành viên cá nhân. Những chuẩn
mực, phong tục và luật lệ quy định và cung cấp sự bảo đảm của kì vọng đối với
những hành động của cá nhân là tổ chức chính là “những quy tắc làm việc” của hành
động tập thể. Các quy tắc làm việc trong thể chế kiểm soát, giải phóng và mở rộng
hành động cá nhân bằng cách định rõ những quyền và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ
chức. Các thể chế kiểm soát hành vi cá nhân thông qua các hình thức thưởng phạt về
mặt tinh thần, thể chất hoặc kinh tế. Tuy nhiên, các thể chế không đơn giản là cưỡng
ép, chúng cũng thả tự do và mở rộng hành vi cá nhân. Sự thả tự do đối với một vài cá
nhân (chẳng hạn như cưỡng ép, cầm tù hay phân biệt) có thể có được thông qua việc
quy định bắt buộc những hành động của người khác. Commons nhấn mạnh rằng sự
tự do cá nhân không phải là một quyền tự nhiên, ông xem nó như là thành tựu của tập
thể. “Cách duy nhất để đạt được ‘sự tự do’ chính là áp đặt những nghĩa vụ lên người
khác, mà những người này có thể cản trở hoạt động của cá nhân ‘được tự do’”. Do
đó, Commons xem những thể chế như là phương tiện đối với sự tự do cá nhân.
15
Khi các thể chế cưỡng ép, thả tự do và mở rộng hành vi cá nhân, các cá nhân xây
dựng và thay đổi thể chế. Commons bác bỏ sự chọn lọc tự nhiên và thay thế vòa đó
sự chọn lọc nhân tạo (có mục đích), chú ý rằng các cá nhân làm cho môi trường của
họ thích hợp với nhu cầu và mục đích của chính họ. Ông cho rằng những cá nhân có
năng lực, theo bản chất của mình, về việc xây dựng những lực lượng trong thể chế và
lực lượng tự nhiên xung quanh mình. Kết quả là sự thay đổi thể chế có khuynh
hướng mang tính ý chí, mục đích và nguyện vọng của cá nhân.
Commons đưa ra 3 khía niệm hành động để xem xét nguyện vọng của con người
trong hành động: thành tích, sự né tránh và sự kiên trì. “Đối với việc chọn lựa cái nào
bao gồm hành động, nguyện vọng chính là việc mong chờ có mục đích. Nguyện vọng
luôn đương đầu với điều gì đó. Nó luôn tồn tại, né tránh và tiếp diễn,…với việc mong
chờ vào tương lai. Một cá nhân hành động bằng việc thực hiện hành vi bị giới hạn và
quy định bởi sự né tránh và kiên trì. Sự né tránh chính là một lựa chọn nhằm bỏ qua
tất cả những nhóm hành động thay thế. Mặc dù một vài sự thay thế có thể được né
tránh bởi nhưng quy định của thể chế và những bắt buộc về bản chất, các cá nhân có
tự do để lựa chọn tập hợp những thay thế còn lại có sẵn với mình. Trong việc hướng
dẫn lựa chọn thay thế, thành tích được bổ sung nhiều hơn bởi sự kiên trì hoặc mức độ
quyền lực được thể hiện “đúng” thời điểm, vị trí và cấp độ. Sự kiên trì chính là sự tự
ràng buộc trong hành động với bản chất cũng như trong mối quan hệ giao dịch với
người khác. “Con người sẽ không tuân theo những luật tự nhiên, nhưng lại sử dụng
chúng để đạt được mục đích của mình. Không giống như những lực lượng vật lí
(chẳng hạn như trọng lực) luôn luôn có giới hạn, các cá nhân đạt giới hạn thành tích
của mình bằng việc kiên trì đối với thực hành quyền lực đầy đủ của mình, ngoại trừ
giai đoạn khủng hoảng. Trong khuôn khổ của Commons, những giai đoạn khủng
hoảng này chính là “những nhân tố giới hạn” mở ra những cơ hội cho sự thay đổi về
thể chế. Chúng xảy ra kh i những cá nhân tham gia vào những giao dịch mang tính
chiến lược để đạt được sự kiểm soát “các nhân tố giới hạn” mà những nhân tố này
16
cản trở những giao dịch thường ngày khác khỏi công việc nhằm mang lại những kết
quả định trước.
Commons đưa ra một quan điểm biện chứng và thực dụng về sự thay đổi thể chế.
Những thay đổi đối với quy định làm việc đến từ những phong tục, chuẩn mực và
luật lệ phát triển dần trong xã hội, và đến lượt chúng, chúng được sản sinh bởi sự lớn
dần của vô số những thông lệ chung và bởi những quyết định giữa các đối thủ và cao
nhất là bởi quan tào trong việc xử lí các tranh cãi. Những quy định làm việc trong thể
chế thay đổi dần theo thời gian như là kết quả của những vấn đề có từ trước được
thiết lập khi tính hiệu lực của những giao dịch giữa các bên đối lập được đưa ra và
đánh giá bởi trọng tài hay tòa án luật pháp là hợp pháp hay bất hợp pháp, dựa trên
“một người hợp lí đáng tin cậy” thực hiện dưới tập hợp mới những hoàn cảnh. Các
thủ tục đối với tiến trình xử lí và hòa giải không chỉ giải quyết tranh cãi giữa các
nguyên đơn và bị đơn, mà còn thiết lập nên tiền lệ quan trọng hơn để giải quyết
những tranh cãi tương tự trong tương lai. Các tiền lệ nhờ đó trở thành phong tục và
luật cho sự lặp lại các hành động mà dựa vào đó mọi người mong đợi vào sự bảo
đảm.
Đối với Commons , các thể chế tồn tại ở thời gian nhất định không đại diện cho điều
gì ngoài những giải pháp không hoàn hảo và thực dụng nhằm hòa giải những tranh
cãi trong quá khứ. Những giải pháp này bao gồm tập hợp những quyền và nghĩa vụ
của cá nhân, quyền hành đối với việc củng cố chúng và mức độ tham gia vào những
chuẩn mực xã hội của hành vi hợp lí đáng tin cậy. Commons nghĩ về lịch sử thể chế
như là một tiến trình chọn lọc có chủ ý những thông lệ trong thể chế thông qua những
tập hợp thay thế - một tiến trình ra quyết định biên chứng liên quan đến “sự khám
phá thông qua xem xét và thương lượng về những gì là mang tính thực tiễn nhất
nhằm thực hiện dưới những hoàn cảnh cụ thể đối với mâu thuẫn về lợi ích, nhằm áp
đặt chủ ý chung vào những cá nhân và ngược lại. Không có hệ thống quy định làm
việc để thiết lập mức độ trật tự và tính dự đoán đối với cá nhân thì sẽ có thể có “ít
17
hoặc không có giá trị hiện tại, tổ chức hiện tại, giao dịch hiện tài và nhân viên hiện
tại”.
Nhà kinh tế nghiên cứu kĩ nhất những kết quả của Commons chính là Douglas C.
North. Trong Institutions, Institutional Change and Economics Performance (1990),
North cho rằng thành công về mặt kinh tế có được trong một vài nước là nhờ sự thiết
lập những thể chế tạo điều kiện cho sự trao đổi phức tạp. Ông viết rằng những thể
chế, mà ông định nghĩa như là “những quy định của trò chơi” mang tính chính thức
và không chính thức, làm giảm chi phí của sự trao đổi và sản sinh bằng việc xác định
những cơ hội và dẫn dắt nỗ lực. North cho rằng khuôn khổ thể chế phải ổn định nếu
sự trao đổi phức tạp diễn ra và việc đạt được sự ổn định là bình thường bởi những
quy định của trò chơi – thông lệ, phong tục, chuẩn mực, luật pháp – là phức tạp và
độc lập. Vì tập hợp những ràng buộc là quá nhiều và phức tạp và vì mối quan hệ
cộng sinh phát triển giữa các thể chế và tổ chức, sự thay đổi về thể chế là tăng dần.
Sự thay đổi không liên tục đối với những tập hợp khác nhau của thể chế vì thế mà
cực kì tốn kém.
North xem những thay đổi trong giá cả thực sự - những thay đổi trong điều kiện vật
chất – như là nguồn quan trọng nhất của thay đổi thể chế. Đối với North, các tổ chức
đáp lại sự thay đổi dưới giá thực tế bằng việc thích nghi cũng như cố gắng thay đổi
khuôn khổ của thể chế, họ chọn cố gắng thay đổi khuôn khổ thể chế khi việc thực
hiện nó là hiệu quả và khi họ thương lượng hữu hiệu về quyền lực. North tin rằng
những thay đổi trong thị hiếu – ý tưởng – cũng là một nguồn quan trọng của sự thay
đổi thể chế. Giống như Commons, North cho rằng các thể chế khiến cho sự tự do trở
thành có thể. Bằng việc phản ánh nhiều hơn khái niệm sự lựa chọn mang tính lí trí,
North cho rằng mong ước đối với sự tự do cá nhân đến trước và thúc đẩy sự thành
lập thể chế. Đối với North đó chính là nhu cầu đối với sự tự do và nhu cầu này thúc
đẩy sự sáng tạo và duy trì hình thức thể chế thích hợp.
Hai nhà kinh tế học khác đóng góp vào những am hiểu của chúng tôi về thiết kế thể
chế chính là Vernon Ruttan và Leonid Hurwicz. Trong Toward a Theory of Induced
18
Institutional Innavation (1984), Ruttan và Yujiro Hayami đưa ra một mô hình về sự
thay đổi thể chế xem xét mối quan hệ giữa sự tài sản nguồn lực, công nghệ, tài sản
văn hóa và thể chế. Ruttan và Hayami đã dẫn ra lịch sử nông nghiệp để đưa ra lí lẽ
rằng những tahy đổi trong nhu cầu đối với sự cải tiến về thể chế là do những thay đổi
về tài sản nguồn và lực bởi sự thay đổi về kĩ thuật, và rằng nguồn cung của sự thay
đổi thể chế như là bản chất bên trong đối với hệ thống dưới sự điều tra và được mang
lại bởi những nhân tố về công nghệ và nguồn lực. Tuy nhiên, ông đưa ra vấn đề về
khái niệm “thuyết tiền định về thể chế”, cũng như North, cho rằng sự thảo luận về
ảnh hưởng của những lực lượng kĩ thuật, thể chế và xã hội tác động lẫn nhau là vô
nghĩa bởi những nguồn lực này là mang tính độc lập và cùng tiến hóa cao.
Leonid Hurwicz (1987) đã sử dụng cách tiếp cận trò chơi đối với sự thay đổi thể chế
mà trong đó ông đã mô hình hóa những chuyển biến hoặc chiến lược của những
người trong thể chế được định hình bởi những quy định trong thể chế. Hurwicz xem
những tiến trình vĩ mô của sự thay đổi thể chế là có tính toán và mang tính tiến hóa,
ông viết rằng “một vài thay đổi về thể chế có thể được xem là những hiện tượng tiến
hóa hoàn toàn, được mang lại bởi những thay đổi trong các nhân tố bên ngoài…Tuy
nhiên thường thì những thay đổi này bao gồm một thành tố quan trọng của thiết kế có
ý thức và sản sinh ra khuôn khổ thể chế khác biệt với bất kì thứ gì đã tồn tại từ trước.
Có thể không chính xác lắm khi cho rằng những thể chế mới là mang tính phát
minh”. Hurwicz kết nối thiết kế và các tiến trình tiến hóa của sự thay đổi, quả quyết
rằng “khi những điều kiện cơ bản (chẳng hạn như công nghệ, thị hiếu hay thái độ)
thay đổi, thì chúng sẽ tạo ra nhu cầu và cầu đối với cải tiến về thể chế và tiến trình
thỏa mãn nhu cầu này có thể liên quan đến những hoạt động thiết kế có ý thức. Pháp
luật là một ví dụ của tiến trình như vậy”.
Nhà xã hội học Philip Selznick mở rộng tính truyền thống của thiết kế thể chế được
khởi xướng bởi Commons . Trong Leadership in Administration (1957), trong đó ông
đưa ra bài TVA and the Grass Roots 1949, Selznick viết rằng một tổ chức là công cụ
mở rộng và công cụ này trở thành một thể chế chỉ khi người lãnh đạo của nó truyền
19
sức sống cho tổ chức bằng giá trị. Thông qua tiến trình thể chế hóa một tổ chức đạt
được sự khác biệt độc đáo, những giá trị cụ thể và năng lực khác biệt, cùng một lúc
những cá nhân tiếp nhận cách thức quan niệm và đánh giá trải nghiệm. Đối với
Selznick, sự thay đổi thể chế diễn ra trong tổ chức thông qua những tiến trình được
khởi xướng và dẫn dắt có chủ ý bởi những người lãnh đạo tổ chức.
Thiết kế tổ chức và những người theo trường phái thể chế mới
Gần đây, những người theo trường phái tân thể chế đã bắt đầu xem lại quan niệm của
họ rằng những thể chế là những cấu trúc không mềm mỏng quy định đặc điểm và
hành động của tổ chức. Stinchcombe cho rằng những nhà xã hội học đã đẩy con
người quay lại lí thuyết thể chế, những thể chế - qua đó ông ám chỉ những thực thể
thể chế, sử dụng các định nghĩa của chúng tôi – có tác dụng tốt khi được bố trí bởi
những người đưa ra những cam kết về tinh thần, dẫn dắt công việc kinh doanh theo
hướng ngay thẳng, và được nắm giữa hướng đến những tiêu chuẩn mà chúng được
tạo ra để duy trì. Stinchcombe cũng xem lại công trình của John Henry Wigmore về
tòa phúc thẩm, nhấn mạnh rằng tính hợp pháp của thể chế không phải có thông qua
nhu cầu đối với quyền hành mà thông qua việc duy trì những giá trị sâu sắc.
Stinchcombe cũng thảo luận sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản của Đông Âu và Liên
minh xô viết cũ, cho rằng chủ nghĩa tư bản không phục vụ cho xã hội tốt nơi mà
thiếu đi những thể chế, và những thể chế này không được tạo ra bởi sự thiếu cam kết
đối với giá trị về tính chân thực trong thương mại. Stinchcombe xem sự thể hiện
những giá trị sâu sắc như là mô tơ thúc đẩy sự thay đổi về thể chế.
Barley và Tolbert (1997) sử dụng mô hình cấu trúc của Gidden (1984) để đưa ra biện
pháp đối với sự thiếu đi tính đại diện đối với lí thuyết tân thể chế. Barley và Tolbert
viết rằng những thể chế và hành động tồn tại trong các phạm vi tách biệt của trật tự
xã hội và trật tự này được giàn xếp bởi “các phương thức” (khối lượng kiến thức thực
tế bao gồm cac chủ đề trình diễn, nguồn lực và chuẩn mực được làm phù hợp đối với
bối cảnh cụ thể). Những phương thức này “ảnh hưởng đến cách con người giao tiếp,
ban hành quyềnlực và quyết định hành vi nào là được thưởng phạt”. Barley và
20
Tolbert đề xuất 4 giai đoạn đối với tiến trình thể chế hóa: mã hóa, thường diễn ra
trong suốt quá trình xã hội hóa; ban hành, “có thể hoặc không thể dẫn đến sự lựa
chọn hoặc hiểu biết về những thay thế; sự ôn lại hoặc tái tạo, diễn ra thường xuyên
hơn như là kết quả của lựa chọn có chủ ý hơn là vô ý, sự chệch hướng không dự tính
trước khỏi kịch bản; và khách quan hóa , “liên quan đến sự phân chia những khuôn
mẫu với các nhân tố cụ thể và hoàn cảnh lịch sử nhất định”. Tại giai đoạn này, những
khuôn mẫu đảm nhiệm chất lượng thực tế. Barley và Tolbert viết rằng những thể chế
“thiết lập ranh giới đối với t ính hợp lí bằng việc ngăn những cơ hội và những thay
thế mà chúng tôi cảm nhận được” tuy nhiên “thông qua sự lựa chọn và hành động,
các cá nhân và tổ chức có thể bổ sung có chủ ý hoặc thậm chí loại bỏ thể chế.” Họ
nhìn nhận sự thay đổi thể chế cơ bản là bản chất đối với hệ thống nghiên cứu và
thường là mang tính chủ ý hơn là vô ý.
Oliver cố gắng khôi phục lại sự thiếu hụt ban đầu sự chú ý của thuyết tân thể chế đối
với sự đại diện con người bằng việc mô tả 5 phản ứng chiến lược đối với áp lực thể
chế, mỗi phản ứng gồm một tập hợp những lựa chọn thủ thuật (được ghi chú trong
ngoặc đơn): sự phục tùng (thói quen, sự bắt chước, sự tuân thủ), sự thỏa hiệp (cân
đối, sự hòa ước, thương lượng), sự né tránh (che giấu, ngụy trang, trốn thoát), sự
thách thức (loại bỏ, thách thức, tấn công) và sự vận động (sự kết nạp, ảnh hưởng,
kiếm soát). Oliver cho rằng sự phản ứng của tổ chức đối với áp lực thể chế sẽ phụ
thuộc vào nguyên nhân của áp lực, các yếu tố tạo nên áp lực, nội dung của áp lực,
phương pháp kiểm soát được áp đặt và bối cảnh. Bà đề xuất rằng những tổ chức
không đơn giản là thích ứng với áp lực thể chế tuy nhiên lại đáp trả một cách có mục
đích đối với chúng và trong vài trường hợp bổ sung chúng.
Brint và Karabel (1991) đưa ra bằng chứng biện chứng về thiết kế thể chế. Họ nhận
thấy rằng “việc hướng nghiệp” của những trường cộng đồng được giả thích không
phải bởi sự lựa chọn tiêu dùng hoặc sự thống trị kinh doanh của các trường mà thay
vào đó là do những hành động có dự tính của các lãnh đạo trường để đáp lại áp lực và
cơ hội của môi trường. Brint và Karabel nhận thấy rằng các lãnh đạo trường cộng
21
động bắt đầu theo đuổi việc hướng nghiệp lần đầu vào những năm 1920, tuy nhiên
những lợi ích của họ lại bị chi phối bởi sự thống trị trước của những trường học 4
năm như là nền tảng đào tạo; bởi những tổ chức kinh doanh, thường thích đào tạo
cho chính nhân viên của họ và bởi những cơ quan chính phủ, có niềm tin đối với
những trường phổ thông. Tuy nhiên, dần dần thì các lãnh đạo trường cộng đồng trở
nên nhận thức được rằng một cơ hội tồn tại cho họ để trở thành nền tảng đào tạo cho
những người như thể là chuyên gia cấp trung. Họ có thể nhận ra lợi ích cả mình khi
thị trường lao động của đại học giảm sút năm 1970.
Chiến lược và thủ thuật
Một vài học giả đã đóng góp cho những kiến thức của chúng tôi về thiết kế thể chế
bằng việc mô tả những chiến lược và thủ thuật mà những người trong thể chế sử
dụng nhằm cố gắng ảnh hưởng đến sự thay đổi. Trong The Intelligence of Democracy
(1965), Charles E. Lindblom đưa ra bản mô tả mạng nội bộ của tiến trình “điều chỉnh
lẫn nhau theo phe phái”. Đây chính là tiến trình hình thành chính sách công khai mà
qua đó những lực lượng đối lập đạt được quyết định chung. Lindblom mô tả phương
tắc mà những cá nhân có thể sử dụng khi đối mặt với kẻ thù chính sách. Những
phương thức thích nghi chính là nơi mà con người không tìm được một phản ứng đối
với người khác, trong khi những phương thức lôi cuốn lại được sử dụng để tìm ra
một câu trả lời. Những phương thức lôi cuốn này bao gồm thương lượng, tưởng
thưởng, sự trao đổi lẫn nhau và sự hấp dẫn vô điều kiện. Lindblom viết rằng những
người tham gia vào tiến trình điều chỉnh lẫn nhau theo phe phái lôi cuốn nhau thông
qua sự thuyết phục, quyền hành, hấp dẫn đối với tục lệ, bầu cử và của cải.
Saul Alinsky, một người tổ chức lao động nổi tiếng, cũng đưa ra một lời khuyên rất
cụ thể đối với những người tham gia vào tranh cãi biện chứng. Trong Rules for
Radicals: A Practical Primer for Realistic Radicals (1971), Alinsky liệt kê 13 thủ
thuật chính trị đối với những nhà hoạt động xã hội đấu tranh chống lại kẻ thù quyền
lực. Những thủ thuật này nhấn mạnh sự tấn cộng hơn là hòa giải. Filgstein (1997) lặp
lại ý kiến của Alinsky, mô tả những kĩ năng xã hội mà những nhà kinh doanh trong
22
thể chế cần để tác động đến sự thay đổi thể chế. Một vài trong số đó, chẳng hạn như
“thiết lập chương trình cho người khác”, có thể được xem như là mang tính lôi cuốn,
trong khi những kĩ năng khác được cho là mang tính thích nghia hoặc như là hình
thức của sự ban phát – đó chính là “tiếp nhận những gì hệ thống cho”.
Tóm tắt
Commons và các nhà kinh tế học theo sau ông như North, Ruttan và Hurwicz đã xem
các thể chế như là những quy định làm việc nổi lên nhằm chỉ ra những vấn đề về con
người và rằng sự thay đổi thông qua sự tương tác giữa những đại diện. Commons và
North đều mô tả sự thay đổi thể chế là mang tính dần dần, biện chứng và thực dụng,
diễn ra thông qua tiến trình hành động chọn lọc mà tiến trình này giải quyết mâu
thuẫn giữa các cá nhân thuộc các phe đối lập bởi sự khan hiếm về nguồn lực. North
và những người khác cũng cho rằng những ý tưởng và không chỉ những điều kiện vật
chất có thể mang lại sự thay đổi biện chứng.
Gần đây, một vài học giả về thể chế mới đã bắt đầu tiếp nhận khái niệm thiết kế đối
với sự thay đổi thể chế, mặc dù sự tập trung là mang tính nhận thức hơn là nhằm vào
những chuẩn mực và giá trị. Đối với họ, sự thay đổi thể chế được thiết kế không phải
là quá dựa vào nhu cầu chỉ ra các vấn đề xã hội và hạn chế sự bất công, đó là theo
Commons, tuy nhiên thay vào đó nó lại diễn ra khi con người thắc mắc về “kịch bản”
hiển nhiên. Một công trình đáng chú ý trong lĩnh vực này chính là mô hình tiến trình
thay đổi của Barley và Tolbert. Đây là một trong vài công trình định hướng tiến trình
nghiên cứu về khái niệm thiết kế tổ chức, xây dựng trên lí thuyết cấu trúc của
Gidden, cố gắng hòa giải những áp lực thể chế mang tính tiền định với hành động có
chủ ý và ý thức.
Cuối cùng, chúng tôi đề cập đến một vài học giả nghiên cứu về các thủ thuật và chiến
lược được sử dụng bởi những đại diện cho sự thay đổi xã hội. Những đề xuất này xác
định những phương pháp lôi cuốn và thích nghi mà con người sử dụng để theo đuổi
sự thay đổi thể chế.
23
Sự thích nghi về thể chế
Nhiều công trình nghiên cứu của những người theo trường phái thể chế về tổ chức
mới có thể được xem là nghiên cứu về khái niệm thích nghi thể chế. Vấn đề trọng
tâm được xác định bởi những người theo trường phái tân thể chế chính là Tại sao các
tổ chức lại trông quá giống nhau? Câu trả lời của họ chính là các tổ chức trông giống
nhau bởi chúng phải làm cho những chuẩn mực, niềm tin và quy định phù hợp trong
môi trường thể chế nhằm đạt được tính hợp pháp, tạo điều kiện cho họ đạt được
nguồn lực và nâng cao cơ hội tồn tại. Không giống như 3 khái niệm kia, sự thích nghi
về thể chế cơ bản liên quan đến sự thay đổi trong đặc điểm của những con người
trong thể chế trong việc đáp lại các sắp xếp về thể chế trong môi trường tổ chức.
Scott (2001) cho rằng Weber (1924/1968) là “một trong những thuyết gia về xã hội
đầu tiên chú ý đến tầm quan trọng trung tâm của tính hợp pháp trong cuộc sống xã
hội” và rằng Parsons (1960) là người đầu tiên kết nối tính hợp pháp với các mục tiêu
của tổ chức. Scott diễn giải sự nhấn mạnh của những người theo trường phái tân thể
chế đối với sự thích nghi với môi trường thể chế như là sự mở rộng của lí thuyết hệ
thống mở, mà lí thuyết này làm biến đổi tổ chức và các tư liệu về quản trị chiến lược
“bằng việc nhấn mạnh vào tầm quan trọng của bối cảnh môi trường rộng hơn khi nó
quy định, định hình, thấm nhuần và làm mới tổ chức. Những người nghiên cứu lần
đầu tiên nhận ra rằng môi trường kĩ thuật áp đặt áp lực lên tổ chưc và sau đó vào
những năm 1970 họ lại thấy rằng các tổ chức cũng chịu ảnh hưởng bởi môi trường
thể chế của chúng.
Institutionalized Organisations: Formal Structure as Myth and Ceremony của Meyer
và Rowan là tác phẩm đầu tiên đặt ra luận điểm rằng các tổ chức làm cho cấu trúc
của mình phù hợp với áp lực từ môi trường thể chế. Meyer và Rowan cho rằng sự
hiện đại hóa thúc đẩy sự phát triển và sự hợp lí hóa của những quy định trong thể chế
và những thành tố của cấu trúc tổ chức và rằng mối quan tâm của tổ chức đối với tính
hợp pháp và sự sống còn khiến cho tổ chức phải sử dụng những sắp xếp về thể chế.
Meyer và Rowan truy tìm bản chất của những điều hoang đường về thể chế mang
24
tính hợp lí đối với sự hình thành các mạng lưới quan hệ phức tạp và những nỗ lực
của lãnh đạo trong các tổ chức địa phương. Họ cho rằng vì sự thích ứng với những
quy định được thể chế hóa có thể mâu thuẫn với những cân nhắc hiệu quả về kĩ thuật,
nên các tổ chức phải tách riêng cấu trúc của mình khỏi các hoạt động kĩ thuật để
“những chuyện hoang đường” trong thể chế được duy trì và tính hợp pháp được giữ
lại, tuy nhiên cùng một lúc tính hiệu quả về kĩ thuật cũng đạt được. Trong khi Meyer
và Rowan nhấn mạnh vào ảnh hưởng có điều kiện của môi trường thể chế lên cấu
trúc tổ chức thì họ cũng viết rằng những tổ chức hùng mạnh thường áp đặt những
thông lệ và tiến trình lên những tổ chức khác cũng như nỗ lực tích cực để xây dựng
mục tiêu và thủ tục một cách trực tiếp vào xã hội như là những quy định về thể chế.
Do đó lí thuyết tiền định của họ không từ chối sự đại diện.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom9_8997.pdf